Vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế Thị trường

Lời nói đầu Trong đường lối đổi mới toàn diện và đồng bộ của Đảng ta thì đổi mới về kinh tế được xem là nhiệm vụ trọng tâm và đổi mới hệ thống doanh nghiệp Nhà nước là khâu đột phát. Cho đến nay, doanh nghiệp Nhà nước đã trải qua nhiều đợt đổi mới, sắp xếp lại và phần lớn đang dần dần thích ứng với cơ chế mới, đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần vào việc ổn định kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được doanh nghiệp Nhà nước cũng bộ lộ không ít những hạn chế v

doc102 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1739 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế Thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à yếu kém đòi hỏi phải tiếp tụcc đổi mới, sắp xếp lại để đáp ứng những yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong tình hình mới. Hơn nữa, khi bàn đến vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia, điều này hàm ý Chính phủ phải đổi mới ba trụ cột trong tổng thể nền kinh tế. Thứ nhất là tự do hoá thương mại, đó là vấn đề không thể khước từ khi áp dụng những luật chơi chung; Thứ hai là công việc điều hành các vấn đề vĩ mô và đặc biệt là đổi mới hệ thống doanh nghiệp, trực tiếp nhất là doanh nghiệp Nhà nước - bộ phận trực tiếp tham gia vào hội nhập, Việt Nam cũng đang trong bối cảnh như vậy. Là thành viên của AFTA, năm 2006, phải thực hiện thuế suất nhập khẩu là 0-5% và sẽ phải gỡ bỏ hoàn toàn vào năm 2015. Và với tư cách là thành viên của APEC, Việt Nam cũng phải tự do hoá ngoại thương hoàn toàn. Hơn nữa, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ cũng đã có hiệu lực từ tháng 12/2001, hay xa hơn là gia nhập vào WTO. Mọi việc đã cận kề, Việt Nam đã làm được những gì và phải làm gì để sẵn sàng cho cuộc chơi chung đầy thách thức này? Trong phạm vi khoá luận của mình, trên cơ sở xem xét hiện trạng và tình hình hoạt động kinh doanh của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước của nước ta, với kiến thức có phần hạn chế của mình em muốn đưa ra một số giải pháp với hy vọng sẽ đóng góp phần nào cho việc đẩy mạnh hơn nữa tiến trình đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp Nhà nước. Khoá luận của em gồm ba chương như sau: Chương I: Vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chương II: Thực trạng của doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta những năm qua và những đổi mới bước đầu. Chương III: Những giải pháp tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam. Em xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Bùi Thị Lý và các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế Ngoại thương đã giúp em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp của mình. Hà Nội, tháng 10 năm 2002 Chương i Vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa I. Khái niệm và phân loại doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) 1. Khái niệm về DNNN. Nói đến doanh nghiệp chúng ta có thể có một khái niệm chung nhất: doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành lập để tiến hành các hoạt động kinh doanh, thực hiện các chức năng sản xuất, chế biến chế tạo sản phẩm hoặc mua bán hàng hoá làm dịch vụ cung ứng nhằm thoả mãn nhu cầu của thị trường, xã hội. Thông qua các hoạt động hữu ích đó, doanh nghiệp có thể đạt được nhiều mục đích khác nhau trong đó có mục đích căn bản là kiếm lời (thu lợi nhuận hoặc lãi). Tuỳ thuộc vào tiêu thức phân loại và mục đích nghiên cứu cụ thể, chúng ta có thể phân tổ doanh nghiệp thành nhiều loại, nhóm khác nhau. Chẳng hạn, phân tổ doanh nghiệp theo các tiêu thức: hình thức sở hữu vốn, quy mô, địa vị pháp lý, ngành nghề kinh doanh, mục đích hoạt động, đơn vị chủ quản, địa bàn hoạt động... 1.1. Khái niệm về DNNN trên thế giới. Doanh nghiệp Nhà nước là một "bộ phận" của doanh nghiệp nói chung được hình thành và phát triển trong nền kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới. Nhưng tiêu thức cụ thể để phân loại và nhận biết về DNNN ở nhiều nước trên thế giới còn rất khác nhau. Mỗi quốc gia trong khái niệm về DNNN có thể nhấn mạnh tiêu chí này hoặc tiêu chí khác. Tuy nhiên, chúng ta có thể tìm thấy những tiêu chí tiêu biểu trong các định nghĩa về DNNN do các tổ chức, cơ quan thuộc Liên hiệp quốc, Ngân hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ Quốc tế đưa ra. Có thể nêu ra 3 quan niệm tiêu biểu về DNNN, đó là: 1. Chính phủ là cổ đông chính trong doanh nghiệp hoặc nếu không thì Chính phủ có thể thực hiện việc kiểm soát những chính sách chung mà doanh nghiệp theo đuổi và bổ nhiệm hoặc cách chức ban quản lý doanh nghiệp. 2. Doanh nghiệp có nhiệm vụ sản xuất hàng hoá hoặc dịch vụ bán cho công chúng, hoặc cho các doanh nghiệp tư nhân, DNNN khác. 3. Doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về thu chi trong hoạt động về sản xuất kinh doanh. Nếu một doanh nghiệp thiếu điều kiện thứ nhất thì đó sẽ là doanh nghiệp tư nhân. Thiếu điều kiện thứ hai hoặc thứ 3 thì cũng không thể được xem là DNNN mà chỉ được xem như một tổ chức công cộng, tổ chức sự nghiệp của Chính phủ. Theo Wayne Nafziger - tác giả cuốn Kinh tế học các nước đang phát triển, thì "một xí nghiệp Nhà nước là một xí nghiệp mà Chính phủ ngoài tiêu thức là chủ sở hữu chính về vốn (nhưng không nhất thiết phải chiếm đa số vốn), còn có quyền cử hoặc bãi chức người lãnh đạo cao nhất của xí nghiệp (chủ tịch hoặc Tổng giám đốc điêù hành) thì xí nghiệp có nhiệm vụ sản xuất hoặc bán các hàng hoá dịch vụ công cộng cho công chúng, hoặc cho các xí nghiệp khác và ở đó nguồn thu có liên quan tới chi phí". Theo V.V. Ramanadham, DNNN là một tổ chức trong đó kết hợp những yếu tố "công ích" và những yếu tố "doanh nghiệp" Những yếu tố "công ích " là: 1. Những quyết định về kinh doanh và hoạt động chính do các tổ chức Nhà nước đảm nhận. Tiêu chí quan trọng trong các quyết định không chỉ là kết quả tài chính. 2. Lợi nhuận là của công chứ không phụ thuộc một nhóm tư nhân nào. 3. Doanh nghiệp chịu trách nhiệm trước xã hội. Điều đó không có nghĩa đơn giản chỉ là các nhà quản lý doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước quyết định của họ mà doanh nghiệp nói chung phải chịu trách nhiệm trước xã hội. Những yếu tố "doanh nghiệp" là: 4. Doanh nghiệp có thể tồn tại về mặt tài chính một cách dài hạn và hoạt động theo nguyên tắc thị trường. 5. Giá cả phải được thiết lập trên cơ sở chi phí. Yêu cầu này xuất phát từ đòi hỏi giá cả phải bù đắp được toàn bộ chi phí. Tóm lại: có thể nhận thấy các tiêu chí cụ thể nhận biết, phân biệt DNNN trên thế giới còn rất khác nhau. Chẳng hạn như theo tiêu thức về quyền sở hữu của Nhà nước trong các DNNN thì ở các nước Ôxtrâylia, Tây Ban Nha, Nhà nước phải chiếm trên 50% giá trị tài sản của doanh nghiệp, trong khi đó ở Italia là 25%, ở Malaysia là 20%, ở Hàn Quốc là 10%. 1.2. Khái niệm về DNNN ở Việt Nam Trong những năm trước đây, ở nước ta nền kinh tế phát triển dựa trên quan niệm về mô hình kinh tế xã hội chủ yếu bao gồm hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể. Chúng ta thường có khái niệm về các xí nghiệp quốc doanh, nông trường quốc doanh, Công ty quốc doanh, mậu dịch quốc doanh... đó là những tổ chức do Nhà nước: Đầu tư vốn (100%), quyết định thành lập, quyết định phương hướng hoạt động, quyết định bộ máy quản lý và tuyển dụng người lao động theo chế độ biên chế ổn định. Mỗi doanh nghiệp đều trực thuộc một cơ quan chủ quản nhất định. Doanh nghiệp quốc doanh thường được hiểu là đồng nhất với thành phần kinh tế quốc doanh, một bộ phận kinh tế chủ yếu giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Người lao động làm việc trong các DNNN và các tổ chức cơ quan Nhà nước khác đều nhận thức mình là những cán bộ công nhân viên chức Nhà nước trong biên chế, ít có sự phân biệt khác nhau về quyền lợi, chế độ phân phối đãi ngộ. Quá trình đổi mới những năm vừa qua, chúng ta đã hoàn thiện dần về khái niệm DNNN. Điều này thể hiện rõ trong các văn bản pháp quy: nhiều luật, Nghị định đều có đề cập đến khái niệm về DNNN. Tiêu biểu như Luật DNNN được Quốc hội thông qua, ban hành ngày 20 tháng 4 năm 1995. Điều 1 của Luật quy định: "DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội do Nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ các hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. DNNN có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam. Điều 3: Xác định vốn Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý là vốn ngân sách cấp, vốn có nguồn gốc vốn ngân sách cấp và vốn của doanh nghiệp tích luỹ". Như vậy, xét về giai đoạn sở hữu vốn ở giai đoạn hiện nay chúng ta mới chỉ chấp nhận loại DNNN mà chủ sở hữu duy nhất nắm giữ 100% vốn của doanh nghiệp là Nhà nước. Tóm lại, DNNN là một thực thể kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước, ra đời và hoạt động kinh doanh độc lập, chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. DNNN là một tổ chức kinh tế khác với tổ chức hành chính và tổ chức sự nghiệp Nhà nước không chỉ lấy hoạt động kinh doanh, hoạt động công ích làm chủ yếu. Điều cơ bản là DNNN phải chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn, các nguồn lực do Nhà nước là chủ sở hữu giao cho doanh nghiệp. Một điểm phân biệt cơ bản thứ hai là do hiện nay, những người lao động thuộc diện biên chế trước đây nay làm việc trong các DNNN được xếp vào nhóm cán bộ công nhân viên nhóm II. Những người thuộc diện biên chế làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước, các cơ quan hành chính, tổ chức sự nghiệp được xếp vào nhóm công chức Nhà nước nhóm I. 2. Phân loại DNNN 2.1. Theo Liên hợp quốc DNNN có ba loại - Doanh nghiệp hành chính sự nghiệp: được thành lập trong các ngành cung ứng nước, điện, giao thông, thông tin liên lạc. - Doanh nghiệp công cộng: là loại doanh nghiệp mà Nhà nước là chủ sở hữu duy nhất. Hoạt động của doanh nghiệp này chủ yếu nhằm mục đích xã hội, không vì mục tiêu lợi nhuận. - Doanh nghiệp sở hữu Nhà nước: Nhà nước sở hữu toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp. 2.2. Theo Luật DNNN của Việt Nam: Các DNNN được chia ra theo các tiêu chí sau: Theo mục tiêu hoạt động có hai loại: - DNNN hoạt động công ích là các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, cung ứng hàng hoá dịch vụ công cộng theo các chính sách của Nhà nước, hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. - DNNN hoạt động kinh doanh là DNNN hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận. 2.3. Theo sở hữu: (Dự báo có thể làm 4 loại) - Loại DNNN chỉ có một chủ sở hữu duy nhất là Nhà nước. - Loại DNNN có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó Nhà nước nắm giữ không dưới 50% vốn. - Loại DNNN có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó phần sở hữu của Nhà nước ít nhất gấp hai lần cổ phần của các cổ đông lớn nhất khác trong doanh nghiệp. - Loại DNNN có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó Nhà nước sở hữu cổ phần đặc biệt để nắm giữ quyền quyết định một số vấn đề quan trọng của doanh nghiệp theo thoả thuận được ghi trong Điều lệ doanh nghiệp. 2.4. Theo mô hình tổ chức hoạt động: Có thể chia thành hai nhóm: - DNNN hoạt động độc lập, các Tổng Công ty 90, 91 - DNNN thành viên của Tổng Công ty. 2.5. Theo cấp chủ quản (đầu mối quản lý) có 3 nhóm: - DNNN do các Bộ quản lý - DNNN do địa phương quản lý - DNNN do các tổ chức đoàn thể quản lý 2.6. Theo quy mô kinh doanh: Thì có thể phân thành 3 nhóm: - DNNN quy mô lớn: vốn Nhà nước trên 10 tỷ đồng, doanh thu trên 100 tỷ. - DNNN quy mô vừa: vốn Nhà nước từ 5 - 10 tỷ, doanh thu từ 50 - 100 tỷ. - DNNN quy mô nhỏ: vốn dưới 5 tỷ, doanh thu dưới 50 tỷ. 2.7. Theo các ngành kinh tế kỹ thuật: Có thể phân loại theo nhóm các ngành kinh tế kỹ thuật sau đây: Hiện nay, sản xuất của chúng ta chưa phát triển, do đó tuỳ thuộc ở từng địa phương có thể phân nhóm DNNN theo ngành chuyên môn hoá hẹp hoặc ngành chuyên môn hoá tổng hợp, hoặc chia theo 4 nhóm ngành tổng hợp sau đây: - DNNN thuộc các nghành sản xuất nông, lâm nghiệp và phục vụ sản xuất nông, lâm nghiệp. - DNNN thuộc các ngành công nghiệp, xây dựng và phục vụ sản xuất công nghiệp. - DNNN thuộc các ngành thương mại, dịch vụ, vận tải, thông tin liên lạc. - DNNN thuộc các ngành còn lại. II. Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước Trong tất cả các giai đoạn phát triển của xã hội có Nhà nước, Nhà nước luôn luôn tham gia vào công việc kinh doanh. Việc Nhà nước tiến hành kinh doanh là cần thiết, nhằm nắm các mạch máu kinh tế, để thực hiện chiến lược phát triển nền kinh tế quốc dân theo các mục tiêu đã định. Chuyển sang nền kinh tế thị trường hiện đại, nền kinh tế đã có một sự chuyển biến sâu sắc. Đặc trưng quyết định của nền kinh tế thị trường hiện đại là hình thành một cơ cấu hỗn hợp. Nền kinh tế thị trường hiện đại đòi hỏi tất yếu có sự điều tiết của Nhà nước. Chính điều này đã đem lại cho Nhà nước một hiệu năng kinh tế hoàn toàn mới: hiệu quả ổn định và công bằng hơn. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại: hệ thống tài chính, tiền tệ là những bộ phận cấu thành của quan hệ kinh tế vĩ mô có vai trò đặc biệt quan trọng. Nhà nước sử dụng rất hữu hiệu các công cụ này để điều tiết nền kinh tế một cách gián tiếp. Trong nền kinh tế thị trường hỗn hợp, kinh tế Nhà nước ngày càng phát triển. Tuy nhiên, có hai điều cần lưu ý: Thứ nhất, kinh tế Nhà nước không loại trừ kinh tế tư nhân, trái lại nó chỉ có thể phát triển trên cơ sở có sự đóng góp của kinh tế tư nhân. Bởi vì những nguồn thu khổng lồ của nó là khu vực kinh tế tư nhân. Mặt khác, kinh tế Nhà nước kết hợp với kinh tế tư nhân thành kinh tế hỗn hợp. Qua sự hỗn hợp này, cả kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân cùng phát triển. Thứ hai, kinh tế Nhà nước là một bộ phận trong cơ cấu của nền kinh tế thị trường, do đó sự hoạt động của nó phải được đặt trong cơ chế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, Nhà nước có thể điều tiết và thúc đẩy nền kinh tế bằng hai phương pháp: trực tiếp và gián tiếp. Phương pháp gián tiếp là bằng các công cụ kinh tế vĩ mô và chính sách Nhà nước sẽ điều tiết và thúc đẩy nền kinh tế. Phương pháp trực tiếp là Nhà nước với tư cách là một nhà công nghiệp trực tiếp đầu tư thực hiện quá trình kinh doanh để tạo ra hàng hoá, dịch vụ nhằm thúc đẩy các ngành, các khâu của quá trình tái sản xuất hay thoả mãn những nhu cầu cụ thể của xã hội. Phương pháp gián tiếp mang tính chất vĩ mô, chỉ có Nhà nước mới đảm đương được. Phương pháp trực tiếp là phương pháp có thể thay thế bởi tư nhân. Trong thực tế, Nhà nước luôn luôn kết hợp cả hai phương pháp để thúc đẩy và điều tiết nền kinh tế. Sở dĩ trong một số trường hợp, Nhà nước phải trực tiếp thúc đẩy là vì có một số lĩnh vực sản xuất kinh tế tư nhân không thích đầu tư hoặc không có khả năng đầu tư mà nếu không kinh doanh thì xã hội sẽ không có hoặc có ít hàng hoá, dịch vụ. Người ta biện minh cho việc Nhà nước tiến hành kinh doanh bởi ba lý do: Thứ nhất, khắc phục trạng thái cạnh tranh không hoàn hảo hay độc quyền tự nhiên. Thứ hai, khắc phục những tác động hướng ngoại. Thứ ba, giải quyết những công bằng xã hội. Tuy nhiên, ba lý do này hoặc có thể giải quyết bằng chính sách hay công cụ vĩ mô hoặc bằng việc kinh doanh của Nhà nước trong các DNNN. Do vậy, DNNN với tính cách là một công cụ điều tiết nền kinh tế thị trường hiện đại có vai trò ngày càng lớn. DNNN phải trực tiếp đảm nhận sản xuất và cung cấp cho xã hội những sản phẩm dịch vụ mà các thành phần khác không tham gia kinh doanh. Vấn đề Nhà nước và kinh tế Nhà nước tác động đến nền kinh tế xã hội đã rõ, vì vậy ít có sự tranh luận giữa các nhà khoa học. Xây dựng Nhà nước pháp quyền có thể xem như là mô hình Nhà nước tiến bộ nhất hiện nay. Tuy nhiên, vấn đề kinh tế Nhà nước vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Do đó cần nhận thức thống nhất về phạm trù này đó là: Khu vực kinh tế Nhà nước hiểu một cách đầy đủ nhất bao gồm nhiều bộ phận như: hệ thống các chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước, các công cụ quản lý vĩ mô như hệ thống tài chính ngân hàng Nhà nước, hệ thống kết cấu cơ sở hạ tầng, tài nguyên thiên nhiên và các DNNN. Tổng thể các bộ phận đó Nhà nước sử dụng, tác động, can thiệp, điều tiết hoạt động của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động toàn bộ nền kinh tế. Hiện nay, vấn đề phát triển các DNNN với quy mô và phạm vi như thế nào còn đang tồn tại nhiều ý kiến khác nhau. Đặc biệt là ở các nước đang phát triển, các nước đang trong quá trình chuyển đổi mô hình từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường có định hướng của Nhà nước. Vai trò của DNNN được xem xét đặt nó là một bộ phận trọng yếu của kinh tế Nhà nước và vai trò của kinh tế đối với nền kinh tế quốc dân. Xem xét vai trò của các DNNN trong ba mối quan hệ: 1. DNNN trong mối quan hệ với các chính sách phát triển kinh tế, chiến lược phát triển kinh tế. DNNN trực tiếp tham gia thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. 2. Tương quan của DNNN trong hệ thống các giải pháp, công cụ kinh tế mà Nhà nước lựa chọn để điều tiết, thúc đẩy và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế. 3. Tương quan của DNNN với hệ thống doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Trong ba mối quan hệ này, mối quan hệ thứ nhất quy định vai trò của DNNN trong những giai đoạn phát triển nhất định. Có thể vai trò của DNNN sẽ thay đổi tăng hoặc giảm, tuỳ theo chính sách và chiến lược phát triển. Trong hai mối quan hệ sau, vai trò của DNNN được đặt trong tương quan của việc lựa chọn phương pháp trực tiếp hay gián tiếp để điều tiết và thúc đẩy nền kinh tế; ưu thế của các DNNN trong việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ công cộng so với hệ thống doanh nghiệp tư nhân. Để đánh giá vai trò của DNNN ở Việt Nam, có thể nêu những nét chủ yếu sau: 1. Vai trò kinh tế Với một nước đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề quyết định là đưa nền kinh tế từ trình độ lạc hậu nhanh chóng chuyển lên trình độ tiên tiến hiện đại có quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Trong mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội, kinh tế xã hội chủ nghĩa được quy về phát triển hai thành phần: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Hệ thống kinh tế quốc doanh thường được hiểu là đồng nhất với việc xây dựng phát triển nhiều doanh nghiệp quốc doanh. Điều này dẫn đến những sai lầm của mô hình kinh tế cũ, là cơ cấu kinh tế thiếu năng động, hạn chế huy động các nguồn lực xã hội. Chúng ta thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, điều tiết, định hướng cho các thành phần khác. Như vậy, trong hệ thống doanh nghiệp của nền kinh tế nhiều thành phần, DNNN có vai trò là một bộ phận cấu thành của kinh tế Nhà nước. Kinh tế Nhà nước và DNNN vẫn nắm giữ vai trò chủ đạo để thúc đẩy nền kinh tế phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc điểm của các nước chậm phát triển là cơ cấu kinh tế bất hợp lý, công nghiệp chưa phát triển, nông nghiệp lạc hậu, thị trường giao lưu trao đổi hàng hoá hạn hẹp, tổ chức sản xuất phân tán manh mún. Mức thu nhập bình quân của người dân thấp. Để thực hiện chiến lược tăng tốc rút ngắn và tạo dựng cơ sở kinh tế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa theo mô hình mới, Nhà nước tất yếu phải lựa chọn giải pháp phát triển các DNNN tăng cường nền kinh tế. ở đây việc lựa chọn này không mang tính chủ quan mà là một tất yếu lịch sử trong phát triển nền kinh tế của mỗi quốc gia đang ở trình độ kinh tế chậm phát triển. Phát triển các DNNN có hai ưu thế. Thứ nhất, đó là ưu thế về khả năng huy động vốn và khả năng cạnh tranh để tham gia vào thị trường thế giới. Thứ hai, với ưu thế về quy mô tập trung sản xuất, các DNNN có lợi thế hơn trong việc áp dụng công nghệ hiện đại. DNNN trở thành các đối tác chính để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động liên doanh liên kết. Ưu thế của DNNN là: Có nhiều khả năng để tập trung nguồn vốn, tổ chức sản xuất hiện đại, quy mô lớn chuyển giao công nghệ và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Với những ưu thế này, khiến cho doanh nghiệp Nhà nước có vai trò quyết định trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển tăng tốc, rút ngắn khoảng cách giữa các nước chậm phát triển với các nước phát triển. Như vậy, xét ở hai khía cạnh, khía cạnh tạo lập những cơ sở kinh tế trực tiếp của lực lượng kinh tế Nhà nước và khía cạnh phát triển thì DNNN là giải pháp để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại ở các nước công nghiệp phát triển DNNN không thể hiện rõ vai trò của một công cụ để Chính phủ can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế. Nhưng ở các nước chậm phát triển, hệ thống doanh nghiệp còn kém phát triển, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân còn nhỏ bé, lực lượng kinh tế vĩ mô của Nhà nước còn hạn chế thì việc phát triển hệ thống DNNN với nhiều doanh nghiệp quy mô lớn, trình độ công nghệ cao... là một giải pháp có tính quyết định đến việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nhiều thành phần và mở cửa hội nhập. DNNN có thể trở thành những công cụ trực tiếp để tham gia khắc phục những hạn chế của kinh tế thị trường khi nó đủ khả năng cung cấp những hàng hoá và dịch vụ công cộng có ý nghĩa đặc biệt đối với sinh hoạt chung của xã hội mà tư nhân và các thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng đầu tư. Phát triển DNNN để tạo kết cấu hạ tầng dịch vụ cho nền kinh tế, góp phần nâng cao hiệu quả và phát triển bền vững lâu dài nền kinh tế. Nhược điểm của DNNN là kém năng động trong kinh doanh, nếu DNNN phát triển mở rộng bao trùm toàn bộ nền kinh tế, nó sẽ làm cho nền kinh tế ở vào trạng thái thiếu tính đa dạng, trì trệ và hiệu quả thấp. Một cơ cấu kinh tế phát triển hợp lý trong mô hình kinh tế thị trường hỗn hợp là sự cân bằng giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư nhân và đặc biệt là bao gồm khu vực DNNN và khu vực doanh nghiệp tư nhân. Sở dĩ trong thời kỳ quá độ, sự phát triển DNNN đóng vai trò chủ đạo, là vì sự phát triển của nó đem lại đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ, trực tiếp cho bước chuyển nền kinh tế từ chậm phát triển sang phát triển hiện đại một cách nhanh chóng. Phát triển DNNN là giải pháp phân bố hữu hiệu các nguồn lực trong nền kinh tế, khi mà các quan hệ vĩ mô của kinh tế thị trường chưa phát triển. Điều kiện có nghĩa là DNNN đóng vai trò tạo điều kiện để phát triển hơn là trực tiếp tạo ra thu nhập. Với vai trò tạo điều kiện để phát triển, DNNN trợ giúp cho khu vực doanh nghiệp tư nhân phát triển đồng thời hướng dẫn khu vực tư nhân đi vào lĩnh vực kinh tế mới và chuyển giao cho khu vực tư nhân công nghệ hiện đại. Cùng với quá trình phát triển DNNN sẽ diễn ra quá trình thay đổi phương pháp điều tiết trong cơ chế quản lý của Nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế: chuyển từ việc sử dụng công cụ quản lý trực tiếp sang công cụ quản lý gián tiếp. Nhà nước điều hành và quản lý vĩ mô nền kinh tế là chủ yếu, quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh là chức năng của các doanh nghiệp. 2. Vai trò chính trị Đối với một nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, DNNN có ý nghĩa chính trị đặc biệt. Nó là bộ phận định hướng về mặt kinh tế và là công cụ thực hiện các chính sách theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực sự, hệ thống DNNN cung cấp cho Nhà nước một cơ sở kinh tế, để Nhà nước trở thành một lực lượng chi phối trực tiếp đối với bộ phận kinh doanh tư nhân. Thêm vào đó, ở giai đoạn đầu của tiến trình phát triển, DNNN là bộ phận tạo thành nền tảng của Nhà nước. Nó cung cấp nguồn lực chính, chủ yếu cho hoạt động của Nhà nước, đồng thời là công cụ trực tiếp hữu hiệu để thúc đẩy nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện những mục tiêu kinh tế, xã hội do Đảng cộng sản và Chính phủ đề ra. Các DNNN có vai trò đặc biệt trong việc tăng cường, củng cố quốc phòng và an ninh đối với mỗi quốc gia. 3. Vai trò xã hội Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp đều chiụ sự chi phối của quy luật thị trường, muốn tồn tại và phát triển các doanh nghiệp tạo ra lợi nhuận. Nhưng nền kinh tế thị trường có những khuyết tật như tạo ra sự phân hoá giàu nghèo... vì vậy sự tồn tại của DNNN với việc sử dụng nhiều lao động, tăng công ăn việc làm và tăng thu nhập sẽ làm giảm sự bất bình đẳng, DNNN thực hiện các quyền, nghĩa vụ bảo hiểm cho người lao động tốt hơn là các thành phần khác. Mỗi quốc gia thường có những vùng xa xôi hẻo lánh, trình độ dân trí còn thấp, dân cư ở những vùng này phải chịu thiệt thòi vì sự phát triển kinh tế thấp hơn các vùng khác; Bởi vậy, việc đầu tư phát triển các DNNN ở các vùng này còn có vai trò quyết định bảo đảm các nhu cầu cung cấp dịch vụ công cộng thiết yếu cho đời sống dân cư vùng sâu vùng xa. III. Một số kinh nghiệm phát triển và cải cách DNNN của các nước 1. Kinh nghiệm của các nước phát triển Nền kinh tế của các nước phát triển đều đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển, hoàn thiện cơ cấu kinh tế để đạt đến trình độ phát triển cao như hiện nay. Bài học kinh nghiệm của các nước phát triển là khẳng định kinh tế Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế. Mô hình kinh tế đa thành phần và cơ cấu kinh tế mở cửa có thể xem như là phổ biến ở nhiều nước. DNNN được đầu tư phát triển một cách cân nhắc chủ yếu ở các khu vực hạ tầng kinh tế xã hội trọng yếu và dịch vụ công cộng. Số lượng và tỷ trọng của DNNN trong từng ngành nghề, lĩnh vực thường không cố định qua từng thời kỳ phát triển kinh tế của mỗi nước, nó tuỳ thuộc vào chính sách và chiến lược phát triển kinh tế trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia để duy trì và phát triển DNNN một cách thích hợp. Phát triển DNNN là công cụ, giải pháp hữu hiệu thực hiện thành công chính sách và chiến lược của mỗi quốc gia. 2. Kinh nghiệm của một số nước đang phát triển về phát triển và cải cách sắp xếp lại DNNN. a. Kinh nghiệm của các nước ASEAN Khác với các nước phát triển ở Châu Âu, các nước ASEAN mới giành được độc lập từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến nay. Vào những năm giữa thế kỷ XX các nước này đã phát triển ồ ạt DNNN ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực mà không nhận thức được những hạn chế của loại hình doanh nghiệp này. Bước sang những năm cuối của thập niên 70 trở lại đây, các nước ASEAN đã điều chỉnh bằng nhiều biện pháp tư nhân hoá, cổ phần hoá, liên doanh với nước ngoài để thực hiện quá trình cải cách, sắp xếp lại việc phát triển của các DNNN cho phù hợp với chiến lược điều chỉnh cơ cấu kinh tế của các quốc gia. Nhờ đó tạo ra sự tăng trưởng "thần kỳ" của nền kinh tế các nước trên trong những thập niên 70 - 80. Những bài học kinh nghiệm của các nước ASEAN có thể nêu ra là: - Phải có cơ sở khoa học, phương pháp luận cho việc cải cách DNNN nhằm cơ cấu lại khu vực kinh tế Nhà nước phù hợp với xu thế thời đại. - Phải có sự quyết tâm cao của chính phủ và tính kiên quyết của các cơ quan có trách nhiệm trong bộ máy Nhà nước. - Phải có sự thông hiểu, ủng hộ của dư luận xã hội và người lao động trong các DNNN. - Cải cách thể chế quản lý tạo cơ sở pháp lý ổn định và thuận tiện cho việc chuyển đổi mô hình DNNN sang các loại hình khác như cổ phần hoá, bán khoán, cho thuê, liên doanh nước ngoài và tư nhân hoá... b. Kinh nghiệm của Trung Quốc Trung Quốc là nước phát triển DNNN ồ ạt vào những năm 60 - 70. Thực hiện chủ trương cải cách mở cửa, thực hiện bốn hiện đại hoá, từ năm 1978 đến nay, Trung Quốc đã cải tổ khu vực DNNN một cách thận trọng và kiên quyết thông qua nhiều giải pháp. Trung Quốc đã từng trải qua những vấn đề bức xúc trong cải cách DNNN mà hiện nay Việt Nam cũng đang phải đối mặt giải quyết, chính vì vậy các nghiên cứu và cải cách kinh tế ở Việt Nam đã rất quan tâm đến những kinh nghiệm của Trung Quốc. Với mục tiêu thực hiện một cơ chế quản lý hiện đại đối với các DNNN phù hợp với nền kinh tế thị trường, cả Việt Nam và Trung Quốc đều áp dụng những biện pháp tương tự như nhau để cải cách hệ thống DNNN: Chuyển đổi hình thức sở hữu, đa dạng hoá sở hữu, giảm lao động dư thừa, áp dụng những công nghệ quản lý hiện đại... Tuy nhiên, các nhà thực thi công cuộc đổi mới DNNN Việt Nam đang gặp phải khá nhiều vướng mắc, như thiếu sự chủ động của các lãnh đạo doanh nghiệp, sự tổn thất tài sản Nhà nước trong quá trình đổi mới doanh nghiệp... và điều đó khiến cho quá quá trình đổi mới doanh nghiệp ở nhiều địa phương đang có chiều hướng chững lại. "Phần lớn các DNNN đang thiếu động lực để cạnh tranh trên thị trường, trong khi Chính phủ với tư cách là chủ sở hữu DNNN không thể thực hiện hiệu quả vai trò giám sát, quản lý doanh nghiệp như các chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân". Tiến sĩ Zhou Fangsheng - Viện phó viện nghiên cứu tài chính (Bộ Tài chính Trung Quốc) đã khẳng định như vậy khi nói về những kinh nghiệm cải cách DNNN Trung Quốc thời gian qua tại cuộc hội thảo gần đây được tổ chức ở Hà Nội. Ông cũng cho rằng: DNNN chỉ nên giữ vai trò chủ đạo trong một số nhóm ngành, đó là những ngành đặc biệt (quốc phòng, an ninh), những ngành công ích, hạ tầng cơ sở (có hiệu quả xã hội cao nhưng vốn đầu tư lớn, thu hồi chậm) và những ngành khoa học mũi nhọn có nhiều rủi ro. Việc tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển mạnh hơn cũng là để giảm gánh nặng mà DNNN phải chịu trong qúa trình cải cách như lao động dôi dư, những hoạt động dịch vụ nội bộ không cần thiết... Để cải cách DNNN có nhiều biện pháp, tuy nhiên điều quan trọng nhất là phải thực hiện cải cách một cách triệt để. Giải quyết phá sản doanh nghiệp cũng là một cách đổi mới. Trước kia các DNNN ở Trung Quốc đều sợ bị phá sản, điều đó không chỉ là thất nghiệp mà còn làm danh dự và uy tín. Tuy nhiên trong vài năm trở lại đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế khái niệm phá sản đã dần dần trở nên bình thường, vì nếu không còn cách nào khác thì chấp nhận phá sản, chứ không thể "dở sống dở chết". Một số kinh nghiệm khác như: xây dựng cơ chế quản lý tài sản Nhà nước trong khi cải cách doanh nghiệp, xây dựng thể chế đầu tư đối với các doanh nghiệp chuyển đổi hình thức đầu tư, hoặc đa dạng hoá hình thức sở hữu, các giải pháp chống độc quyền, tạo môi trường đầu tư thuận lợi... Tất nhiên có nhiều điểm khác biệt vể cải cách DNNN giữa Việt Nam và Trung Quốc. Như ở Trung Quốc tỷ trọng DNNN trong GDP giảm đáng kể (từ 76% năm 1990 xuống còn dưới 30% năm 1999) còn tỷ trọng đó ở Việt Nam lại tăng lên. Trong khi Trung Quốc coi sự giảm tỷ trọng là một thành tựu của cải cách DNNN thì Việt Nam lại coi việc gia tăng tỷ trọng DNNN là một thành tích phát triển DNNN. Và theo các nhà kinh tế của Việt Nam, những kinh nghiệm mà Trung Quốc trải qua có nhiều điểm đáng quan tâm, nhất là Trung Quốc đang thực hiện được mục tiêu giảm tỷ trọng DNNN trong GDP nhưng kinh tế Trung Quốc vẫn tăng trưởng liên tục trong thời gian qua. Qua những phân tích ở trên, có thể rút ra những bài học từ kinh nghiệm cải cách DNNN của Trung Quốc là: - Xây dựng nhận thức đúng đắn về cơ cấu lại của DNNN, từ đó xây dựng quan điểm thống nhất tạo ra sự nhất trí cao trong nhân dân. Đảng Cộng sản Trung Quốc đề ra chương trình kế hoạch sắp xếp DNNN một cách thận trọng đến năm 2020 mới kết thúc. - Chính phủ khuyến khích các nhà nghiên cứu lý luận lý giải sự cần thiết cấp bách phải tổ chức sắp xếp lại DNNN. Mở rộng tuyên truyền trong dư luận để mọi người mọi cấp hiểu tư tưởng, tin vào đường lối chủ trương của._. Đảng. - Chính phủ thiết lập cơ quan chuyên trách chỉ đạo, hướng dẫn và giám sát quá trình cơ cấu lại DNNN, giải quyết kịp thời những vướng mắc phát sinh của thực tiễn với các ngành và các địa phương. Tiến hành sắp xếp các DNNN quy mô nhỏ trước, sau đó đến các DNNN quy mô vừa và lớn, ở nông thôn trước sau đó đến thành phố. - Coi trọng giải quyết tốt những vấn đề xã hội như quyền lợi, việc làm cho người lao động trong các DNNN do sắp xếp cơ cấu lại DNNN gây ra. - Đa dạng hoá các loại hình sắp xếp DNNN như cổ phần hoá, bán khoán, cho thuê DNNN. Từ năm 1993, quá trình cải cách DNNN ở Trung Quốc chuyển sang giai đoạn mới xây dựng, thể chế xí nghiệp hiện đại. Thể chế này được khái quát trên hai nội dung chính là: 1. Doanh nghiệp thực hiện chế độ pháp nhân, có quyền chiếm dụng, sử dụng, quản lý các tài sản mà họ nắm giữ, nghĩa là họ có cả quyền sở hữu và kinh doanh, khác với trước kia Nhà nước vẫn nắm giữ quyền sở hữu, chỉ giao quyền kinh doanh cho doanh nghiệp Nhà nước chỉ là chủ sở hữu của phần vốn thuộc về Nhà nước và sẽ có đại diện tương ứng với số vốn đó trong Hội đồng quản trị doanh nghiệp. Như vậy Nhà nước làm chủ sở hữu doanh nghiệp như các cổ đông: 2. Các doanh nghiệp hoạt động như các Công ty trách nhiệm hữu hạn hay các Công ty cổ phần. Các doanh nghiệp phải cải tổ thành các Công ty trách nhiệm hữu hạn, tức là Công ty có bao nhiêu vốn thì chỉ có thể chịu trách nhiệm trên số vốn đó, Nhà nước không chịu trách nhiệm gì về những thiệt hại bên ngoài số vốn mà Nhà nước thực sự sở hữu, giống như các Công ty Nhà nước ở các nền kinh tế thị trường phát triển. Sự chuyển biến này quan trọng là ở chỗ đã ràng buộc các DNNN phải hoạt động và chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn họ có, họ không có quyền đòi hỏi Nhà nước phải chịu trách nhiệm của doanh nghiệp cho họ về những tổn thất bên ngoài số vốn của Nhà nước. Do vậy làm giảm được tình trạng nợ nần và những quyết định vô trách nhiệm của các doanh nghiệp. Năm 1999, Trung Quốc triệu tập riêng một Hội nghị Trung ương để thảo luận tìm kiếm biện pháp thúc đẩy cải cách DNNN. Hội nghị đã đề ra nghị quyết: "Một số vấn đề trọng đại về cải cách và phát triển DNNN". Theo nghị quyết này, Nhà nước chỉ tập trung ưu tiên đầu tư cho 512 xí nghiệp lớn và 110 tập đoàn Công ty, số còn lại thực hiện thả nổi theo phương thức cổ phần hoá dưới nhiều hình thức, đặc biệt là chuyển nợ thành cổ phần. Chủ trương "Nắm lớn thả nhỏ" trong cải cách các DNNN một mặt giúp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp, mặt khác cũng khuyến khích sự phát triển của các khu vực phi Nhà nước, tạo điều kiện cho việc gia tăng. Thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy ngoạit hương phát triển. Có thể thấy rằng Trung Quốc là một mô hình rất gần để Việt Nam học tập trong tiến trình đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước. Chương II thực trạng của doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta những năm qua và những đổi mới bước đầu I. Quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 1. Quá trình hình thành của doanh nghiệp Nhà nước và kinh tế Nhà nước qua các thời kỳ Nhà nước đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử phát triển của nhân loại. Nhà nước là một công cụ của giai cấp thống trị nhằm duy trì quyền lực của mình đối với giai cấp khác. Tuy nhiên, qua các chế độ xã hội khác nhau thì Nhà nước tác động đến nền kinh tế xã hội bằng những phương thức, công cụ khác nhau. Nhà nước của các chế độ xã hội trước thời kỳ phát triển kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa: Về cơ bản đều dựa trên nền tảng của chế độ kinh tế tiểu nông chậm phát triển, thị trường chưa mở rộng. Nhà nước duy trì quyền thống trị xã hội chủ yếu bằng hoạt động của bộ máy cai trị trực tiếp. Tài sản, nguồn lực kinh tế của Nhà nước không lớn, các cơ sở kinh tế của Nhà nước (DNNN sơ khai) đã xuất hiện nhưng còn rất nhỏ bé, hoạt động chủ yếu là cung cấp sản phẩm trực tiếp cho bộ máy cai trị hoặc một số dịch vụ công cộng hạn chế. Nền kinh tế thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản. ở thời kỳ này Nhà nước đã có sự tiến bộ nhất định. Nhà nước dần dần tác động đến nền kinh tế bằng các chính sách kinh tế và cung cấp các dịch vụ công cộng cho xã hội, nền kinh tế ngày càng được chu ý phát triển. Tuy nhiên, lực lượng kinh tế của Nhà nước vẫn chưa phải là bộ phận chủ yếu của nền kinh tế thị trường tự do. DNNN hoạt động dịch vụ công cộng vẫn chưa thể hiện được vai trò quan trọng của mình.Trong thời kỳ kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển đạt đến đỉnh cao, Nhà nước ngày càng tác động can thiệp vào sự phát triển của nền kinh tế, Nhà nước là người điều khiển thị trường, một chủ thể kinh tế đặc biệt, lớn nhất. Nhà nước là nhà công nghiệp lớn nhất nắm trong tay những cơ sở kinh doanh có khả năng chi phối đến toàn bộ nền kinh tế. Trong giai đoạn thị trường hiện đại, kinh tế thị trường mang tính hỗn hợp. Đó là một cơ thể thống nhất với hai bộ phận, hai chủ thể hợp thành là kinh tế tư nhân với kinh tế Nhà nước. Suốt chiều dài lịch sử của nền kinh tế thị trường, Nhà nước cũng thường tham gia vào việc kinh doanh bằng việc lập nên những doanh nghiệp của mình. Trên thực tế, từ thập kỷ 50 của thế kỷ XX cho tới nay, DNNN đã phát triển mạnh ở nhiều nước và trở thành một chủ đề tranh luận sôi nổi. Có nhiều lý do. Thứ nhất, trong nền kinh tế thị trường, một khi Nhà nước trở thành một chủ thể kinh tế lớn thì dễ bị thúc đẩy bởi quy luật giá trị thặng dư và một khi là người điều khiển nền kinh tế, Nhà nước dễ chuyển thành người có sức mạnh nhất để khống chế các lực lượng khác. Cả hai tư cách đều thúc đẩy mạnh mẽ việc Nhà nước tham gia kinh doanh ngày một nhiều và có xu hướng thành nhà công nghiệp lớn. Thứ hai, để điều hành một nền kinh tế vĩ mô phức tạp phát triển theo cơ chế thị trường, Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ và phương pháp quản lý gián tiếp cùng với việc hình thành các DNNN, không nhất thiết phải phát triển nhiều DNNN. Thứ ba, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện đại, đặc biệt ở giai đoạn đầu thường phát sinh những vấn đề xã hội gay gắt, đặc biệt khi nền kinh tế suy thoái, mức sử dụng lao động thấp. Để tăng phúc lợi công cộng, giảm ở một chừng mực nào đó độ chênh lệch của sự phân phối thu nhập trong xã hội và tăng công ăn việc làm, vực nền kinh tế qua thời kỳ suy thoái, Nhà nước trong các nước công nghiệp đã quốc hữu hoá nhiều doanh nghiệp tư nhân và mở thêm những DNNN để giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Thứ tư, đối với các nước đang phát triển, sau khi hệ thống thực dân sụp đổ, các Nhà nước mới được thành lập trực tiếp tổ chức công cuộc phát triển kinh tế của đất nước nhanh thoát khỏi lạc hậu, họ đã tập trung nỗ lực vào quá trình quốc hữu hoá đất nước. Một trong những giải pháp về quốc hữu hoá là đẩy nhanh việc thành lập DNNN. Chính sức mạnh của Nhà nước trong công cuộc phát triển đã thúc đẩy các DNNN ra đời như là giải pháp quyết định. Xuất phát điểm của các nước chậm phát triển là rất thấp. Đó là nền sản xuất tiểu nông, công nghiệp còn ở dạng sơ khai. Việc Nhà nước tham gia vào sự phát triển kinh tế là điều cần thiết. ở thời hiện đại, sức mạnh kinh tế của Nhà nước được tạo dựng ở ngay trong nội dung và kết cấu kinh tế. Nhà nước xuất hiện với tính cách là một chủ thể kinh tế. Việc quốc hữu hoá chính là sự cần thiết trong quan hệ tạo lập cơ sở kinh tế cho Nhà nước trở thành một chủ thể kinh tế. Điều quyết định hơn là bằng chính sự phát triển các nội dung này đã xác lập nhanh chóng nền tảng cho một tiến trình phát triển tăng tốc, rút ngắn sự lạc hậu của nền kinh tế các nước chậm phát triển so với các nước phát triển. Việc hình thành DNNN còn gắn liền với chiến lược phát triển của nền kinh tế, tiến hành xây dựng ngành công nghiệp nặng với quy mô lớn. Trong điều kiện còn chậm phát triển, chỉ có Nhà nước mới có thể làm được. Do đó, việc Nhà nước xây dựng các DNNN là điều tất yếu. 2. Quá trình hình thành, phát triển DNNN ở Việt Nam DNNN ở Việt Nam được hình thành ngay trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tại chiến khu Việt Bắc, nhiều xí nghiệp quy mô nhỏ được thành lập. Hoạt động chủ yếu của các xí nghiệp này là cung cấp vũ khí, một số sản phẩm tiêu dùng, dược phẩm thiết yếu cho bộ đội và Chính phủ kháng chiến. Nhà nước xây dựng được một số cơ sở khai thác than, cơ khí, in, may mặc... Cơ sở pháp lý đầu tiên quy định về tổ chức DNNN là sắc lệnh số 104/SL do chủ tịch Hồ Chí Minh ký, ban hành ngày 1/1/1948 và năm sau bổ sung bằng sắc lệnh số 09/SL ngày 25/2/1949 về phân cấp thành lập doanh nghiệp. Khi hoà bình lập lại ở Miền Bắc, chúng ta tiến hành cải tạo công thương nghiệp, phát triển lại thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể trong tất cả các ngành của nền kinh tế. Năm 1957, kinh tế quốc doanh và công tư hợp doanh phát triển chiếm 18,1% giá trị tổng sản lượng sản phẩm của toàn Miền Bắc. Đến cuối năm 1960 kết thúc ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa các thành phần kinh tế và phát triển thành phần kinh tế quốc doanh làm lực lượng lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Từ năm 1961 đến năm 1975, khu vực DNNN tiếp tục được tăng cường xây dựng và phát triển: Nhiều nhà máy, khu công nghiệp nặng, nhiều nông trường quốc doanh do Trung ương đầu tư xây dựng, quản lý ở thời kỳ kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1961-1965). Thời kỳ chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với Miền Bắc lần thứ nhất (1964-1968) và lần thứ hai (1971-1972), nhiều nhà máy quốc doanh lớn bị tàn phá nhưng lại có nhiều xí nghiệp quốc doanh quy mô vừa và nhỏ được đầu tư phát triển do các địa phương quản lý. Kinh tế quốc doanh có vai trò đóng góp to lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ đi đến thắng lợi. Năm 1974 doanh nghiệp quốc doanh tạo ra 47,5% tổng sản phẩm xã hội (GDP) trong công nghiệp: Các xí nghiệp quốc doanh tạo ra 72,2% giá trị sản lượng công nghiệp. Trong giao thông vận tải, bưu điện khu vực quốc doanh tạo ra 92,1% giá trị tổng sản lượng. Đầu năm 1975, toàn Miền Bắc có 1375 doanh nghiệp quốc doanh, trong đó có 337 xí nghiệp quốc doanh do Trung ương quản lý, 1020 xí nghiệp quốc doanh do cấp địa phương quản lý. Sau khi thống nhất đất nước, từ năm 1976 đến năm 1980, khu vực doanh nghiệp quốc doanh tiếp tục được tăng cường phát triển trong cả nước. Cuối năm 1980, thương nghiệp cả nước có tới 10915 Công ty, cửa hàng, mậu dịch quốc doanh, 2627 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, 232 nông trường trang trại quốc doanh nông nghiệp. Lực lượng kinh tế quốc doanh tạo ra 35,5% tổng sản phẩm xã hội và đóng góp 23% thu nhập quốc dân của cả nước. Những đặc điểm đặc trưng cơ bản của DNNN được hình thành và phát triển trong giai đoạn này là: - Hoạt động kinh doanh không vì mục tiêu lợi nhuận - Huy động tối đa các nguồn lực Nhà nước, nhân dân để cung cấp sản phẩm dịch vụ phục vụ hậu phương và tiền tuyến chống Mỹ cứu nước. - Thực hiện sản xuất - kinh doanh theo sự chỉ đạo kế hoạch của cấp trên. - Quyền lợi, nghĩa vụ của mọi người lao động trong các doanh nghiệp ít có sự phân biệt có thể nói: "Mỗi doanh nghiệp quốc doanh đều là một tổ chức xã hội Nhà nước thu nhỏ, đều có khu tập thể dân cư, nhà trẻ, nhà ăn...". Những đặc trưng trên là một tất yếu lịch sử phù hợp với điều kiện đất nước có chiến tranh cần phải huy động tổng thể mọi nguồn lực cho cuộc kháng chiến, tuy nhiên sau khi đất nước hoà bình thống nhất thì những đặc điểm đó lại là nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của các doanh nghiệp quốc doanh, kém năng động và hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Nhiều doanh nghiệp quốc doanh chỉ có thể tồn tại nếu ngân sách Nhà nước tiếp tục bao cấp, số lượng các doanh nghiệp quốc doanh thành lập ngày càng nhiều, thì ngân sách Nhà nước càng mất cân đối nghiệm trọng. Tính đến cuối năm 1989 cả nước có tới gần 12300 doanh nghiệp quốc doanh. Đây chính là một trong những nhân tố làm cho nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng bế tắc trước thời kỳ đổi mới. Sau một thời gian thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã kiên trì thực hiện công tác sắp xếp lại các DNNN ở phạm vi cả nước, nhờ đó tạo ra những yếu tố đóng góp tích cực làm cho nền kinh tế nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng và có những bước phát triển đáng kể. Có thể tóm tắt tình hình sắp xếp DNNN trong hơn mười năm qua ở hai giai đoạn (1989-1994) và (1995-1999) như sau: Thực hiện nghị định số 388/HĐBT ngày 20/11/1991 về quy chế thành lập và giải thể DNNN tính đến cuối năm 1994 so với năm 1989 cả nước đã giảm từ 12296 DNNN xuống còn khoảng 6300 DNNN. Như vậy, số lượng DNNN đã giảm 51%, giải thể hoặc chuyển hình thức sở hữu 2000 doanh nghiệp, sáp nhập vào các DNNN khác gần 4000 DNNN quy mô nhỏ và quá nhỏ. Cuối năm 1994 chúng ta còn gần 2000 DNNN do Trung ương quản lý và hơn 4000 DNNN do địa phương quản lý. Các DNNN sau sắp xếp đến cuối năm 1994 có bình quân mỗi DNNN khoảng 8 tỷ đồng vốn (trước sắp xếp vốn bình quân 3,3 tỷ đồng). Việc sắp xếp DNNN theo nghị định 388 đến cuối năm 1994 đã làm thay đổi đáng kể cơ cấu vốn, lao động của DNNN. Doanh nghiệp có dưới 100 lao động giảm đáng kể, doanh nghiệp có 500-1000 lao động tăng lên. DNNN do Trung ương quản lý có vốn từ 8,2 tỷ đồng tăng lên 20 tỷ đồng, DNNN do địa phương quản lý có vốn từ 1,5 tỷ đồng tăng lên 3 tỷ đồng. Tỷ trọng giá trị tổng sản lượng của DNNN trong GDP tăng từ 32,5% năm 1990 lên chiếm 40,2% năm 1994. Thu nộp ngân sách của DNNN và tỷ lệ nộp ngân sách so với doanh thu không ngừng tăng từ 13,36 năm 1990 lên 15,84% năm 1994. Hiệu quả sử dụng đồng vốn được cải thiện nhất định, tỷ suất lợi nhuận thực hiện so với doanh thu tăng từ 3,61% năm 1990 lên 4,98% năm 1994. Số DNNN có lãi tăng từ 65,3% năm 1991 lên 78% năm 1994. Số doanh nghiệp bị lỗ giảm từ 24,26% năm 1991 xuống còn 16,5% năm 1994 (so với tổng số DNNN đã được sắp xếp). Từ cuối năm 1995 đến nay chúng ta vẫn kiên trì thực hiện sắp xếp DNNN, đặc biệt là áp dụng các hình thức cổ phần hoá, giải thể các DNNN thuộc diện thua lỗ, không có khả năng thanh toán, thí điểm, vận dụng các hình thức bán khoán, cho thuê DNNN. Việc sắp xếp DNNN được các ngành, các địa phương tiếp tục quán triệt các chỉ thị số 500/TTg ngày 25/5/1995, chỉ thị số 20/TTg ngày 21/4/1998... Tính đến thời điểm 1/1/2000 cả nước chỉ còn lại 5500 DNNN, trong đó hơn 30% số DNNN do Trung ương quản lý và gần 70% DNNN do các địa phương quản lý. Cụ thể có 732 doanh nghiệp hoạt động công ích, 1802 doanh nghiệp thuộc các Bộ, ngành Trung ương thành lập, 3698 doanh nghiệp do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập. Tuy nhiên, DNNN của chúng ta được hình thành trong giai đoạn lịch sử vừa qua chủ yếu là quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, cơ cấu bất hợp lý, thiếu vốn, quản lý chồng chéo, hiệu quả kinh doanh thấp. Khả năng cạnh tranh hội nhập vào thị trường khu vực và quốc tế còn nhiều hạn chế, yếu kém. Trước những khó khăn, thách thức đối với DNNN, một yêu cầu đặt ra là phải tìm cách giải quyết thích hợp để đẩy nhanh, tiến trình đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN ở nước ta. II. Những đổi mới của DNNN ở Việt Nam trong những năm qua 1. Thực chất của việc đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động DNNN ở nước ta Vấn đề đổi mới quản lý Nhà nước đối với DNNN là một nội dung khá phức tạp bao gồm nhiều vấn đề có liên quan đồng bộ với nhau. Để thúc đẩy DNNN phát triển thích nghi với các cơ chế mới, chúng ta phải đổi mới và hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lý, tổ chức quản lý đối với DNNN. Đồng thời phải tạo lập được môi trường pháp lý thuận tiện thông qua việc ban hành và sửa đổi một cách hợp lý hệ thống luật và văn bản dưới luật tạo thành hành lang pháp lý cần thiết cho DNNN hoạt động. Phân định rõ và thực hiện đúng vai trò của Nhà nước đại diện quyền sở hữu và giao quyền sử dụng vốn, trách nhiệm bảo toàn vốn cho doanh nghiệp. Vấn đề tổ chức cải cách, sắp xếp lại DNNN là một trong số nhiều nội dung của quá trình đổi mới, hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lý và tổ chức quản lý đối với DNNN mà chúng ta đang phải tiếp tục thực hiện. Thực chất của công tác đổi mới, sắp xếp lại hệ thống DNNN là hoàn thiện tổ chức sản xuất và quản lý hệ thống DNNN nhằm cơ cấu lại, bảo đảm sự phát triển hợp lý của DNNN trong khu vực kinh tế Nhà nước và toàn bộ nền kinh tế với nhiều thành phần cùng tồn tại phát triển . Đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất của các DNNN, bảo đảm phát huy được vai trò chủ đạo của DNNN và kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế phát triển theo cơ chế mới. 2. Những đổi mới bước đầu của DNNN ở Việt Nam 2.1. Đổi mới về cơ chế, chính sách tài chính doanh nghiệp Đầu năm 1990, Nhà nước tiến hành tổng kiểm kê và đánh giá lại tài sản của các DNNN. Việc này không chỉ nhằm mục tiêu làm căn cứ để xây dựng kế hoạch 5 năm 1991-1995 mà quan trọng hơn là nó tạo điều kiện cho doanh nghiệp hạch toán đầy đủ chi phí hoạt động kinh doanh, phù hợp với cơ chế thị trường. Cơ chế bảo toàn vốn những năm sau đó giúp cho doanh nghiệp phản ánh giá tài sản phù hợp với giá thị trường và doanh nghiệp bảo toàn được số vốn Nhà nước đã giao trong điều kiện lạm phát ở mức cao. Từ năm 1991, Nhà nước thực hiện cơ chế giao quyền quản lý sử dụng và trách nhiệm bảo toàn vốn cho doanh nghiệp. Theo cơ chế này Nhà nước (cơ quan tài chính và cơ quan chủ quản) giao số vốn Nhà nước gồm vốn ngân sách, vốn coi như của ngân sách và vốn tự bổ sung cho Giám đốc, kế toán trưởng doanh nghiệp quản lý, sử dụng. Doanh nghiệp được quyền sử dụng toàn bộ số vốn Nhà nước giao phục vụ cho hoạt động kinh doanh và quản lý theo cơ chế Nhà nước quy định. Doanh nghiệp có trách nhiệm bảo toàn số vốn Nhà nước đã giao. Nhà nước thực hiện kiểm tra mức độ bảo toàn vốn của doanh nghiệp hàng năm và có chế độ khuyến khích đối với doanh nghiệp bảo toàn được số vốn Nhà nước như cho hạch toán vào vốn tự bổ sung và không phải nộp tiền thu sử dụng vốn đối với số vốn bảo toàn cao hơn mức Nhà nước quy định. Những doanh nghiệp không bảo toàn được vốn phải lấy vốn tự bổ sung để bù đắp cho số bảo toàn thiếu của vốn ngân sách cấp. Cơ chế giao vốn đã tạo cho doanh nghiệp quyền chủ động trong hoạt động kinh doanh và quản lý tài chính. Nhà nước bớt can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời đã bước đầu xác định được trách nhiệm của DNNN trong việc sử dụng có hiệu quả số vốn Nhà nước giao và bảo toàn số vốn đó. Cơ chế phân phối lợi nhuận từ năm 1990 trở đi đã được đổi mới. Ngoài việc nộp thuế lợi tức cho Nhà nước như mọi doanh nghiệp khác, phần lợi nhuận sau thuế của DNNN được ưu tiên trích quỹ đầu tư phát triển nhằm mở rộng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với mức thiểu 35%. Quyền lợi của người lao động trong doanh nghiệp được quan tâm đầy đủ với việc cho trích lập hai quỹ khen thưởng và phúc lợi tối đa bằng quỹ lương một năm của doanh nghiệp. Cơ chế này đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp tích luỹ được một số vốn để mở rộng kinh doanh, đồng thời khuyến khích được người lao động gắn bó với doanh nghiệp. Tuy nhiên, nó chưa khẳng định được quyền của Nhà nước với tư cách chủ sở hữu đối với khoản lợi nhuận sau thuế. Đồng thời, tạo ra sự chênh lệch quá lớn về thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp khác nhau. Năm 1995, luật DNNN được ban hành. Đây không chỉ là văn bản pháp lý cao nhất trong công tác quản lý DNNN mà còn thể hiện nội dung đổi mới toàn diện, đồng bộ công tác quản lý DNNN nói chung, quản lý tài chính DNNN nói riêng, thể hiện cụ thể là: - Công tác quản lý vốn và tài sản: Tiếp tục chủ trương giao quyền quản lý và sử dụng vốn cho doanh nghiệp nhưng cơ chế tài chính theo luật DNNN đã cụ thể hoá những quyền của doanh nghiệp trong công tác này. Đó là: Doanh nghiệp được quyền sử dụng linh hoạt các nguồn vốn, được quyền thay đổi cơ cấu vốn và tài sản phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Được quyền cầm cố, thế chấp, cho thuê, nhượng bán, thanh lý các tài sản của doanh nghiệp (trừ toàn bộ dây chuyền sản xuất chủ yếu phải báo cáo cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp) Doanh nghiệp được quyền huy động vốn của mọi đối tượng để phục vụ cho hoạt động kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn huy động, hoàn trả vốn cho người cho vay, doanh nghiệp được dùng vốn do mình quản lý để đầu tư vào các doanh nghiệp khác theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư này. Doanh nghiệp được quyền xử lý các khoản tổn thất tài sản theo cơ chế bảo toàn vốn. Được trích các khoản dự phòng công nợ, khó đòi, dự phòng giảm giá hàng tồn kho, quỹ dự phòng tài chính nhằm bảo toàn số vốn Nhà nước đã đầu tư cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp được trích khấu hao tài sản cố định trong khung quy định của Nhà nước, thay cho việc trích khấu hao theo tỷ lệ cố định trước đây. Cơ chế này giúp cho doanh nghiệp có thể thu hồi vốn đầu tư nhanh hơn, sớm đổi mới được công nghệ, thiết bị. - Việc quản lý doanh thu, chi phí: Doanh nghiệp được sử dụng toàn bộ doanh thu để bù đắp chi phí hoạt động. Để phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế, tiếp thị, hoa hồng môi giới... và các khoản dự phòng công nợ khó đòi, giảm giá đầu tư chứng khoán, doanh nghiệp còn được trích quỹ dự phòng tài chính từ chứng khoán, doanh nghiệp còn được trích quỹ dự phòng tài chính từ lợi nhuận sau thuế để bù đắp những tổn thất tài sản và các khoản làm mất vốn khác. Người quản lý và điều hành doanh nghiệp là người có quyền quyết định các khoản chi và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về quyết định của mình. Nhà nước quản lý và giám sát các khoản chi phí của doanh nghiệp qua việc quy định các nguyên tắc hạch toán chi phí và thông qua các định mức do doanh nghiệp quyết định. - Việc phân phối lợi nhuận sau thuế đã quan tâm hơn đến việc tăng tích luỹ để mở rộng kinh doanh của doanh nghiệp bằng việc nâng mức trích tối thiểu quỹ đầu tư phát triển lên 50% số lợi nhuận còn lại sau thuế của doanh nghiệp. Quyền lợi của người lao động vẫn được quan tâm, song đã điều chỉnh để bảo đảm bớt sự chênh lệch về thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp khi mà vấn đề cạnh tranh chưa được phổ biến và kiểm soát độc quyền chưa có cơ chế. 2.2. Đổi mới về chính sách đầu tư cho DNNN Mặc dù đã thực hiện giao vốn cho doanh nghiệp từ năm 1990, song trước năm 1995 Nhà nước vẫn tiến hành thu hồi dần số vốn Nhà nước tại doanh nghiệp thông qua chế độ thu khấu hao tài sản cố định. Hàng năm căn cứ mức trích khấu hao tài sản cố định hình thành bằng vốn ngân sách, doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp lại cho ngân sách toàn bộ số trích này. Cùng với chính sách hạn chế đầu tư ngân sách cho doanh nghiệp, chế độ thu khấu hao tài sản cố định đã làm cho vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp ngày càng ít đi. Điều đó mâu thuẫn với yêu cầu mở rộng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hậu quả là vốn vay của doanh nghiệp ngày càng lớn, có doanh nghiệp vốn vay gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu. Từ năm 1995 đến nay Nhà nước đã bỏ chế độ thu khấu hao cơ bản góp phần làm vốn Nhà nước tại doanh nghiệp không bị giảm sút mà trái lại còn được tăng hơn do hàng năm được bổ sung từ lợi nhuận sau thuế. Nhà nước còn thực hiện chế độ thu sử dụng vốn ngân sách đối với DNNN. Theo chế độ này, hàng năm DNNN phải nộp cho ngân sách Nhà nước một số tiền căn cứ vào số vốn ngân sách Nhà nước cấp cho doanh nghiệp và ngành nghề doanh nghiệp kinh doanh. Số tiền phải nộp này trước luật DNNN được hạch toán vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp, từ khi có luật DNNN đến nay được lấy từ lợi nhuận sau thuế. Trong phần này sẽ tập trung xem xét các biện pháp tình thế mà Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện nhằm giảm bớt các khó khăn tài chính do DNNN thông qua các giải pháp liên quan đến hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước. ã Để giải quyết vấn đề vốn cho DNNN, công văn số 309/KHTH ngày 8/9/1997 quy định cấp vốn đầu tư xây dựng cơ bản và bổ sung vốn lưu động cho các DNNN. Trên thực tế, vốn tự có của DNNN được Nhà nước giao quản lý và sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh rất hạn hẹp nên phần lớn vốn phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp phải vay từ Ngân hàng, ước tính khoảng 80% tổng số vốn hoạt động của DNNN. Quyết định trên đã tạo điều kiện cho các DNNN có thêm nguồn vốn ổn định thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh. ã Quyết định 178/QĐ-TTg ngày 19/9/1998 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ lãi suất Ngân hàng đối với một số mặt hàng xuất khẩu đã cho phép các Ngân hàng thương mại hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh một số mặt hàng xuất khẩu bằng cách cho vay vốn lãi suất thấp hơn 0,2%/tháng so với mức lãi suất cho vay xuất khẩu mà các Ngân hàng thương mại đang áp dụng. Việc hỗ trợ lãi suất này được thực hiện từ ngày quyết định này có hiệu lực và kết thúc khi quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu được thành lập và đi vào hoạt động. Giải pháp này cùng với các chính sách khác về tài chính, thị trường, thuế... đối với xuất khẩu nông sản đã góp phần cho kim ngạch xuất khẩu năm 1998 và 1999 về gạo đều đạt trên 1 tỷ USD, cà phê đạt xấp xỉ 0,6 tỷ USD mỗi năm... ã Quyết định 195/1999/QĐ-TTg ngày 27/9/1999 cua Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu để hỗ trợ, khuyến khích, đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng hóa, mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh hàng xuất khẩu Việt Nam. ã Công văn số 433/CV-NH1 ngày 4/8/1996 cho phép các Ngân hàng được cơ cấu lại các khoản nợ của DNNN trong trường hợp DNNN này gặp khó về tài chính nhưng có vai trò quan trọng đối với kinh tế xã hội. Theo đó, các Ngân hàng được phép xoá các khoản nợ quá hạn mà không có khả năng thu hồi do các nguyên nhân khách quan như thiên tai hoặc DNNN bị phá sản và được phép khoanh các khoản nợ quá hạn nếu các khoản nợ quá hạn này phát sinh do những nguyên nhân về thay đổi chính sách đối với DNNN. ã Thông tư số 417/CV-NH14 ngày 31/5/1997 về việc hướng dẫn thực hiện những giải pháp cấp bách của Chính phủ liên quan đến công tác tín dụng Ngân hàng cũng giảm thiểu các quy định bắt buộc về bảo đảm tiền vay cho DNNN khi vay vốn Ngân hàng. Đối với khách hàng là các DNNN, thông tư quy định rõ là các DNNN khi vay vốn tại các Ngân hàng thương mại quốc doanh không cần phải thế chấp tài sản, không bị giới hạn theo tỷ lệ vốn điều lệ của doanh nghiệp mà chỉ cần căn cứ vào hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp, hiệu quả và tính khả thi của dự án đầu tư, phương án về khả năng thu hồi vốn để trả nợ vay. ã Chỉ thị số 08/1998/CT-NHNN 14 ngày 3/10/1998 về việc nâng cao chất lượng tín dụng, góp phần tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an toàn và hiệu quả của hoạt động Ngân hàng. Chỉ thị này đưa ra nhiều biện pháp nhằm giảm nhẹ gánh nặng trả nợ của các DNNN. Các DNNN có khó khăn về tài chính được phép chỉ trả nợ gốc trước và trả lãi sau. Các DNNN cũng được miễn trả lãi phát đối với các khoản nợ quá hạn nếu họ trả được khoản nợ gốc và lãi thường. Hơn nữa, nếu các DNNN đang bị thua lỗ và không thể trả nợ đúng hạn thì Ngân hàng có thể giảm bớt nghĩa vụ nợ của các DNNN bằng cách gia hạn cho các khoản nợ đó. - Có thể nói, phần lớn các giải pháp tình thế trên đã tạo ra các điều kiện, theo đó các Ngân hàng được phép tái cơ cấu các khoản nợ quá hạn của DNNN và tái phân loại chúng thành các khoản nợ bình thường. Xét về mặt ngắn hạn, các giải pháp này đã làm cho tình hình tài chính của các Ngân hàng và DNNN được sáng sủa hơn. Nhìn chung, các giải pháp này đã góp phần tháo gỡ kịp thời những khó khăn và vướng mắc cho DNNN. Đây là các biện pháp giúp khai thông tức thời dòng luân chuyển vốn tín dụng, ngăn chặn nguy cơ giảm dư nợ vay của của DNNN, nguy cơ thất nghiệp cao và đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá DNNN. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực như trên đã phân tích thì xét về mặt dài hạn các giải pháp cải thiện chính sách đầu tư cho DNNN nêu trên sẽ gây ra những vẫn đề khá nghiêm trọng trong tương lai nếu như quá trình đổi mới DNNN không được thúc đẩy mạnh mẽ và có được những tiến triển cần thiết. Sự không rõ ràng, minh bạch trong chính sách hỗ trợ ngân sách cho các DNNN như việc chuyển vốn vay thành vốn cấp, cấp vốn bổ dung, giảm nợ, xoá nợ... dẫn đến tình trạng ỷ lại vào Nhà nước, giảm tính chủ động, sáng tạo của các doanh nghiệp. Cơ chế tài chính trong đó Nhà nước được ví như một "con bò sữa" chỉ có thể làm cho quá trình đổi mới kinh tế thêm trì trệ, đặc biệt khiến các DNNN chậm trễ trong việc điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh cho phù hợp với môi trường trong nước và quốc tế đang ngày càng thay đổi. Mặc dù các giải pháp đổi mới, tăng cường đầu tư bằng tín dụng trên đây đã giúp cho các DNNN khắc phục được một số khó khăn về tài chính, mở rộng và tiếp tục thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, song một mặt chúng chỉ mang tính chất tạm thời, mặt khác chi phí cơ hội rất cao. Nguồn tín dụng có thể dành cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trở nên rất hạn chế. Hơn nữa, trong kinh tế thị trường việc tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp là hết sức cần thiết và là động lực thúc đẩy mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, các giải pháp này dường như đã góp phần tạo ra một sân chơi không bình đẳng và có phân biệt đối xử giữa DNNN và doanh nghiệp ngoài quốc doanh vốn dĩ đang cần thu hẹp lại. Vì vậy, đây là vấn đề mà Chính phủ và các Bộ ngành cần tiếp tục nghiên cứu để từng bước đổi mới cho phù hợp với tình hình mới hiện nay. 2.3. Đổi mới về chính thuế Sau khi Nhà nước ban hành các luật thuế doanh thu, thuế lợi tức thuế tiêu thu đặc biệt, các DNNN đã thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách như các doanh nghiệp thuốc các thành phần kinh tế khác. Trước đó, DNNN thực hiện chế độ thu quốc doanh. Chế độ này không những mất bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác mà ngay giữa các DNNN với nhau cũng không công bằng. Doanh nghiệp có chi phí càng cao càng phải nộp nhiều, do chế độ thu quốc doanh dùng nguyên tắc cộng tới (xác định mức thu trên cơ sở tỷ lệ cố định của chi phí kinh doanh). Chế độ thu quốc doanh hoàn toàn không phù hợp với cơ chế thị trường. Các luật thuế liên tục được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với sự phát triển của cơ chế thị trường. Từ năm 1999 đến nay chế độ thuế doanh thu và thuế lợi tức đã được thay thế bằng thuế giá trị gia tăng (VAT) và thuế thu nhập doanh nghiệp. Đây là bước phát triển mới của chính sách thuế phù hợp với sự phát triển của cơ chế thị trường và xu thế hội nhập của nênhiều kinh tế Việt Nam. Chính sách thuế mới là một thách thức lớn đối với DNNN. Tuy nhiên, do giảm từ 11 mức thuế suất thuế doanh thu xuống còn 3 mức thuế VAT với mức chênh lệch từ 5-10-20% cho nên khi áp dụng thuế mới, bên cạnh một số ngành, DNNN có thuận lợi do mức thuế mới tương đươn._. thể. Đại diện cơ quan Sở Tài chính - vật giá, Cục thuế cũng không nằm trong hội đồng giải thể. Do đó khi thực hiện phương án giải thể thường gặp khó khăn khi các ngành có liên quan thiếu sự phối hợp thống nhất. Ba là, thời gian mở tài khoản và tổ chức bán đấu giá thu hồi tài sản của doanh nghiệp giải thể theo quy định của Thông tư 25 là quá ngắn, không thể thực hiện được các công việc trên theo đúng hạn về thời gian. Bốn là, về trình tự thực hiện công bố quyết định giải thể trên báo chí ba số liên tục cũng không hợp lý về thời gian công bố trên báo trí. Vì theo quy định là sau khi có quyết định của cơ quan quyết định giải thể phải đăng báo ngay, trong khi đó thì phương án giải thể lại chưa được thẩm định và phê duyệt chính thức. 5.2. Những đề xuất vận dụng quy trình về giải thể DNNN Giải thể là một nội dung trong quá trình đổi mới sắp xếp lại DNNN. Trên phương diện tổ chức, quản lý, doanh nghiệp được coi như là sản phẩm của quá trình sản xuất đặc biệt này. Do đó, cũng giống như mọi sản phẩm khác, doanh nghiệp cũng có chu kỳ sống và tuân theo quy luật “vòng đời” của sản phẩm. Vì thế giải thể doanh nghiệp là nội dung tất yếu của viêc sắp xếp lại DNNN. Trong thực tiễn việc giải thể rất phức tạp, khó làm và thường kéo dài, có những doanh nghiệp rơi vào tình trạng phải giải thể nhưng không giải thể được. Vướng mắc chủ yếu khi giải thể tập trung vào những vấn đề: Chính sách Nhà nước về giải thể doanh nghiệp Thủ tục giải thể (trình tự, nội dung, quy định...) Cán bộ tham gia thực hiện giải thể Công nợ của doanh nghiệp Quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động trong doanh nghiệp Do vậy cần thiết phải vận dụng Thông tư số 25 với những nội dung sau: Một là, về quy trình thực hiện giải thể DNNN do cấp địa phương thành lập và quyết định giải thể doanh nghiệp trong nội dung các quyết định giải thể do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố ký chưa cần có phương án giải thể mà cần thành lập ngay hội đồng giải thể; bởi lẽ phương án giải thể chính là việc vận dụng chế độ chính sách của Nhà nước để giải quyết các vấn đề tài sản, công nợ, quyền lợi của người lao động trong doanh nghiệp. Các nội dung này cần được xem xét kỹ càng và được hội đồng thẩm định kiểm tra để trình Uỷ ban nhân dân thành phố (tỉnh) quyết định và thực hiện. Mặt khác, khi thống nhất phải giải thể doanh nghiệp lại cần có ngay quyết định giải thể nhằm xác định thời điểm giải thể để xử lý phạm vi công nợ và quyền hạn chế độ quản lý và lao động. Hai là, cơ cấu hội đồng giải thể do cấp địa phương thành lập cần có các thành viên đại diện cho các ngành sau: Đại diện Uỷ ban nhân dân thành phố (tỉnh) làm Chủ tịch Hội đồng (hoặc uỷ quyền cho sở chủ quản) Sở Kế hoạch và đầu tư - Uỷ viên Sở Tài chính - vật giá - Uỷ viên Ban Tổ chức - chính quyền - Uỷ viên Ngân hàng - Uỷ viên Thuế - Uỷ viên Công đoàn doanh nghiệp - Uỷ viên Đại diện lãnh đạo doanh nghiệp - Uỷ viên Các tổ chuyên viên giúp việc Ba là, việc đăng báo công bố giải thể có thể thực hiện sau khi hội đồng giải thể thẩm định phương án giải thể, trình Uỷ ban nhân dân chấp nhận chính thức. Bốn là, quy định thời gian tiến hành mở tài khoản và tổ chức đấu giá thu hồi tài sản doanh nghiệp có thể tiến hành dài hơn. Tuỳ theo quy mô và đặc điểm tài sản của doanh nghiệp (trong khoảng 30 - 45 ngày). 6. Kiến nghị về sắp xếp doanh nghiệp công ích: Trước tiên, cần phân biệt giữa sản phẩm, dịch vụ công ích, công trình công ích với doanh nghiệp công ích. Trên cơ sở đó, quy định rõ những sản phẩm, dịch vụ nào Nhà nước cần duy trì với doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. Những doanh nghiệp này thực sự là những DNNN hoạt động công ích và nên hạn chế tối đa về số lượng. Chỉ duy trì hoặc thành lập mới những lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác không được làm như an ninh quốc phòng, xuất bản, đảm bảo hệ thống thông tin liên tỉnh và quốc tế... và những lĩnh vực tư nhân không muốn làm được chưa làm được như quản lý khai thác công trình thuỷ nông, sản xuất thóc giống, thoát nước đô thị... Với các sản phẩm, dịch vụ công ích khác nên cho phép doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác tham gia. Các doanh nghiệp này khi tham gia cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích theo kế hoạch, đơn đặt hàng, giá, phí của Nhà nước quy định mà không bù đắp được chi phí sản xuất hoạt động công ích thì được hưởng các chế độ trợ cấp, trợ giá và các ưu đãi khác của Nhà nước như đối với DNNN hoạt động công ích. Mặt khác, cũng cần có cơ chế để xác định giá, phí, mắc trợ giá, bù lỗ cho các sản phẩm, dịch vụ này một cách hợp lý. Nhà nước cần ban hành cơ cấu đấu thầu các sản phẩm, dịch vụ công ích, kể cả việc đấu thầu hoặc khoán định mức bù lỗ cho các sản phẩm này hoặc cho các DNNN công ích. Với cơ chế đấu thầu, các hoạt động công ích sẽ được thực hiện với chi phí thấp, chất lượng cao, đồng thời giảm dần sự bao cấp của Nhà nước cho hoạt động công ích. Các quy định về vốn, lao động, tiền lương, cán bộ quản lý, kiểm tra, kiểm soát đối với DNNN công ích cũng cần phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới để doanh nghiệp hoạt động ổn định, hiệu quả, hoàn thành nhiệm vụ được giao, thực hiện đúng mục tiêu thành lập, đối tượng phục vụ và phạm vi hoạt động. III. Về thị trường, vốn, công nghệ, lao động hỗ trợ các DNNN thực hiện đổi mới, sắp xếp lại 1. Giải pháp mở rộng thị trường cho DNNN Hiện nay, các DNNN vẫn đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm khai thác thị trường tiêu thụ sản phẩm cả ở trong và ngoài nước. Thị trường trong nước bị sức ép của hàng ngoại rất mạnh và sự lũng đoạn của doanh nghiệp tư nhân. Trong lĩnh vực thương nghiệp, các doanh nghiệp tư nhân buôn lậu và trốn thuế đối với hàng nhập ngoại làm cho các DNNN nhập khẩu chính ngạch nộp thuế đầy đủ có giá bán cao, sức cạnh tranh kém. Các DNNN sản xuất hàng nội địa cũng ở tình trạng tương tự, bị hàng nhập lậu chèn ép gay gắt. Đồng thời còn bị tệ nạn làm hàng giả, hàng “nhái mẫu mã” làm mất tín hiệu của người tiêu dùng trong nước. Thị trường xuất khẩu tuy vẫn được các DNNN chú ý tìm hướng mở rộng và tăng doanh thu và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu nhưng vẫn còn rất khiêm tốn. Tìm kiếm các giải pháp về thị trường đầu ra cho các DNNN phát triển trong những năm tới cần quan tâm đến những hướng sau: Đối với thị trường trong nước: cần tăng cường vai trò quản lý nhà nước, xử lý nghiêm khắc những hoạt động buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trốn lậu thuế, đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cùng tham gia kinh doanh, ổn định thị trường tiêu thụ nội địa, hỗ trợ các DNNN làm ăn nghiêm chỉnh. Chú ý tìm hướng tới thị trường giữa các tỉnh, tạo lập thị trường giữa các vùng kinh tế thông qua việc xác định và hoàn thiện hơn cơ cấu kinh tế cho từng vùng. Kiến nghị Chính phủ tiếp tục hạn chế, kiểm soát nhập khẩu những hàng hoá mà các DNNN trong nước sản xuất được để giúp các doanh nghiệp Nhà nước vươn lên đáp ứng nhu cầu thị trường. Thu hút khuyến khích đầu tư nước ngoài liên kết các DNNN đầu tư công nghệ mới để nâng cao chất lượng, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Duy trì, phát triển thị trường xuất khẩu thông qua các hoạt động gia công, chế biến xuất khẩu. Đồng thời mạnh dạn khuyến khích các DNNN tham gia xuất khẩu trực tiếp và mở văn phòng đại diện, đại lý tiêu thụ hàng hoá do các DNNN sản xuất tại các nước có thị trường tiêu thụ lớn. Thông qua các quan hệ, nghiên cứu thí điểm xây dựng các trung tâm thương mại tại các nước có thị trường ổn định đễ hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu. 2. Giải pháp về huy động vốn đầu tư khuyến khích DNNN thực hiện đầu tư mở rộng sản xuất và đổi mới công nghệ Về khách quan, khi tham gia một sân chơi bình đẳng, DNNN cũng phải tự huy động vốn, tìm nguồn vốn, vay vốn như mọi doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, do đặc thù của DNNN, vốn ban đầu trong thời kỳ bao cấp quá nhỏ, cơ chế phân phối lợi nhuận còn sử dụng khấu hao không tạo thuận lợi cho việc tích tụ vốn, cơ chế cấp bổ sung vốn rất hạn chế nên doanh nghiệp thường thiếu vốn và khó khăn trong nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Vì thế cần có những biện pháp ưu đãi về vốn để giúp doanh nghiệp nhanh chóng nâng cao hiệu quả cạnh tranh. Mặc khác, DNNN là doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, Nhà nước vẫn thực hiện chức năng quản lý vĩ mô, nhưng vừa là người chủ của DNNN vì thế việc ưu đãi cho doanh nghiệp thông qua vấn đề vốn là cần thiết. Để thúc đẩy tiến trình đổi mới, sắp xếp trong giai đoạn từ 2000 đến 2005, Nhà nước cần tăng tỷ trọng vốn đầu tư từ nguồn ngân sách trực tiếp hoặc gián tiếp cho các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ và mở rộng sản xuất theo hướng tăng tỷ trọng vốn cho vay ưu đãi dài hạn với lãi suất hợp lý. Đối với nguồn vốn vay thương mại của các DNNN hiện nay, Nhà nước tiếp tục duy trì việc hỗ trợ lãi suất vay như những năm vừa qua đến hết năm đối với các lĩnh vực trọng điểm. Sau đó tuỳ khả năng ngân sách để có biện pháp cụ thể. Đối với các nguồn tài chính thu được từ bán khoán, cổ phần hoá Nhà nước nên ban hành quy chế cụ thể để sử dụng ngay và có hiệu quả nguồn vốn này không nên để ứ đọng. Tích cực cải cách cơ chế, thủ tục xét duyệt và cấp phép đầu tư theo hướng tập trung một đầu mối để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài liên kết, liên doanh với các DNNN, đồng thời việc thực hiện kế hoạch đầu tư tập trung một đầu mối cũng sẽ tạo điều kiện để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư; giảm thủ tục thời gian cho doanh nghiệp. Thu hút vốn từ nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế cho DNNN vừa và nhỏ. Muốn kéo đàu tư, hỗ trợ từ phía nước ngoài, Bộ Tài chính cần xét lại bộ luật về thuế thu nhập cá nhân để giản tiện và hữu hiệu hoá hơn. Việt Nam có thể giảm tỷ lệ thuế thu nhập cá nhân hay học hỏi kinh nghiệm của Singapore đánh thuế thu nhập các doanh nghiệp trên một tỷ lệ cố định là 15%. Với nguồn vốn đa dạng và có ưu đãi, Nhà nước nên khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư để thay thế thiết bị cũ, mở rộng sản xuất áp dụng công nghệ mới. Định hướng đầu tư và áp dụng công nghệ mới theo hướng sau: Kết hợp chặt chẽ giữa các loại quy mô: quy mô nhỏ - quy mô vừa - quy mô lớn. Trong đó trước mắt lấy quy mô nhỏ, quy mô vừa làm chủ đạo. Kết hợp chặt chẽ giữa việc thay thế thiết bị với đầu tư dây chuyền đồng bộ mở rộng sản xuất sản phẩm và đầu tư sản xuất sản phẩm mới; cần có bước đi vững chắc, thích hợp với từng doanh nghiệp, không đầu tư theo hình thức hoặc phong trào. Kết hợp công nghệ tiên tiến, hiện đại với công nghệ trung bình và công nghệ sản xuất truyền thống theo đặc thù củ doanh nghiệp. Khuyến khích doanh nghiệp đã làm ăn có hiệu quả, có năng lực đi thẳng vào công nghệ hiện đại, sử dụng công nghệ hiện đại tiên tiến của thế giới để tạo sức cạnh tranh khi mở cửa và hội nhập. Đối với các doanh nghiệp nguồn vốn còn hạn chế khuyến khích việc đổi mới thiết bị với việc tận dụng thiết bị cũ của các nước tiên tiến nhưng phù hợp với trình độ công nghệ kỹ thuật của Việt Nam để cơ bản tạo bước đi tích cực và vững chắc. Kết hợp đổi mới công nghệ, mặt hàng sản xuất với phát triển bền vững môi trường sinh thái và cảnh quan. Khuyến khích các DNNN huy động các nguồn đầu tư khác để đổi mới công nghệ như các nguồn vốn từ nội bộ cán bộ công nhân viên, từ nguồn liên kết, hợp tác với nước ngoài để đầu tư đổi mới công nghệ hiện đại. Thực hiện tốt chiến lược công nghệ sẽ quyết định đến nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn. Chiến lược công nghệ của doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện nhanh chóng và hiệu quả khi doanh nghiệp xem đây là khâu đột phá có tính chất cách mạng và sẵn sàng trả thù lao xứng đáng cho các phát minh sáng chế có giá trị thực tiễn trong việc đổi mới quy trình công nghệ phục vụ sản xuất và hoạt động dịch vụ, có chế độ đãi ngộ thích đáng đối với chuyên gia kỹ thuật giỏi. Để chiến lược công nghệ thực thi có hiệu quả cần phải đẩy mạnh hơn nữa sự liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp và các trường đại học, viện nghiên cứu. Qua sự hợp tác này tạo nên sự giao thoa giữa tri thức khoa học và thực tiễn hoạt động sản xuất, một vấn đề được quan tâm đặc biệt khi mà chúng ta đang tiếp cận với nền kinh tế tri thức. 3. Giải pháp về đào tạo, lao động việc làm: Để giải quyết tốt vấn đề lao động việc làm cho số lao động so sắp xếp DNNN dôi ra cần chú ý các vấn đề sau: Nhà nước cần ban hành và thực hiện chính sách hỗ trợ với mức kinh phí thoả đáng và công bằng do những người lao động có quá trình cống hiến nhiều năm làm việc trong DNNN. Để họ tự nguyện tìm kiếm công việc làm thích hợp khi doanh nghiệp bị phán sản, giải thể hoặc chấp nhận sự sắp xếp chuyển đổi vị trí sang cơ quan khác. Đó là chưa kể kinh phí giải quyết cho người lao động dôi dư trong các DNNN không thuộc diện sắp xếp trong giai đoạn 2000 - 2005, nếu giải quyết số lao động này thì cần phải có thêm số kinh phí khoảng 1200 - 1500 tỷ đồng. Sử dụng kinh phí thu được từ bán cổ phần ở các doanh nghiệp cổ phần hoá để tổ chức đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại cho số lao động còn đủ điều kiện về sức khoẻ và trình độ văn hoá. Bằng nhiều hình thức đào tạo bồi dưỡng thích hợp để người lao động có thể tham gia đào tạo, bồi dưỡng có được trình độ chuyên môn đáp ứng được yêu cầu của nơi làm việc mới. Khuyến khích, ưu đãi cho các nhà đầu tư mua lại doanh nghiệp nếu họ cam kết sử dụng hết lao động hiện có của doanh nghiệp nhà nước trước khi thực hiện sắp xếp. Tìm kiếm, mở rộng hướng xuất khẩu lao động, ưu tiên tuyển chọn lao động xuất khẩu từ lực lượng lao động dôi ra ở các DNNN thực hiện sắp xếp. IV. Các giải pháp khác 1. Quy chế giám sát tài chính đối với doanh nghiệp Công khai hoá và minh bạch hoạt động tài chính cần được xem là xuất phát điểm của chiến lược tài chính, qua đó doanh nghiệp biết được thực trạng và hiệu quả của đồng vốn. Từ đó có những quyết sách đúng đắn về sử dụng tài chính trong tương lai. Nhanh chóng áp dụng các nguyên tắc kế toán và kiểm toán theo thông lệ quốc tế - điều đó phải được xem là vấn đề quan trọng trong quá trình cải cách các DNNN. Chúng ta lưu ý một điều là Việt Nam được tổ chức tư vấn về rủi ro kinh tế và chính trị có trụ sở tại Hồng Kông (PERC) xếp hạng cao nhất về an toàn ở Đông Nam á trong năm 2001 là một điều thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nhưng cũng tổ chức này xếp hạng cho Việt Nam thấp nhất về độ công khai minh bạch trong hoạt động kinh doanh. Đó cũng là một trong những điều kiện hết sức cần thiết để tiến hành CPH các DNNN. Theo quy định của Luật DNNN ban hành tháng 6/1995, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước và giám sát đối với DNNN thông qua các hoạt động: Ban hành chính sách, cơ chế quản lý đối với từng loại hình DNNN chính sách khuyến khích, chế độ trợ cấp, trợ giá và chế độ ưu tiên đối với các sản phẩm và dịch vụ hoạt động công ích. Quyết định các biện pháp bảo hộ và hỗ trợ các DNNN quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Xây dựng quy hoạch và chiến lược phát triển DNNN trong tổng thể quy hoạch và chiến lược phát triển ngành, lãnh thổ. Tổ chức kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật, chủ trương chính sách chế độ nhà nước tại doanh nghiệp. Phân cấp cho các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện việc quản lý nhà nước đối với DNNN theo sự phân công của Chính phủ. Tuy nhiên, các DNNN đã và đang ngày càng được giao quyền chủ động hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tương đối độc lập về tài chính đối với cơ quan chủ quản DNNN. Do đó, công tác giám sát DNNN của Chính phủ thông qua việc thi hành các luật thuế, thông qua hệ thống ngân hàng, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo và thực hiện kiểm tra, thanh tra, kiểm toán DNNN ngày càng được tăng cường. Hiện nay, thành lập và quản lý DNNN có 3 cấp: loại DNNN do Thủ tướng Chính phú thành lập, loại doanh nghiệp do các bộ, ngành thành lập và loại doanh nghiệp do các địa phương thành lập. Các cấp này nắm vai trò là cơ quan chủ quản đối với các DNNN thuộc cấp và ngành mình (quản lý theo chiều ngang). Bên cạnh đó, nhiều cơ quan và tổ chức theo chức năng của mình có chức năng giám sát DNNN theo chiều dọc: Tổng cục quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, Tổng cục thuế, Tổng cục hải quan, Kiểm toán nhà nước. Kể từ khi Luật DNNN ra đời, Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc kiến tạo hệ thống văn bản pháp quy hướng dẫn đi kèm nhằm tạo ra một khuôn khổ pháp lý thật sự tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động, đồng thời tăng cường cơ chế giám sát và quản lý DNNN. Tuy nhiên, trên thực tế một số quy định về quản lý DNNN thực sự chưa đi vào cuộc sống, chưa đáp ứng được các yêu cầu sản xuất kinh doanh của các DNNN. Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với DNNN ban hành kèm theo Nghị định số 59/CP ngày 3/10/1996 là một bước quan trọng trong cơ chế quản lý tài chính đối với DNNN. Tuy nhiên quy chế cũng còn khá nhiều tồn tại làm hạn chế khả năng huy động vốn của nhiều DNNN, hạn chế quyền chủ động của DNNN và gây khó khăn trong việc quản lý, giám sát DNNN. Nghị định 27/1999/NĐ-CP ngày 20/4/1999 sửa đổi, bổ sung “Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với DNNN” với một số nội dung đổi mới theo hướng trao quyền chủ động hơn cho doanh nghiệp, mở rộng khả năng huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp, nâng cao trách nhiệm giám sát của Hội đồng quản trị trong các DNNN tổ chức theo mô hình Tổng Công ty. Tuy hệ thống các văn bản pháp lý điều chỉnh các hoạt động của DNNN nhiều nhưng chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ và chưa sát thực. Tình trạng các văn bản mâu thuẫn nhau làm các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp khó thi hành vẫn còn tồn tại. Hiện nay, còn tồn tại quá nhiều đầu mối cơ quan quản lý và giám sát DNNN. Việc thanh tra, kiểm tra các hoạt động của DNNN là hết sức cần thiết giúp tìm ra những tồn tại khó khăn để có các giải pháp tháo gỡ cho doanh nghiệp song tình trạng nhiều cơ quan, tổ chức cùng đến kiểm tra doanh nghiệp cũng gây nên những phiền hà không đáng có. Nhiều khi doanh nghiệp không biết được cơ quan nào chịu trách nhiệm trong việc xử lý các vấn đề của doanh nghiệp. Mặt khác việc tháo gỡ những khó khăn cho DNNN thường không kịp thời do phải qua nhiều cấp, nhiều ngành. Nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý, giám sát DNNN, từng bước lành mạnh hoá tài chính cho DNNN, thiết nghĩ một trong những nhiệm vụ trọng tâm là phải xây dựng và thực hiện quy chế giám sát tài chính đối với doanh nghiệp, đặc biệt là DNNN để phát hiện và ngăn chặn kịp thời tình trạng khó khăn và đổ vỡ về tài chính doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tăng cường hơn nữa công tác phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, giám sát hoạt động tín dụng để phòng ngừa hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng. Trước mắt, cần tổ chức tổng kiểm kê đánh giá lại tài sản, vốn và tình trạng tài chính trong DNNN để nắm được toàn diện tình hình sản xuất kinh doanh, tình trạng vốn, hiệu quả hoạt động, đề ra và tổ chức thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực hoạt động của các DNNN. Đồng thời, cần nhanh chóng thực hiện bổ sung, sửa đổi Luật DNNN và hoàn thiện hơn nữa các văn bản hướng dẫn thi hành luật cho phù hợp với tình hình mới. 2. Đổi mới công tác đào tạo và bố trí cán bộ quản lý DNNN Điều quyết định thành bại của DNNN là chiến lược nhân lực. Lựa chọn người có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức và tài năng vào các vị trí chủ chốt của DNNN là khâu đột phá trong chiến lược sử dụng con người thông qua cơ chế tuyển dụng, tuyển chọn nghiêm túc. Khắc phục tình trạng hiện nay có đến 67% giám đốc DNNN không đọc nổi bản báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp (theo Báo cáo của Bộ tài chính năm 2000), tiến tới mọi thành viên của doanh nghiệp phải biết được tình hình tài chính hàng năm của doanh nghiệp và hiệu suất sinh lời của đồng vốn, từ đó để điều chỉnh các chiến lược kinh doanh. Đồng thời với việc thực hiện kế hoạch sắp xếp DNNN, Chính phủ và Ban đổi mới doanh nghiệp trung ương cần có chương trình kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo và đào tạo lại một cách cấp bách đội ngũ cán bộ quản lý DNNN nói chung, đặc biệt là cán bộ chủ chốt: giám đốc, phó giám đốc, bí thư Đảng uỷ. Thực hiện thí điểm mô hình thi tuyển chọn giám đốc DNNN. Nghiên cứu xây dựng và ban hành thực hiện chế độ quyền lợi giám đốc gắn với kết quả và hiệu quả kinh doanh của DNNN. Đồng thời bồi dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo DNNN kế cận một cách thường xuyên. 3. Đổi mới và phát huy hiệu quả các mối quan hệ phối hợp quản lý trong nội bộ DNNN Từ thực tiễn những năm qua ở các DNNN nói chung và đặc biệt ở các DNNN yếu kém các mối quan hệ phối hợp quản lý nội bộ DNNN thường bị xem nhẹ. Đó là tình trạng cấp dưới không chấp hành chỉ đạo của cấp trên, cá nhân coi thường tập thể, vai trò của các tổ chức đảng, công đoàn không được chú ý... dẫn đến tình trạng chung là kỷ cương của doanh nghiệp kém, doanh nghiệp hay mất đoàn kết nội bộ, tư tưởng người lao động thiếu yên tâm. Do đó, sau khi tiến hành sắp xếp DNNN cần thiết và cấp bách phải nghiên cứu đổi mới và phát huy hiệu quả các mối quan hệ phối hợp trong quản lý nội bộ DNNN nhằm đạt được sự đoàn kết thống nhất từ ban lãnh đạo doanh nghiệp cho đến các tổ chức sản xuất kinh doanh và từng người lao động đều thấm nhuần tinh thần này. 4. Phát triển DNNN cần phải đặt trong mối tương quan với phát triển doanh nghiệp dân doanh Kết hợp lẫn nhau giữa DNNN và doanh nghiệp dân doanh để chúng có thể bổ sung cho nhau, nhằm khắc phục một thực tế hiện nay: DNNN có tiềm năng kinh tế cao nhưng hiệu quả kinh tế nói chung kém doanh nghiệp dân doanh tiềm lực thấp nhưng hiệu quả thường cao hơn. Chủ trương kết hợp đó có thể mở rộng ra thị trường thế giới với các doanh nghiệp Việt kiều ở nước ngoài, qua đó nhanh chóng tranh thủ được vốn, công nghệ hiện đại và kinh nghiệm thương trường của người Việt ở nước ngoài. Về lĩnh vực này, thành công của Trung Hoa lục địa với Hoa kiều ở nước ngoài là đáng học hỏi. Việc cư xử đồng đều giữa thành phần quốc doanh và dân doanh sẽ tạo ra môi trường thuận lợi cho nền kinh tế nhiều thành phần. Nếu muốn phát triển kinh tế mau chóng, không thể chỉ dựa vào DNNN. Ví dụ, nông dân được quyền tự do trồng trọt theo ý muốn từ năm 1986 nhưng việc xuất khẩu gạo là độc quyền các DNNN. Một nghiên cứu cho thấy là nông dân chỉ hưởng 16% giá xuất khẩu gạo trong khi các DNNN được trên 45%. Các DNNN còn nhiều đôc quyền trong việc xuất nhập khẩu, phân phối phân bón hay các đầu vào khác trong nông nghiệp. Như vậy trong khu vực nông nghiệp Nhà nước còn kiểm soát nhiều khâu kẻ cả gây một số trở ngại cho khu vực ngoài quốc doanh trong các vấn đề giấy tờ đăng ký doanh nghiệp, thế chấp, quyền sử dụng đất... Cư xử đồng đều còn dính đến khu vực nông thôn hay nước ngoài các doanh nghiệp tư hay nước ngoài bị giới hạn trong vấn đề sản xuất một số mặt hàng. Việt Nam nên dần bỏ bớt các giới hạn này để thu hút đầu tư nước ngoài. Việt Nam không thể tiếp tục “bao cấp” các DNNN trong môi trường thương mại toàn cầu. Các độc quyền của các DNNN sẽ phải dần dần chấm dứt. Các thành phần kinh tế đều được hưởng những ưu đãi như nhau, đồng loạt cùng nhau phát triển bình đẳng và vững chắc. Kết luận Khả năng cải cách doanh nghiệp nhà nước để biến chúng thành các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả không thua kém các doanh nghiệp tư nhân trong một nền kinh tế cạnh tranh, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế đó là việc làm rất khó khăn cả về mặt hoạch định và thực thi. Qua quá trình nghiên cứu và tham khảo tài liệu có liên quan, nhìn nhận về thực trạng của DNNN hiên nay có thể rút ra nhận xét rằng: kết quả thực hiện trong nhiều năm vừa rồi cho thấy việc cải tổ cơ cấu trong khu vực doanh nghiệp nhà nước chưa đạt được mục tiêu căn bản. Khoá luận đã rút ra nguyên nhân tình trạng trên từ cả hai phía chủ quan và khách quan. Nền kinh tế có xuất phát điểm thấp là những nguyên nhân khách quan còn những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ những vấn đề liên quan đến pháp lý, công tác tổ chức, nhân sự và công tác tuyên truyền về đổi mới, sắp xếp để nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà nước. Với kiến thức, trình độ còn nhiều hạn chế em cũng mạnh dạn đóng góp một số giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới, cải cách hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Song đó là những giải pháp chưa có được sự đồng bộ và hoàn thiện. Vì thế, khoá luận này cũng nhận thức được rằng để có được các biện pháp hữu hiệu để nâng cao tác động tích cực đến nền kinh tế của khu vực DNNN - trụ cột của nền kinh tế quốc dân, thì không những Chính phủ phải có chiến lược và kế hoạch đúng đắn mà còn cần thiết có sự phối hợp nhịp nhàng của các bộ ngành liên quan và đặc biệt là giải quyết vấn đề tư tưởng cho người lao động không chỉ ở trong các doanh nghiệp là đối tượng sắp xếp lại và cải cách. Về viễn cảnh của nền kinh tế Việt Nam trong những năm tới tất nhiên chúng ta đều có niềm mong ước cho một tương lai sáng sủa hơn của đất nước Việt Nam, bắt đầu bằng hình ảnh tốt đẹp là mong Việt Nam sẽ “ngựa phi đường xa” trong năm Nhâm Ngọ 2002. Sau đó là nỗ lực thu ngắn khoảng cách tụt hậu từ lâu với các lân bang châu á. Do thời gian có hạn và trình độ còn nhiều hạn chế nhưng được sự giúp đỡ tận tình của Thạc sỹ Bùi Thị Lý, em đã hoàn thành khoá luận của mình. Tuy nhiên, khoá luận của em chắc chắn còn nhiều thiếu sót nên em rất mong được sự góp ý của các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế ngoại thương để hoàn thiện hơn nữa khoá luận này. Hà Nội tháng 10 năm 2002 Danh mục tài liệu tham khảo Luật Doanh nghiệp và các văn bản liên quan, Bộ kế hoạch và đầu tư, 1997. Tìm hiểu Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật sư Trần Hà, Nxb Đồng Nai. Giám đốc doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế thị trường, PGS.TS Lê Văn Tâm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Bàn về cải cách toàn diện doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc, Trương Văn Bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. Văn kiện Đai hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. Nghị định 338/HĐBT, Nghị định 50/CP, 56/CP. Nghị định 90/CP, 91/CP; Chỉ thị 500/TTg. Sắp xếp doanh nghiệp nhà nước chi phí và các giải pháp, Đặng Văn Thanh, Bộ Tài chính. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 1, 2 - 2002. Tạp chí Tài chính doanh nghiệp, tháng - 2002 Sự phối hợp trong các hoạt động cải cách hệ thống tài chính và khu vực doanh nghiệp (đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước), Tiến sĩ kinh tế Lê Quốc Lý. Tạp chí Thương mại, số 22 - 2002. Tạp chí Con số và Sự kiện, số 2, 3 - 2002 Tạp chí Cộng sản, số 653, tháng 8 - 2002 Báo cáo phát triển Việt Nam 2002 - Thực hiện cải cách để tăng trưởng và giảm nghèo nhanh hơn - World Bank tại Việt Nam Tạp chí Thế giới thương mại, số 28, ngày 13- - 19/7/2002 Kinh tế Việt Nam đổi mới - Tiến sỹ Nguyễn Văn Chỉnh, Tiến sỹ Vũ Quang Việt, Cử nhân Trần Vân, Cử nhân Lê Hoàng, Nxb Thống Kê, Hà Nội, 2002. Kinh tế thế giới 2001 - 2002 đặc điểm và triển vọng, Tiến sỹ Kim Ngọc, Nxb Chính trị quốc gia. Nghị định 28/CP, 44/CP về thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Những vấn đề kinh tế Việt Nam thử thách của hội nhập, Phạm Đỗ Chí, Trần Nam Bình, Vũ Quang Việt; Thời báo kinh tế Sài Gòn, Trung tâm kinh tế châu á - Thái Bình Dương. Trường đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương ........ – ² — ........ Khóa luận tốt nghiệp Đề tài: đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam Giáo viên hướng dẫn : Thạc sỹ. Bùi Thị Lý Sinh viên thực hiện : Phạm Thị Kim Ngân Lớp : Nhật 3 - K37 Hà Nội, năm 2002 Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Chương I: Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa 3 I. Khái niệm và phân loại DNNN 3 1. Khái niệm về DNNN 3 2. Phân loại DNNN 6 II. Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước 8 1. Vai trò kinh tế 10 2. Vai trò chính trị 13 3. Vai trò xã hội 13 III. Một số kinh nghiệm phát triển và cải cách DNNN của các nước 13 1. Kinh nghiệm của các nước phát triển 13 2. Kinh nghiệm của các một số nước đang phát triển về phát triển và cải cách xếp lại DNNN 14 Chương II: Thực trạng của DNNN ở nước ta những năm qua và những đổi mới bước đầu 19 I. Quá trình hình thành và phát triển của DNNN ở Việt Nam 19 1. Quá trình hình thành của DNNN và kinh tế Nhà nước qua các thời kỳ 19 2. Quá trình hình thành, phát triển DNNN ở Việt Nam 21 II. Những đổi mới của DNNN ở Việt Nam trong những năm qua 24 1. Thực chất của việc đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động DNNN ở nước ta 24 2. Những đổi mới bước đầu của DNNN ở Việt Nam 25 3. Những kết quả bước đầu triển khai phương án đổi mới, sắp xếp nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN ở một số tỉnh, thành trong cả nước 42 III. Thực trạng tình hình DNNN ở Việt Nam hiện nay 46 1. Hiệu quả của DNNN - một bức tranh màu xám 47 2. Kém hiệu quả của DNNN - những nguyên nhân 52 3. DNNN trong bối cảnh hội nhập - Thách thức mới đối với kinh tế Việt Nam 61 Chương III: Những giải pháp tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN ở Việt Nam 65 I. Về tư tưởng 65 1. Cần tăng cường hoạt động tuyên truyền phổ biến các quan điểm, chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới, sắp xếp lại DNNN. 65 2. Công tác vận động tư tưởng đối với người lao động ở các DNNN sắp xếp lại hiện nay. 66 3. Công tác tư tưởng trong việc đào tạo, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ chủ chốt của DNNN. 68 II. Về tổ chức quản lý 68 1. Những tồn tại và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định thành lập, thẩm định DNNN. 68 2. Một số kiến nghị về tổ chức mô hình DNNN quy mô lớn 73 3. Những đề xuất và kiến nghị nhằm thúc đẩy cổ phần hoá DNNN. 77 4. Kiến nghị về thực hiện bán, khoán, cho thuê DNNN 83 5. Kiến nghị về sửa đổi quy trình thực hiện giải thể DNNN 84 6. Kiến nghị về sắp xếp doanh nghiệp công ích 86 III. Về thị trường vốn, công nghệ, lao động hỗ trợ các DNNN thực hiện đổi mới, sắp xếp lại. 87 1. Giải pháp mở rộng thị trường cho DNNN 87 2. Giải pháp về huy động vốn đầu tư khuyến khích DNNN thực hiện đầu tư mở rộng sản xuất và đổi mới công nghệ. 88 3. Giải pháp về đào tạo, lao động việc làm 91 IV. Các giải pháp khác 91 1. Quy chế giám sát tài chính đối với doanh nghiệp 91 2. Đổi mới công tác đào tạo, bố trí cán bộ quản lý DNNN 94 3. Đổi mới và phát huy hiệu quả các mối quan hệ phối hợp quản lý trong nội bộ DNNN. 95 4. Phát triển DNNN cần phải đặt trong mối tương quan với phát triển doanh nghiệp dân doanh. 95 Kết luận 97 Danh mục tài liệu tham khảo 98 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUAN VAN TOT NGHIEP.doc
Tài liệu liên quan