Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa ở Việt Nam

Lời mở đầu Trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, sự di chuyển các nguồn lực (vốn, tài nguyên, kỹ thuật, lao động…) giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng gia tăng và phát triển. Sự di chuyển đó được quyết định bởi đầu tư quốc tế (bao gồm đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp ). Trong đó đầu tư trực tiếp đóng vai trò quan trọng. Dòng đầu tư này đang vận động theo nhiều chiều, dưới nhiều hình thức và ngày càng có xu hướng tự do hóa. Đây là một tất yếu khách quan. Các nước đều phải chấp

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1420 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhận tính tất yếu này dù là nước phát triển hay nước đang phát triển. Nước nào nhận thức được nó và tạo điều kiện cho nó vận động thì nước đó sẽ phát triển lớn mạnh. Đối với các nước đang phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là nhân tố quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế. Muốn tăng trưởng nhanh các nước này cần phải lợi dụng ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường, lao động… của nhiều nước. Song nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới là có hạn, mà nhu cầu về nó ngày càng lớn. Nó càng trở nên bức thiết trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và phân công lao động quốc tế sâu rộng ngày nay. Làm thế nào để thu hút được nguồn vốn này là vấn đề còn nan giải ở các nước đang phát triển bởi lẽ dòng vốn đầu tư trực tiếp khi chảy vào các nước này thường gặp nhiều trở ngại do trình độ kinh tế xã hội của họ còn thấp, nền kinh tế hàng hóa kém phát triển, trình độ kỹ thuật và quản lý lạc hậu, cơ sở hạ tầng yếu kém, môi trường đầu tư không hấp dẫn. Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế của mình từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường; quá trình chuyển đổi này Việt Nam cần vốn đầu tư nước ngoài để bù đắp sự thiếu hụt về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý…nhằm tăng năng suất lao động, tạo công ăn việc làm trong nước. Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thực sự có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp cải cách và đổi mới cũng như công cuộc CNH-HĐH của Việt Nam. Trên cơ sở đó chúng tôi đã thực hiện đề tài: “Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” Đồng thời đưa ra một số kiến nghị mới về quan điểm, chính sách và giải pháp chủ yếu nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ công cuộc CNH-HĐH trong thời gian tới. Trong qua trình hoàn thành công trình này, chúng tôi đã nhận được và chân thành cảm ơn những nhận xét, đóng góp ý kiến, giúp đỡ của cô Trần Mai Hoa. Do trình độ và thời gian có hạn nên chắc chắn rằng các vấn đề trình bày trong đề tài này không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của bạn đọc. Phần i lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và công nghiệp hóa, hiện đại hóa. i - Đầu tư trực tiếp nước ngoài 1. Khái niệm Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hửu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn. Sự ra đời và phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài là kết quả tất yếu của quá trình quốc tế hóa và phân công lao động quốc tế. Trên thực tế có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về đầu tư nước ngoài. Theo hiệp hội luật quốc tế (1966) “ đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhằm xây dựng ở đó xí nghiệp kinh doanh hoặc dịch vụ”. Cũng có quan điểm cho rằng “Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhưng không phải để mua hàng hóa tiêu dùng của nước này mà dùng để chi phí cho các hoạt động có tính chất kinh tế xã hội”. Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành năm 1987 và được bổ xung hoàn thiện sau 4 lần sửa đổi (1989, 1992, 1996, 2000) “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc các tổ chức và cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài”. 2. Các lý thuyết đầu tư nước ngoài Sau chiến tranh thế giới thứ hai, FDI tăng lên nhanh chóng và trở thành hiện tượng nổi bật trong các hoạt động kinh tế quốc tế. Vì thế, đã thu hút được nhiều sự chú ý của giới nghiên cứu giải thích hiện tượng này. Với các phương pháp tiếp cận khác nhau, các tác giả đã đưa ra nhiều quan điểm lý thuyết về nguyên nhân hình thành đầu tư nước ngoài và phân tích tác động của nó đến kinh tế thế giới, trong đó đặc biệt là đối với thúc đẩy quá trình CNH của các nước đang phát triển. Những lý thuyết về đầu tư nước ngoài có ảnh hưởng quan trọng, làm cơ sở lý luận cho việc xây dựng chính sách thu hút FDI của những nước đang phat triển. Cho đến nay, có nhiều lý thuyết khác nhau về đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, có thể chia thành hai nhóm lý thuyết chủ yếu: 2.1. Các lý thuyết kinh tế vĩ mô Trong các tài liệu đầu tư nước ngoài, các lý thuyết kinh tế vĩ mô về lưu chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế thường chiếm vị trí quan trọng. Các lý thuyết này giải thích và dự đoán hiện tượng đầu tư nước ngoài dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh của các yếu tố đầu tư (vốn, lao động, công nghệ) giữa các nước, trong đó đặc biệt là giữa các nước phát triển và đang phát triển. Các lý thuyết kinh tế vĩ mô dựa trên mô hình cổ điển 2´2(hai nước, hai hàng hóa, hai yếu tố sản xuất) để so sánh hiệu quả vốn đầu tư hoặc tỷ suất lợi nhuận giữa các nước. Theo Richard S. Eckaus Trên cơ sở mô hình lý thuyết thương mại quốc tế của Heckcher-Ohlin-Samuelson (HOS), Richard S. Eckaus đã loại bỏ giả định không có sự di chuyển các yếu tố sản xuất giữa các nước để mở rộng phân tích nguyên nhân hình thành đầu tư nước ngoài. Theo ông, mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận ở phạm vi toàn cầu nhờ vào sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư là nguyên nhân chủ yếu làm xuất hiện di chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế. Richard cho rằng, nước đầu tư thường có hiệu quả sử dụng vốn thấp ( thừa vốn), trong khi nước nhận đầu tư lại có hiệu quả sử dụng vốn cao hơn (thiếu vốn). Vì vậy, chênh lệch hiệu quả sử dụng vốn giữa các nước đã làm xuất hiện lưu chuyển dòng vốn đầu tư giữa các nước. Mô hình Macdougall-Kemp Cùng với quan điểm trên, mô hình lý thuyết của Macdougall-Kemp cũng chứng minh sự chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước là nguyên nhân hình thành đầu tư nước ngoài. Theo mô hình này, những nước phát triển (dư thừa vốn đầu tư ) có năng suất cận biên của vốn thấp hơn năng suất cận biên của vốn ở những nước đang phát triển ( thiếu vốn ). Vì thế, xuất hiện dòng lưu chuyển vốn giữa hai nhóm nước này. Biểu đồ 1 : Mô hình Macdougall-Kemp. M m u P E e n N O1 S Q O2 Tổng vốn đầu tư của hai nước là O1O2, trong đó vốn ở nước đầu tư (I) là O1Q, tương tự ở nước nhận đầu tư là O2Q. Năng suất cận biên của vốn ở nước(I) là O1M, tương tự ở nước(II) là O2m. Các đường MN và mn là giới hạn năng suất cận biên của vốn ở hai nước ( nước I thấp hơn nước II ) và đều có xu hướng giảm dần. Trước khi có di chuyển vốn giữa hai nước, tổng sản lượng của nước I là O1MNQ và tổng sản lượng của nước II là O2muQ. Do có sự chênh lệch năng suất cận biên của vốn ở hai nước, vốn nước I chuyển sang nước II là SQ đến khi năng suất cận biên của vốn ở hai nước cân bằng tại điểm P (SP=O1E=O2e). Kết quả làm tăng sản lượng hai nước là PuN, phần dôi ra ngoài tổng sản lượng của hai nước trước khi có sự dịch chuyển vốn. Theo Krugman; Dunning và Narula Họ cho rằng, sở dĩ có đầu tư nước ngoài là do có sự thay đổi các chính sách kinh tế vĩ mô như tài chính, thuế, ngoại hối… ở các nước tham gia đầu tư. Theo K.Kojima Sở dĩ có đầu tư nước ngoài là do có sự khác nhau về tỷ suất lợi nhuận giữa các nước. Cũng dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh của mô hình Heckcher-Ohlin-Samuelson, K.Kojima đã phát triển để chứng minh rằng những nước có tỷ suất lợi nhuận cao sẽ thu hút được các nhà đầu tư. Theo tác giả, nguyên nhân hình thành đầu tư nước ngoài là có sự chênh lệch về tỷ suất lợi nhuận giữa các nước và sự chênh lệch này được bắt nguồn từ sự khác biệt về lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế. Theo lý thuyết của Sibert Đánh thuế cao đối với đầu tư nước ngoài tuy tăng được nguồn thu cho ngân sách nhưng lại làm giảm lợi ích mang lại cho nền kinh tế về mặt lâu dài. Theo tác giả, thuế cao không khuyến khích được đầu tư nước ngoài và vì thế các yếu tố đầu tư trong nước không khai thác được lợi thế so sánh. Tuy nhiên mức thuế thấp đối với đầu tư nước ngoài sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách và không bảo hộ được các ngành công nghiệp nội địa trước sự cạnh tranh mạnh của các công ty nước ngoài. Bởi vậy, cần điều chỉnh mức thuế hợp lý đối với đầu tư nước ngoài sẽ đem lại lợi ích tối đa cho nước nhận đầu tư. Như vậy, qua phân tích trên cho thấy các lý thuyết đã nêu giải thích sự xuất hiện của đầu tư nước ngoài về thực chất đều dựa vào nguyên tắc lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế. Đây là nguyên tắc chung cho cả lý thuyết thương mại và di chuyển các nguồn lực sản xuất quốc tế. Mặt khác, các quan điểm lý thuyết cũng cho rằng đầu tư nước ngoài có vai trò to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và các nước tham gia đầu tư, trong đó nhất là thực hiện CNH của các nước đang phát triển. Tuy nhiên, các lý thuyết trên cũng chỉ mới giải thích được điều kiện “cần” để xuất hiện lưu chuyển dòng vốn giữa các nước. 2.2. Các lý thuyết kinh tế vi mô. Hầu hết các lý thuyết kinh tế vi mô của FDI đều xoay quanh trả lời câu hỏi là tại sao các công ty lại đầu tư ra nước ngoài? Vì thế, thực chất của các lý thuyết này là những giải thích khác nhau về nguyên nhân hình thành của các công ty xuyên quốc gia và đánh giá tác động của chúng đối với nước nhận đầu tư, trong đó chủ yếu là các nước đang phát triển. Theo Stephen Hymer: tác giả cho rằng, do kết cấu của thị trường độc quyền đã thúc đẩy các công ty mở rộng thị trường ra nước ngoài để khai thác lợi thế của mình về công nghệ, kỹ thuật quản… mà các công ty trong cùng ngành công nghiệp ở nước nhận đầu tư không có được. Theo Robert Z. Aliber: Ông đã giải thích hiện tượng FDI trên cơ sở phân tích nguyên nhân đầu tư ra nước ngoài của các công ty độc quyền từ yếu tố thuế quan và qui mô thị trường. Theo lý thuyết này, vì thuế quan làm tăng giá nhập khẩu nên các công ty phải di chuyển sản xuất ra nước ngoài để giảm chi phí giá thành. Theo Vernon: Ông đã lý giải hiện tượng FDI trên cơ sở phân tích các giai đoạn phát triển của sản phẩm từ đổi mới đến tăng trưởng (sản xuất hàng loạt) đạt mức bão hòa và bước vào giai đoạn suy thoái. Theo tác giả, giai đoạn đổi mới chỉ diễn ra ở những nước phát triển, vì ở đó mới có điều kiện để nghiên cứu và phát triển. Đồng thời, cũng chỉ ở những nước này thì kỹ thuật sản xuất tiên tiến với đặc trưng sử dụng nhiều vốn mới phát huy được hiểu quả sử dụng cao. Do vậy, sản phẩm được sản xuất ra hàng loạt với giá thành hạ và đã nhanh chóng đạt tới điểm bão hòa. Để tránh lâm vào suy thoái và khai thác hiệu quả sản xuất theo quy mô, công ty phải mở rộng thị trường tiêu thụ ra nước ngoài, nhưng các hoạt động xuất khẩu đã gặp trở ngại bởi hàng rào thuế quan và cước phí vận chuyển. Vì thế công ty di chuyển sản xuất ra nước ngoài để vượt qua những trở ngại này. Như vậy, theo cách giải thích của Vernon, thì FDI là kết quả tự nhiên từ quá trình phát triển của sản phẩm theo chu kỳ. Theo Akamatsu: Phát triển lý thuyết chu kỳ sản phẩm, Akamatsu đã xây dựng lý thuyết chu kỳ sản phẩm bắt kịp để giải thích nguyên nhân của FDI. Theo lý thuyết này, sản phẩm mới được phát minh và ra đời ở nước đầu tư, sau đó được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Tại nước xuất khẩu, do ưu điểm của sản phẩm mới làm nhu cầu thị trường nội địa tăng lên, nước nhập khẩu chuyển hướng sản xuất để thay thế nhập khẩu này bằng cách chủ yếu dựa vào vốn, kỹ thuật…của nước ngoài. Đến khi nhu cầu thị trường của sản phẩm sản xuất ở trong nước đạt tới mức bão hòa, nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện và cứ theo chu kỳ như vậy mà dẫn đến hình thành FDI (xem biểu đồ 2). Biểu đồ 2: Mô hình chu kỳ sản phẩm bắt kịp của Akamatsu. Q Lượng cầu nội địa, sản xuất, Xuất khẩu và nhập khẩu D P X M O t1 t2 t3 T(thời gian) OQ là sản lượng của nhu cầu nội địa (D), sản xuất (P), xuất khẩu (X), nhập khẩu (M) và OT là thời gian (t1,t2,t3…). Lúc đầu, nhập khẩu sản phẩm mới làm tăng nhu cầu nội địa và sản xuất trong nước, sau đó tất cả lại giảm xuống do nhu cầu thị trường nội địa bị bão hòa. Vì thế, nhu cầu xuất khẩu xuất hiện. Các bước tiếp theo lại lập lại trình tự như trước và phát triển theo hình chữ V úp xuống. Con đường phát triển này dẫn đến hình thành FDI. Theo lý thuyết trên, chu kỳ của sản phẩm được bắt đầu từ nhập khẩu sản phẩm mới với chất lượng tốt hơn. Sau đó, những sản phẩm này làm cho nhu cầu nội địa tăng lên và dẫn đến quy mô thị trường được mở rộng. Vì thế, đã xuất hiện nhu cầu sản xuất trong nước để thay thế nhập khẩu với sự trợ giúp về kỹ thuật và tiền vốn của các nước phát triển. Bằng con đường này, nước nhập khẩu học được kinh nghiệm quản lý tiên tiến, cải tiến kỹ thuật… và mở rộng sản xuất. Nhờ đó, đã đạt được hiệu quả kinh tế theo qui mô tăng năng suất lao động, cải tiến chất lượng sản phẩm và hạ được giá thành. Do đó, làm xuất hiện nhu cầu xuất khẩu. Như vậy, lý thuyết chu kỳ sản phẩm bắt kịp đã giải thích FDI qua quá trình phát triển liên tục của sản phẩm đi từ nhập khẩu đến sản xuất nội địa và di chuyển sang xuất khẩu. 3. Bản chất và đặc điểm của FDI. 3.1. Bản chất của FDI Trong hợp tác đầu tư quốc tế thường có nhiều nguồn vốn khác nhau. Nhìn chung, vốn nước ngoài đầu tư vào trong nước bằng hai con đường: đường công cộng (official) và đường tư nhân hoặc thương mại (commercial). Hình thức chủ yếu trong đường công cộng là viện trợ, bao gồm viện trợ không hoàn lại và cho vay dài hạn với lãi suất thấp từ các tổ chức quốc tế hoặc chính phủ các nước tiên tiến. Viện trợ không hoàn lại không trở thành nợ nước ngoài, nhưng quy mô nhỏ và thường chỉ giới hạn trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục và cứu trợ. Các hình thức chủ yếu trong đầu tư quốc tế là đầu tư trực tiếp, đầu tư qua thị trường chứng khoán (Portfolio), cho vay của các định chế kinh tế và các ngân hàng nước ngoài (vay thương mại) và nguồn vốn Viện trợ phát triển chính thức ODA. Do vay thương mại với lãi suất cao nên dễ trở thành gánh nặng về nợ nước ngoài trong tương lai. Đầu tư qua thị trường chứng khoán không trở thành nợ nhưng sự thay đổi đột ngột trong một hành động (bán chứng khoán, rút tiền về nước) của nhà đầu tư nước ngoài ảnh hưởng mạnh đến thị trường vốn, gây biến động tỷ giá và các mặt khác của nền kinh tế vĩ mô. FDI cũng là hình thức đầu tư không trở thành nợ. Đây là vốn có tính chất “bén rễ” ở bản xứ nên không dễ rút đi trong thời gian ngắn. Ngoài ra, FDI không chỉ đầu tư vốn mà còn đầu tư công nghệ và tri thức kinh doanh nên dễ thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp hiện đại và phát triển kinh tế. 3.2. Đặc điểm chủ yếu của FDI Hiện nay xét về bản chất, FDI có những đặc điểm chủ yếu sau: 3.2.1. FDI trở thành hình thức chủ yếu trong đầu tư nước ngoài. Xét về xu thế và hiệu quả thì FDI thể hiện rõ hơn sự chuyển biến về chất lượng trong nền kinh tế thế giới, gắn liền với quá trình sản xuất trực tiếp, tham gia vào sự phân công lao động quốc tế theo chiều sâu và tạo thành cơ sở của sự hoạt động cuả các công ty xuyên quốc gia và các doanh nghiệp quốc tế. 3.2.2. FDI đang và sẽ tăng mạnh ở các nước đang phát triển. Đầu tư lẫn nhau giữa các nước công nghiệp phát triển tăng mạnh trong vài thập kỷ lại đây, đặc biệt là nửa cuối những năm 1980 là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của các quan hệ kinh tế quốc tế kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Có nhiều lý do giải thích mức độ đầu tư cao giữa các nước công nghiệp phát triển với nhau, nhưng có thể thấy hai nguyên nhân chủ yếu. Thứ nhất, môi trường đầu tư ở các nước phát triển có độ tương hợp cao. Môi trường này hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả môi trường công nghệ và môi trường pháp lý. Thứ hai, xu hướng khu vực hóa đã thúc đẩy các nước này xâm nhập thị trường của nhau. Dĩ nhiên đây không phải là lý do trực tiếp vì trong khi khu vực hóa với chủ nghĩa bảo hộ chặt chẽ chỉ là một xu hướng thì mức độ mở cửa hiện nay lại không ngăn trở điều đó. Cũng với hai lý do chính đó, ta có thể giải thích được xu hướng tăng lên của FDI ở các nước công nghiệp mới (Nics), các nước ASEAN và Trung Quốc, ấn Độ. Qúa trình tự do hóa kinh tế, chuyển sang kinh tế thị trường ở các nước này cũng như khu vực Đông Âu và Liên Xô đã tạo nên những khoảng trống mới cho đầu tư. Mặt khác, các nhà đầu tư lớn nhất có xu hướng củng cố khu vực lân cận của mình. Lấy ví dụ đầu tư nước ngoài của Nhật Bản. Vào đầu những năm 1980, Nhật Bản đầu tư mỗi năm khoảng 1,2 tỷ USD cho toàn bộ khu vực châu á. Đến năm 1990 con số này tăng gấp 6 lần. Như vậy, xu hướng tự do hóa và mở cửa nền kinh tế các nước đang phát triển trong những năm gần đây đã góp phần đáng kể vào sự thay đổi dòng chảy FDI. Năm 1990, các nước đang phát triển nhận được 19% tổng số vốn FDI, năm 1991 là 25% và năm 1992 khoảng 30%. Trong những năm gần đây tỷ lệ này vẫn có xu hướng tăng lên. 3.2.3. Cơ cấu và phương thức FDI trở nên đa dạng hơn. Trong những năm gần đây, cơ cấu và phương thức đầu tư nước ngoài trở nên đa dạng hơn so với trước đây. Điều này liên quan đến sự hình thành hệ thống phân công lao động quốc tế ngày càng sâu rộng và sự thay đổi môi trường kinh tế thương mại toàn cầu. Về cơ cấu FDI, đặc biệt là FDI vào các nước công nghiệp phát triển có những thay đổi sau: Vai trò và tỷ trọng của đầu tư vào các ngành có hàm lượng khoa học cao tăng lên. Hơn 1/3 FDI tăng lên hàng năm là tập trung vào các ngành then chốt như điện tử, chế tạo máy tính, chất dẻo, hóa chất và chế tạo máy. Trong khi đó, trong nhiều ngành công nghiệp truyền thống dùng nhiều vốn và lao động, FDI giảm tuyệt đối hoặc không đầu tư. Các công ty xuyên quốc gia của Mỹ đã đóng cửa các chi nhánh của mình ở Tây Âu và Canada trong các ngành dệt, da, sản xuất các đồ dùng và thực phẩm. Các nguồn vốn thu hồi này được chuyển về Mỹ và sử dụng để cải tạo và hiện đại hóa các cơ sở sản xuất trong nước. Tỷ trọng các ngành công nghiệp chế tạo giảm xuống trong khi FDI vào các ngành dịch vụ tăng lên. Điều này có liên quan đến tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP của các nước OECD tăng lên và hàm lượng dịch vụ trong công nghiệp chế tạo cao. Một số lĩnh vực được ưu tiên là các dịch vụ thương mại, bảo hiểm, các dịch vụ tài chính và giải trí. Tỷ lệ các nguồn FDI vào dịch tăng rất mạnh từ thập kỷ 80: năm 1985, FDI vào dịch vụ tại Mỹ chiếm tỷ trọng 44% ( so với 32% năm 1950), vào Nhật Bản là 52% (so với 20% năm 1965) và vào Cộng hòa Liên bang Đức là 47% ( so với 10% năm 1966). Một vấn đề đáng lưu ý trong phương thức tiến hành FDI trong thời gian gần đây là vai trò tăng lên của các công ty vừa và nhỏ. Chẳng hạn số dự án FDI của các công ty vừa và nhỏ của Nhật Bản tăng mạnh từ 318 dự án năm 1985 lên 994 dự án năm 1990, chiếm 58% số dự án (so với 13% năm 1985). Đa số các công ty này thuộc mạng lưới các công ty xuyên quốc gia, tiến hành đầu tư theo yêu cầu của công ty mẹ. 3.2.4. Sự gắn bó ngày càng chặt chẽ giữa FDI với ODA, thương mại, và chuyển giao công nghệ. FDI và thương mại có liên quan rất chặt chẽ với nhau. Thông thường, một chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài được nhằm vào mục đích tăng tiềm năng xuất khẩu cuả một nước. Mặt khác, các công ty nước ngoài được lựa chọn ngành và địa điểm đầu tư cũng dựa trên cơ sở tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Sự thay đổi kết cấu ngành đầu tư, như sự phân tích ở trên, đã chứng minh điều này. Ngay cả đối với Nhật Bản, nước đã từng hướng đầu tư nước ngoài vào những ngành khai thác để cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp trong nước thì những năm gần đây cũng đã chuyển sang các ngành nhằm vào xuất khẩu là chủ yếu. FDI đang trở thành kênh quan trọng nhất của việc chuyển giao công nghệ. Xu hướng hiện nay là FDI và chuyển giao công nghệ ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau. Đây chính là hình thức có hiệu quả nhất của sự lưu chuyển vốn và kỹ thuật trên phạm vi quốc tế. Nhiều nước đã đạt được thành công trong việc hấp thụ các yếu tố bên ngoài để phát triển kinh tế trong nước là nhờ chú ý đến điều này. Hồng Kông, Xingapo và Đài Loan rất tích cực khuyến khích các công ty xuyên quốc gia chuyển giao công nghệ cùng với quá trình đầu tư. Hơn nữa, chuyển giao công nghệ giúp nâng cao năng lực công nghệ bản địa. Kinh nghiệm của các nước cho thấy rằng, sự tách rời công nghệ với thương mại quốc tế, trước hết là xuất khẩu đã làm cho năng lực công nghệ quốc gia không được cải thiện, ngược lại có nguy cơ tụt hậu do thiếu sức cạnh tranh. ấn Độ là thí dụ điển hình về mặt này dù chi phí cho nghiên cứu triển khai phát triển công nghệ ở nước này không phải thấp, song do tách rời với xuất khẩu nên vẫn là một nước lạc hậu về công nghệ. Sự gắn bó giữa FDI và các nguồn viện trợ và vay nợ khác cũng là một đặc điểm nổi bật của sự lưu chuyển các nguồn vốn và công nghệ trên phạm vi quốc tế trong những năm gần đây. Hơn nữa, xu hướng này sẽ ngày càng trở nên mạnh hơn. Lý do là trước đây, các nguồn viện trợ và cho vay thường nhằm vào mục đích quân sự và chính trị, do đó hiệu quả của nó đối với thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các nước nhận và nước cho vay vốn là rất thấp. ở các nước chậm phát triển nhất hiện nay viện trợ và cho vay chiếm đến 90% các nguồn vốn tù bên ngoài. Viện trợ và cho vay trong nhiêu trường hợp dẫn đến sự phụ thuộc một chiều hơn là giúp cho các nước nhận có được sự phát triển tự thân và tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế. Vì vậy, các nguồn vốn này đã được các chính phủ, các tổ chức quốc tế đặt trong mối quan hệ với các nguồn vốn tư nhân nhằm nâng cao hiệu quả của việc sử dụng chúng. 4. Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Căn cứ vào tính pháp lý của đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể chia FDI thành các loại: 4.1. Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh Là văn bản ký kết giữa hai hay nhiều bên (gọi tắt là các bên hợp doanh ) quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên ( nước ngoài và nước sở tại ) để tiến hành kinh doanh ở nước chủ nhà ( nước sở tại ) mà không thành lập pháp nhân mới. Đặc trưng của hình thức này: + Cùng hợp tác kinh doanh trên cơ sở phân chia quyền lợi và nghĩa vụ + Không thành lập pháp nhân mới + Mỗi bên thực hiện nghĩa vụ với nước chủ nhà theo quy định riêng 4.2. Doanh nghiệp liên doanh Đây là loại hình doanh nghiệp được thành lập tại nước chủ nhà trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký kết giữa bên hoặc các bên nước chủ nhà với bên hoặc các bên nước ngoài để đầu tư, kinh doanh tại nước chủ nhà. Đặc trưng của hình thức này: + Là dạng công ty trách nhiệm hữu hạn + Có tư cách pháp nhân theo luật của nước chủ nhà + Mỗi bên thường chịu trách nhiệm với bên kia hoặc với liên doanh theo tỷ lệ góp vốn. 4.3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do người nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Đặc trưng của hình thức này: + Là dạng công ty trách nhiệm hữu hạn + Có tư cách pháp nhân theo luật nước chủ nhà + Sở hữu hoàn toàn của nước ngoài + Chủ đầu tư nước ngoài tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh. 4.4. Phương thức đầu tư BOT Là văn bản ký kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng, mở rộng, nâng cấp, khai thác công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định ( thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý) sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nước chủ nhà. Đặc trưng của hình thức này: + Cơ sở pháp lý là hợp đồng + Vốn đầu tư của nước ngoài + Hoạt động theo dạng doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc xí nghiệp liên doanh + Đối tượng hợp đồng thường là các công trình cơ sở hạ tầng. Các dạng thức của BOT: BTO được hình thành cũng tương tự như BOT, nhưng sau khi xây dựng xong công trình, nhà đầu tư nước ngoài lại giao lại cho nước chủ nhà, chính phủ nước chủ nhà dành cho nhà đầu tư nước ngoài quyền kinh doanh công trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. BT được hình thành cũng tương tự như BOT, nhưng sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài bàn giao lại công trình cho nước chủ nhà, chính phủ nước chủ nhà trả cho nhà đầu tư nước ngoài chi phí liên quan tới công trình và một tỷ lệ thu nhập hợp lý. II - công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1. Khái niệm Theo quan niệm của Liên hợp quốc: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một quá trình phát triển kinh tế trong đó một bộ phận quốc gia ngày càng lớn được huy động để xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công nghệ hiện đại để chế tạo ra tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng, có khả năng bảo đảm một nhịp độ tăng trưởng cao trong toàn bộ nền kinh tế và bảo đảm sự tiến bộ kinh tế xã hội. Kết hợp quan điểm truyền thống với quan điểm hiện đại và vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, hội nghị lần thứ VII ban chấp hành T.W Đảng khoá VII đã đưa ra quan niệm mới về công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đây cũng chính là quan niệm được sử dụng phổ biến ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Theo tư tưởng này, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế-xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự tiến bộ của công nghiệp và tiến bộ khoa học-công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Coi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nuớc ta hiện nay là một cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, tại đại hội toàn quốc lần thứ VIII, khi thông qua đường lối đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng ta chỉ rõ: “mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng và an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công băng, văn minh”. 2. Bối cảnh triển khai CNH, HĐH ở nước ta hiện nay Việt Nam sau hơn 15 năm đổi mới, những thành tựu thu được trong lĩnh vực phát triển kinh tế-xã hội đều có sự góp mặt quan trọng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy so với các nước trong khu vực thì Việt Nam còn ở trình độ thấp, song nhìn chung, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã dẫn đến chỗ đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện, trình độ dân trí và mức hưởng thụ của nhân dân tăng. Sự nghiệp giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, các hoạt động văn hoá thể thao, nghệ thuật, phương tiện thông tin đại chúng và nhiều hoạt động xã hội khác như bảo vệ môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội, chủ trương đền ơn đáp nghĩa được mở rộng… Nhận định về xu thế phát triển của tình hình thế giới trong thế kỷ XXI, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có những bước nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng quan trọng trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh…Những nét mới ấy trong tình hình thế giới và khu vực tác động mạnh mẽ đến tình hình nước ta. Trước mắt nhân dân ta có cả cơ hội lớn và thách thức lớn. 2.1. Thuận lợi và thời cơ. Thời cơ lớn được tạo ra trước hết là do những thành tựu của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, đồng thời cũng do sự tác động của nhiều xu thế tích cực trên thế giới. Thứ nhất, chúng ta tiến hành CNH, HĐH trong bối cảnh cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội. Trong những năm gần đây, những thành tựu khoa học và công nghệ ngày càng tăng lên cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới…Những thành thành tựu ấy ngày càng tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến sản xuất và các quá trình xã hội, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đồng thời làm tăng nhanh tính chất xã hội hoá và quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội. Đó là điều kiện thuận lợi cho phép chúng ta có thể triển khai, kết hợp đồng thời công nghiệp hoá với hiện đại hoá nhằm tạo thành một quá trình thống nhất thúc đẩy xã hội phát triển. Đó cũng là thời cơ lớn để chúng ta có thể tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Thứ hai, hoà bình, ổn định và hợp tác để cùng phát triển đã và đang trở thành xu thế chung của hầu hết các nước trên thế giới. Trong những năm gần đây, nhiều quốc gia lớn, nhỏ đều giành ưu tiên cho phát triển kinh tế, và do vậy ngày càng tham gia vào nhiều các quá trình liên doanh, liên kết, hợp tác song phương và đa phương, khu vực và quốc tế…Đây chính là điều kiện thuận lợi để các dân tộc xích lại gần nhau hơn, trao đổi, học tập kinh nghiệm và giúp đỡ lẫn nhau …Chúng ta chủ trương tiếp tục “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế” với tinh thần “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Với chủ trương đó, nhiệm vụ đối ngoại của chúng ta đã được Đảng xác định rõ là tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình và tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, bảo đảm độc lập và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Thứ ba, trong 15 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa dặc biệt quan trọng cho bước phát triển tiếp theo. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng bình quân mỗi năm 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm tăng 13.5%. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường. Các ngành xuất khẩu, nhập khẩu và dịch vụ đều phát triển. Năm2000 chúng ta đã chặn được đà giảm sút tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt hoặc vượt kế hoạch đề ra. Mỗi năm 1,2 triệu lao động có việc làm mới. Công tác xoá đói giảm nghèo trên phạm vi cả nước đạt kết quả nổi bật, được dư._. luận thế giới đánh giá cao,…Chế độ chính trị xã hội ổn định và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đời sống của đại đa số tầng lớp nhân dân được cải thiện một bước đáng kể….Có thể khẳng định rằng, 15 năm đổi mới đã làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, nền độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa được củng cố vững chắc, vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Đó chính là những tiền đề đặc biệt quan trọng để nước ta chuyển sang thời kỳ phát triển mới- thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Những thành tựu của 15 năm đổi mới không chỉ có ý nghĩa kinh tế đơn thuần mà còn có ý nghĩa chính trị xã hội rộng lớn . Nó chứng tỏ rằng, những người cộng sản và nhân dân lao động Việt Nam không chỉ biết đánh giặc và thắng giặc, mà hơn thế nữa, còn biết làm cho “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Thứ tư, chúng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá , phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó chúng ta thực hiện chính sách “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế , đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường”. Điều đó không chỉ phản ánh tính quy luật tất yếu trong sự phát triển của nước ta hiện nay, mà còn thể hiện một cách sâu sắc nhu cầu, lợi ích và khát vọng của nhân dân ta là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Chính điều này đã và đang khơi dậy, thu hút những nguồn lực to lớn cho sự phát triển. Chúng ta không chỉ nhận được sự hợp tác, giúp đỡ về nhiều mặt của cộng đồng quốc tế, mà còn động viên được mọi tiềm lực của nhân dân cả nước và kiều bào ở nước ngoài cho sự nghiệp đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. Thứ năm, nước ta có nguồn đất đai và tài nguyên thiên nhiên phong phú, đặc biệt chúng ta có nguồn lao động dồi dào với cơ cấu khá trẻ. Trình độ của các chủ thể phát triển – con người thuộc mọi tầng lớp xã hội (tri thức, quản lý, doanh nhân, người lao động và nhà nước ) - được nâng cao. Đây là cơ sở để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao- yếu tố quyết định sự tăng trưởng nhanh và bền vững của đất nước. Cùng với cơ chế phân bổ nguồn lực mới, nguồn nhân lực đó sẽ có tác dụng thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hơn. Hơn nữa, chúng ta còn kế thừa được cả những kinh nghiệm CNH, HĐH của các nước đi trước, cùng với kinh nghiệm đổi mới ở nước ta. Đó là những yếu tố góp phần không nhỏ vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới ở nước ta trong 15 năm qua. Như vậy, có thể nói, xu thế tích cực vì hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển của các nước trong khu vực và thế giới, những thành tựu ngày càng to lớn của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, cùng với những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước trong 15 năm qua đã và đang tạo ra thế và lực mới, cả ở bên trong và bên ngoài để chúng ta bước vào một thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiều tiền đề cần thiết cho công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được tạo ra, quan hệ của nước ta và nhiều nước trên thế giới mở rộng hơn bao giờ hết; khả năng giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập với cộng đồng thế giới tăng thêm. Đó là thời cơ lớn để chúng ta đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. 2.2. Khó khăn và thách thức Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay không chỉ có những điều kiện thuận lợi và thời cơ lớn như đã phân tích ở trên, mà còn cả những khó khăn, phức tạp và những thời cơ, thách thức gay gắt được thể hiện tập trung chủ yếu qua các vấn đề sau: Một là, mặc dù nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt vẫn chưa vững chắc. Những thành tựu kinh tế mà Việt Nam đạt được trong những năm tiến hành đổi mới là kết quả của sự chuyển đổi cơ chế kinh tế chứ chưa phải do chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Nói cách khác, sự tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao thực chất là đi khai thác một cách tối đa những nguồn lực có sẵn nhưng trước đây bị cơ chế cũ kìm hãm. Nền kinh tế nước ta vẫn còn là nền kinh tế tiểu nông (sản xuất thủ công, năng suất lao động thấp…) Cho đến nay, nước ta vẫn còn là một trong những nước nghèo trên thế giới, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn lạc hậu… Trong một bối cảnh mà điểm xuất phát khi tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta quá thấp, chúng ta lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt, do vậy, nguy cơ “tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới” đã và đang trở thành một thách thức to lớn và gay gắt. Hai là, những hậu quả của cơ chế quản lý kinh tế theo lối mệnh lệnh, tập trung bao cấp còn rơi rớt lại (quan liêu, cửa quyền, thủ tục hành chính rườm rà…) cùng những tiêu cực mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường (tham nhũng, tội phạm, sùng bái đồng tiền…) đã và đang trở thành vật cản trên con đường đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đó là những cái đang làm tăng nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Điều cần nhấn mạnh là: tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và giảm lòng tin trong nhân dân. Ba là, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta được thực hiện “trong tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường”. Trên thực tế, vẫn còn những thế lực sử dụng những chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” … để mưu toan thực hiện “diễn biến hoà bình” nhằm xoá bỏ những thành quả cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Ngay cả tình hình ở khu vực Đông Nam á, châu á -Thái Bình Dương “sau cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế có khả năng phát triển, năng động nhưng vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định”, vẫn có những diễn biến phức tạp, nhiều vấn đề diễn biến phức tạp, nhiều vấn đề nảy sinh một cách bất ngờ, chúng ta khó có thể lường hết và những ảnh hưởng của chúng đối với nước ta là không nhỏ. Bốn là, trình độ văn hoá chung, trình độ tri thức về khoa học và công nghệ, về chính trị xã hội, luật pháp, về tổ chức quản lý … của đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân ta còn khá thấp so với các nước trong khu vực và còn xa mới đáp ứng đựoc yêu cầu phát triển của đất nước. Thực trạng yếu kém này cũng là một nguy cơ lớn. Đảng ta khẳng định: Hiện nay, ở nước ta, hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm…Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của nhà nước… chưa nâng lên kịp thời so với đòi hỏi của tình hình…Năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ. Điều đáng lo ngại là không ít cán bộ, Đảng viên phai nhạt ý tưởng cách mạng, tha hoá về phẩm chất đạo đức; sức chiến đấu của một số cơ sở Đảng suy yếu. Chính vì vậy mà trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới trong 15 năm qua, chúng ta đã phạm một số khuyết điểm, lệch lạc lớn và kéo dài, dẫn đến chệch hướng ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, ở mức độ này hay mức độ khác. Nếu không khắc phục kịp thời và có hiệu quả những khuyết điểm, lệch lạc này, chúng ta sẽ làm suy yếu Đảng, làm mọt rỗng bộ máy nhà nước, làm biến chất chế độ và tất yếu sẽ làm cho đất nước đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, có thể nói, sự phát triển và diễn biến tình hình phức tạp trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là cuộc cạnh tranh trong kinh tế, thương mại, khoa học và công nghệ đang diễn ra một cách gay gắt giữa các nước, các khu vực; tình trạng nghèo nàn, lạc hậu của nền kinh tế nước ta, cùng với đó là sự yếu kém về trình độ văn hoá, khoa học công nghệ, về năng lực lãnh đạo và quản lý đất nước…đã làm nảy sinh bốn nguy cơ tụt hậu (tụt hậu xa hơn về kinh tế, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, “ diễn biến hoà bình” và chệch hướng xã hội chủ nghĩa). Các nguy cơ này làm cho thách thức ngày càng trầm trọng và gay gắt đối với quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay. Theo đó, về đại thể có thể khẳng định rằng, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay đang được triển khai trong bối cảnh khá phức tạp: thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen nhau. Do vậy, cùng với việc khẳng định tất yếu khách quan của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc nhận rõ những thuận lợi, thời cơ và những khó khăn phức tạp, đặc biệt là các nguy cơ và những thách thức có tính lý luận và phương pháp luận đặc biệt quan trọng không chỉ trong việc hoạch định chiến lược, mục tiêu và nội dung tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà còn có tác dụng thiết thực trong việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực, củng cố quyết tâm nắm thời cơ, vươn lên phát triển nhanh và vững chắc, tạo ra thế và lực mới, đồng thời luôn tỉnh táo, kiên quyết đẩy lùi và khắc phục các nguy cơ, kể cả những nguy cơ mới nảy sinh, bảo đảm phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng biến cơ hội thành kết quả hiện thực là một quá trình có điều kiện. Thế giới đã chứng nghiệm hiệu quả nhiều mô hình phát triển (mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá) khác nhau. Tính đa dạng của mô hình, mức độ phù hợp của từng mô hình với các điều kiện quốc gia và thời đại làm cho sự lựa chọn của nước đi sau rất thuận lợi. Mặt khác, thế giới hiện đại đang tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi để thực thi mô hình phát triển cho phép rút ngắn khoảng cách tụt hậu. Nói khác đi, trên quan điểm mô hình và bước đi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cần và có thể tính đến con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn của Việt Nam. Việc tận dụng lợi thế này là nhiệm vụ cấp bách đang đặt ra cho nước ta trong chiến lược phát triển có giới hạn rõ ràng về thời gian, cụ thể trong vòng 10 và 20 năm tới. Nhưng ẩn sau cơ hội phát triển “ngàn năm có một” như Đặng Tiểu Bình đã nói là những thách thức to lớn. Ngay cả sự phong phú và sẵn có của các mô hình, kinh nghiệm và tri thức phát triển cũng chứa đựng những thách thức cho việc lựa chọn ( phải quyết chọn những gì phù hợp nhất cho mình khi các điều kiện quốc tế đã thay đổi mạnh mẽ ). Bản chất của mâu thuẫn ở đây là: cơ hội lớn nhưng thời gian và cơ hội nắm bắt, tận dụng lại rất có hạn đối với các nước đi sau. Ngoài ra, trong môi trường quốc tế thường xuyên biến đổi, rủi ro phát triển đối với các nước đi sau cũng tăng lên. Trong nhiều trường hợp, khía cạnh này thậm chí còn nổi bật hơn và chi phối nhiều hơn mặt thuận lợi. Tất cả những luận đề nêu trên nhằm khắc hoạ rõ nét hơn tương quan giữa cơ hội và thách thức phát triển đặt ra trước chúng ta trong giai đoạn phát triển tới. Nắm bắt đúng cơ hội, vượt qua thách thức để có được sự phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá - đó thực sự là vấn đề có ý nghĩa sống còn với Đảng và nhân dân ta. 3. Tính đặc thù của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay không chỉ khác với các nước đã tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá về nội dung, hình thức, quy mô, cách thức tiến hành mà cả mục tiêu chiến lược. Chính sự khác biệt này làm nên tính đặc thù của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà chúng ta đang tiến hành. Một trong những đặc điểm lớn của thời đại ngày nay là sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và cùng với nó là quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế …Trong điều kiện này, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta được Đảng xác định là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện, sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội trên cơ sở sử dụng một cách phổ biến sức lao động có hàm lượng trí tuệ cao cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại do sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ của cách mạng khoa học - công nghệ đem lại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Quan niệm như vậy về vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã thể hiện được vấn đề then chốt của quá trình này ở một nước tiểu nông là cải biến lao động thủ công thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. ở đây, cần nhấn mạnh rằng, công nghiệp hoá, không chỉ là sự tăng thêm đơn giản tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là cả một quá trình chuyển dịch cơ cấu, gắn liền với đổi mới công nghệ, tạo nền tảng cho tăng trưởng bền vững và có hiệu quả cao của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ, tận dụng phát triển chiều rộng, tạo nhiều công ăn việc làm cho đội ngũ lao động đông đảo của nước ta hiện nay, với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt đón đầu, phát triển chiều sâu, tạo nên những ngành kinh tế mũi nhọn theo trình độ tiến triển của khoa học công nghệ trên thế giới. Như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay là một quá trình rộng lớn và phức tạp, nó được triển khai đồng thời với quá trình hiện đại hoá và luôn gắn bó với quá trình này. Có thể thấy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay bao hàm những đặc diểm quan trọng sau đây: Thứ nhất, công nghiệp hoá được triển khai đồng thời với quá trình hiện đại hoá để tạo ra một quá trình thống nhất thúc đẩy đất nước phát triển. Bởi vì, trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng về khoa học và công nghệ đã và đang làm thay đổi về chất cả công nghệ sản xuất lẫn quy trình quản lý và trên thế giới đang diễn ra quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn hoá ngày càng sâu rộng. Trong điều kiện nay, chúng ta không thể chờ thực hiện xong công nghiệp hoá, sau đó mới triển khai hiện đại hoá, mà nhất thiết và cần phải triển khai đồng thời và đồng bộ cả hai quá trình này. Chỉ có cách làm như vậy mới có cơ hội đẩy lùi nguy cơ tụt hậ xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nhanh chóng đưa nước ta tiến kịp các nước trong khu vực dần hội nhập vào sự phát triển chung của của khu vực và thế giới. Thứ hai, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình trang bị và trang bị lại những công cụ, thiết bị, phương tiện hiện đại và áp dụng công nghệ tiên tiến cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đặc biệt cho các ngành then chốt, để trước hết, làm tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. Thứ ba, trên cơ sở của quá trình nói trên, diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội, trước hết là từ cơ cấu “nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ” sang cơ cấu kinh tế “công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp”. Thứ tư, công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta vừa là quá trình xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, vừa là quá trình kinh tế - xã hội, văn hoá giáo dục…Nó tác động một cách tổng hợp, đa diện, đa cấp độ đến mọi người, mọi gia đình và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thứ năm, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta cũng chính là quá trình mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về các mặt kinh tế – xã hội, khoa học và công nghệ, văn hoá… Thứ sáu, ở nước ta hiện nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá không phải là mục tiêu tự thân, mà là phương thức để đưa nền kinh tế từ tiểu nông lên nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Phương thức này đựơc thực hiện một cách linh hoạt bằng bước đi tuần tự từ thấp đến cao( thủ công - cơ giới - tự động hoá) kết hợp với việc tranh thủ những điều kiện, thời cơ thuận lợi, “đi tắt, đón đầu”, “rút ngắn thời gian” để nhanh chóng tạo ra những ngành kinh tế mũi nhọn. Thứ bảy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, về thực chất, là quá trình sử dụng những công cụ, phương tiện hiện đại cùng những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến và nhưng kinh nghiệm lịch sử để đổi mới toàn diện, triệt để mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế –xã hội, đưa nước ta lên trình độ “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nói một cách ngắn gọn, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam là quá trình cải biến xã hội Việt Nam “ truyền thống” thành xã hội hiện đại, phát triển theo định hưóng xã hội chủ nghĩa. Có thể nói, những đặc điểm quan trọng đó là những nét đặc trưng của con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá “rút ngắn thời gian”, “vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt” mà chúng ta đang tiến hành. 4. Tình hình thực quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước hiện ta hiện nay. Kinh tế Việt Nam kể từ khi bắt đầu thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã thu được những thành tựu bước đầu hết sức quan trọng: tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định trong thời gian dài, lạm phát được khống chế và luôn ở mức thấp, cơ cấu nền kinh tế đã có những chuyển biến tích cực… Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo nhất thế giới, một nước kém phát triển về kinh tế với năng suất lao động và hiệu quả sản xuất thấp, cơ sở vật chất - kỹ thuật lạc hậu, nợ nần nhiều, nguồn đầu tư cho phát triển chưa cao…Tình hình đó được thể hiện qua các mặt như sau: 4.1. Về cơ cấu kinh tế 4.1.1. Cơ cấu ngành kinh tế Trong những năm đổi mới, các ngành kinh tế quốc dân đã có sự chuyển dịch theo hướng: nâng dần tỷ trọng và tốc độ phát triển của công nghiệp và dịch vụ, nông nghiệp nhưng giá trị sản lượng của nông nghiệp vẫn tăng lên . (Bảng 1) Bảng1 : Chuyển dịch cơ cấu ngành (Đơn vị: %) Năm 1990 1995 2000 2001 2002 Nông-lâm-ngư nghiệp 38,7 27,2 24,54 23,61 23,6 Công nghiệp và xây dựng 22,7 28,7 36,73 37,83 38,3 Dịch vụ 38,6 44,1 38,74 38,55 38,1 (Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư) Trong những năm qua, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, phù hợp với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tỷ trọng khu vực nông- lâm – ngư nghiệp giảm từ 38,7% năm 1990 xuống còn 23,6% năm 2002. Tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 22,7% lên 38,3% và khu vực dịch vụ giữ ở mức trên dưới 38%. Trong những năm vừa qua, tốc độ tăng trưởng của khu vực công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và cao hơn nhiều so với tốc độ tăng bình quân của nền kinh tế, trong khi khu vực nông- lâm- ngư nghiệp tăng chậm nên cơ cấu ngành kinh tế tăng trưởng theo hướng giảm tỷ trọng khu vực khu vực nông- lâm- ngư nghiệp và tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng. 4.1.1.1. Trong lĩnh vực công nghiệp Công nghiệp đã có sự chuyển dịch theo hướng: Tiết kiệm và khai thác đúng mức tài nguyên thiên nhiên, tăng dần tỷ trọng công nghiệp chế biến và công nghiệp năng lượng là hướng đi đúng của tiến trình CNH, HĐH. Công nghiệp chế biến đã được coi trọng, nhất là chế biến các sản phẩm từ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. Tỷ trọng giá trị sản xuất chế biến nông, lâm, thuỷ sản chiếm khoảng 30% trong công nghiệp chế biến và 24% trong toàn ngành công nghiệp. Một số ngành công nghiệp quan trọng, có năng lực sản xuất lớn tăng trưởng rất cao, đó là sản xuất than cốc, dầu mỡ tinh chế, sản xuất sản phẩm cao su và plastic, sản xuất các sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại khác, sản xuất máy móc thiết bị, sản xuất thiết bị điện; sản xuất, sửa chữa xe có động cơ, sản xuất giường tủ bàn ghế (từ năm 2000 trở lại đây, hàng năm giá trị sản xuất đều tăng từ 20% trở lên). Một số sản phẩm công nghiệp có khả năng cạnh tranh, đạt kim ngạch xuất khẩu cao cũng tăng dần tỷ trọng trong các năm qua, đó là: dầu thô, than đá, thuỷ sản chế biến, dệt may, giầy da… Tuy nhiên, sản xuất công nghiệp còn phát triển chậm, chưa ổn định, tốc độ tăng trưởng toàn ngành mới đạt bình quân 12,2% hàng năm( thấp hơn so với mục tiêu đề ra là 14-15%), còn thiếu nhiều yếu tố cho phát triển lâu dài, hội nhập và cạnh tranh. Chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành công nghiệp còn chưa rõ nét, nhất là đối với những ngành công nghiệp mũi nhọn như công nghiệp chế biến nông- lâm- thuỷ sản, công nghiệp luyện kim, công nghiệp chế tạo. Từng ngành, từng sản phẩm còn bộc lộ mất cân đối giữa khâu sản xuất chế biến nguyên liệu trung gian ( công nghiệp trung gian ) với khâu sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh (như sản xuất phôi thép và cán thép, sản xuất bột giấy và giấy, sản xuất sợi với công nghiệp dệt, sản xuất da với chế biến các sản phẩm từ da…). Các ngành dệt may, da giầy, lắp ráp mô tô, ô tô, điện tử phát triển nhanh kim ngạch xuất khẩu song lại phải chịu ảnh hưởng rất nhiều vào diễn biến bất lợi của giá cả và thị trường thế giới, do phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu đầu vào từ nhập khẩu. Công tác dự báo và quản lý quy hoạch công nghiệp chưa tốt, dẫn tới sự phát triển quá mức trong một số ngành như xi măng quy mô nhỏ, mía đường, rượu bia…Việc hình thành và phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp nặng mà ta có điều kiện vẫn chưa thực hiện được. Một số ngành then chốt như đóng tàu, công nghiệp luyện kim phát triển chậm; hai mặt hàng dầu thô và gạo góp gần một nửa kim ngạch xuất nhập khẩu. Ngành công nghiệp may mặc, sản xuất giày xuất khẩu thực chất mới chỉ dừng lại ở khả năng gia công trên cơ sở nguyên liệu, thiết bị, dây chuyền công nghệ của nước ngoài hơn là khả năng tự sản xuất xuất khẩu. Sản phẩm công nghiệp làm ra tính theo đầu người còn thấp nhưng đã có hiện tượng tồn đọng, dư thừa làm cho sản xuất cầm chừng. 4.1.1.2. Trong lĩnh vực nông- lâm- ngư nghiệp. Chuyển dich cơ cấu kinh tế trong nội bộ khu vực này tuy tăng chậm song bước đầu đã đúng hướng, đó là giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp, tăng tỷ trọng ngành thuỷ sản. Sản xuất thuỷ sản phát triển toàn diện cả về nuôi trồng và đánh bắt, khẳng định chủ trương, chính sách đúng đắn của nhà nước về lĩnh vực này. Xuất khẩu thuỷ sản tăng nhanh và hàng năm đều đạt mức cao, thu nhập từ thuỷ sản đạt mức cao hơn nhiều thu nhập từ nông nghiệp đã thúc đẩy việc chuyển đổi diện tích sản xuất nông nghiệp kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản. Song quá trình chuyển dịch trong nội bộ khu vực này, trong từng ngành nông nghiệp, thuỷ sản ở từng địa phương còn chứa đựng yếu tố tự phát, chưa có quy hoạch hoặc chưa theo quy hoạch chung. (Bảng 2) Bảng 2: Cơ cấu giá trị tăng thêm của các ngành trong khu vực nông- lâm- ngư nghiệp. ( Đơn vị: %) Năm 2000 2001 2002 6 tháng đầu năm 2003 Tổng số 100 100 100 100 Nông nghiệp 80,79 78,55 78,23 78,73 Lâm nghiệp 5,45 5,44 5,27 4,19 Thuỷ sản 13,76 16,01 16,5 17,08 4.1.1.2.1. Nông nghiệp Chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp diễn ra chủ yếu từ trồng trọt sang chăn nuôi. Cơ cấu dịch vụ nông nghiệp còn nhỏ bé chưa được coi là một ngành kinh doanh thực sự. Lương thực dồi dào, đảm bảo vững chắc tiêu dùng trong nước và xuất khẩu tạo điều kiện để nhiều vùng, nhiều tỉnh giảm diện tích lúa, chuyển đổi cơ cấu các vụ lúa sang phát triển các loại cây trồng khác phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, có giá trị kinh tế cao hơn. Một kết quả đáng ghi nhận trong chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn là bước đầu hình thành các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung, chuyên canh với quy mô lớn như: lúa ở đồng bằng sông Cửu Long, cà phê ở Tây Nguyên, cây ăn quả ở Nam bộ và miền núi phía Bắc, mía ở duyên hải miền trung và đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó có một số loại đã đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế như cà phê, cao su, hạt điều. Tuy nhiên, do thiếu quy hoạch cụ thể, thiếu thông tin về thị trường trong nước và thế giới nên một số cây trồng như cà phê đã phát triển gấp 1,5 lần diện tích quy hoạch tổng thể, khi cà phê rớt giá, sản xuất thua lỗ lại đồng loạt chuyển sang trồng cây khác và bắt dầu rơi vào vòng luẩn quẩn. Nhiều nhà máy đường, nhà máy chế biến rau quả xây dựng chưa gắn được với vùng trồng cây nguyên liệu cho nhà máy hoạt động. Sản phẩm nông nghiệp còn đơn điệu, chất lượng kém, giá thành lại cao, hạn chế khả năng tiêu thụ trong và ngoài nước, ứng dụng khoa học kỹ thuật còn ít. Sản xuất nông nghiệp còn theo kiểu truyền thống, lạc hậu, phương thức canh tác đơn giản, khó khăn trong khâu tiêu thụ. 4.1.1.2.2. Lâm nghiệp Tỷ trọng giá trị tăng thêm của lâm nghiệp trong khu vực nông, lâm, ngư nghiệp giảm dần trong hai năm 2000-2002( từ 5,45% năm 2000 xuống còn 5,27% năm 2002, một phần do hạn chế khai thác gỗ, nhưng mặt khác, công tác trồng rừng tập trung, trồng cây phân tán, chăm sóc tu bổ, bảo vệ rừng tuy có khá hơn nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế. 4.1.1.2.3. Thuỷ sản Lĩnh vực thuỷ sản đã có sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực, đó là tăng dần tỷ trọng nuôi trồng thâm canh, giảm dần tỷ trọng đánh bắt. Nét nổi bật của ngành thuỷ sản là nuôi trồng thuỷ sản đã trở thành phong trào và phát triển thành những mô hình kinh tế hàng hoá với sự tham gia của các loại hình, nhiều thành phần kinh tế. 4.1.1.3. Trong lĩnh vực dịch vụ Khu vực dịch vụ phát triển chậm hơn so với tiềm năng và khả năng, chưa thực sự phát huy được chức năng điều tiết vĩ mô và làm dịch vụ cho nền kinh tế thị trường. Do vậy, trong những năm qua tuy số tuyệt đối và tốc độ t ăng trưởng vẫn thường xuyên tăng lên nhưng thấp hơn tốc độ tăng trưởng của khu vực công nghiệp và xây dựng nên tỷ trọng của khu vực này có xu hướng giảm sút. Một số ngành dịch vụ quan trọng đang chiếm tỷ trọng thấp và lại giảm dần, đặc biệt là tài chính- tín dụng ( năm 2002 chỉ chiếm1,82%, thấp hơn cả tỷ trọng 2,1% trong năm 1995), khoa học và công nghệ (năm 2002 chỉ chiếm 0,56% thấp hơn tỷ trọng 0,61% năm 1995). Dịch vụ ngân hàng còn rất ít so với thế giới, xuất khẩu dịch vụ còn chiếm tỷ trọng thấp, nhiều hoạt động dịch vụ do các cơ quan, doanh nghiệp kiêm nhiệm chưa được tách ra để vừa mang tính chuyên nghiệp, vừa làm cho năng suất, chất lượng, hiệu quả của hoạt động này thấp, vừa cản trở các cơ quan, doanh nghiệp tập trung vào thực hiện các chức năng, nhiệm vụ chính. Các loại hình dịch vụ mới như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm; vận tải viễn dương, dịch vụ tư vấn xúc tiến sản xuất, đầu tư, pháp lý, nhân sự, công nghệ thông tin, xuất khẩu lao động, kinh doanh bất động sản…phát triển chậm; đặc biệt hoạt động kinh doanh bất động sản đang bị bỏ ngỏ và không được quản lý. 4.1.2. Cơ cấu thành phần kinh tế Kinh tế nhà nước tiếp tục được đổi mới, sắp xếp lại, bước đầu hoạt động có hiệu quả hơn, phát huy được vai trò chủ động trong các hoạt động kinh tế xã hội. Kinh tế tập thể được tổ chức lại theo luật hợp tác xã, nhiều hợp tác xã hoạt động có hiệu quả. Một số mô hình liên kết giữa hợp tác xã nông nghiệp và các cơ sở chế biến đã ra đời, thu hút đáng kể lực lượng lao động ở cả thành thị và nông thôn. Kinh tế cá thể, tiểu chủ, trong các lĩnh vực nông -lâm - ngư nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ phát triển nhanh. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời trong nền kinh tế Việt Nam, những năm qua đã có những bước phát triển khá, tạo thêm một số mặt hàng mới, thị trường mới, tăng thêm sức cạnh tranh của sản phẩm, đã góp phần vào sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, cơ cấu thành phần kinh tế còn bất hợp lý: khu vực kinh tế nhà nước chiếm đại bộ phận trong các ngành quan trọng, giành được vị trí có lợi nhất trong kinh doanh và được hưởng nhiều ưu đãi của nhà nước( về khoanh xoá nợ, trợ giá, bù lãi suất…), nhưng hiệu quả sản xuất kinh doanh kém, đó là điều đáng lo ngại. Trong khi đó, khu vực kinh tế hợp tác, kinh tế dân doanh chậm được củng cố và phát triển, các cơ chế chính sách còn phân biệt đối xử giữa khu vực nhà nước và phi nhà nước, làm cho các thành phần kinh tế dân doanh dè dặt trong đầu tư, chưa phát huy mạnh nội lực, chưa thực sự khuyến khích mọi thành phần kinh tế mạnh dạn bỏ vốn vào phát triển sản xuất kinh doanh. (Bảng 3) Bảng3: Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế (đơnvị:%) Năm 2000 2001 2002 1995 2000 Kinh tế nhà nước 38,5 38,4 38,1 Kinh tế tập thể 8,58 8,06 7,98 Kinh tế tư nhân 3,38 3,73 3,93 Kinh tế cá thể 32,31 31,84 31,42 Kinh tế hỗn hợp 3,92 4,22 4,45 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 13,28 13,75 13,91 (Nguồn:Bộ kế hoạch và đầu tư ) 4.1.3. Cơ cấu vùng kinh tế Mặc dù chính phủ đã chủ trương tạo điều kiện cho các vùng phát huy thế mạnh và tiềm năng của mình, giảm bớt sự chênh lệch quá xa về nhịp độ tăng trưởng giữa các vùng, song trên thực tế, chủ trương đó vẫn chưa tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ. Các vùng trọng điểm kinh tế và các vùng chuyên canh lớn từng bước được hình thành, nhưng cho đến nay vẫn chưa thể hiện được vai trò đầu tàu để hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của các vùng xung quanh. Sự cách biệt giữa các vùng chủ yếu do chính sách đầu tư chưa hợp lý. (Bảng 4) Bảng 4: chuyển dịch cơ cấu vùng (đơn vị: %) Năm 1990 1995 1999 2000 Vùng Tây Bắc 2,0 1,5 1,2 1,3 Vùng ĐB Sông Cửu Long 23,8 19,2 20,2 19,3 Vùng ĐB sông Hồng 18,6 20,5 20,3 22,2 Khu bốn 9,1 9,1 7,8 6,9 Duyên Hải Miền Trung 9,4 8,0 8,2 7,2 Vùng Tây Nguyên 3,2 2,8 3,6 3,6 Vùng Đông Nam Bộ 24,6 31,5 32,3 33,2 Vùng Đông Bắc 10,2 7,4 6,3 6,3 (Nguồn: Bộ kế hoạch Đầu tư) 4.2. Về cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân 4.2.1. Về cơ sở hạ tầng Kể từ ngày đất nước thống nhất đến nay, ở Việt Nam đã hình thành một hệ thống giao thông với các loại hình khác nhau: đường không, đường bộ, đường sắt, đường thuỷ tạo điều kiện cho giao lưu kinh tế giữa các vùng trong cả nước cũng như giữa Việt Nam với nước ngoài. Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, cơ sở hạ tầng của Việt Nam vẫn còn trong tình trạng yếu kém và một bộ phận đang bị xuống cấp. Cho đến hết năm 1999, trong tổng số 200 ngàn km đường bộ, chỉ có 29,3% loại một; loại hai chiếm 18,6%; còn lại là loại xấu. Trên các trục giao thông chính, 90% tổng số cầu chỉ có trọng tải dưới 10 tấn, trong đó 70% dưới 5 tấn. Báo cáo tổng kết của bộ giao thông vận tải cho biết: cả nước còn 515 xã chưa có đường ô tô, riêng ở đồng bằng sông Cửu Long con số này là 32%. Quốc lộ IA- con đường huyết mạch chạy qua phần lớn các tỉnh thành phố của đất nước với chiều dài 2100 km, trong những năm qua được nhà nước đầu tư rất lớn- có tới 47% đường xấu và hư hỏng nặng. Về hệ thống đường sắt, năm 1999 tổng chiều dài là 3259,5 km nhưng có tới 80% là đường khổ hẹp, chất lượng thấp. Sự lạc hậu của đường sắt đang hạn chế vai trò vận chuyển của nó ở trong nước và sẽ cản trở việc thống đường sắt Việt Nam hoà vào hệ thống đường sắt với các nước trong khu vực. Hiện nay vẫn còn 500 km đường xấu, 1300 km cầu cần phải làm mới, 10 trong số 15 hầm cần sửa chữa và gia cố lớn. Sự yếu kếm này làm cho tốc độ chạy tàu của đường sắt Việt Nam bình quân là 30-40 km/h và thuộc loại thấp nhất t._., trồng rừng, sản xuất nguyên liệu giấy…Các dự án đầu tư trực tếp nước ngoài trong nông- lâm- ngư nghiệp đã góp phần cải thiện đáng kể đời sống của đông đảo người dân Việt Nam cư trú ở khu vực nông thôn, góp phần đầu tư, cải thiện cơ sở hạ tầng vốn rất lạc hậu, yếu kém ở nhiều địa phương, tạo thêm nhiều việc làm ở nông thôn, tạo ra khả năng tiếp cận những công nghệ tiên tiến cho sản xuất nông- lâm- ngư nghiệp. Sự xuất hiện của nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành nhân tố tác động mạnh làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất- kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam theo hướng tích cực và thích nghi với nền kinh tế thị trường. Để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn đàu tư nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã phải chủ động trong hạch toán sản xuất, tích cực đầu tư, cải tiến máy móc thiết bị, quảng cáo sản phẩm... Đầu tư nước ngoài thực sự đã trở thành lực lượng có điều kiện để giải quyết những bài toán khó mà các nhà đầu tư trong nước thường gặp phải và khó giải quyết. Khi đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động, phát huy hiệu quả, không những sẽ tạo ra môi trường thuận lợi, thu hút các nhà đầu tư trong nước bỏ vốn ra sản xuất, kinh doanh mà còn cho du nhập vào Việt Nam các phương thức kinh doanh mới trong việc tiếp thị, mua bán hàng hoá dịch vụ, tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường cũng như hình thành một số thị trường mới như thị trường lao động thị trường dịch vụ…Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, một mặt đã tạo ra hàng loạt các doanh nghiệp có nhiều tiềm lực và khả năng hoạt động trên thị trường đất Việt Nam, Buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh để trưởng thành.Mặt khác, chúng cung ứng cho thị trường nội địa nhiều hàng hoá, dịch vụ, góp phần làm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của sản xuất và đời sốngnhân dân cũng như đáp ứng cho thị trường nước ta những hàng hoá trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Tuy nhiên, về lâu dài, nếu để các doanh nghịêp có vốn đầu tư nước ngoài duy trì sản xuất theo hướng thay thế nhập khẩu thì rất dễ làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chiến lược CNH, HĐH. Nhưng trong điều kiện khó khăn hiện nay, thì đây vừa là nguồn bổ xung hàng hoá quan trọng, vừa là điều kiện tốt để tiết kiệm được lượng ngoại tệ mà trước đây phải dùng để nhập khẩu hàng hoá. 3.3. Hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra được một số lượng lớn chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp có thu nhập cao, đồng thời góp phần hình thành cơ chế thúc đẩy việc nâng cao năng lực cho người lao động Việt Nam. Một trong những mục tiêu đặt ra khi thực hiện chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta là tạo ra nhiều việc làm cho người lao động tronh nước. Đến nay, ta thấy đây là mục tiêu mà chúng ta đã thu hút được kết quả cao hơn so với một số mục tiêu khác. Đến năm 2001, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra cho người lao động Việt Nam 380000 chỗ làm việc trực tiếp và khoảng hơn một triệu lao động gián tiếp ( bao gồm công nhân xây dựng và các ngành sản xuất, dịch vụ phụ trợ có liên quan). Số lao động làm việc trong các hoạt động có liên quan đến hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài bằng khoảng 39%-405 tổng số lao động bình quân hàng năm trong khu vực nhà nước. Thu nhập bình quân của lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 70 USD / tháng, tức bằng khoảng 150% mức thu nhập bình quân của lao động trong khu vực nhà nước. Đây là yếu tố hấp dẫn đối với lao động Việt Nam, do đó đã tạo ra sự cạnh tranh nhất định trên thị trường lao động. Tuy nhiên, lao động làm mviệc trong các doanh nghiệp này đòi hỏi cường độ lao động cao, kỷ luật lao động nghiêm khắc…đúng với đòi hỏi về lao động trong nền sản xuất hiện đại.Trong một số ngành nghề còn đòi hỏi người lao động phải có trình độ cao về tay nghề, học vấn, ngoại ngữ... Sự hấp dẫn về thu nhập cùng với những đòi hỏi cao về trình độ là những đòi hỏi buộc người lao động Việt Nam phải có ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình độ và tay nghề để có thể đủ điều kiện được tuyển chọn vào các doanh nghiệp này. Các công nhân làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đều được bồi dưỡng trưởng thành và tạo nên một đội ngũ công nhân lành nghề, đáp ứng được yêu cầu đối với người lao động trong nền sản xuất tiên tiến. Sự phản ứng dây chuyền, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, với các doanh nghiệp trong nước là điều kiện thúc đẩy lực lượng lao động trẻ tự đào tạo một cách tích cực hơn,hiệu quả hơn cũng như góp phần hình thành cho người lao động Việt Nam nói chung một tâm lý tuân thủ nền nếp làm việc theo tác phong công nghiệp hiện đại. Về đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh: Khi các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài bắt đầu hoạt động, các nhầ đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam những chuyên gia giỏi, đồng thời áp dụng các chế độ, quản lý, tổ chức, kinh doanh hiện đại nhằm thực hiện dự án hiệu quả. Đây chính là điều kiện tốt một mặt để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận, học tập, nâng cao trình độ kinh nghiệm quản lý; mặt khác, để liên doanh có thể hoạt động tốt, các nhà đầu tư nước ngoài cungc phải đào tạo cán bộ quản lý cũng như lao động Việt Nam đến một trình độ đủ để đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật, công nghệ đang được sử dụng. Đến nay, chúng ta đã có khoảng 6000 cán bộ quản lý, 25000 cán bộ kỹ thuật đang làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Họ chủ yếu là những kỹ sư trẻ, có trình độ, có thể cùng các chuyên gia nước ngoài quản lý doanh nghiệp, tổ chức sản xuât, kinh doanh có hiệu quả và đủ khả năng tiếp thu nhanh chóng những công nghệ hiện đại, thậm chí cả những bí quyết kỹ thuật. 3.4. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhân tố có sức mạnh thúc đẩy quá trình mở cửa và hội nhập của nền kinh tế Việt Namvới thế giới. Đồng thời, nó là một trong những phương thức đưa hàng hoá sản xuất tại Việt Nam xâm nhập thị trường nước ngoài một cách có lợi nhất… Trong xu thế quốc tế hoá và khu vực hoá các hoạt động kinh tế hiện nay, mức độ thành công của mở cửa và hội nhập với thế giứi sẽ có tác động chi phối mạnh mẽ đến sự thành công của công cuộc đổi mới, đến kết quả của sự nghiệp CNH, HĐH cũng như tốc độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Thông qua thực hiện các dự án đầu tư, các nhà đầu tư nước ngoài trở thành “cầu nối” tạo điều kiện dể Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với thị trường thế giới, mở rộng bạn hàng và thị phần ở nước ngoài, đồng thời giúp Việt Nam nhanh chóng tiếp cận và tiến hành hợp tác được với nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế, cũng như những trung tâm kinh tế, kỹ thuật, công nghệ mạnh của thế giới. Thật vậy, một cách trực tiếp hay gián tiếp, qua các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, sản phẩm của Việt Nam đã có điều kiện toả ra khắp thị trường thế giới, thúc đẩy sản xuất trong nước, và ngược lại, sản phẩm của nhiều nước cũng được nhập vào Việt Nam để đáp ứng nhu ccâu fsản xuất và tiêu dùng trong nước, do đó, đảm bảo nguồn nguyên vật liệu với giá cả phải chăng. Nói cách khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giúp Việt Nam nhanh chóng tìm kiếm được thị trường mới ở thị trường khu vực 2 ngay sau khi Liên Xô (cũ )và các nước Đông Âu tan rã. Hỗu hết các nước có nhiều dự án và nhiều vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam cũng đồng thời là bạn hàng lớn trong quan hệ thương mại với Việt Nam như Singapore hay Nhật Bản…Điều đó chứng tỏ đầu tư trực tiếp nước ngoài và ngoại thương có quan hệ tương hỗ với nhau. Nhờ có lợi thế trong hoạt động thị trường thế giới nên tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu ( KNXK ) của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cao hơn tốc độ tăng KNXK của cả nướcvà cao hơn hẳn KNXK của các doanh nghiệp trong nước. Cụ thể: năm 1996 KNXK của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 78.6% so với năm trước; thì KNXK của cả nước ta tăng 33.2%; còn KNXK của các doanh nghiệp trong nước chỉ tăng 29.5%. Số liệu tương ứng của năm 1997 là 127.2%; 26.6%; 14%. Năm 1998 là 10.7%; 234% và 1.8%. Năm 1999 là 30.2%; 23%và 21.1%. Năm 2000 là 29.6% và 24%. Năm 2002 là 7.9% và 4.5%. Về số tuyệt đối thì KNXK của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tăng một cách đáng kể qua các năm. Cụ thể: Bảng: Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài: ( đơn vị: triệu USD) Năm 1992 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 KNXK 52 336 786 1790 1982 2547 3300 3560 Về tương đối, tỷ trọng KNXK của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong tổng KNXK của cả nước đang có xu hướng tăng lên. Bảng: Tỷ trọng KNXK của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tổng KNXK của cả nước ( đơn vị: %) Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Tỷ trọng 8.1 10.8 19.5 21.1 22.3 23.1 23.6 Về chủng loại xuất khẩu, hàng hoá xuất khẩu của khu vực này có ưu thế hơn hăn so vói doanh nghiệp trong nước ở chôc chúng chủ yếu là hàng công nghiệp chề biến và chế tạo, trong đó có nhiều mặt hàng có công nghệ cao như: bảng mạch in điện tử, máy thu hình, video… 4. Một số tồn tại Hoạt động đầu tư nước ngoài trong thời gian vừa qua đã thực sự có tác động tích cực, có vị trí quan trọng, góp phần làm chuyển biến nền kinh tế Việt Nam theo hướng một nền kinh tế CNH, ảnh hưởng tích cực của nó đối với quá trình CNH, HĐH đang ngày càng rõ nét và lan rộng. Tuy nhiên, trong quá trình thu hút đầu tư nước ngoài nhằm phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta vẫn nổi lên một số tồn tại yếu kém chủ yếu như sau: 4.1. Cơ cấu vốn đầu tư trực tíêp nước ngoài còn bất hợp lý, do đó, hiệu quả đầu tư chưa cao. Cụ thể là: Đầu tư mới chỉ hướng vào những ngành nghề có khả năng mang lại lợi nhuận nhanh nên các ngành nông- lâm- thuỷ hải sản đầu tư còn quá nhỏ. Số dự án đã đầu tư thì tỷ lệ thành công không nhiều do gặp rủi ro, thiên tai, nguồn nguyên liệu không ổn định, hợp đồng dài hạn cùng có lợi cho nông dân chưa được thực hiện tốt. Chủ trương đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư nước ngoài chưa được thực hiện tốt. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mới chỉ tập trung vào những địa phương có nhiều thuận lợi như các thành phố lớn, các trung tâm công nghiệp, trong khi các tỉnh miền núi, nông thôn còn quá nhỏ bé , không đáng kể. Chỉ riêng 10/61 tỉnh, thành phố có diều kiện thuận lợi đã thu hút tới 87.8% so với tổng số đầu tư nước ngoài vào cả nước. Thành phố HCM chiếm 33.6% số dự án và 28,8% vốn đầu tư, Hà Nội chiếm 13.8% số dự án và 20% vốn đầu tư. 4.2. Hạn chế trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ Một số hợp đồng đầu tư, dự án liên doanh ở tình trạng bất hợp lý; nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã coi Việt Nam là nơi tái sử dụng công nghệ cũ thải ra, gây ô nhiễm môi trường, nhiều dây chuyền công nghệ đã được tính với giá cao hơn nhiêu so với giá thực tế, nhiều loại nguyên vật liệu, phụ tùng công nghệ nhập khẩu cũng được tính giá cao, gây thiệt hại cho phía Việt Nam và làm lợi một cách bất hợp pháp cho nước ngoài vì họ càng có điều kiện để nâng cao vốn góp, để có thể tính giá thành lên cao, giảm bớt lợi nhuận chịu thuế. 4.3. Hầu hết các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam xuất phát từ các doanh nghiệp châu á Trong đó riêng Đài Loan, Hàn Quốc,Nhật Bản, Singapore đã chiếm gần 70 % số đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta. Vì vậy, khi xảy ra khủng hoảng tài chính tiền tệ thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sụt giảm đáng kể. Hơn nữa, những nước này phần lớn thuộc nhóm NICs, rất cần chuyển giao công nghệ lạc hậu và thay thế công nghệ mới, hiện đại hơn, do vậy nước ta sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp cận công nghệ mới nếu ta không xem xét cẩn thận. 4.4. Vấn đề quy hoạch đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đến nay chúng ta còn thiếu một quy hoạch tổng thể về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thật sự khoa học, phù hợp với thực tế và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tình trạng thiếu đồng nhất về quy hoạch cũng như cách kêu gội vốn đầu tư giữa các ngành, các địa phương đã trở thành yếu tố tác động tiêu cực, cản trở chiến lược kêu gọi, hướng dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành và vùng lãnh thổ của cả nước. Điều này chỉ có thể được khắc phục khi chúng ta có sự điều chỉnh hợp lý về lợi ích giữa các nhà đầu tư với lợi ích của đất nước; lợi ích giữa trung ương với các địa phương; giữa các vùng của đất nước. 4.5. Năng lực, trình độ cán bộ quản lý bên Việt Nam còn yếu kém Thiếu tinh thần trách nhiệm và chưa được rèn luyện về bản lĩnh và tinh thần dân tộc khiến cho việc tổ chức quản lý ở một số doanh nghiệp liên doanh khi đi vào hoạt động chưa chặt chẽ, gây thua thiệt cho phía Việt Nam. 4.6. Về môi trường đầu tư của Việt Nam Môi trường đầu tư của Việt Nam về cơ bản vẫn còn ở tình trạng: hệ thống pháp luật chưa đầy đủ, thể hiện sự ổn định chưa cao, một số văn bản dưới luật ban hành chậm so với quy định; cơ sở hạ tầng nghèo nàn; các dịch vụ hậu cần yếu kém; quá trình ra quyết điịnh phức tạp, trì trệ, kéo dài; giá nhân công tuy có thấp hơn một số nước nhưng chi phí cho các điều kiện cần thiết đối với lao động đã nhiều thứ lại hay phát sinh, năng suất lao động thấp nên nếu hạch toán đầy đủ thì thực chất giá nhân công của Việt Nam cao hơn hẳn so với nhiều nước.. Phần III Xu hướng và giải pháp thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ công cuộc CNH-HĐH ở việt nam. 1 - Phương hướng tiến hành CNH, HĐH ở nước ta trong giai đoạn tới 1.1. Việc thực hiện CNH, HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải được rút ngắn về thời gian. Quan điểm về sự rút ngắn thời gian thực hiện quá trình CNH, HĐH nhằm nhanh chóng khắc phục tình trạng tụt hậu và từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã được khẳng định ngay trong Hội nghị BCH TƯ Đảng lần thứ 7 về vấn đề CNH, HĐH. Do đó, cần có chiến lược phát triển đất nước phù hợp, vừa có bước đi tuần tự, lựa chọn công nghệ sử dụng nhiều lao động, coi trọng CNH nông nghiệp, nông thôn, vừa đi ngay vào công nghệ hiện đại, bứt phá cơ cấu ở những ngành có điều kiện phát triển. 1.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải dựa trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng vùng và của đất nước. Trong cách thức rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước, vấn đề tận dụng lợi thế so sánh của nền kinh tế, nâng cao và tạo ra năng lực cạnh tranh quốc tế mới được đặt ra hết sức cấp bách. Một trong những yếu tố nổi bật trong cơ cấu nguồn lực phát triển là việc lựa chọn cơ cấu, xác định bước đi, phù hợp với thực trạng các nguồn lực có lợi thế so sánh như nguồn nhân lực dồi dào và rẻ với trình độ văn hoá, tính cần cù và sự năng động…Do đó, hướng đầu tư cần tập trung vào những ngành có hàm lượng lao động cao, áp dụng công nghệ tận dụng lao động và những ngành tạo ra năng lực cạnh tranh mới. Mặt khác, tích cực tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế để phát triển kinh tế trong nước. Tiến hành CNH, HĐH ở nước ta trong giai đoạn tới, thực chất đó là CNH hướng về thị trường, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, cạnh tranh dựa vào lợi thế so sánh của mình, cả những lợi thế sẵn có và những lợi thế mới tạo ra. 1.3. Trong quá trình thực hiện CNH, HĐH phải coi trọng đồng thời xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Bảo đảm nền kinh tế độc lập tự chủ chính là điều kiện cơ bản để giữ vững độc lập tự chủ về chính trị một cách đầy đủ, vững chắc và lâu dài, đồng thời tạo cơ sở vật chất kỹ thuật để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong công cuộc CNH, HĐH đất nước, đặc biệt trong bối cảnh quốc tế diễn biến rất phức tạp. Tuy nhiên, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ nhưng vẫn phải đặt nó trong mối quan hệ biện chứng với mở cửa, hội nhập, hợp tác và cạnh tranh quốc tế. Thông qua hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta mới có thể phát huy được lợi thế của mình trong quá trình hợp tác và phát triển với khu vực và thế giới, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng hội nhập quốc tế. Đồng thời tranh thủ được kiến thức và kinh nghiệm quản lý, thành tựu khoa học công nghệ…trên thế giới làm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. 1.4. CNH, HĐH phải được thực hiện một cách bền vững. Phát triển kinh tế không chỉ đòi hỏi phát triển nhanh mà còn phải phát triển bền vững, dựa trên nền tảng ổn định về an ninh chính trị, xã hội, kinh tế, cùng với phát triển kinh tế. Phải đảm bảo cân đối, hợp lý giữa phát triển kinh tế với công bằng xã hội và hài hoà với môi trường thiên nhiên. Đây chính là đặc điểm của quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 2 - Giải pháp thu hút FDI tại Việt Nam theo hướng phục vụ tốt hơn cho Sự Nghiệp CNH-HĐH giai đoạn tới 2.1. Đẩy mạnh thự hiện chiến lược kinh tế mở, hoàn thiện và cụ thể hóa chiến lược thu hút FDI Thu hút đầu tư nước ngoài thuộc lĩnh vực quan hệ kinh tế quốc tế, vì vậy chỉ có thể thu hút được đối tác bên ngoài khi chúng ta thực hiện chủ trương mở cửa nền kinh tế, hòa nhập vào đời sống kinh tế thế giới, đông thời tăng cường mở cửa bên trong vì giữa mở cửa bên ngoài và mở cửa bên trong có mối quan hệ mật thiết tác động lẫn nhau; khuyến khích mọi công dân bằng nhiều hình thức thích hợp bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh; mở cửa thông tin trong va ngoài nước, đặc biệt là thông tin kinh tế, thị trường, văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ dưới mọi hình thức, đặc biệt là phát triển liên lạc viễn thông quốc tế. Mục tiêu thu hút FDI là nhằm tranh thủ nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý để phát triển kinh tế, song cần đặc biệt chú ý đến chiến lược thu hút FDI, coi nó là bộ phận của tổng thể nền kinh tế nói chung và chiến lược kinh tế đối ngoại nói riêng. Chiến lược thu hút FDI phải thể hiện được nội dung chủ yếu sau: Phải có sự cân nhắc, xem xét, thận trong hơn khi phê duyệt các dự án đầu tư nước ngoài. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài sắp tới phải là những dự án có tác dụng góp phần làm cho cơ cấu kinh tế nước ta chuyển dịch theo hướng tiến bộ phù hợp với quá trình CNH-HĐH, hoặc nếu không thì cũng không phải là nhân tố làm cho cơ cầu kinh tế nước ta mất cân đối. Nguồn vốn FDI phải được bố trí hợp lý trên bàn cờ chiến lược chung của các nguồn vốn. Đây là cách làm có hiệu quả, song thường khó khăn, bởi vì khi mà đa phần các nhà đầu tư nước ngoài đều đặt ra các mục tiêu cho hoạt động đầu tư là lợi nhuận, là doanh thu, là thị phần…nên khi lập dự án họ thường có sự lựa chọn rất cẩn thận về thị trường và lĩnh vực đầu tư. Đối với vấn đề này, một mặt chúng ta cần có những chính sách ưu đãi hơn với mức độ chênh lệch về các điều kiện kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng…của đầu tư để điều chỉnh luồng dự án đầu tư nước ngoài. Mặt khác, trong một số trường hợp, nếu là dự án thực sự phát huy tác dụng, có vai trò tích cực trong tương lai thì có lẽ chúng ta phải dành quyền ưu tiên cho sự lựa chọn của nhà đầu tư, thậm chí khi nó đòi hỏi một vài hy sinh, thiệt thòi trước mắt. Trước thực trạng này, Nhà nước cần tìm cách huy động các nguồn ODA, cùng vời vốn ngân sách nhằm chủ động đầu tư vào những vùng, những ngành kinh tế, cơ sở hạ tầng… nơi mà có ít hoặc không có đầu tư trực tiếp nước ngoài, để thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý và có hiệu quả, cũng như tạo ra các yếu tố có sức hấp dẫn hơn của những vùng này đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặt khác, tiếp tục nghiên cứu, bổ sung các chính sách ưu đãi thoả đáng đối với cá dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lĩnh vực công nghiệp chế biến, đâu tư vào các vùng có cơ sở hạ tầng chưa phát triển, điều kiện kinh tế còn khó khăn… 2.2. Tiếp tục xây dựng và cải thiện môi trường pháp lý về đầu tư Môi trường đầu tư của nước ngoài là tổng hòa các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội có liên quan tác động đến hoạt động đầu tư và bảo đảm khả năng sinh lời của vốn đầu tư nước ngoài. Trong điều kiện luôn có sự cạnh tranh quốc tế về thu hút đầu tư thì việc cải thiện môi trường đầu tư là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với Việt Nam. Chúng ta không phủ nhận những tiềm năng nổi bật trong công tác xây dựng và ban hành pháp luật có liên quan đến đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua. Tuy nhiên, qua thử nghiệm thực tiễn đã bộ lộ không ít sai sót và hạn chế như: hệ thống pháp luật còn chưa đồng bộ và cụ thể, thực hiện pháp luật còn tùy tiện, gây nhiều khó khăn, phức tạp cho chủ đầu tư. Nhiều văn bản pháp lý ban hành chậm, nội dung của một số điều khoản trong văn bản pháp lý còn chồng chéo, chưa thống nhất, thậm chí còn có chỗ mâu thuẫn. Vì vậy trong thời gian tới, chúng ta cần đổi mới cơ chế chính sách tạo môi trường thuận lợi cho thu hút và triển khai FDI, thể hiện ở một số nội dung sau: Đa dạng hóa hơn nữa các hình thức thu hút FDI, mở rộng lĩnh vực thu hút FDI với các hình thức thích hợp như cho phép các doanh nghiệp FDI chuyển đổi từ công ty trách nhiệm hữu hạn sang công ty cổ phần và phát hành cổ phiếu để huy động vốn mở rộng đầu tư; cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua cổphần của các doanh nghiệp trong nước, kinh doanh nhà ở; cho phép các tập đoàn có nhiều dự án đầu tư ở Việt Nam thành lập dạng công ty mẹ con… Nghiên cứu sửa đổi đồng bộ hệ thống các loại thuế, xác định mức khởi điểm chịu thuế thu nhập cá nhân đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện chính sách thay thế dần nhân viên người nước ngoài bằng người Việt Nam. Xây dựng phương án, lộ trình áp dụng thống nhất các loại giá cả dịch vụ đối với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, chấn chỉnh việc thu hút các loại phí và lệ phí không hợp lý, tạo môi trường bình đẳng trong nước cho các doanh nghiệp trong nước cũng như doanh nghiệp có vốn FDI. 2.3. Hướng nguồn vốn FDI phục vụ thiết thực quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Hội nghị Đảng toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa 7 khẳng định: Đất nước ta đang chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, đẩy tới một bước sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đầu tư phát triển, hơn lúc nào hết là điều kiện quan trọng hàng đầu để thực hiện bước phát triển mới đó. Muốn vậy, định hướng chiến lược thu hút vốn FDI tập trung vào các lĩnh vực sau: Xây dựng những công trình then chốt trong ngành công nghiệp như dầu khí, điện, xi măng, sắt thép, hóa chất…nhằm cải thiện hạ tầng cơ sở của sản xuất, thực hiện một phần thay thế nhập khẩu, ổn định sản xuất, giảm giá đầu vào… Ưu tiên các ngành công nghiệp mũi nhọn trong công nghệ và kỹ thuật như điện, vi điện tử, tin học, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới. Khuyến khích các dự án đầu tư phát triển sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu trong các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm gắn với vùng nguyên liệu Chú trọng đến các dự án thuộc ngành công nghiệ dịch vụ có tỷ suất sinh lợi cao như du lịch, khách sạn, sửa chữa tầu biển, dịch vụ sân bay, cảng khẩu, kinh doanh bất động sản… Quan tâm tới các dự án sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu, tài nguyên sẵn có của Việt Nam. Việc thu hút vốn FDI cần hướng vào một số vùng, địa phương, đặc biệt là các vùng, địa bàn trọng điểm quốc gia có điều kiện thuận lợi về môi trường đầu tư để tạo cơ hội phát triển kinh tế có sức lan tỏa và lôi kéo các vùng khác cùng đi lên. Cần có chính sách ưu tiên đặc biệt để thu hút vốn FDI vào những vùng nông thôn miền núi có khó khăn về hạ tầng cơ sở để khai thác tiềm năng, thế mạnh của các vùng này. Một mặt, cần phải phân loại doanh nghiệp ở các ngành để chọn lọc các doanh nghiệp có thể và cần thiết đưa vào hợp tác, liên doanh. Mặt khác, cần quy hoạch các cụm, khu công nghiệp tập trung để thu hút vốn FDI và các nguồn vốn trong nước đầu tư phát triển, hạn chế dần việc đầu tư phân tán, gặp đâu làm đó, mạnh ai người ấy làm. Các xí nghiệp trong khu công nghiệp tập trung có thể phát triển từ đơn lẻ đến quần thể, từ đơn ngành đến đa ngành; gắn linh hoạt giữa các xí nghiệp trong nước và xí nghiệp nước ngoài, giữa xí nghiệp FDI trong nước và xí nghiệp chế xuất, giữa sản xuất và thương mại, giữa sản xuất hàng hóa và kinh doanh tiền tệ; đa dạng các khu công nghiệp như khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp kỹ thuật cao, khu thương mại tự do… 2.4. Thực hiện chiến lược khuyến khích đầu tư của các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia, công ty toàn cầu để tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại. Thông qua nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia với ưu thế của mình đã tạo nên những ảnh hưởng to lớn đến các nước tiếp nhận đầu tư. Nguồn vốn của các công ty này tham gia đóng góp bổ sung nguồn vốn thiếu hụt trong nước, cân bằng cán cân thanh toán tại nước tiếp nhận. Ngoài ra, các nước tiếp nhận đầu tư có cơ hội tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm tổ chức quản lý kinh doanh, đào tạo đội ngũ cán bộ lao động, tăng khả năng cạnh tranh và có nhiều cơ hội tiếp cận hội nhập với nền kinh tế thế giới. Thông qua FDI, các nước phát triển có điều kiện xuất khẩu công nghệ và chuyển giao công nghệ, còn đối với các nước đang phát triển như nước ta thì FDI được coi như là một phương tiện hữu hiệu để nhập khẩu công nghệ có trình độ cao hơn từ bên ngoài. Điều này chỉ ra rằng, cố gắng để thu hút được các công ty xuyên quốc gia lớn đến đầu tư là đòi hỏi của sự phát triển lâu dài. Tuy nhiên, một trong những điều kiện có tính chất quyết định khả năng thu hút các công ty xuyên quốc gia lớn đến đầu tư là phải có các doanh nghiệp đối tác trong nước đủ mạnh về nhiều mặt. Và để có được các doanh nghiệp loại này, Nhà nước ta cần có sự đầu tư thỏa đáng để sớm hình thành các tập đoàn kinh tế hùng mạnh làm trụ cột cho sự phát triển kinh tế nước nhà, vừa đủ sức vươn ra hoạt động có hiệu quả trên thị trường quốc tế. 2.5. Tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp, công chức nhà nước, và công nhân kỹ thuật có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp hoạt động kinh tế đối ngoại, trình độ ngoại ngữ và tay nghề kỹ thuật cao, đủ khả năng để đáp ứng tốt yêu cầu thu hút và quản lý hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Con người chính là chìa khóa mở ra các động lực cho tăng trưởng. Nhưng đó phải là con người có trí tuệ, đạo đức và tinh thần dân tộc. Phát triển nguồn nhân lực cần dựa trên nền tảng giáo dục có căn cơ. Giáo dục chính là lò nung tạo ra nguồn nhân lực mang lai sự phồn vinh, giàu có cho đất nước. Có giáo dục phát triển thì nền kinh tế mới có khả năng tiếp cận những thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến của thế giới và biến nó thành lợi thế riêng của đất nước. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và khu vực hóa, cạnh tranh trong sự liên kết và hội nhập trở thành tất yếu cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Ngoài lợi thế so sánh tĩnh như tài nguyên, lao động thì nguồn nhân lực có trí tuệ, chất xám là yếu tố quyết định thắng lợi trong cuộc cạnh tranh kinh tế đó. Như vậy, để thành công trong chiến lược CNH-HĐH, thoát khỏi đói nghèo, khăc phục tụt hậu và đuổi kịp với các nước trong khu vực, Việt Nam cần phải tăng tốc đẩy mạnh hơn nữa đầu tư giáo dục để tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao. Trước mắt, Nhà nước cần phải sớm có những quy định về những điều kiện phải có đối với cán bộ Việt Nam tham gia Hội đồng quản trị và quản lý các doanh nghiệp liên doanh, quy định cụ thể tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và chính trị. Trách nhiệm nghĩa vụ và quyền lợi của những người làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thể chế hóa các lợi ích tinh thần của người lao động Việt Nam, cũng như phương thức hoạt động của các tổ chức Đảng, Đoàn thể trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo hướng tăng cường hiệu lực của các tổ chức, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo quan hệ lành mạnh giữa các bên đối tác, và bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên. 2.6. Sớm hình thành một thị trường vốn đồng bộ, tạo ra khả năng đa dạng hóa trong huy động vốn cho đầu tư. Trước mắt, xúc tiến hoạt động có hiệu quả với quy mô rộng lớn của thị trường chứng khoán. Thực hiện mô hình cổ phần hóa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia rộng rãi hoạt động của thị trường vốn trong nước cũng như thị trường chứng khoán. 2.7. Nghiên cứu, xây dựng để sớm ban hành, áp dụng Bộ luật đầu tư chung cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thực hiện tốt và tiếp tục triển khai thực hiện lộ trình rút ngắn khoàng cách, sớm tiến tới gia đoạn xoá bỏ hẳn sự chênh lệch về giá, phí hàng hóa, dịch vụ, giá cước… giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Kết luận Việt nam tiến hành CNH-HĐH trong điều kiện “ Nền kinh tế vẫn còn mang tính chất nông nghiệp lạc hậu. Công nghiệp còn nhỏ bé, kết cấu hạ tầng kém phát triển. Cơ sở vật chất-kỹ thuật chưa xây dựng được bao nhiêu. Tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và đầu tư phát triển còn thấp và chưa được quan tâm thích đáng. Kinh tế tuy có mức tăng trưởng khá nhưng năng suất, chất lượng và hiệu quả còn thấp”. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thực sự có vai trò rất quan trọng đối với sự nghiệp cải cách và đổi mới cũng như công cuộc CNH-HĐH ở Việt Nam. Nó đóng vai trò như lực khởi động cho quá trình CNH-HĐH của Việt Nam- FDI là lực lượng có các điều kiện để giúp ta giải quyết hai vấn đề (vốn và kỹ thuật) được coi là cơ bản nhất, quyết định khả năng tiến hành và sự thành công của thời kỳ đầu thực hiện CNH-HĐH. Những tác động tích cực của FDI đối với sự phát triển kinh tế, xã hội và CNH-HĐH của Việt Nam đang ngày càng tăng và tương đối nổi bật như: góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH; góp phần tạo ra những năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, phương thức sản xuất kinh doanh mới… Về nguyên tắc, sự phát triển bằng chính năng lực của đất nứơc mới là sự phát triển ổn định và bền vững. Nhưng cũng có thể nói rằng, trong hoàn cảnh xuất phát điểm thấp, chúng ta rất khó đạt được những thành tựu như vừa qua nếu không có sự tham gia của FDI. Duy trì được sự ổn định về chính trị- xã hội; thúc đẩy nền kinh tế phát triển toàn diện; thống nhất cách đánh giá và những quan điểm cơ bản đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài; hình thành các giải pháp phù hợp với thực tế luôn biến động… là những yếu tố quyết định khả năng tồn tại và phát triển đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Việc thu hút, quản lý và tổ chức hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ có thể đạt được hiệu quả khi trình độ sản xuất-kinh doanh của ta phát triển theo chiều hướng và tốc độ thích hợp. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0022.doc
Tài liệu liên quan