Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống dân tộc

Tài liệu Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống dân tộc: ... Ebook Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống dân tộc

doc74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1436 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống dân tộc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN Em xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới toàn thể các thầy cô trong khoa du lịch học trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn. §Æc biÖt, em xin được gửi lời cảm ơn s©u s¾c nhÊt tíi Thạc sỹ Nguyễn Quý Phương - ThÇy đã rÊt tận tình chỉ bảo và giúp đỡ, h­íng dÉn vµ cung cÊp cho em nh÷ng ph­¬ng ph¸p lµm viÖc cã hiÖu qu¶ nhÊt trong suốt qúa trình chuÈn bÞ, thùc hiÖn vµ hoµn thµnh khoá luận tốt nghiệp nµy. §ång thêi em xin cảm ơn tới gia ®×nh ®· lu«n lu«n bªn c¹nh ®éng viªn gióp ®ì em trong suèt kho¶ng thêi gian qua. Cuối cùng t«i xin chân thành cảm ơn toµn thÓ c¸c bạn đã luôn nhiÖt t×nh tham gia gióp ®ì t«i trong qu¸ tr×nh nghiªn cøu vµ cïng t«i trao ®æi ý kiÕn ®Ó ®Ò tµi ®­îc hoµn thiÖn. Sinh viên: Trân trọng cảm ơn! ĐỀ TÀI: Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy gi¸ trÞ v¨n ho¸ truyÒn thèng d©n téc. Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài: Trong cuéc sèng hiÖn ®¹i ngµy nay, du lịch đã trở thành một nhu cầu tất yếu của xã hội, không những là ngành kinh tế mũi nhọn của các quốc gia mà còn là cầu nối giao lưu giữa các dân tộc, quốc gia và các miền trong một đất nước. Bạn bè quốc tế trước đây biết đến Việt Nam là một quốc gia phải trải qua nhiều thập kỷ chiến tranh với các thế lực xâm lược mạnh hơn gấp nhiều lần và họ đã anh hùng đánh bại các thế lực xâm lược đó, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ non sông của đất nước. Bởi vậy, ngày nay, khi kh¸ch du lịch đến Việt Nam hä th­êng ngạc nhiên và tự hỏi không hiểu vì sao những con người mãnh liệt, dũng cảm, lập nhiều kỳ tích trong chiến tranh như vậy lại cuốn hút kh¸ch tham quan bởi sự hiền hậu, chân tình và th©n thiÖn chứ không phải bằng những ánh hào quang của chiến thắng. Có lẽ một phần câu trả lời đang ẩn mình trong tính cách và truyền thống của người Việt, bởi trải qua hµng ngàn năm lịch sử, người Việt đã tạo dựng cho mình một phong cách, một nền văn hoá, thuần phong, mỹ tục riêng. Đồng thời du lịch còn tạo ra một sự trải nghiệm cho chính du khách, giúp họ nhìn nhận lại những giá trị quý báu của dân tộc mà biết bao thế hệ, ngay cả chính họ đã phải đổi bằng xương máu của mình để tạo dựng nên. Đối với thế hệ trẻ thì du lịch là dịp để họ hiểu hơn về công lao của cha ông mình, đồng thời cũng hiểu những giá trị nhân văn, giá trị truyền thống và thiên nhiên mà họ đang được thừa hưởng. Du lịch ngày nay đã trở thành một hoạt động không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt xã hội, làm cho đời sống xã hội ngày một phong phú hơn, lý thú và bổ ích hơn. Về phương diện kinh tế, du lịch đã trở thành một ngành mũi nhọn, chiếm một tỷ trọng lớn trong thu nhập kinh tế quốc dân, không những vậy do đặc tính hoạt động, du lịch còn góp phần không nhỏ trong phát triển kinh tế vùng chậm phát triển, đồng thời giúp xoá đói, giảm nghèo ở những vùng sâu vùng xa. Nhưng quan trọng hơn du lịch có vai trò to lớn trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống dân tộc. Đặc biệt Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, có một nền văn hoá lâu đời, phong phú, thống nhất mà đa dạng. Với số dân gần 80 triệu người của 54 dân tộc an hem cùng đoàn kết chung sống trên một vùng lãnh thổ, trải qua nhiều đời, mỗi dân tộc đã đóng góp, dựng xây tạo nên những thành quả trên nhiều lĩnh vực: kinh tế- văn hoá- xã hội, bên cạnh đó cũng hình thành nên những vùng văn hoá với nét đặc trưng riêng. Đất nước Việt Nam, con người Việt Nam với các thành phần dân tộc, qua hang ngàn năm xây đắp đã tạo dựng nên một kho tàng văn hoá hết sức phong phú, độc đáo và quý giá. Xuyên suốt chặng đường lịch sử hình thành và phát triển đất nước, các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam nói chung và 54 dân tộc anh em nói riêng là một di sản vô cùng quý báu, một tài nguyên vô cùng quý giá trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Trải qua những năm tháng chiến tranh chống xâm lược bảo vệ tổ quốc, do một phần nhận thức của người dân còn thấp đặc biệt là sự quản lý, phối hợp lỏng lẻo của các ngành các cấp nên nhiều vốn quý trong kho tang văn hoá truyền thống các dân tộc đã bị mất mát và mai mộ. Nghị quyết 4 của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá 8 về việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống là định hướng quan trọng trong việc khôi phục lại nguồn vốn quý của dân tộc. Nhiều công trình văn hoá nghệ thuật trên các lĩnh vực văn hoá phi vật thể và vật thể được kiểm kê, trùng tu, tôn tạo chống xuống cấp, sưu tầm bảo quản nghiên cứu giới thiệu, giao lưu để bảo tồn trong cuộc sống và cho khách tham quan. Trong đó du lịch đóng vai trò to lớn và đặc biệt quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống dân tộc. Bởi vậy nghiên cứu về du lịch sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và phương hướng phát triển ngành du lịch Việt Nam. Tuy nhiên do điều kiện có hạn về không gian, thời gian và tư liệu nên đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu “Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc”. Đề tài sẽ cố gắng đi sâu phân tích vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của một số tài nguyên du lịch chọn mẫu, so sánh nhận thức thực tế, hoạt động của các chương trình du lịch trong những năm 2004 – 2008 để phát huy vai trò mà du lịch đã tiếp cận, những tiềm năng mà du lịch còn chưa được khai thác để đáp ứng nhu cầu của khách nội địa và quốc tê. 2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu: 2.1. Mục đích nghiên cứu: Đề tài “ Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc” hướng tới giải quyết mối quan hệ giữa du lịch và văn hoá, trong đó những nhân tố truyền thống dân tộc cần được phát huy như một nền tảng vững chắc giúp cho ngành du lịch đi đúng hướng và tiến tới phát triển du lịch một cách bền vững. Đồng thời thong qua phân tích, so sánh em hy vọng sẽ góp phần củng cố thong tin bổ ích về vai trò của du lịch với việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc cho những người tham gia hoạt động du lịch để họ có thể phát huy tác dụng của nó như một cách tối đa và có hiệu quả nhất. 2.2. Đối tượng nghiên cứu Sinh viên tập trung vào nghiên cứu ngành du lịch Việt Nam để làm rõ vai trò của nó đối với việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Đồng thời những nhận thức về bản sắc văn hoá dân tộc và những vấn đề có lien quan cũng được nghiên cứu và làm rõ để làm sáng tỏ vấn đề. 3. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp thu thập tài liệu - Phương pháp khảo sát thực địa - Phương pháp tiếp cận hệ thống. - Phương pháp trực quan, phương tiện thông tin đại chúng 4. Bố cục khoá luận Gồm ba phần: Phần mở đầu Phần nội dung gồm: Chương 1: Những nhận thức về du lịch và bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc. Chương 2: thực trạng vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Chương 3: Một số giải pháp kiến nghị để phát huy vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống dân tộc. Phần kết luận. PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Những nhận thức cơ bản về du lịch và văn hoá truyền thống của dân tộc. 1.Những khái niệm cơ bản về du lịch: Du lịch đối với nước ta là một ngành kinh tế mới mẻ. Từ sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, ngành du lịch mới thực sự được đảng và Nhà nước quan tâm. Đặc biệt từ đại hội lần VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam, cùng với sự chuyển dịch cơ cấu các thành phần, khu vực kinh tế, ngành du lịch lần đầu tiên được nghị quyết của Đảng khẳng định là một ngành kinh tế mũi nhọn. Muốn cho kinh tế du lịch phát triển đúng hướng mang lại nguồn lợi cho nền kinh tế quốc dân chúng ta cần hiểu rõ khái niệm, lịch sử, xu thế, những nhân tố tạo điều kiện cho ngành này phát triển để vận dụng vào điều kiện cụ thể của nước ta. Khái niệm du lịch: Mặc dù du lịch đã trở thành hiện tượng kinh tế, xã hội phổ biến trên thế giới và là thói quen trong nếp sống sinh hoạt của xã hội. Nhưng cho đến nay nhận thức về nội dùng du lịch vẫn chưa được thống nhất. Trước thực tế phát triển của ngành du lịch về mặt kinh tế cũng như trong lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu thảo luận, để đi đến thống nhất một số khái niệm trong đó có khái niệm về du lịch là một đòi hỏi cần thiết. Theo ông Nguyễn Khắc Viện thì du lịch là sự mở rộng không gian văn hoá của con người. Trong từ điển tiếng Việt du lịch lại được giải thích là đi chơi cho biết xứ người. Với Ghisman: du lịch là sự khắc phục về mặt không gian của con người hướng tới một điểm nhất định nhưng không phải là nơi thường xuyên của họ. Guer Freuler: du lịch với ý nghĩa hiện đại của từ này là một hiện tượng của thời đại chúng ta dựa trên sự tăng trưởng về nhu cầu khôi phục sức khỏe và sự thay đổi về môi trường xung quanh, dựa vào sự phát sinh, phát triển tình cảm đối với vẻ đẹp của thiên nhiên chia sẻ quan niệm này với Guer Freuler, PTS Trần Nam đưa ra quan điểm của mình: du lịch là quá trình hoạt động của con người rời khỏi quê hương đến một nơi khác với mục đích chủ yếu là được thẩm nhận những giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc, độc đáo khác lạ với quê hương, không nhằm mục đích sinh lời được tính bằng đồng tiền. Aza nhận thấy du lịch là một trong những hình thức di chuyển tạm thời tự một vùng này sang một vùng khác, từ một nước này sang nước khác nếu không gắn với sự thay đổi nơi cư trú hay nơi làm việc. Quan điểm của Kaspar: du lịch là toàn bộ những quan hệ về hiện tượng xảy ra trong quá trìn di chuyển và lưu trú của con người tại nơi không phải là nơi ở thường xuyên hoặc nơi làm việc của họ. Quan điểm cuả Hunziker và Kraff cũng bắt nguồn từ ý tưởng này: du lịch là tổng hợp các mối quan hệ và hiện tượng bắt nguồn từ cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của các cá nhân tại những nơi không phải là nơi ở và nơi làm việc thường xuyên của họ. Du lịch không chỉ là một hiện tượng xã hội đơn thuần mà nó phải gắn chặt với hoạt động kinh tế. Tuy nhiên mỗi học giả lại có những nhận định khác nhau về vấn đề này. Theo Kuns một yếu tố không thể thiếu được trong định nghĩa về du lịch cần được bổ sung là đến bằng các phương tiện giao thong và sử dụng các xí nghiệp du lịch. Picira Edmod đã đưa ra định nghĩa: du lịch là việc tổng hoà, việc tổ chức và chức năng của nó không chỉ về phương diện khách vãng lai mà chính về phương diện giá trị do người chỉ ra và của những khách vãng lai đến với một túi tiền đầy tiêu dùng trực tiếp và gián tiếp cho các chi phí của họ nhằm thoả mãn nhu cầu hiểu biết và giải trí. Mariot coi tất cả các hoạt động, tổ chức, kỹ thuật và kinh tế phục vụ các cuộc hành trình và lưu trú của con người ngoài nơi cư trú, với nhiều mục đích ngoài mục đích kiếm việc làm và thăm viếng người thân là du lịch. Ngoài những khái niệm thiên về tiếp cận kinh tế, tiếp cân xã hội cũng có một số khái niệm sau: đối với Nguyễn Cao Thường và Tô Đăng Hải cho rằng: “Du lịch là một ngành kinh tế xã hội, dịch vụ có mhiệm vụ phục vụ nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ ngơi hoặc không kết hợp với các hoạt động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và nhu cầu khác”. Michand – chuyên gia nghiên cứu về du lịch thuộc lĩnh vực địa lý đưa ra quan điểm của mình: du lịch là tập hợp những hoạt động sản xuất và tiêu thụ phục vụ cho việc đi lại và ngủ lại ít nhất một đêm ngoài nơi ở thường ngày với lý do giải trí, kinh doanh, sản xuất, hội họp, thể thao hoặc tôn giáo. Ngoài tiếp cận môi trường, hoạt động du lịch phải có tiếp cận cộng đồng mới đảm bảo sự phát triển lâu dài. Coltman đã định nghĩa: du lịch là quan hệ tương hỗ do sự tương tác của bốn nhóm du khách, cơ quan cung ứng du lịch, chính quyền và dân cư tại nơi đến du lịch tạo nên. Còn Robert W.Mcintosh, Charles R.Goelder, J.R Brent Ritchie phát biểu về du lịch như là tổng các hiện tượng và mối quan hệ nảy sinh từ tác động qua lại giữa du khách, nhà cung ứng, chính quyền và cộng đồng chủ nhà trong quá trình thu hút và đón tiếp du khách. Với mục đích quốc tế hoá, tại hội nghị Liên Hợp Quốc vệ du lịch họp tại Roma, các chuyên gia đã đưa ra định nghĩa về du lịch “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hoà bình. Nơi họ lưu trú không phải nơi làm việc của họ”. Khác với quan điểm trên các học giả biên soạn bách khoa toàn thư Việt Nam đã tách hai nội dùng cơ bản của du lịch thành hai phần: + Nghĩa thứ nhất: du lịch là một dạng nghỉ dưỡng sức tham quan tích cực của con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa nghệ thuật… + Nghĩa thứ hai: du lịch được coi là ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt, nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hoá dân tộc, từ đó góp phần làm tăng tình yêu đất nước, đối với người nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình, về mặt kinh tế du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn, có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tại chỗ. Luật Du lịch Việt Nam chỉ rõ: “Du Lịch là họat động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”. Theo định nghĩa này ta thấy, du lịch trước tiên phải là hoạt động của con người và phải là hoạt động ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ. Tuy vậy ở đây còn nêu lên một vấn đề rất chung chung là “nơi cư trú” bởi từ này có thể hiểu với một không gian rất rộng như một đất nước, bởi một nước cũng có thể hiểu là nơi cư trú của công dân nước đó hoặc không gian nhỏ hơn là một vùng lãnh thổ, một tỉnh, thành phố hay một huyện, một xã, hay một làng. Việc giới hạn không gian linh hoạt như trên đã giúp chúng ta có cái nhìn nhận linh hoạt hơn không bị quá bó hẹp về không gian du lịch mà nó được lien hệ với các yếu tố khác. Du lịch phải nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng của con người đi du lịch, trong đó một nhu cầu rất quan trọng là tham quan, điều này cho chúng ta thấy hoạt động của con người ngoài nơi cư trú nhưng không nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng thì sẽ không được công nhận là du lịch. Theo tinh thần đó thì những hoạt động như học tập ngoài nơi cư trú, lao động ngoài nơi cư trú sẽ không phải là du lịch. Du lịch được diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định nghĩa là du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu của con người đi du lịch trong những thời gian nhất định, điều này giúp ta phân biệt nhu cầu, hoạt động của con người đi du lịch với các nhu cầu khác của họ và cho ta thấy giới hạn thời gian của khách du lịch, từ đó mà có những sản phẩm du lịch phù hợp với giới hạn thời gian của họ. Ngày nay, Tổ chức Du lịch Thế Giới (UNWTO) đã thống nhất khái niệm du lịch phản ánh các mối quan hệ có tính bản chất bên trong là cơ sở cho việc nghiên cứu các xu hướng và quy luật phát triển của nó. Do đó: “ Du lịch là tổng thể những hiện tượng về mối quan hệ phát sinh do sự tác động qua lại giữa khách du lịch, người kinh doanh du lịch, chính quyền sở tại và cộng đồng dân cư địa phương trong quá trình thu hút và lưu giữ khách du lịch. Trong thực tế cuộc sống, do sự phát triển của xã hội và nhận thức, các từ ngữ thường có nhiều nghĩa, nhiều khi trái ngược nhau. Như vậy việc giải thích bằng cách gộp các nội dùng khác nhau vào một định nghĩa sẽ gây khó hiểu, không rõ ràng. Vậy có thể tách du lịch thành hai phần để định nghĩa: Thứ nhất, du lịch có thể hiểu là sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao tại chỗ về nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo sự tiêu thụ một số giá trị kinh tế, văn hoá, và dịch vụ do các cơ sở cung ứng. Thứ hai: Du lịch có thể được hiểu là một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu nảy sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh. Việc nhận định rõ ràng hai nội dùng cơ bản của khái niệm có ý nghĩa góp phần thúc đẩy sự phát triển của du lịch. Từ những khái niệm trên giúp ta hiểu rõ về ngành du lịch từ đó có những nhìn nhận đúng đắn về ngành này cũng như vai trò của nó đối với đất nước, đặc biệt là vai trò bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc. 1.2. Một số khái niệm liên quan: - Cũng theo Luật Du Lịch thì “tham quan là hoạt động của khách du lịch trong ngày tới thăm nơi có tài nguyên du lịch với mục đích tìm hiểu, thưởng thức những giá trị tài nguyên du lịch”. Qua đây cho ta thấy, tham quan là hình thức quan sát trực tiếp những di tích, danh lam, phong tục, cuộc sống sinh hoạt của cộng đồng dân cư nơi họ đến du lịch, từ đó cảm nhận, hình thành những kiến thức hoặc bổ sung thêm kiến thức cho bản thân mình. Tham quan không chỉ thoả mãn nhu cầu tìm hiểu thông qua tiếp xúc trực tiếp các giác quan mà nó còn thông qua việc tiếp xúc ấy để thưởng ngoạn các giá trị của nơi đến tham quan. Tham quan không những giúp cho ta cảm nhận trực tiếp các đối tượng tham quan và giúp ta kiểm nghiệm, bổ sung trí tưởng tượng phong phú của con người về các đối tượng mà ta có được thông qua các hình thức khác như văn học, hội hoạ, truyền thong… Việc hình thành kiến thức, bổ sung kiến thức thông qua tham quan mang tính khác biệt với các hình thức khác, bởi kiến thức được hình thành bổ sung một cách nhẹ nhàng, thoải mái, không bắt buộc. Từ những quan sá kinh tế, trực tiếp, kiến thức dần dần đọng lại trong khách du lịch một cách tự nguyện, bản năng, bởi vậy những kiến thức đọng lại thuộc về nhu cầu và tương đối bền vững với người tiếp nhận nó. - Luật Du Lịch còn chỉ rõ : “ Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến ”. Về phương diện kinh tế, du khách là những người sử dụng dịch vụ của các doanh nghiệp du lịch như lữ hành, lưu trú, ăn uống… (theo nhập môn KH du lịch - Trần Đức Thanh). Khái niệm này cho ta thấy khách du lịch là rất đa dạng không phân biệt tuổi tác, học thức, nghề nghiệp, địa vị xã hội hay tôn giáo. Như vậy, sẽ có rất nhiều đối tượng nếu có nhận thức tốt tham gia vào việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. - Tài nguyên du lịch: “ là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử- văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch , điểm du lịch , tuyến du lịch, đô thị du lịch” ( Luật Du Lịch). Ngay từ khái niệm về tài nguyên du lịch này đã cho ta thấy một phần vai trò du lịch trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Vì khi ngành du lịch sử dụng, khai thác nguồn tài nguyên du lịch thì sẽ đi đôi với việc giữ gìn và tiếp tục kế thừa phát triển nguồn tài nguyên đó để hướng tới phát triển du lịch bền vững. Cảnh quan thiên nhiên chứa trong bản thân nó vẻ đẹp hùng vĩ của tạo hoá nhưng bên cạnh đó cũng ghi dấu ấn lịch sử dân tộc qua các thời kỳ, chính vì vậy nó cuốn hút khơi dậy trong mỗi con người chúng ta tình yêu quê hương đất nước giống như một đại văn hào đã nói: “dòng suối chảy vào sông, sông chảy vào đại trường giang Von-ga. Còn sông Von-ga chảy ra biển. Lòng yêu nhà quê hương xứ sở trở thành lòng yêu nước. Các di tích lịch sử không chỉ chứa đựng những thông tin lịch sử mà còn chưa đựng cả những tư tưởng, truyền thống cách mạng của các thế hệ cha ông chúng ta. Đương thời thăm đền Hùng, Hồ chủ tịch đã dạy: “ Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải quyết tâm giữ nước”. Trong khung cảnh hùng vĩ của đền Hùng, lời dạy đó đi vào lòng chúng ta một cách êm ái mà sâu sắc biết nhường nào. Những di tích cách mạng với thời gian năm tháng sẽ không chỉ đơn thuần là di tích cách mạng, mà nó sẽ trở thành di tích lịch sử - cách mạng với ý nghĩa vô cùng lớn lao chứa đựng trong bản thân nó và ý nghĩa thời gian nó đã trải qua. Không những chỉ chứa đựng những thông tin lịch sử văn hoá mà các di tích còn ẩn chứa trong mình, những giá trị nhân văn, những giá trị ứng xử của con người Việt Nam. Thông qua các biểu tượng hoặc các truyền thuyết gắn liền với di tích đó, mà ta thấy được nét truyền thống văn hiến của dân tộc mình. Khuê Văn Các không phải nghiễm nhiên được xây dựng ở trung tâm Văn Miếu bởi nó ẩn chứa trong mình những ý chí vươn lên toả sáng - những ánh sang tuyệt đẹp của con người Việt Nam như ánh sáng của chùm sao Khuê. - Khu du lịch: là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên du lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư, phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường (Luật Du Lịch). Vậy khu du lịch phải là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn và đồng thời phải có ưu thế nổi bật về tài nguyên du lịch tự nhiên. Không những thế, nó phải được quy hoạch, đầu tư phát triển, nhằm thoả mãn nhu cầu đa dạng của khách du lịch nhưng phải mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường. Qua đây chúng ta thấy nếu một khu nào đó có đầy đủ điều kiện, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhưng không mang lại hiệu quả xã hội và môi trường thì nó vẫn chưa được coi là khu du lịch. - Điểm du lịch: là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch, (Luật Du Lịch). Khái niệm này giúp ta phân biệt điểm du lịch với các điểm khác như: điểm vui chơi, giải trí, điểm thi đấu thể thao… Đồng thời nó cũng giúp ta nhận biết đâu là tài nguyên du lịch đâu là điểm du lịch, tài nguyên du lịch là khái niệm chung trong đó bao gồm cả điểm du lịch, nhưng điểm du lịch là những tài nguyên du lịch đã được đưa vào khai thác và phát huy ý nghĩa của nó. - Tuyến du lịch: là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở cung cấp các dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không. (Luật Du Lịch). Khái niệm này cho ta thấy hai yếu tố cấu thành nên tuyến du lịch là các điểm, khu du lịch và tuyến giao thông. Nếu có điểm du lịch nhưng hạ tầng giao thông chưa phát triển thì cũng không xây dựng được tuyến du lịch. Tất nhiên ta phải hiểu tuyến giao thông ở đây một cách đa dạng và uyển chuyển: gồm giao thông đường xe cơ giới, giao thông đường thuỷ, và nhiều khi có cả đường giao thông cho xe thô sơ và đi bộ trong một khoảng cách chấp nhận được. - Chương trình du lịch: “là lịch trình, các dịch vụ và giá bán, chương trình được định trước cho chuyến đi của khách du lịch, từ nơi xuất phát đến điểm kết thúc chuyến đi ” (Luật Du Lịch). Vậy chương trình du lịch chứa đựng ba yếu tố cơ bản đó là lịch trình tham quan được định trước và có xác định thời gian thực hiện; hai là các dịch vụ kèm theo bao gồm lưu trú, vận chuyển, hướng dẫn, ăn uống và các dịch vụ khác tuỳ thuộc vào từng loại hình du lịch; ba là chương trình đó phải có giá bán rõ ràng. Qua đây ta thấy chương trình nhằm đáp ứng hai khía cạnh của khách du lịch là sở thích nhu cầu của khách và khả năng tài chính của khách. Nếu không đáp ứng được hai khía cạnh đó chương trình du lịch sẽ trở thành không hấp dẫn và khó mà bán được. - Lữ hành: “ là việc xây dựng, bán, và tổ chức thực hiện một phần hoặc toàn bộ chương trình du lịch cho khách du lịch”. Như vậy, lữ hành là việc tổ chức các chương trình du lịch đã được bán cho khách du lịch. Lữ hành thực chất là hoạt động của các công ty du lịch chuyển sản phẩm đến người tiêu dùng là khách du lịch. - Hướng dẫn du lịch: là hoạt động của các tổ chức kinh doanh du lịch thông qua hướng dẫn viên và những người có liên quan đến đón tiếp, phục vụ, hướng dẫn khách du lịch thực hiện các dịch vụ theo các chương trình được thoả thuận và giúp đỡ khách giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trìn thực hiện chuyến du lịch. Khái niệm trên đã chỉ rõ những hoạt động chủ yếu của hướng dẫn du lịch mà vai trò quan trọng nhất là của hướng dẫn viên, những người thay mặt cho tổ chức kinh doanh du lịch thực hiện các hợp đồng giữa đơn vị mình với khách du lịch. Các hoạt động du lịch bao gồm nhiều mặt công tác và đòi hỏi về nghiệp độ tuy mức độ không giống nhau. 1.3. Sơ lược về sự phát triển của du lịch Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống kinh tế xã hội và đã trở lên phổ biến ở nhiều quốc gia và là một thói quen trong nếp sống sinh hoạt trong xã hội ngày nay. Có nước coi du lịch là nguồn thu chủ yếu, điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế, có nước coi du lịch như một ngành kinh doanh mũi nhọn có sức hút đối với những ngành khác. Ngành du lịch ở Việt Nam ra đời năm 1960 với việc thành lập Công Ty Du Lịch Việt Nam theo nghị định số 26 CP ngày 9/7/1960 đã đánh dấu nhận thức của Đảng và Nhà Nước về triển vọng nền kinh tế này. Trong suốt gần 50 năm hình thành và phát triển ngành du lịch luôn được Đảng và nhà nước quan tâm. Ở mỗi thời kỳ đều xác định vị trí của du lịch trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước phù hợp với yêu cầu của xã hội. Đặc biệt thời kỳ đổi mới và hội nhập, du lịch Việt Nam đã có những phát triển vượt bậc, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách về phát triển du lịch với các nước trong khu vực. Trở thành ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà Nước với du lịch là một tiền để rất quan trọng cho những đổi mới của ngành. Sự quan tâm này được thể hiện trong hiến pháp của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, trong nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc, trong chỉ thị 46 CT/TW ngày 14/10/1994 của Ban Bí Thư Trung Ương, thông báo số 179 TB/TW ngày 11/11/1998 và dự thảo văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ X (dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm 2006-2010) và hàng loạt các văn bản khác. Như vậy có thể tin tưởng rằng trong tương lai du lịch Việt Nam chắc chắn sẽ có một vị trí xứng đáng trong xã hội và nền kinh tế nước nhà. Lượng khách quốc tế vào nước ta từ năm 1990-2007: Lượng khách nội địa giai đoạn 1990 – 2007: * Nguồn: Tổng Cục thống kê Qua hai bản biểu đồ trên có thể thấy hoạt động du lịch của nước ta giai đoạn 1990- 2007 đã đạt được những thành tựu nhất định, cả lượng khách nội địa và quốc tế đã liên tục tăng qua các năm. Điều đó khẳng định vị thế và tương lai của du lịch nước ta. 1.4. Các loại hình du lịch ở Việt Nam Hoạt động du lịch có thể chia thành các nhóm khác nhau tuỳ thuộc vào tiêu chí đưa ra. Về phần mình các tiêu chí được đưa ra phụ thuộc vào mục đích việc phân loại và quan điểm chủ quan của tác giả. Do đó, cho đến nay chưa có bảng phân loại nào được coi là hoàn hảo. Phân loại theo mục đích chuyến đi thì ở Việt Nam đang hình thành, tồn tại và phát triển các loại hình du lịch sau: Du lịch văn hoá lịch sử: là chương trình tổ chức cho khách du lịch tham quan các điểm, khu du lịch mang ý nghĩa lịch sử, văn hoá và thắng cảnh. Du lịch văn hoá, lịch sử giúp cho khách tìm hiểu được những nét văn hoá , lịch sử truyền thống bản sắc của dân tộc, đất nước hoặc một vùng. Đây là loại hình du lịch cổ điển và truyền thống nhất trong các loại hình du lịch và loại hình này hiện nay cung đang phát triển nhất tại Việt Nam. Tham gia loại hình này khách chủ yếu tham quan những di tích lịch sử văn hoá, những viện bảo tang những làng nghề, lễ hội, những thắng cảnh thiên nhiên … Đây là loại hình du lịch khá phổ thông và thu hút quảng đại khách du lịch và nó chiếm tỷ trọng lớn trong ngành du lịch. Đồng thời loại hình du lịch này đã thể hiện rõ nét và được đánh giá cao với vai trò bảo tồn và phát huy nền văn hoá truyền thống dân tộc Du lịch sinh thái: Là du lịch phát huy, khai thác những giá trị sinh thái môi trường. DU lịch sinh thái giúp ta tìm hiểu được các hệ sinh thái tự nhiên hoặc do con người tái tạo, giúp khách du lịch hiểu được giá trị của sinh thái và môi trường, ảnh hưởng của sinh thái đối với cuộc sống và một số ngành sản xuất; mối liên hệ tự nhiên giữa phát triển, bảo vệ môi trường và giữ cân bằng sinh thái môi trường. Tham gia loại hình du lịch này khách thường được tham quan các khu bảo tồn thiên nhiên lưu trú trong những nhà nghỉ khách sạn đơn giản trong các khu bảo tồn hoặc các khu phụ cận, nhưng lại được đắm mình trong khung cảnh thiên nhiên và không khí trong lành, qua đó đem lại cho người ta một ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn môi trường, cải tạo và trả lại cho môi trường vẻ đẹp vốn có của nó. Du lịch mạo hiểm: Là loại hình du lịch mà hoạt động của du khách mang ít nhiều tính mạo hiểm, khám phá. Từ mạo hiểm cho ta thấy là trong quá trình du lịch khách dễ gặp phải những rủi ro, nguy hiểm khó lường trước được và đôi khi nguy hiểm đến cả tính mạng. Loại hình du lịch này chỉ phù hợp với những người có sức khỏe tốt và có cá tình mạnh, thích phiêu lưu mạo hiểm. Các dạng phổ biến của loại hình này là leo núi, chinh phục các ngọn núi cao, vượt sông, thác ghềnh ở những nơi nguy hiểm tạo cho họ cảm giác mạnh và mang ý nghĩa chinh phục, lặn biển để khám phá vẻ đẹp dưới đáy biển, khám phá các hang động để tìm ra những điều bí ẩn. Du lịch mạo hiểm giúp cho con người rèn luyện ý chí, khả năng xử lý tình huống khi gặp những khó khăn bất ngờ. Du lịch nghỉ dưỡng: một trong những chức năng xã hội quan trọng của du lịch là phục hồi sức khoẻ cộng đồng. Theo một số học giả trên thế giới với chế độ du lịch hợp lý cộng đồng có thể giảm được trung bình 30% ngày điều trị bệnh trong năm. Thông thường loại hình du lịch này diễn ra ở những nơi có điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho việc nghỉ dưỡng như khí hậu, môi trường, bãi biển và có cơ sở vật chất đủ đáp ứng cho nhu cầu nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Tham quan khu vực lân cận với chương trình nhẹ nhàng, mang tính thư giãn và nghỉ dưỡng là một phần của loại hình này. Thời gian chủ yếu của khách là nghỉ ngơi kết hợp các vận động nhằm giúp ích cho sức khoẻ hoặc thư giãn đầu óc, hưởng thụ các dịch vụ tại nơi nghỉ dưỡng. Ở Việt Nam, các khu nghỉ dưỡng này mới chủ yếu hình thành dọc bờ biển miền Trung như: Đà Nẵng, Hội An, Nha Trang, Vũng Tàu… Du lịch tàu biển: là loại hình du lịch trên các con tàu biển với thiết bị sang trọng, hiện đại vừa làm chức năng vận chuyển khách giữa các điểm tham quan trên đất liền hoặc các đảo suốt hành trình trên biển, đồng thời là nơi lưu trú và giải trí của khách. Khi đến các điểm tham quan, tàu neo đậu để khách lên bờ tham quan nhưng tối lại quay về nghỉ ngơi trên tàu. Ngày nay, những con tàu đã được đóng và trang bị ngang bằng bởi các khách sạn năm sao với đầy đủ các dịch vụ như phòng nghỉ, bể bơi, sân tennis, câu lạc bộ khiêu vũ… Loại hình du lịch này hiện đang thu hút được nhiều người lớn tuổi, bởi trong suốt thời gian di chuyển từ nước này sang nước khác họ không phải nó mình trên các phương tiện vận chuyển mà vẫn sinh hoạt thoải mái như ở nhà. Du lịch MICE: đây là loại hình du lịch tương đối mới mẻ ở Việt Nam, nhằm cung cấp dịch vụ cho hội nghị, hội thảo, triển lãm và du lịch phần thưởng. Ngoài ._.việc cung cấp dịch vụ cho các mục đích nêu trên thì các dịch vụ phụ trợ hoặc xen kẽ giữa các khoảng thời gian của hội nghị, hội thảo là rất quan trọng, như chương trình tham quan cho các thành viên đi theo hoặc chưa tham gia hội nghị. Tổ chức các hoạt động phụ trợ để hội nghị, hội thảo trở thành sự kiện khó quên đối với các thành viên như các hoạt động nhóm, các bữa tiệc sang trọng mang nét đặc sắc. Đây là loại hình du lịch hình thành để đáp ứng nhu cầu hoạt động của các công ty đa quốc gia, các công ty siêu quốc gia, các tổ chức quốc tế. Ngoài ra còn kết hợp du lịch trong chuyến đi vì mục đích tôn giáo, học tập, nghiên cứu hoặc mục đích thể thao, thăm người thân,… Qua các hoại hình du lịch nói trên có thể thấy du lịch văn hoá có ảnh hưởng tác động nhiều đến bản sắc văn hoá dân tộc của người Việt. Đây là loại hình du lịch khá phổ biến và ngày càng phát triển. Dễ nhận thấy vai trò của nó đối với việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc cũng được thể hiện một cách rõ nét nhất. Nhận thức cơ bản về văn hoá Khái niệm văn hoá Văn hóa là một phạm trù rộng lớn và không thống nhất theo cách nghĩ của mỗi người. Dưới góc độ khác nhau, mục đích nghiên cứu khác nhau mỗi học giả đều tự đưa ra cho mình những quan niệm khác nhau về văn hoá. Văn hoá là sản phẩm do con người sáng tạo, có từ thuở bình minh của xã hội loài người. Ở phương Đông, từ văn hoá đã có trong đời sống ngôn ngữ từ rất sớm. Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn hoá. Xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hoá thiên hạ (quan hồ nhân văn dĩ hoá thành hiện đại). Người sử dụng từ văn hoá sớm nhất có lẽ là Lưu Hướng (năm 776 trước Công Nguyên). Tuy vậy việc xây dựng và sử dụng khái niệm văn hoá không đơn giản và thay đổi theo thời gian, thuật ngữ văn hoá với nghĩa “canh tác tinh thần” được sử dụng vào thế kỷ XVII – XVIII bên cạnh nghĩa gốc là quản lý, canh tác nông nghiệp. Vào thế kỷ XIX thuật ngữ “văn hoá” được những nhà nhân loại học phát triển sử dụng như một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn hoá thế giới có thể phân loại ra từ trình độ thấp đến cao nhất và văn hoá của họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi họ cho rằng văn hoá hướng về trí lực và sự vươn lên, sự phát triển tạo thành văn minh, E.B.Taylo là đại diện của họ. Theo ông văn hoá là toàn bộ thực tế gồm: hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội. Thế kỷ XX, khái niệm văn hoá thay đổi F.Boa ý nghĩa văn hoá được quy định do khung giải thích riêng chứ không phải bắt nguồn từ cứ liệu cao siêu như “trí lực” vì thế sự khác nhau về mặt văn hoá từng dân tộc cũng không phải theo tiêu chuẩn trí lực. Đó cũng là “tương đối luận” của văn hoá. Văn hoá không xét ở mức độ tăng giảm mà ở góc độ khác biệt. Trong ý nghĩa rộng nhất: “Văn hoá hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng: văn hoá đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân, chính văn hoá làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và sống có đạo lý. Chính nhờ văn hoá mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội nên bản thân. Như vậy, văn hoá không phải là một lĩnh vực riêng biệt, văn hoá là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra: văn hoá là chìa khoá của sự phát triển. Di sản văn hoá vật thể và phi vật thể Theo quan niệm của UNESCO có hai loại di dản văn hoá: Một là, những di tích văn hoá hữu thể như: đình, đền, miếu, lăng mộ, nhà sàn, bảo tàng… hay những di tích kiến trúc nghệ thuật. Hai là, những di sản văn hoá vô hình (phi vật thể) bao gồm các biểu hiện tượng trưng và “không sờ thấy được” của văn hoá được lưu truyền và biến đổi qua thời gian, với một số quá trình tái tạo “trung tu” của cộng đồng. Những di sản văn hoá tạm gọi là vô hình này theo UNESCO gồm cả: âm nhạc, múa, truyền thống, văn chương truyền miệng ngôn ngữ, huyền thoại, nghi thức, phong tục tập quán, việc nấu ăn, các món ăn, lễ hội, bí quyết và quy trình công nghệ của các nghề truyền thống. Các hữu thể và các vô hình gắn bó hữu cơ với nhau, lồng vào nhau như thân xác và tâm trí con người. 2.3. Khái niệm truyền thống và hiện đại Có nhiều cách hiểu khác nhau trong phân loại xã hội, nhưng ngày nay người ta thường lấy tiêu chí hoạt động của con người để chia lịch sử thành: Xã hội thu lượm (hái lượm và đi săn) Xã hội nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi) Xã hội công nghiệp (cơ giới) Xã hội hậu công nghiệp (thời đại tin học) Ở Việt Nam xã hội cổ truyền là xã hội nông nghiệp, văn minh cổ truyền là văn minh thôn dã (xóm làng), văn hoá Việt Nam truyền thống thường được xem là nền văn hoá xuất hiện từ lúc hình thành quốc gia dân tộc, qua nhiều bước phát triển nội sinh và ảnh hưởng ngoại sinh cho đến khi văn hoá phát triển (chủ yếu là văn hoá Pháp) tác động đến một số lĩnh vực. Như vậy khoảng thời gian kéo dài từ xa xôi cho đến những năm đầu thế kỷ XX tạm được coi là giới hạn của văn hoá truyền thống. Từ thời điểm đó đến nay, được coi là văn hoá hiện đại. Đôi khi người ta cũng có sự lẫn lộn giữa khái niệm cổ truyền và truyền thống. Có thể coi khái niệm cổ truyền bao gồm cả cái không tích cực. Khái niệm truyền thống là tập quán đã được sàng lọc. Truyền thống được dùng ở đây là tính cho đến thời điểm trước công cuộc giao thoa truyền thống văn hoá Đông – Tây, Việt – Pháp. Định nghĩa văn hoá truyền thống: trong bài viết văn hoá cổ truyền, văn hoá truyền thống và truyền thống văn hoá của một tác giả tên đăng trên tạp chí văn hoá dân gian có nêu: “văn hoá truyền thống là khái niệm dùng để chỉ một cấu trúc văn hoá, chỉ văn hoá của các xã hội nông nghiệp truyền thống”. Tuy đây là định nghĩa ngắn gọn nhưng còn gây cho người đọc sự khó hiểu, diễn đạt còn chưa thoát ý. GS.TSKH Trần Ngọc Thêm có đưa ra định nghĩa: “Văn hoá là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”. Từ điển Tiếng Việt của viện ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa: “Truyền thống là thói quen hình thành đã lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác”. Mối quan hệ giữa du lịch và văn hoá Để có thể đánh giá được đầy đủ và chính xác vai trò của ngành du lịch trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, ta cần phải nghiên cứu về mối quan hệ biện chứng giữa du lịch và văn hoá thể hiện như sau: Về mặt lý luận, văn hoá là toàn bộ những hoạt động, những giao lưu, những sản phẩm vật chất và tinh thần do con người sáng tạo trong sự ứng xử toàn diện với thiên nhiên, với xã hội, với -chính bản thân mình, để tồn tại và phát triển; là quá trình con người không ngừng hoàn thiện và phong phú hoá các quan hệ nhân tính của xã hội, của cộng đồng và các cá nhân khẳng định hệ giá trị văn hoá. Về du lịch, hầu như trước đây có bao nhiêu tác giả nghiên cứu tìm hiểu du lịch thì có bấy nhiêu định nghĩa. Như đã được nêu trong phần khái niệm du lịch. Vậy mối quan hệ biện chứng giữa du lịch và văn hoá thể hiện ở chỗ nào? Nếu ta nghiên cứu sự hình thành và phát triển của ngành du lịch, điều đó có thể khẳng định là từ cổ đại mầm mống của du lịch bắt nguồn từ nhu cầu hoạt động văn hoá (hành hương, hành trình lễ hội). Ngược lại văn hoá cũng tác động đến việc hình thành các dịch vụ sơ khai của ngành du lịch hiện đại (sự xuất hiện của các cơ sở lưu trú phục vụ cho khách hành hương). Văn hoá là sự giao lưu; thực vậy, nhờ có sự giao lưu, trao đổi mà các hoạt động văn hoá, tín ngưỡng được lan truyền từ vùng này sang vùng khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác. Con người với đặc trưng cơ bản là biết lao động, tư duy và sáng tạo, hướng tới hoàn thiện và cái đẹp ở thời cổ đại chính khát vọng vươn tới tự do, khát vọng được nâng đỡ cứu giúp khỏi các thảm hoạ thiên nhiên và bất công xã hội, con người đã sáng tạo ra thần thánh và tôn giáo như một giá đỡ tinh thần. Từ đó Kitô tôn giáo, Phật giáo và hồi giáo xuất hiện và được truyền bá từ vùng này sang vùng khác. Mỗi dân tộc đều có truyền thống bản sắc văn hoá riêng. Những tinh hoa văn hoá của từng dân tộc có được là do quá trình lao động sáng tạo của cộng đồng, được cộng đồng thừa nhận và lưu truyền từ đời này qua đời khác. Truyền thống, bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc không phải là cái bất biến, nó không ngừng được hoàn thiện phát triển qua các thởi đại nhờ sự hoàn thiện và những yếu tố du nhập từ các nền văn hoá của mình. Thông qua giao tiếp, tìm hiểu các dân tộc trao đổi cho nhau những kiến thức về văn hoá, những cái hay, cái đẹp trong cuộc sống qua đó mỗi dân tộc có sự chắt lọc, bổ sung, nâng cao nền văn hoá của mình. Đây là đặc trưng trong tính kế thừa theo trục không gian của các nền văn hoá. Nếu không có giao lưu, nền văn hoá vủa mỗi cộng đồng, dân tộc khi bị cô lập sẽ ở trạng thái ngưng trệ. Sự kế thừa theo trục không gian đã thúc đẩy văn hoá nhân loại phát triển. Khi nghiên cứu du lịch ta không chỉ xem xét trên góc cạnh của người hướng dẫn mà trên thực tế những người cung cấp dịch vụ là yếu tố thứ hai trong du lịch tạo nên một hiện tượng Kinh Tế - Văn Hoá. Họ là những người cung cấp thông tin, tổ chức các chuyến du lịch, người cung cấp phương tiện giao thông, cung cấp cơ sở lưu trú, ăn uống để thoả mãn như cấu cơ bản của con người. Ngoài ra những người làm công tác nghệ thuật, tổ chức vui chơi giải trí, cung cấp thiết bị kỹ thuật … Với tư cách là “nhà sản xuất hàng hoá dịch vụ, hoạt động của người làm du lịch không thể tách rời các yếu tố văn hoá” . Trong doanh nghiệp hoạt động du lịch, yếu tố văn hoá là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần mà doanh nghiệp tạo ra. Sử dụng trong quá trình phục vụ khách, vì vậy có thể nói rằng văn hoá chính là toàn bộ quá trình xây dựng bố trí cơ sở vật chất: thiết bị vận chuyển, khách sạn, nhà hàng, các dịch vụ phụ trợ khác … Một điểm cần lưu ý là sản phẩm của nghành du lịch mang tính chất đặc thù. Nghĩa là nó không thể đóng gói, tồn kho, bày bán như các sản phẩm thông thường. Yếu tố dịch vụ mang tỷ trọng lớn trong sản phẩm. Như vậy một sản phẩm du lịch không chỉ có mặt vật chất mà nó chứa đựng yếu tố văn hoá, tinh thần. Kết tinh vào sản phẩm có sức lao động của con người thông qua giao tiếp, phục vụ, chăm sóc khách hàng. Nhân viên phục vụ với tính chất là sản phẩm của một nền văn hoá vì họ mang trong mình khả năng chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp, và các yếu tố truyền thống trong nhân cách. Họ đại diện cho doanh nghiệp và cả một nền văn hoá để cảm hoá khách hàng. Tóm lại giữa du lịch và văn hoá có mối quan hệ biện chứng. Hoạt động của ngành du lịch như một ngành kinh tế dịch vụ góp phần cho sự tăng trưởng và sự phát triển của nền kinh tế xã hội, tạo điều kiện nâng cao mức sống vật chất và tinh thần cho cộng đồng, thúc đẩy phát triển văn hoá và ngược lại, sự phát triển của một xã hội văn minh trong đó trình độ văn hoá, chính trị, tư tưởng của các thành viên trong cộng đồng lại tác động lại đến phát triển kinh tế trong đó có du lịch. Chương 2: Thực trạng du lịch Việt Nam với vai trò bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của người Việt. 2.1. Vai trò của du lịch trong nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội . 2.1.1. Vai trò của nghành du lịch đối với nền kinh tế quốc dân: Nhà Nước Việt Nam xác định: du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao; phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng của nhân dân và khách du lịch quốc tế, góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Qua đó, ta thấy: - Đối với nền kinh tế quốc dân thì du lịch có vai trò là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng có tính liên ngành liên vùng. Du lịch là ngành dịch vụ. Nên nó sử dụng một tỷ trọng nhân công tương đối lớn, từ đó đã tạo ra một khối lượng lớn việc làm cho người lao động. Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp nên khi nó phát triển sẽ kích thích và tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển và ngược lại, các ngành khác phát triển cũng kích thích và tạo điều kiện cho ngành du lịch phát triển. Trong nền kinh tế quốc dân nước ta, du lịch vẫn còn là ngành non trẻ, tuy vậy ngành này đang ngày càng phát triển với một tốc độ mạnh và ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong thu nhập quốc dân. Một số nước trong khu vực có điều kiện tương tự nước ta nhưng do nhận thấy vai trò của du lịch đối với nền kinh tế nên họ đã có chính sách thúc đẩy ngành phát triển và trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Như Thái Lan, trong suốt hàng chục năm qua, tỷ trọng ngành du lịch luôn đứng đầu trong nền kinh tế quốc dân, không những thế, nó còn đóng vai trò quan trọng trong việc giúp kinh tế nước này phục hồi nhanh chóng sau cuộc khủng hoảng tài chính của khu vực. Nước ta trong năm năm gần đây du lịch đã đóng góp một phần không nhỏ vào phát triển kinh tế đất nước. Doanh thu từ du lịch trong những năm 1990- 2006: Nguồn: Tổng Cục Du Lịch Nhờ những phát triển trong ngành du lịch mà đã tạo ra được đội ngũ phục vụ có chuyên môn, một cơ sở vật chất về lưu trú đủ khả năng phục vụ và đã phục vụ thành công các sự kiện lớn của Nhà Nước, như phục vụ SeaGame 22, phục vụ hội nghị Thượng Đỉnh Á - Âu và đã để lại ấn tượng tốt với các nguyên thủ cũng như các đoàn đại biểu của các nước. Du lịch phát triển còn nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng các hàng hoá vật chất và các hàng hoá phi vật chất. Do đó nhu cầu về dịch vụ rất được khách quan tâm. Một đặc điểm quan trọng và khác biệt giữa việc tiêu dùng du lịch và tiêu dùng các hàng hoá khác là việc tiêu dùng sản phẩm du lịch xảy ra cùng một lúc, cùng nơi với việc sản xuất ra chúng. Do đó để thực hiện được quá trình tiêu thụ sản phẩm, người mua hàng được đưa đến nơi sản xuất và tiêu dùng tại chỗ. Vì vậy sản phẩm du lịch mang tính độc quyền. Vậy, ảnh hưởng kinh tế của du lịch được thể hiện thông qua tác động qua lại của quá trình tiêu dùng và cung ứng sản phẩm du lịch. Quá trình này tác động lên lĩnh vực phân phối, lưu thông và do vậy ảnh hưởng đến những lĩnh vực khác nhau của quá trình tái sản xuất xã hội. Trên bình diện chung, hoạt động du lịch có tác động biến đổi cán cân thu chi của khu vực và của đất nước. Du khách mang ngoại tệ vào đất nước mà họ đi du lịch, làm tăng ngoại tệ cho đất nước họ đến, ngược lại phần thu ngoại tệ sẽ tăng lên đối với quốc gia có nhiều người đi du lịch nước ngoài. Trong phạm vi một quốc gia hoạt động du lịch làm xáo động hoạt động luân chuyển tiền tệ, hàng hoá. Cán cân thu chi được thực hiện giữa các vùng có trình độ kinh tế - văn hoá khác nhau tuy không làm biến đổi cán cân kinh tế của đất nước, song có tác dụng điều hoà nguồn vốn từ vùng kinh tế phát triển sang vùng kém phát triển hơn, kích thích sự tăng trưởng kinh tế các vùng sâu vùng xa. Khi khu vực nào đó trở thành điểm du lịch, du khách từ mọi nơi đi về sẽ làm cho nhu cầu về mọi hàng hoá tăng lên đáng kể. Việc đòi hỏi một số lượng lớn vật tư, hàng hoá các loại đã kích thích mạnh mẽ các ngành liên quan như nông nghiệp, công nghiệp chế biến… So với ngoại thương ngành du lịch cũng có nhiều ưu thế nổi trội. Du lịch quốc tế xuất khẩu tại chỗ được nhiều mặt hàng không phải qua nhiều khâu nên tiết kiệm được lao động, chênh lệch giá giữa người bán và người mua không cao. Qua đây ta thấy du lịch có tác dụng tích cực làm thay đổi bộ mặt kinh tế của đất nước. Việt Nam với chủ trương mở cửa làm bạn với tất cả các nước. Nhằm thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp nước ngoài vào hợp tác cùng phát triển, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động với thu nhập cao, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng với nhịp độ cao, cải thiện đời sống sinh hoạt, giá cả trong nước ổn định. 2.1.2. Vai trò của du lịch đối với văn hoá – xã hội Ngày nay, du lịch không chỉ trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, ngành công nghiệp không khói của rất nhiều quốc gia trên toàn thế giới mà nó còn trở thành một nhu cầu không thể thiếu được của con người. Kinh tế càng phát triển, đời sống của người dân càng tăng bởi một đặc tính cố hữu của con người là ham hiểu biết và giao lưu. Càng tham quan nhiều, càng giao lưu nhiều thì con người càng cảm nhận kiến thức của mình còn nhiều khập khiễng giao lưu còn quá bó hẹp. Chưa nói đến phạm vi rộng, chỉ cần biết được các miền của đất nước, cuộc sống của con người Việt Nam ở mỗi vùng, mỗi dân tộc là ước mơ của biết bao triệu người dân chúng ta. Với bề dày lịch sử, hàng ngàn năm văn hiến, với biết bao danh lam thắng cảnh, di tích trải dài trên suốt chiều dài của đất nước, tất cả đã trở thành nguồn tài nguyên vô tận để ngành du lịch khai thác phục vụ cho kinh tế, nâng cao đời sống tinh thần cho người dân và làm bạn bè quốc tế hiểu hơn về đất nước cũng như con người Việt Nam. Thông qua du lịch các tầng lớp dân cư trong xã hội có điều kiện để tiếp xúc với nhau và hiểu nhau hơn, từ đó hình thành nên những nhận thức chung và quan tâm chung. Không có du lịch làm sao các cộng đồng miền xuôi có điều kiện để tiếp xúc và hiểu được hoàn cảnh, thực tế cuộc sống , kinh tế của các cộng đồng dân tộc miền ngược, vùng kinh tế kém phát triển, từ đó xây dựng cho họ nhận thức, tinh thần tương thân giúp đỡ nhân đạo tốt hơn. Du lịch cũng giúp cộng đồng dân tộc miền ngược có điều kiện tiếp xúc, tiếp thu những kiến thức tiên tiến về văn hoá, kinh tế, nếp sống văn minh của các cộng đồng khác từ những vùng kinh tế văn hoá phát triển. Không những chỉ có tác dụng giao lưu xã hội mà du lịch còn tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, khảo sát thực tế tiềm năng phát triển,cơ hội đầu tư ở những vùng kinh tế còn khó khăn, từ đó họ có những kế hoạch chiến lược đầu tư vào những khu đó giúp phảt triển kinh tế xã hội và góp phần xoá đói giảm nghèo của các khu vực khó khăn này. Dân gian có câu “ trăm nghe không bằng một thấy” thì du lịch cũng là một trong những cơ hội để các nhà đầu tư thấy trực tiếp, quan sát trực tiếp, tìm hiểu trực tiếp tiềm ăng, cơ hội đầu tư cho các dự án phát triển du lịch, phát huy giá trị du lịch. Bên cạnh đó du lịch còn là ngành kinh tế tổng hợp có nội dung văn hoá sâu sắc có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao nên du lịch còn có vai trò giúp cho người đi du lịch muốn được trải nghiệm và thẩm nhận những giá trị văn hoá của cộng đồng khác. Cũng như du lịch đáp ứng được nhu cầu mong muốn được hoàn thiện mình, ai ai cũng muốn nâng cao trình độ hiểu biết của mình dể trở thành những bậc vĩ nhân như trong huyền thoại … Chính những mong muốn được mở mang trình độ hiểu biết, sự tò mò tìm hiểu và khám phá chân trời mới trong tiềm thức mỗi con người đều trỗi dậy những ý tưởng về nền văn minh cổ đại và họ muốn khám phá ra những điều bí mật ấy. Chính những nhu cầu này mà ngày nay xu hướng du lịch văn hoá ngày càng phát triển, du khách muốn đi tìm hiểu, nghiên cứu, khám phá những nét văn hoá truyền thống của các dân tộc ngày càng nhiều. Như vậy du lịch đóng vai trò thiết yếu và không thể thiếu được đối với nền văn hoá xã hội Việt nam 2.2 Thực trạng du lịch Việt nam với vai trò bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của người Việt Là một ngành kinh tế mũi nhọn song mục đích của phát triển du lịch không chỉ vì lợi nhuận kinh tế. Điều quan trọng và căn bản hơn là du lịch trực tiếp góp phần nâng cao vị thế, hình ảnh của Việt nam đối với thế giới cũng như các nước trong khu vực. Có thể nói khách nước ngoài đến với Việt nam bởi nhiều lý do trong đó có sự thân thiện của con người Việt nam. Đây là một thế mạnh mag tính truyền thống cần được gìn giữ phát huy. Mặt khác qua du lịch, khách muôn phương có dịp hiểu hơn về con người, đất nước, kinh tế, văn hoá Việt nam. Du lịch Việt nam giống như một sứ giả hoà bình và hữu nghị thắt chặt tình thân ái với bạn bè năm châ.Vì thế Việt nam ngày càng trở thành điểm đến hẫp dẫn của khách du lịch quốc tế. Bảng thống kê dưới đây cho ta thấy số lượng khách du lịch trong 9 tháng của năm 2007. kh¸ch quèc tÕ ®Õn viÖt nam 9 th¸ng n¨m 2007 Th¸ng 9 Céng dån Th¸ng 9/2007 Th¸ng 9/2007 9 th¸ng n¨m 9 th¸ng ®Çu so víi so víi cïng ®Çu n¨m 2007 2007 n¨m 2007 th¸ng 8 kú n¨m tríc so víi cïng (Lît kh¸ch) (Lît kh¸ch) n¨m 2007 (%) (%) kú n¨m tríc (%) Tæng sè 358,000 3,171,763 100.6 132.0 118.5 I. Chia theo ph¬ng tiÖn ®Õn: 1. §êng kh«ng 279,733 2,475,540 101.3 131.5 126.5 2. §êng biÓn 21,565 168,923 98.6 118.3 95.5 3. §êng bé 56,702 527,300 97.9 141.1 96.9 II. Chia theo môc ®Ých chuyÕn ®i: 1. Du lÞch, nghØ ng¬i 221,096 1,969,208 100.9 140.4 128.9 2. §i c«ng viÖc 57,893 481,388 99.4 102.5 114.2 3. Th¨m th©n nh©n 48,961 455,697 103.9 156.6 104.5 4. C¸c môc ®Ých kh¸c 30,050 265,470 95.4 115.8 91.0 III. Chia theo mét sè thÞ trêng chñ yÕu 1. Trung quèc 49,080 422,957 98.0 123.8 100.7 2. Hång K«ng 628 4,307 99.7 201.3 138.6 3. §µi Loan 30,153 243,741 100.6 137.6 118.0 4. NhËt 34,802 304,599 107.1 82.8 110.0 5. Hµn Quèc 37,257 372,681 94.4 116.6 121.7 6. Campuchia 10,900 116,628 93.7 170.9 91.3 7. Indonesia 1,881 17,292 100.4 102.3 111.4 8. Lµo 2,767 23,865 103.9 90.0 84.9 9. Malaysia 12,374 109,248 99.0 133.4 157.5 10. Philippin 2,728 23,926 95.4 125.8 114.8 11. Singapore 11,001 95,326 97.4 124.3 130.0 12. Th¸i Lan 13,602 120,867 99.9 161.7 137.3 13. Mü 32,889 323,758 105.1 141.4 111.0 14. Canada 7,595 72,083 105.2 218.3 131.6 15. Ph¸p 17,681 141,219 102.4 233.1 147.4 16. Anh 9,748 79,809 102.5 172.7 130.1 17. §øc 7,649 71,775 104.8 182.5 130.7 18. Thuþ sÜ 1,671 15,477 101.3 170.7 129.9 19. Italy 2,133 16,674 82.0 203.6 151.7 20. Hµ Lan 3,934 27,543 102.2 188.9 147.9 21. Thuþ ®iÓn 1,155 16,842 130.5 145.6 126.3 22. §an M¹ch 1,470 15,738 95.4 133.0 114.7 23. PhÇn Lan 220 4,449 92.2 86.1 106.9 24. BØ 1,790 14,185 114.5 211.5 140.0 25. Na uy 888 8,777 112.7 193.9 89.0 26. Nga 2,879 33,051 103.5 131.0 157.0 27. T©y Ban Nha 3,852 20,220 71.6 159.9 132.8 28. óc 17,618 166,601 101.4 125.6 133.4 29. Niudil©n 1,661 14,792 97.4 120.6 142.5 30. C¸c thÞ trêng kh¸c 34,888 262,914 105.9 152.2 124.6 Nguån: Tæng côc Thèng kª Trong đó 15 nước có lượng khách vào Việt Nam lớn nhất gồm: 15 THÞ TR¦êNG DÉN §ÇU VÒ kh¸ch quèc tÕ ®Õn viÖt nam (XÕp theo n¨m 2007) §¬n vÞ: Lît kh¸ch N¨m 2000 N¨m 2001 N¨m 2002 N¨m 2003 N¨m 2004 N¨m 2005 N¨m 2006 N¨m 2007 Tæng sè 1,734,025 1,881,797 2,147,832 2,006,641 2,485,519 2,957,877 3,038,857 3,555,383 1. Trung Quèc 626,476 672,846 724,385 693,423 778,431 717,409 515,286 574,627 2. Hµn Quèc 53,452 75,167 105,060 130,076 232,995 325,882 421,741 475,388 3. NhËt 152,755 204,860 279,769 209,730 267,210 338,509 383,896 418,333 4. Mü 208,642 230,470 259,967 218,928 272,473 330,197 385,654 408,323 5. §µi Loan 212,370 200,061 211,072 207,866 256,906 274,379 274,663 319,291 6. óc 68,162 84,085 96,624 93,292 128,661 148,839 172,519 224,619 7. Ph¸p 86,492 99,700 111,546 86,791 104,025 133,432 132,304 183,790 8. Th¸i Lan 26,366 31,789 40,999 40,123 53,682 86,844 123,804 167,043 9. Malaysia 20,378 26,265 46,086 48,662 55,717 80,602 105,558 153,507 10. Campuchia 124,557 76,620 69,538 84,256 90,838 198,582 154,956 150,216 11. Singgapore 29,100 32,110 35,261 36,870 50,942 82,240 104,947 138,190 12. Anh 56,355 64,673 69,682 63,348 71,016 82,909 84,264 107,468 13. §øc 32,058 39,096 46,327 44,609 56,561 69,378 76,745 101,821 14. Canada 30,845 35,963 43,552 40,063 53,813 63,780 73,744 89,467 15. Nga 6,017 8,092 7,964 8,604 12,249 24,895 28,776 43,300 Nguån: Tæng côc Thèng kª Đến tháng 4/ 2008 chúng ta đã đón 1,96 triệu lượt khách nước ngoài tăng 116,1% so với cùng kỳ của năm 2007.Dự kiến con số này còn cao hơn nữa trong những tháng tiếp theo của năm 2008. Điều đó chứng tỏ du lịch Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Cùng với sức hấp dẫn của ngôi sao đang lên, du khách nước ngoài lựa chọn Việt nam vì đây còn là điểm đến thân thiện có bề dày lịch sử mấy nghìn năm cùng với truyền thống văn hoá, đa dạng và phong phú. Như vậy du lịch giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc đã được khẳng định một cách sâu sắc hơn bao giờ hết Khôi phục, lưu truyền và giữ gìn các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc. Đặc tính của khách du lịch là sau mỗi chuyến du lịch, khi trở về nơi cư trú họ thường kể lại cho bạn bè, người thân nghe những gì họ đã thu lượm được trong chuyến du lịch. Một phần không nhỏ trong câu chuyện là về bản sắc văn hoá, truyền thống và tính cách của con người nơi mà họ đã tham quan du lịch. Cứ tính theo một cách suy diễn thông thường nếu du lịch đảm nhận tốt vai trò của mình trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống thì ảnh hưởng đó sẽ được nhân lên 5,6 lần và có thể là nhiều hơn thế trong cộng đồng, trong xã hội. Nhờ có du lịch mà giá trị văn hoá, truyền thống không bị mai một hoặc mất dần đi mà ngược lại các truyền thống đó luôn được ghi nhớ trong lòng du khách từ các thế hệ này đến thế hệ khác. Cũng có khi những giá trị văn hoá truyền thống đã bị lãng quên theo thời gian nhưng du lịch lại góp phần khôi phục lại những truyền thống đó bằng cách dựng lại những hình ảnh, những biểu tượng hoặc sự kiện có liên quan để phục vụ cho sự khám phá, thích tìm hiểu của du khách. Du lịch tạo ra nguồn kinh phí để tu bổ các giá trị văn hoá vật thể. Du lịch được xác định là một ngành công nghiệp không khói, một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Trong tương lai đây là ngành có nhiều tiềm năng và triển vọng. Nguồn thu từ du lịch tương đối lớn nó góp phần cân đối ngân sách và đóng góp hang tỷ đồng cho đất nước. Một phần ngân sách thu được từ du lịch được trích ra để tạo nguồn kinh phí tu bổ các giá trị văn hoá vật thể như: công trình kiến trúc, đình chùa miếu, lăng tẩm,… Sự tôn tạo này nhằm khôi phục lại những gì đã xuống cấp của các di sản văn hoá. Điều này thể hiện tương đối rõ vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc. Phát triển du lịch đồng nghĩa với việc khẳng định, tôn vinh giá trị văn hoá truyền thống. Mỗi điểm du lịch đều ẩn chứa trong mình những giá trị văn hoá sâu sắc, những truyền thống độc đáo của dân tộc . Ngay cả phong cách lối sống của cư dân tại điểm cũng thể hiện điều đó. Khi du khách đi du lịch sẽ được thẩm thấu các giá trị văn hoá đó qua nhiều cách khác nhau như tự khám phá cảm nhận, hay qua sự truyền đạt giàu cảm xúc rung động lòng người từ hướng dẫn viên du lịch. Hoặc cũng có thể từ những thông tin đã được cung cấp tại điểm du lịch. Vậy có thể thấy du lịch có vai trò quan trọng trong việc truyền đạt và lưu giữ giá trị văn hoá truyền thống trong lòng du khách từ thế hệ này đến thế hệ khác. Nó tạo nên một sức sống trường tồn của văn hoá truyền thống . Du lịch bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống như một tài nguyên quý giá. Vì văn hoá truyền thống còn được coi là nguồn tài nguyên để phát triển du lịch. Muốn phát triển du lịch một cách bền vững thì nhất định phải dựa trên cơ sở bảo tồn và phát huy chính nguồn tài nguyên quý giá này. Du lịch coi văn hoá truyền thống của dân tộc như một điểm mạnh, một sự độc đáo và làm nên sự khác biệt của du lịch nước ta với các nước khác. Cho nên ngành du lịch đã nghiên cứu về giá trị văn hoá của nứơc ta. Sự nghiên cứu này tạo nên sự hiểu biết về văn hoá dân tộc hay có những tác phẩm về văn hoá du lịch hay du lịch văn hoá từ đó mà ra đời. Các tác phẩm này giống như một kho tang quý giá giúp cho các thế hệ đời sau hiểu hơn về văn hoá của 54 dân tộc anh em. Du khách đi du lịch đồng nghĩa với việc kích thích tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ trong đó có các sản phẩm văn hoá gồm cả sản phẩm văn hoá vật thể và phi vật thể. Ví dụ : khi du khách đến thăm làng nghề họ sẽ muốn mua những sản phẩm do các nghệ nhân tạo ra, hay đơn giản hơn họ đi du lịch chỉ để thưởng thức một món ăn truyền thống nổi tiếng. Đây cũng là hình thức kế thừa và phát huy giá trị văn hoá dân tộc . Du lịch còn giống như một sợi dây liên kết vô hình gắn chặt các quốc gia khu vực với nhau. Khi du khách đi du lịch tạo ra sự giao lưu giữa các vùng miền với nhau. Đây cũng là cơ hội cho những nhà nghiên cứu, những người làm du lịch hay bất cứ ai ai đổi các kinh nghiệm bảo tồn và phát triển văn hoá. Từ đó có những phương pháp tối ưu nhất để bảo tồn và phát triển giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc ta. Để có nhận thức tổng quát về vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống chúng ta sẽ đi sâu xem xét vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể qua ví dụ điển hình sau: 2.1. Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá vật thể Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, Việt Nam được biết đến là một vùng đất còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử, văn hoá và cách mạng có giá trị. Giá trị đặc biệt quan trọng bởi giúp tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử dân tộc, tập quán các làng xã, để các thế hệ hôm nay và mai sau có thêm hiểu biết về cội nguồn dân tộc, truyền thống quê hương. Trong đó làng quê Kinh Bắc- một vùng truyền thống, nơi quần tụ bao đời, cái nôi văn hoá của cả nước, nơi có truyền thống khoa bảng, lưu giữ những huyền thoại đẹp với bao di tích và lễ hội dân gian - một điểm du lịch hấp dẫn, đựơc coi là một ví dụ điển hình của việc phát triển du lịch gắn liền với bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống. Chính vì thế trong phần này sinh viên đã chọn._.yền thống của dân tộc được thể hiện một cách rõ nét. Ngoài ra khi du khách tham gia vào các lễ hội cùng người dân địa phương đã làm cho quy mô của lễ hội được mở rộng lớn hơn,sự sôi động và nội dung của lễ hội cũng phong phú hơn. Điều này giúp cho các lễ hội ngày càng phát triển rộng hơn và được duy trì thường xuyên tuy nhiên nó vẫn kế thừa và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống. Bắc Ninh nơi vốn được coi là làng quê cổ kính của Việt Nam thì các hoạt động văn hoá, nghệ thuật với các nội dung hấp dẫn được tổ chức thường xuyên. Nơi đây đã sản sinh cho Việt Nam rất nhiều thuần phong mỹ tục. Hệ thống lễ hội và ca hát là nét đẹp tiêu biểu của vùng đất này. Trong đó hội Lim được coi là một lễ hội lớn và gây được ấn tượng sâu đậm trong lòng du khách. Đây là một sinh hoạt văn hoá nghệ thuật đặc sắc của nền văn hoá truyền thống lâu đời ở miền Bắc. Hội Lim diễn ra trên mảnh đất Nội Duệ. Vào ngày 11 tháng giêng ( âm lịch) tại thị trấn Lim đã xuất hiện nhiều du khách nam thanh, nữ tú từ phương xa tới, các nhà trọ , khách sạn đã trật kín chỗ. Họ tới đây sớm để tham dự hôị Lim với đầy đủ các nghi lễ linh thiêng. Không gian lễ hội lấy đồi Lim làm trung tâm và diễn ra tại ba địa phương bao quanh đó là xã Nội Duệ, Liên Bão, và thị trấn Lim với nhiều hoạt động của cả phần lễ và phần hội. Tại khu vực trung tâm lễ hội, dựng chín bức trướng ở phần lăng tướng quân Nguyễn Đình Diễn phục vụ việc tế lễ. Từ ngày 10 tháng giêng (âm lịch), tất cả các đình, đền, chùa trên địa bàn ba địa phương nêu trên đều mở cửa phục vụ việc tế lễ dâng hương. Ngày 13 tháng giêng – chính hội sẽ được tổ chức rước từ Nội Duệ về đồi Lim và lễ dâng hương, tế lễ ở lăng Hồng Vân và chùa Hồng Ân. Phía trước trước chùa Hồng Ân dựng sân khấu trung tâm và bốn lán Quan họ. Các trò vui dân gian sẽ được mở rộng thật hấp dẫn và đặc sắc trên đồi Lim như: vật, cờ người, dệt cửi, chọi gà, tổ tôm điếm, đu tiên, đập niêu, bịt mắt bắt dê … Đặc biệt khi du khách đến với hội Lim còn được quấn hút và say mê hơn cả vẫn là các loại hình sinh hoạt văn hoá Quan họ – loại hình dân ca đã trở thành tài sản văn hoá chung của cả dân tộc. Các liền anh, khăn xếp, áo the, liền chị áo mớ ba, mớ bẩy, nón thúng quai thao đã sẵn sàng đến hẹn lại lên, gặp gỡ, đón tiếp nhau thân tình, nồng hậu,tinh tế và lịch lãm theo lề lối của người Quan họ. Bằng những lời ca đối đáp diễn ra trong nhà, trên sân đình, trước cửa chùa hay bồng bềnh trên những chiếc thuyền thúng giữa ao, hồ- dấu tích xưa của dòng Tiêu Tương đã một thời vang vọng tiếng hát Trươg Chi làm say đắm nàng Mỵ Nương xinh đẹp. Hát Quan họ thường được tổ chức từ ngày 12 tháng giêng tại Lim, cửa đình , cửa chùa Lũng Giang, Lũng Sơn, Duệ Đông (thị trấn Lim), Đình Cả, Lô Bao, Duệ Khánh ( Nội Duệ) , Hoài Thượng, Hoài Trung, Hoài Thị ( Liên Bão). Để thoả mãn những du khách sành sỏi quan họ, thích một không khí đầm ấm gia đình, hát đối đáp Quan họ cũng sẽ được tổ chức tại các gia đình nghệ nhân ở Lũng Giang, Lũng Sơn, Duệ Đông ( thị trấn Lim). Tại những địa điểm trên đồi Lim, hay trên thuyền , trong nhà du khách sẽ được thưởng thức hàng trăm làn điệu dân ca,quan họ thể hiện trong lối chơi đối đáp đạt tới trình độ nghệ thuật cao và là sự hội tụ tuyệt vời của thơ ca, nhạc hoạ nhằm bày tỏ tình yêu trai gái miền Quan họ với đầy đủ trạng thái, cung bậc trong mối giao cảm giữa nam và nữ giữa con người với vạn vật, thể hiện khát vọng vươn tới cuộc sống với sự thuỷ chung làm giá trị cao cả và lâu bền nhất. Điều này được phản ánh trong câu ca: “ Hôm nay sum họp trúc mai Tình chung một khắc nghĩa dài trăm năm” Hội Lim chính là nơi trúc mai sum họp tương phùng, tương ngộ. Bên cạnh những khuôn mặt chị Hai, anh Ba,thợ cấy,thợ cày đi trẩy hội còn có cả sự góp mặt của du khách thập phương. Vậy có thể nói hội Lim mang đậm bản sắc văn hoá Việt trên vùng đất Kinh Bắc – là một trong những vùng đất tiêu biểu của cội nguồn văn hoá dân tộc, đáp ứng được tình cảm, sự mến mộ của du khách thập phương. Khi đó nó có tác dụng kích thích du lịch phát triển. Và du lịch lại có sự tác động trở lại với hội Lim. Nhờ có du lịch mà những câu ca, điệu hát, những phong tục,tập quán của người dân Kinh Bắc được mọi người biết đến cùng nâng niu và gìn giữ. Du lịch khai thác và sử dụng yếu tố truyền thống trong hội Lim như một tài nguyên, vậy nên du lịch có những phương pháp bảo tồn phát triển chính nguồn tài nguyên đó để hướng tới phát triển du lịch bền vững. Các nhà quản lý và những nhà nghiên cứu đã tìm ra biện pháp để bảo tồn giá trị văn hoá quý giá này làm cho hội Lim sẽ sống mãi với thời gian và mang đậm nét riêng của dân tộc Việt Nam. Âm nhạc: nước ta có truyền thống lâu đời về âm nhạc. Ngay từ thời cổ xưa cư dân Việt Nam đã rất say mê với âm nhạc. Đối với họ âm nhạc là một nhu cầu không thể thiếu. Bởi vậy trong quá trình phát triển lịch sử, người Việt Nam đã sáng tạo ra rất nhiều nhạc cụ và các thể loại ca nhạc để bộc lộ tâm tư tình cảm, để có thêm sự phấn chấn và sức mạnh trong lao động, trong chiến đấu, để giáo dục con cháu truyền thống của cha ông,đạo lý làm người, để giao tiếp với thế giới thần linh, để bay lên những ước mơ về cuộc sống tương lai tươi đẹp, hạnh phúc trong hiện tại và tương lai. Trải qua bao thiên biến ngày nay Việt Nam còn lưu giữ một kho nhạc khí đủ loại từ những dạng đơn sơ nhất cho đến những dạng có sự phát triển cao với kỹ thuật diễn tấu tinh tế. Chúng ta đang sống và làm việc trong thời kỳ đổi mới, giao lưu văn hoá đã tạo điều kiện cho văn hoá phương Tây, trong đó có âm nhạc, nghệ thuật, xâm nhập vào Việt Nam. Trong khi mở cửa, hoà nhập với thế nhập với thế giới bên ngoài chúng ta hết sức coi trọng vốn văn hoá dân tộc. Chất liệu quan trọng để tạo nên bản sắc văn hoá dân tộc. Bên cạnh những loại hình tạm coi là hiện đại như phim, sân khấu opera, nhạc giao hưởng,… luôn song hành tồn tại các loại sân khấu chèo, tuồng, cải lương, dân ca,… Đối với khách nước ngoài sức hấp dẫn của chương trình tham quan không phải vị họ được thưởng thức các loại hình nghệ thuật phương tây ở Việt Nam. Các loại hình nghệ thuật truyền thống là đối tượng mà họ hướng tới để khám phá thưởng thức. Đặc biệt quan họ – một loại dân ca đăc sắc của vung đất Kinh Bắc. Dân ca Quan họ nổi tiếng không chỉ là ở những lời ca trữ tình, nồng nàn yêu cuộc sống và tình yêu lứa đôi trai gái hoặc với 200 làn điệu âm nhạc đặc sắc mà còn do những đặc điểm khác hiếm thấy ở dân ca nơi khác. Đến với Quan họ Bắc Ninh là đến với lời ca, tiếng hát trữ tình dịu dàng, đằm thăm, làm say lòng người. Hình thức đối đáp giao duyên giữa nam và nữ trong quan họ gắn bó chặt chẽ với đời sống kinh tế – xã hội của cộng đồng người Việt và trở thành đặc trưng văn hoá của cư dân vùng châu thổ Bắc Bộ. Điều này lý giải tại sao Quan họ lại nằm trong danh sách đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại. Bắc Ninh có 44 làng Quan họ gốc, đến nay còn gần 30 làng duy trì được lối chơi văn hoá Quan họ. Trước đây mỗi làng Quan họ có thể có nhiều bọn quan họ nam hoặc nữ, môĩ bọn có chừng năm đến sáu người. Người đứng đầu được gọi là anh Cả hay chị Cả, thường là những người có tuổi, giữ vai trò tổ chức chỉ đạo,liên hệ với những Quan họ bạn, giữ gìn tiếp xúc cho đúng thủ tục. Sau anh Cả có các anh Hai, Ba,… sau chị cả là các chị Hai, Ba,…Những tên này được đặt theo thứ tự thời gian nhập bọn trươc hoặc sau. Văn hoá Quan họ là kết quả của sự suy ngẫm, sáng tạo không biết mệt mỏi của người dân. Bằng những lời ca mộc mạc, chân thành nhưng thấm đẫm tình người, họ có thể nói với chính mình, với bạn bè về những ước mơ, khát vọng, những tâm trạng buồn, vui, yêu ghét, nhở thương: “ Người ơi, người ở đừng vê Người về em những khóc thâm Đôi bên vạt áo ướt đầm như mưa” Ngày nay khi du lịch phát triển, khách du lịch muốn nghe và thưởng thức những lời ca, làn điệu Quan họ của người dân Kinh Bắc. Điều này đã kéo theo sự phát triển của Quan họ, Quan họ sẽ ngày càng hoàn chỉnh cả về phương diện âm nhạc, lời ca và hình thức trình diễn. Âm thanh Quan họ giàu làn điệu, mỗi làn điệu đã đạt tới trình độ ca khúc hoàn chỉnh, có phong cách riêng. Mỗi bài hát theo từng làn điệu đều có lời thơ chữ tình , âm hưởng ngọt ngào, giai điệu nhẹ nhàng, ấm áp tình người. Có thể nói về mặt sáng tạo, nghệ thuật dân ca Quan họ được coi là đỉnh cao nghệ thuật thí ca, xứng đáng tôn vinh và giữ gìn. Việc phát triển du lịch tại Bắc Ninh có vai trò to lớn trong việc khôi phục các giá trị văn hoá truyền thống. Đồng thời du lịch cũng giống như một kênh, một biện pháp để quảng bá giá trị văn hoá Quan họ tới nhân dân cả nước và thế giới. Giúp cho văn hoá Quan họ có được vị trí xứng đáng trong đời sống của người dân Việt Nam cũng như toàn cầu. Ẩm thực : với sự phát triển của du lịch trên thế giới và nhu cầu giao lưu hội nhập, ẩm thực đã trở thành một ngành được các nhà chuyên môn nghiên cứu. Đó là “ văn hoá ẩm thực”, “ nghệ thuật ẩm thực”,… Sự giao lưu đã làm cho một số nền văn hoá ẩm thực nổi tiếng có một số loại thức ăn , đồ uống là đặc sản của một vùng, một quốc gia, có loại thuộc về những món ăn truyền thống. Mặc dù có sự giao lưu nhưng những thói quen, tập quán trong ẩm thực của mỗi dân tộc rất khó thay đổi. Có thể nói nguyên nhân chính là ẩm thực đã gắn liền với điều kiện tự nhiên về sản xuất lương thực,thực phẩm và thói quen đó đã “thấm sâu vào máu” của dân tộc. Ăn uống là nhu cầu lịch sử tự nhiên của con người trong ba nhu cầu cơ bản: ăn, mặc , ở. Từ ngàn xưa con người đã chú ý tới cách chế biến món ăn và cách ăn. Cách ăn ở đây không phải đơn giản là ăn như thế nào, ăn bằng gì, mà trong đó chứa đựng nhiều yếu tố kể cả văn hoá. Chẳng hạn như nghệ thuật nấu nướng,chọn lựa những ẩm thực bổ dưỡng có tác dụng chữa bệnh. Nghệ thuật trang trí món ăn, quan hệ ứng xử của thành viên trong gia đình trong bữa ăn, lễ nghi đón tiếp khách trong bữa ăn … chẳng thế mà ông cha đã dạy “học ăn, học nói” hoặc “ ăn trông nồi ngồi trông hướng”. Tất cả những yếu tố đó được lưu truyền, bổ sung, nâng cao qua các thời đại và trở thành văn hoá ẩm thực của dân tộc. Việt Nam với các món ăn truyền thống như bánh Chưng, bánh Dày, có món nổi tiếng đặc trưng của một vùng như: Chả Cá Lã Vọng, Nem Sài Gòn, bánh cuốn Thanh Trì,bánh phu thê Bắc Ninh,… Đó là một kho tàng quý giá để thoả mãn nhu cầu thưởng thức nghệ thuật ẩm thực dân tộc của du khách trên thế giới. Khám phá cái lạ trong món ăn truyền thống của dân tộc không chỉ để thưởng thức vị ngon của nó mà còn giúp du khách hiểu biết thêm lịch sử dân tộc, hay hiểu biết thêm về triết lý của dân tộc Việt, hiểu về tình yêu thiên nhiên đất nước và lòng tôn kính công lao của cha ông. Để bảo tồn và phát huy các món ăn dân tộc truyền thống, nhiều hoạt động quảng bá các món ăn Việt Nam đã được thực hiện. Năm 1996 tổng cục du lịch đã tổ chức hội thi nấu ăn toàn quốc với mục đích khuyến khích các doanh nghiệp phát huy khả năng chuyên môn về chế biến các món ăn dân tộc. Sài Gòn Tourist tổ chức “tuần lễ món ăn Việt Nam”.Năm 2000, hưởng ứng chương trình du lịch “ Việt Nam điểm hẹn của thiên niên kỷ mới”,các công ty du lịch khắp ba miền Bắc – Trung – Nam đã tổ chức tuần lễ , tháng món ăn Việt Nam để giới thiệu cho du khách trong và ngoài nước. Khách sạn Continental tổ chức “ tháng món ăn Việt Nam” công ty du lịch Huế tổ chức Festival Huế, công ty du lịch Quảng Ninh tổ chức “ Hạ Long Festival”… Những hoạt động vừa kết hợp các lễ hội truyền thống vừa trình diễn cho du khách nghệ thuật ẩm thực truyền thống dân tộc. Với bánh Phu Thê- một đặc sản của vùng quê Đình Bảng, một nét đặc trưng của nền văn hoá Kinh Bắc. Ai chưa được ăn thì bị hấp dẫn bởi cai tên, còn ai đã từng được thưởng thức thì không thể quên được hương vị độc đáo của nó. Bánh Phu Thê đã có mặt ở làng quê Bắc Ninh từ rất lâu rồi. Đây là một loại bánh sang trọng dùng trong những dịp lễ tết, cưới hỏi hay dùng làm quà biếu. Theo chân khách hành hương bánh Phu Thê đã đi khắp trong nam ngoài bắc, và từng xuất ngoại qua nhiều nước. Một số người Hàn Quốc sau khi được mời ăn loại bánh này đã mua hẳn một vali bánh về làm quà. Bánh được gói bằng lá dong giản dị, rồi luộc lên, bánh Phu Thê không khoe mui , toả hương như bánh rán, bánh Khúc, chỉ tới khi bóc bánh đặt lên đĩa nó mới gây nên sự ngỡ ngàng. Dưới lớp vỏ bánh sắc vàng trong suốt rắc lấm tấm những hạt vừng đen , nhân bánh hiện ra. Ngoài đỗ xanh đãi sạch vỏ đã được hấp chín đánh tơi. người ta còn cho thêm đường trắng cùi dừa, hạt sen, và các hương ngũ vị. Tất cả như biểu tượng cho sự hoà hợp của đất trời và con người . Lá gói bánh cũng là lá dong gói bánh Chưng nhưng phải lựa chọn cẩn thận hơn, sau khi rửa sạch lá để ráo nước người ta phải tước bớt cộng để khi gói bánh được mềm mại. Lá lót trong phải là lá chuối tây dẻo luộc chín hong khô chứ không được dùng lá chuối tiêu. Người ta còn quét lên lá một lớp mỡ để khi bóc bánh không bị dính, lại làm cho bánh có độ ngậy đặc trưng. Bánh Phu Thê ngày càng được nhiều người ưa thích. Du lịch đã góp phần đáng kể trong việc tuyên truyền giới thiệu bánh Phu Thê đến mọi người dân Việt Nam cũng như trên thế giới. Điều này giúp cho bánh Phu Thê cũng như nhiều món ăn Việt Nam hay văn hoá ẩm thực Việt Nam có chỗ đứng trên nền văn hoá ẩm thực thế giới. Nhiều nhà hàng, khách sạn đã đưa bánh phu thê vào thực đơn để nhằm thoả mãn nhu cầu của du khách cũng như sự khơi dậy niềm ham thích tìm hiểu văn hoá ẩm thực Việt Nam. Đó là những hoạt động thiết thực nhằm bảo tồn và phát huy văn hoá ẩm thực truyền thống Việt Nam. Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị để phát huy vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống. 3.1 Một số giải pháp để phát huy vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống: Sự phát triển của du lịch có những tác động nhất định tới nền văn hoá truyền thống của dân tộc. Bên cạnh những tác động tích cực nó còn làm cho nền văn hoá truyền thống có những biến đổi như: bào mòn và ảnh hưởng bởi lối sống hiện đại của du khách …Cho nên để phát huy tối đa vai trò của du lịch trong việc bảo tồn văn hoá truyền thống cần có những giải pháp sau: Phát triển du lịch cần đi đôi với nhận thức đúng đắn và có sự phối hợp chặt chẽ giữa những người làm kinh doanh du lịch và các cấp đảng uỷ, chính quyền các ngành và các tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư làng xã với mỗi người dân trong mọi hoạt động nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống. Đồng thời để bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống tại mỗi vùng địa phương cần phải xác định phát triển du lịch một cách có nguyên tắc và có những giải pháp cụ thể để bảo tồn những giá trị này . Phát triển du lịch dựa trên sự gắn bó mật thiết giữa du lịch và giá trị văn hoá truyền thống dân tộc. Từ đó có những biện pháp khai thác hợp lý, khi khai thác phải phát huy được giá trị văn hoá truyền thống dân tộc, nghĩa là phải xác định vai trò quan trọng của du lịch trong việc bảo tồn giá trị văn hoá truyền thống. Đôi khi phát triển du lịch nhưng mục tiêu kinh tế không được đặt lên hàng đầu. Tổ choc tất cả các hoạt động du lịch văn hoá theo mô hình hợp lý, kích thích tiêu thụ sản phẩm văn hoá qua đó vừa trực tiếp phục vụ nâng cao đời mọi mặt của dân làng, vừa đưa tới sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động du lịch dịch vụ. Trong đó xu hướng gắn văn hoá với phát triển du lịch cần xử lý hài hoà lợi ích của các thành phần cộng đồng dân cư làng , xã nơi khai thác các giá trị văn hoá truyền thống. Và cũng nhờ phương thức đó mà các nguồn lực xã hội được huy động tối đa cho việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống, đưa văn hoá trở thành một nhịp cầu giao lưu và hội nhập quốc tế Tổ chức các cuộc hội thảo, nghiên cứu các bài tham luận của các chuyên gia Việt Nam và nứơc ngoài về quản lý bảo tồn di sản và các giá trị văn hoá trong xu hướng phát triển mạnh mẽ các loại hình du lịch ở Việt Nam, các vấn đề như quy hoạch, định hướng phát triển du lịch tại các khu vực có giá trị văn hoá phong phú và đa dạng. Xác định mức độ cần thiết của việc bảo tồn tôn tạo và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống. Bên cạnh công tác bảo tồn , gìn giữ giá trị của nền văn hoá truyền thống thì hoạt động xúc tiến quảng bá được đánh giá là hết sức quan trọng, đặc biệt các chương trình quảng bá, xúc tiến tại nước ngoài. Qua đó tôn vinh những giá trị ưu tú trong văn hoá các dân tộc Việt Nam Mặc dù còn là một ngành kinh tế mới nhưng với những đặc trưng của mình , du lịch có thể tạo ra sức bật lớn, lan toả nhanh. Để phát huy hết vai trò của ngành du lịch thì du lịch Việt Nam cần có chiến lược cụ thể hơn, căn bản hơn, trước hết từ công tác đào tạo con người, và quy hoạch cơ sở hạ tầng theo hướng coi du lịch là một kênh quan trọng trong việc bảo tồn giá trị văn hoá dân tộc và nâng cao vị thế đất nước. Với việc lưu giữ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc qua hình thức du lịch và phát triển phù hợp với thời đại mới là vô cùng quan trọng. Xây dựng một hành lang pháp lý thuận lợi cho phát triển du lịch nhưng vẫn đảm bảo việc giữ gìn, bảo tồn, phát huy và làm giàu bản sắc văn hoá dân tộc. Tránh tình trạng khai thác bừa bãi, thiếu tôn trọng truyền thống văn hoá dẫn đến sự biến dạng lai tạp, mất bản sắc dân tộc. Ngành du lịch nên có những hình thức tái đầu tư trở lại hoặc hỗ trợ các địa chỉ và hoạt động văn hoá truyền thống hàng năm từ doanh thu ngành du lịch và bằng tài trợ trực tiếp để bảo vệ tôn tạo, chống xuống cấp một số di tích văn hoá. Tổ chức các lễ hội dân gian, các lớp tập huấn truyền nghề từ các nghệ nhân cao tuổi cho đến các lớp trẻ tạo nên sự hiểu biết sâu sắc về giá trị văn hoá truyền thống trong tất cả các tầng lớp xã hội. Tăng cường công tác giáo dục về truyền thống văn hoá, lịch sử cho cộng đồng, nhằm nâng cao hiểu biết và ý thức trân trọng các giá trị văn hoá dân tộc cho mỗi người dân. Có chiến lược đào tạo để bồi dưỡng nguồn nhân lực, đảm bảo chất lượng và văn minh trong phục vụ. Phân loại các điểm, các khu du lịch theo ý nghĩa và vai trò, các chuyên đề du lịch cần phát huy, khai thác. Từ những phân tích ý nghĩa, vai trò của một số điểm du lịch, khu du lịch ta they mỗi nhóm tài nguyên du lịch đều chứa đựng những ý nghĩa nhất định đối với nhu cầu của khách du lịch. Có nhóm chứa đựng ý nghĩa truyền thống dân tộc, có nhóm chứa đựng ý nghĩa về kinh tế nhóm thì chứa đựng ý nghĩa về văn hoá, nhân văn, nhóm chứa đựng giá trị tâm linh,…Nói chung, ý nghĩa của các tài nguyên du lịch là đa dạng và phong phú và mỗi tài nguyên đều có thế mạnh và những hạn chế trong việc khai thác, phát huy ý nghĩa của nó đối với từng loại hình du lịch. Nhìn lại thực tế chúng ta thấy ngành du lịch và xã hội còn thiếu về hệ thống tư liệu nghiên cứu, phản ánh hệ thống các giá trị của các tài nguyên du lịch. Khách nước ngoài vào du lịch Việt Nam, nhất là khách du lịch balô thường họ phải tham khảo sách giới thiệu chỉ dẫn về du lịch Việt Nam do các tác giả nước ngoài xuất bản. Không những khách nước ngoài mà ngay cả những công ty du lịch khi cần đến tư liệu cũng phải cần đến sách nước ngoài để tham khảo. Tuy chưa phong phú nhưng đã có một số tài liệu nghiên cứu giới thiệu, cung cấp nhận thức ý nghĩa về các điểm du lịch, các khu du lịch.Mặc dù còn nặng về giới thiệu về lịch sử hình thành và tồn tại của các điểm, các khu mà bỏ qua những giá trị về bản sắc văn hoá, nhân văn chứa đựng trong bản thân nó hoặc chứa đựng trong những truyền thuyết gắn liền với sự tồn tại của di tích đó. Nhưng nó có tác dụng lớn trong việc quảng bá những nơi mà khách chưa đến tham quan và đưa lại một nguồn khách du lịch không nhỏ cho các điểm du lịch đó. Duy tu tôn tạo các di tích, các điểm, khu du lịch khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống và lễ hội Các điểm du lịch, các di tích, làng nghề truyền thống là những thứ có ý nghĩa vật thể trong hoạt động du lịch, nếu không có những giá trị vật thể này thì du lịch sẽ mất hết ý nghĩa của nó. Quan sát trực tiếp là hoạt động mang ý nghĩa sinh động nhất trong du lịch bởi vậy việc bảo tồn duy tu có tầm quan trọng trong du lịch. Duy tu và tôn tạo các di tích, các điểm, các khu du lịch là một việc làm rất khó, tốn kém thời gian, tiền của. Nếu tôn tạo không đúng quy trình kỹ thuật và nguyên tắc thì việc tôn tạo duy tu sẽ không đem lại hiệu quả như mong muốn mà nhiều khi còn phản tác dụng. Bởi vậy công việc duy tu, tôn tạo đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa bên tham gia như: nhà khoa học , sử học, các nhà nghệ nhân, nhà kiến trúc xây dung, nhà quy hoạch,… Một đòi hỏi khắt khe của các di tích, các tài nguyên du lịch là phải giữ được tính nguyên thể của nó. Có như vậy mới hấp dẫn du khách và phát huy được ý nghĩa của chính nó. Do đặc tính này nên khi có kế hoạch duy tu tôn tạo một di tích, một quần thể du lịch cần phải lập kế hoạch một cách chi tiết: phần nào có khả năng duy tu, tôn tạo , phần nào để nguyên trạng và phần nào cần cải tạo. Tất cả việc đó cần phải được tiến hành một cách hài hoà, để khi hoàn thành công trình có vẻ đẹp tôn nghiêm của nó. Ngoài việc quan tâm duy tu, tôn tạo các tài nguyên vật chất, cần có một đường lối chủ trương nhằm khôi phục các tài nguyên phi vật thể mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc như các sinh hoạt dân gian, các lễ hội,cần tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành của các cấp uỷ, các ngành đoàn thể trong việc tổ chức lễ hội. Các di tích trong lễ hội cần được tôn tạo trùng tu để không bị xuống cấp và mất đi vẻ uy nghi vốn có của nó. Đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng như: điện nứơc, đường giao thông, và các công tác vệ sinh môi trường an ninh trật tự được đảm bảo,… để tạo tâm lý an toàn cho khách Đầu tư sản xuất đi đôi với việc xây dung và khôi phục một số sản phẩm vật chất và văn hoá mang tính đặc trưng để thu hút khách tới lễ hội nói riêng và phục vụ cho việc phát triển đất nước nói chung. Khôi phục các làng nghề truyền thống, công nghiệp càng phát triển thì các làng nghề truyền thống càng thu hút khách du lịch. Các làng nghề này không chỉ thu hút khách du lịch bởi các sản phẩm vật chất nguyên gốc được sản xuất bằng các phương pháp thủ công mà nó còn thu hút khách du lịch bởi những giá trị phi vật chất đó là quy trình sản xuất, cách sản xuất thủ công nhưng lại tạo ra những sản phẩm tinh xảo. Cách sản xuất, quy trình sản xuất mới là yếu tố kích thích trí tò mò của du khách vừa đáp ứng vừa thoả mãn nhu cầu tìm hiểu của du khách. Khách đến thăm làng tranh Đông Hồ chưa hẳn là để mua một bức tranh mà để tìm hiểu về cách thức làm tranh Đông Hồ. Sauk hi thoả mãn nhu cầu tìm hiểu người ta lại muốn mua một vài sản phẩm để làm kỷ niệm. Có nhận biết được điều này thì các làng nghề cũng như ngành du lịch mới phát huy được giá trị của các làng nghề. Phát triển du lịch làng nghề cần chú ý: Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển du lịch làng nghề đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với quy hoạch tổng thể phát triển du lịch chung. Cần nghiên cứu tiềm năng du lịch, thị trường khách, đánh giá năng lực của cộng đồng trong phát triển du lịch, quan tâm đến vấn đề phát triển bền vững du lịch làng nghề Đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển làng nghề và du lịch làng nghề. Chú trọng nâng cao năng lực quản lý doanh nghiệp đào tạo nghệ nhân, hướng dẫn viên, thuyết minh viên, trang bị những kiến thức văn hoá , chuyên môn kỹ thuật và cách thức quản lý kinh doanh trong cơ chế thị truờng, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ đón tiếp khách du lịch. Tuyên truyền giáo dục rộng rãI trong việc xây dựng nâng cao nhận thức vai trò vị trí của du lịch làng nghề. Tổ chức hội nghị, hội thảo, tuyên truyền cổ động nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của việc bảo tồn giá trị văn hoá truyền thống. Phát triển thị trường, xây dựng thương hiệu làng nghề, đa dạng hoá sản phẩm làng nghề tạo sự hấp dẫn với khách du lịch. Trong những năm gần đây, ngành du lịch đã có những bước tiến bộ trong nhận thức, phát triển trong hoạt động kinh doanh và đã có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Nhà nước đã quan tâm lập ra ban chỉ đạo nhà nước về du lịch, đã ban hành pháp lệnh du lịch và đang soạn thảo luật du lịch. Đội ngũ cán bộ kinh doanh đã phát triển cả về số lượng và chất lượng. Với tiềm năng của mình du lịch sẽ ngày càng phát triển và phát huy được vai trò của nó trong việc bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống. 3.2. Một số kiến nghị - Có đường lối kế hoạch nhằm tuyên truyền rộng rãi cho các tầng lớp nhân dân trong xã hôị thấy được du lịch không chỉ là một ngành kinh tế đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân mà nó còn có vai trò to lớn trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, góp phần bảo vệ duy tu các di tích, tôn tạo và bảo vệ môi trường, góp phần tạo ra quy mô to lớn của các lễ hội. Du lịch giúp các cộng đồng cư dân các vùng miền có cơ hội được giao lưu với nhau, từ đó mà hiểu nhau hơn và có tinh thần tương thân tương ái tốt hơn… - Phải có cơ quan chuyên trách đủ khả năng tập hợp thông tin tư liệu về các tài nguyên du lịch của đất nước, nghiên cứu các giá trị nhân văn truyền thống và các giá trị khác của nó để biên tập, giới thiệu tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhu cầu du lịch và nhận thức đúng đắn về vai trò của du lịch trong các tầng lớp dân cư xã hội. - Phải quan tâm hơn nữa đến việc đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch nhằm tạo đựơc đội ngũ nhân lực đủ năng lực trí tuệ nhằm cung cấp cho ngành du lịch. Phát triển du lịch phải gắn liền với văn hoá dân tộc nhằm hướng tới du lịch bền vững tạo ra phong cách riêng độc đáo đậm đà nét Việt Nam. - Kiên quyết loại bỏ những ảnh hưởng sai lệch về văn hoá, những hiện tượng lai căng văn hoá, làm bào mòn nền văn hoá dân tộc làm mất đi nét đẹp của nền văn hoá truyền thống Việt Nam. - Nhanh chóng xây dựng các văn bản pháp quy để xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động của ngành du lịch , nhằm hướng nó phát triển một cách bền vững có định hướng, tránh được những hoạt động lệch lạc để lại hậu quả và di chứng xấu cho sự phát triển của ngành. Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp mang tính liên vùng, liên khu vực, không những thế nó còn mang tính xã hội cao nên hành lang pháp lý không chỉ là có giá trị điều tiết, hướng dẫn dưới góc độ quản lý nhà nước mà còn là cơ sở điều tiết mối quan hệ xã hội trong du lịch và sự hợp tác giữa các vùng, các miền thuộc phạm vi quản lý hành chính khác nhau nhưng lại nằm trong một tổng thể khu du lịch thống nhất. Phần 3: Kết luận Một lần nữa chúng ta khẳng định rằng: du lịch là một ngành kinh tế mũi nhọn trong các ngành dịch vụ. Phát triển du lịch hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế của nước ta, phù hợp với xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà các nước đang theo đuổi: đó là tỷ trọng dịch vụ cao trong thu nhập quốc dân. Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã khẳng định rằng việc phát triển ngành du lịch và một số ngành dịch vụ khác sẽ từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch , thương mại - dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực.Tuy nhiên việc phát triển du lịch phải gắn liền với bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc nhằm hướng tới phát triển du lịch bền vững. Đồng thời những giá trị văn hoá truyền thống đặc sắc của dân tộc Việt Nam , qua đó được khẳng định tôn vinh và nâng cao lên một tầm mới. Ngoài ra du lịch còn có một vai trò quan trọng trong việc nâng cao dân trí, các bậc tiền bối đã dạy: “đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Ngày nay, du lịch đóng vai trò đưa người dân đi không phải một “ngày đàng” mà nhiều “ ngày đàng”, và tất nhiên, người đi du lịch sẽ học được rất nhiều “ sàng khôn”.Nâng cao dân trí thông qua du lịch sẽ mang lại hiểu quả rất đa dạng, nhiều mặt bởi hình thức của nó là thông qua hoạt động thực tiễn, cảm nhận và ghi nhận một cách rất trực tiếp và được minh hoạ bởi những ví dụ hoàn cảnh cụ thể. Du lịch còn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện và cơ hội để các cộng đồng có thể giao lưu với nhau một cách thuận tiện, dễ dàng không bị dàng buộc bởi các rào cản như chế độ chính trị, sự khác nhau về tôn giáo hay đẳng cấp xã hội. Nhờ thông qua du lịch mà hàng triệu khách du lịch quốc tế đã đến tham quan và giao lưu với nước ta. Du lịch là một ngành kinh tế non trẻ ở Việt Nam thậm chí trước đây còn có nhận thức sai lầm rằng: du lịch là ngành ăn chơi nên không được quan tâm đầu tư, phát triển đúng mức và đúng tiềm năng của đất nước. Trải qua thời gian và những hiệu quả kinh tế xã hội do du lịch mang lại, nhận thức về vai trò của du lịch đã ngày càng được cải thiện và phát triển theo chiều hướng tích cực. Những nhận thức đúng đắn và tích cực đang được củng cố và phát triển. Tuy vậy trong xã hội vẫn đang tồn tại một xu hướng khá phổ biến là chỉ quan tâm khai thác nguồn lợi kinh tế của hoạt động du lịch. Những khai thác chủ quan tức thời, thiếu hiểu biết sẽ gây nên hậu quả nghiêm trọng đối với tương lai phát triển du lịch của nước nhà. Nó sẽ nhanh chóng phá vỡ hoặc làm lu mờ những giá trị thực những giá trị thực của các tài nguyên du lịch, làm ô nhiễm môi trường, từ đó làm mất đi lợi thế so sánh về du lịch của nước ta. Để cho ngành du lịch phát triển một cách bền vững, phát huy được những giá trị của nó, Nhà nước cần có những biện pháp kịp thời nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng cũng như các tổ chức tham gia vào quá trình hoạt động du lịc. Giúp cho mọi người hiểu được sản phẩm du lịch bao giờ cũng có hai giá trị kết tinh trong đó là giá trị vật thể và giá trị phi vật thể, có như vậy ta mới giữ gìn được bản sắc của dân tộc và vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống mới được thể hiện rõ nét. Tài liệu tham khảo: [1] .Luật Du Lịch 2006 [2]. Trần Đức Thanh -Nhập Môn Khoa Học Du Lịch –NXB Đại H ọc Quốc Gia Hà Nội. [3 ]. Trần Quốc Vượng- Cơ Sở văn hoá – NXB Giáo Dục [4 ]. Đinh Trung Kiên -Nghiệp Vụ Hướng Dẫn Du Lịch- NXB Quốc Gia. [5 ] .Ứng X ử V ăn Ho á Du L ịch. [6 ]. Tr ần Ng ọc Th êm -C ơ S ở V ăn Ho á- NXB Gi áo D ục. [7 ]. Đ ào Duy Anh - V ăn Ho á S ử C ư ơng- NXB Th ông Tin. [8 ]. Nh ững Th ách Th ức C ủa V ăn Ho á Vi ệt Nam Trong Q úa Tr ình H ội Nh ập Kinh T ế Qu ốc T ế.- NXB V ăn Ho á Th ông Tin Th ư Vi ện V ăn Ho á. [9 ]. H ội Th ảo Ph át Tri ển S ản Ph ẩm Du L ịch tr ên c ơ s ở khai th ác c ác gi á tr ị v ăn ho á Vi ệt c ổ- B ộ V ăn Ho á Th ể Thao v à D u L ịch. [10 ]. B ùi Th ị H ải Y ến- Tu y ến Đi ểm Du L ịch Vi ệt Nam- NXB Gi áo D ục. [11].Trang web của Tổng Cục Du Lịch Việt Nam bánh phu thê ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc14196.DOC
Tài liệu liên quan