Vai trò của đầu tư trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

Theo C.Mac va F.Anghen: Không thể cải biến kinh tế xã hội nếu thiếu vai trò kinh tế của Nhà nước, loài người đã và đang còn sống lâu dài trong nền kinh tế thị trường,bên cạnh mặt tích cực là chủ yếu, nền kinh tế thị trường không thể tránh khỏi mặt tiêu cực. Phát huy mặt tích cực, chủ động hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường thông qua vai trò của đầu tư trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là một tất yếu khách quan. I. sự cần thiết khách quan vai trò của đầu tư trong việc thúc đẩy tăn

doc51 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1437 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của đầu tư trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g trưởng kinh tế 1.Nhà nước là gì ? Trong tiến trình lịch sử phát triển, sự ra đời của Nhà nước chậm hơn sự ra đời của xã hội vì Nhà nước chỉ được tạo ra từ xã hội có một trình độ phát triển nhất định Nhà nước không phải là cái bẩm sinh vốn có mà nó xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện chế độ tư hữu về Tư liệu sản xuất, sản xuất hàng hoá, giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nhà nước là kiểu tổ chức xã hội của xã hội có giai cấp. Nó là một bộ máy, một hệ thống tổ chức chặt chẽ, tác động vào mọi mặt của đời sống xã hội, do giai cấp thống trị lập ra nhằm hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức của chúng đối với quần chúng lao động. Do vậy bản chất Nhà nước theo nguyên nghiã của nó là nền chuyên chính để thực hiện sự thống trị của một giai cấp, là bộ máy áp bức của giai cấp thống trị đối với xã hội. Nhà nước chỉ là một phạm trù lịch sử, nó không đồng nghĩa với xã hội, nó chỉ tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định và sẽ tự tiêu vong khi các cơ sở ra đời và tồn tại của nó không còn nữa. Bất kì một Nhà nước nào cũng có chức năng kinh tế, mà theo Mac thì chức năng của nhà nước như “vai trò bà đỡ cho xã hội cũ thai nghén xã hội mới”. ở các thời kì khác nhau, các chế độ xã hội khác nhau, do tính chất Nhà nước khác nhau nên vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước có biểu hiện khác nhau. 2.Vai trò của đầu tư trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế qua các giai đoạn khác nhau của lịch sử Nói về vai trò kinh tế của Nhà nước qua các thời kì và chế độ xã hội, C.Mac và F.Anghen đã có những đúc kết hết sức xác đáng như sau: * Các Nhà nước trước Chủ nghĩa tư bản, vai trò kinh tế chủ yếu là đặt ra chế độ thuế khoá, một chế độ đóng góp có tính chất cưỡng bức để nuôi sống bộ máy cai trị, thực hiện chức năng đối nội (giữ cho sự xung đột giai cấp nằm trong vòng trật tự) đối ngoại (bảo vệ lãnh thổ) từ đó bảo vệ và mở rộng lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị. * Đến Nhà nước tư sản, vai trò kinh tế của Nhà nước không chỉ dừng lại ở thuế khoá, không chỉ đơn thuần là cơ quan cai trị ở bên ngoài, bên trên quá trình sản xuất như Anghen đã nhận xét "nền văn minh mà tiến lên thì bản thân thúê má là không đủ nữa, Nhà nước phát hành hối phiếu, vay nợ tức là phát hành công trái”. Và sự xuất hiện sở hữu Nhà nước đã làm cho Nhà nước bắt đầu ở bên trong quá trình sản xuất, Nhà nước là “Nhà tư bản tập thể lý tưởng, Nhà nước ấy càng chuyển nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành tư bản tập thể thực sự bấy nhiêu và càng bóc lột nhiều công nhân” Cũng theo hai ông, không thể có sự biến đổi kinh tế xã hội từ chủ nghiã tư bản lên xã hội cộng sản nếu thiếu vai trò kinh tế của Nhà nước, của giai cấp vô sản, Anghen nhấn mạnh ”Giai cấp vô sản chiếm lấy chính quyền Nhà nước và biến tư liệu sản xuất trước hết thành sở hữu Nhà nước”. Theo dự đoán của Mac và Anghen, chuyên chính vô sản trong đó bộ phận quan trọng là Nhà nước và vai trò kinh tế của Nhà nước ra đời từ sự chín muồi của các tiền đề kinh tế xã hội, đến lượt sự ra đời vai trò kinh tế của Nhà nước lại thúc đẩy các điều kiện kinh tế xã hội của xã hội mới phát triển và hoàn thiện. Và khi những điều kiện kinh tế xã hội phát triển đến một trình độ nhất định lại dẫn đến sự tự tiêu vong của Nhà nước theo đúng quy luật phát sinh phát triển và chuyển hoá vốn có của mọi sự vật hiện tượng Mac và Anghen với tư cách vừa là nhà khoa học vừa là nhà hoạt động thực tiễn, hai ông chưa thể đề cập nhiều vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước cho xã hội tương lai khi thực tiễn chưa đến, bằng sự phân tích logic hai ông chỉ phác hoạ chức năng kinh tế của Nhà nước chủ yếu là ”biến các tư liệu sản xuất thành sở hữu Nhà nước”, chỉ đến sau này Lênin với tư cách là người lãnh đạo trực tiếp công cuộc xây dựng xã hội mới thì vai trò và chức năng của Nhà nước mới được nói tới nhiều hơn. Ông cho rằng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên công hữu xã hội về tư liệu sản xuất với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất là hình thức sở hữu chung của toàn thể nhân dân lao động, mọi người cùng chiếm hữu tư liệu sản xuất. Người chủ cao nhất là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, sản xuất được tiến hành theo kế hoạch tập trung thống nhất của Nhà nước. Còn hình thức sở hữu tập thể do tập thể người lao động góp vốn, tư liệu sản xuất để xây dựng nên, sản xuất được tiến hành theo kế hoạch của tập thể có sự hướng dẫn của Nhà nước. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có vai trò kinh tế đặc biệt, nó không còn là bộ máy ăn bám đứng trên quá trình sản xuất nữa mà phải chuyển sang tổ chức, thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế quốc dân. Chức năng này gắn liền với quá trình kế hoạch hoá tập trung thống nhất, quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm, kiểm tra chặt chẽ mức độ lao động và tiêu dùng. Thực tế lịch sử đã cho thấy cùng với sự tiến hoá của các chế độ xã hội, vai trò kinh tế của Nhà nước cũng có những biến đổi hết sức lớn lao, thể hiện rõ trong các lý thuyết kinh tế điển hình qua các thời kì - Trong xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến: vai trò kinh tế của Nhà nước chủ yếu chỉ dừng lại ở việc bảo vệ sở hữu về nô lệ và phong kiến về Tư liệu sản xuất. Nhà nước trực tiếp dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của cải được sản xuất ra bởi nô lệ. Còn Nhà nước phong kiến không chỉ can thiệp vào việc phân phối mà còn tập hợp nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp, khuyến khích quan lại di dân đi mở mang các vùng đất mới, đề ra các chính sách ruộng đất thích hợp cho từng thời kì. - Trong giai đoạn đầu của sự hình thành và phát triển của Chủ nghĩa tư bản + Trong thời kì tích luỹ nguyên thuỷ Tư bản (giữa thế kỉ 15) Nhà nước có vai trò kinh tế quan trọng trong việc tích luỹ tiền (Chủ nghĩa trọng thương), họ đề cao vai trò tiền tệ, coi tiền tệ là tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá sự giàu có của một quốc gia -“Nội thương là cái ống dẫn, ngoại thương là cái máy bơm, muốn tăng của cải phải có ngoại thương nhập dần của cải qua nội thương”-do đó các Nhà nước đã buộc các thương gia nước ngoài không được mang tiền ra khỏi nước họ, quy định những nơi được phép buôn bán để dễ dàng cho việc kiểm tra, đánh thuế nhập khẩu cao, khuyến khích phát triển xuất khẩu hàng hoá , thành phẩm, hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô... Sự can thiệp của Nhà nước đã góp phần tạo ra những tiền đề cần thiết cho sự ra đời của Chủ nghĩa tư bản. + Thế kỉ 18,19 cuộc Cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ nhất hoàn thành, công trường thủ công Tư bản chủ nghĩa đã đứng vững trong công nghiệp, nông nghiệp...nền sản xuất ở các nước Tư bản phát triển nhanh, giai cấp Tư sản đã chuyển từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất, tư tưởng tự do kinh tế được thể hiện rõ nhất trong thời kì này mà tiêu biều là quan điểm kinh tế của trường phái cổ điển. Họ ủng hộ mạnh mẽ tư tưởng tự do cạnh tranh, chống lại việc Nhà nước can thiệp vào kinh tế:”Trong chính sách và trong kinh tế phải tính đến những quá trình tự nhiên, không nên dùng những hành động cưỡng bức để chống lại quá trình đó”-W.Petty. Tư tưởng tự do kinh tế này được tiếp tục phát triển ở thuyết trật tự tự nhiên của trường phái trọng nông ở Pháp, đại diện của họ là Quesnay, ông cho rằng chỉ có xã hội tư bản mới là xã hội bình thường vì nó phù hợp với trật tự tự nhiên (với 2 quy luật cơ bản la quy luật vật lý và luân lý) từ đó ông đưa ra tư tưởng tự do tư hữu, tự do cạnh tranh, tự do tham gia thị trường. Tuy nhiên đại diện tiêu biểu nhất trong thời kì này là một nhà Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển người Anh-Ađam Smith-ông đã dưa ra lý thuyết “Bàn tay vô hình”, “Con người kinh tế”, “Nhà nước không can thiệp vào tổ chức nền kinh tế hàng hoá". Ông cho rằng hoạt động của nền kinh tế là do các quy luật khách quan tự phát chi phối, sự vận động của thị trường là do quan hệ cung cầu cùng với những biến động tự phát của giá cả hàng hoá trên thị trường quyết định. Quan hệ giữa người với người là quan hệ về lợi ích kinh tế. Mỗi người hoạt động chỉ nhằm lợi ích cho bản thân, song do “bàn tay vô hình” chi phối buộc con người phục tùng lợi ích chung của xã hội, điều này nằm ngoài ý định của từng nhà kinh doanh. Mặc dù đề cao “bàn tay vô hình” song ông cũng cho rằng đôi khi Nhà nước có nhiệm vụ kinh tế nhất định, đó là khi các nhiệm vụ kinh tế đặt ra vượt quá khả năng của các doanh nghiệp. Mặt khác các nhà kinh tế cũng thấy được rằng nền kinh tế phát triển càng cao, xã hội hoá sản xuất ngày càng mở rộng, thị trường ngày càng phát triển thì càng cần có sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, song tư tưởng của họ vẫn dừng lại ở sức mạnh thị trường, ở sự tác động tự phát của các quy luật kinh tế thị trường làm cho nền kinh tế phát triển ổn định và lành mạnh. - Sang thời kì của đại tư bản công nghiệp: Chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng nhờ các nguồn vốn tích luỹ to lớn nên người ta chủ yếu chỉ phê phán những sự tiêu dùng xa xỉ làm giảm nguồn tích luỹ chứ cũng chưa thấy rõ vai trò cần thiết của Nhà nước trong việc điều chỉnh các quá trình phát triển, khắc phục các mất cân đối (Ví dụ Davit Ricardo). + Vào đầu những năm 1930 của thế kỉ nảy, khủng hoảng kinh tế diễn ra thường xuyên đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929-1933 đã làm cho “bàn tay vô hình” không thể đảm bảo những điều kiện ổn định cho nền kinh tế thị trường phát triển. Đồng thời ở giai đoạn này trình độ xã hội hoá sản xuất phát triển khá cao làm cho các nhà kinh tế thấy rằng: cần có một lực lượng điều tiết nền kinh tế từ một trung tâm-đó là Nhà nước. Từ đó J.M.Keynes-nhà kinh tế học người Anh đã dưa ra lý thuyết "Nhà nước điêù tiết nền kinh tế thị trường". Ông cho rằng cùng với sự tăng lên của sản lượng quốc gia thì thu nhập tăng lên và tiêu dùng cũng tăng lên. Nhưng do xu hướng “tiêu dùng giới hạn” nên tiêu dùng tăng chậm hơn so với thu nhập, điều này làm giảm cầu tiêu dùng tương đối. Cầu tiêu dùng giảm làm giảm giá hàng hoá và từ dó làm giảm tỷ suất lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận giảm nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất thì các doanh nghiệp không còn có lợi do đó họ không đầu tư vào sản xuất, kinh doanh nữa. Và như vậy khủng hoảng, trì trệ kinh tế và thất nghiệp xảy ra là điều không thể tránh khỏi. Để khắc phục tình trạng đó, Nhà nước cần phải can thiệp vào nền kinh tế, vào thị trường, phát huy mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong cư dân, các nghiệp chủ đưa vào sản xuất, tăng vốn đầu tư để giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, tiêu dùng, đặc biệt chú ý đến tăng cầu tiêu dùng và chỉ có tăng cầu tiêu dùng mới thực sự khuyến khích các nghiệp chủ đầu tư mới vào sản xuất, đó là một mặt. Mặt khác, Nhà nước phải dùng chính sách tài chính, lãi suất để tác động vào nền kinh tế. Phải chấp nhận lạm phát vừa phải, tăng lượng tiền nhất định vào lưu thông để giảm lãi suất, tăng đầu tư tư bản mới, có làm được những điều đó thì mới làm cho nền kinh tế phát triển cân bằng và ổn định, tránh được các đợt khủng hoảng, thất nghiệp xảy ra trong nền kinh tế. Tuy nhiên, những quan điểm của Keynes và những người theo ông không làm cho khủng hoảng, thất nghiệp và lạm phát giảm, trái lại ngày càng gia tăng theo chu kì kinh tế. + Chính do những hạn chế của Keynes đã làm xuất hiện “Chủ nghĩa tự do mới”-họ muốn kết hợp tất cả các quan điểm cũng như phương pháp luận của các trường phái tự do cũ, trọng thương mới, trường phái Keynes với tư tưởng cơ bản là: “Cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước ở mức độ nhất định”, khẩu hiệu mà họ đưa ra là:”Thị trường nhiều hơn và Nhà nước can thiệp ít hơn”. Họ xây dựng nhiều mô hình kinh tế thị trường như: * “Nền kinh tế thị trường xã hội “ của CHLB Đức, nó dược hinh dung như một sân bóng trong đó mỗi doanh nghiệp là một cầu thủ, Nhà nước đóng vai trò là trọng tài thiết kế luật “chơi “ để điều khiển trận đấu sao cho nền kinh tế có thể tránh được những tai hoạ như khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế là: Tôn trọng cạnh tranh, Nhà nước can thiệp vào kinh tế phải tổng hợp với thị trường, Nhà nước coi trọng chỉ tiêu xã hội, sử dụng nó để đánh giá hoạt động của mỗi doanh nghiệp. * ở Mĩ tiêu biểu có “Trường phái trọng tiền hiện đại”, họ cũng ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế chống lại việc Nhà nước can thiệp, họ cho rằng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thường xuyên ở trạng thái cân bằng động, đó là hệ thống tự điều chỉnh, hoạt động dựa vào các quy luật kinh tế vốn có. * ở các nước Bắc Âu đã có chủ trương tăng cường vai trò của Nhà nước nhưng chủ yếu chỉ trong lĩnh vực xã hội, kiểu kinh tế thị trường xã hội. + Rõ ràng cả 2 trường phái Keynes và tự do mới đều vấp phải những sai lầm, hoặc là hạ thấp đến mức bỏ qua cơ chế thị trường hoặc là phủ nhận vai trò kinh tế của Nhà nước, nên vào thập niên 60,70 có sự xích lại gần nhau của 2 trường phái để hình thành nền kinh tế hỗn hợp, tức là họ đã phối hợp “Bàn tay vô hình” và “Bàn tay hữu hình” để điều tiết nền kinh tế. Trong cuốn “Kinh tế học” của Samuelson ông viết:”Điều hành một nền kinh tế không có cả chính phủ lẫn thị trường thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay”, theo ông Nhà nước có vai trò đảm bảo sự ổn định, công bằng và hiệu quả vì các nền kinh tế thực tế đôi khi chịu thất bại của thị trường gồm cạnh tranh không hoàn hảo (cao hơn nữa là độc quyền), tác động bên ngoài( ngoại ứng), hàng hoá công cộng (nếu để tư nhân làm thì việc cung ứng thường không đủ nên Chính phủ phải nhảy vào làm việc đó) thuế (một dạng cưỡng bức quan trọng của Nhà nước để phục vụ những chi tiêu của mình). Như vậy sự can thiệp của Chính phủ vào thị trường để nâng cao hiệu quả không phải chỉ đơn thuần là do ý thích, mà đã tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các tư doanh làm ăn trôi chảy, ngăn cản lạm dụng khi các doanh nghiệp trở thành những kẻ tham lam độc quyền và kiềm chế hoạt động của các doanh nghiệp khi khối nhà máy của họ đe doạ sinh mạng và tài sản của người khác. Ngoài ra nếu nền kinh tế hoạt động hoàn toàn có hiệu quả, luôn trên ranh giới đường khả năng sản xuất, sự cạnh tranh trên thị trường là hoản hảo thì hàng hoá luôn được đặt vào tay người có nhiều tiền nhất chứ không phải theo nhu cầu lớn nhất, vì vậy cần thừa nhận rằng một hệ thống thị trường có hiệu quả có thể gây ra sự bất bình đẳng lớn, và một khi thị trường dân chủ không thích sự phân phối “phiếu đôla” trong một thị trường “thả lỏng” thì nó có biện pháp thay đổi kết quả thông qua những chính sách “phân phối lại”, từ đó Nhà nước có thể sử dụng "thuế luỹ tiến” đánh thuế người giàu theo tỉ lệ thu nhập cao hơn người nghèo, xây dựng hệ thống hỗ trợ thu nhập nhằm tạo ra một “mạng lưới an toàn”, bảo vệ những người không may khỏi bị huỷ hoại về kinh tế. Bên cạnh đó, theo Samuelson từ khi ra đời cho đến nay Chủ nghĩa tư bản đã gặp phải những thăng trầm chu kì cuả lạm phát, do vậy sử dụng một cách thận trọng quyền lực về tiền tệ và tài chính của Chính phủ (bao hàm việc điều tiết tiền tệ và hệ thống ngân hàng để xác định mức lãi suất và điều kiện tín dụng. Qua xem xét 3 vai trò trên đây của Chính phủ- người đảm bảo hiệu quả, công bằng và ổn định-ông đã làm rõ tại sao nước Mĩ những năm 1980 lại được gọi là “một nền kinh tế hỗn hợp”, cơ chế thị trường xác định giá cả và sản lượng trong nhiều lĩnh vực, trong khi đó Chính phủ điều tiết thị trường bằng các chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ. Cả hai bên thị trường và Chính phủ đều có tính chất thiết yếu như nhau. Lí thuyết kinh tế của trường phải này có ý nghĩa thực tiễn với nước ta vì nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là sự vận động dược điều tiết bởi sự thống nhất giữa cơ chế thị trường-bàn tay vô hình- và vai trò kinh tế của Nhà nước-bàn tay hữu hình. - Thời kì các nước xã hội chủ nghĩa: Sau Đại chiến Thế giới II, bên cạnh hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa đã hình thành và phát triển từ trước, một hệ thống mới các nước xã hội chủ nghĩa ra đời và tồn tại song song trên khắp các châu lục (trước Đại chiến Thế giới II chỉ tồn tại duy nhất một Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Liên Xô). Do quan điểm chính trị, tư tưởng và nhiều điều kiện khác, tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều áp dụng chế độ kế hoạch hoá tập trung để quản lý nền kinh tế. Đặc trưng nổi bật nhất của chế độ này là việc Nhà nước được đặt vào trung tâm của mọi quan hệ kinh tế. Thông qua công cụ kế hoạch được chi tiết hoá đến cao độ, mọi vấn đề của nền kinh tế từ sản xuất, phân phối đến tiêu dùng... đều do các cơ quan Nhà nước đảm trách. Điều này là nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự tụt hậu của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa so với hệ thống các nước tư bản phát triển. Những cải tổ nhưng không triệt để sau đó vì thế đã dẫn tới sự sụp đổ không tránh khỏi của Liên Xô và một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90. Như vậy về nguyên tắc Nhà nước cần phải can thiệp vào thị trường nhưng không có mô hình nào chung có thể áp dụng cho toàn thế giới. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng nước mà phải tìm ra cho mình một vị trí tiếp cận với nền kinh tế, một cách thức riêng để can thiệp vào thị trường, định hướng nền kinh tế đến các mục tiêu mong muốn trên cơ sở tôn trọng các quy luật khách quan của thị trường. 3. Tính tất yếu khách quan của việc xuất hiện vai trò kinh tế của Nhà nước Trên thực tế, không có nền kinh tế nào thế giới lí tưởng của bàn tay vô hình. Mỗi nền kinh tế đều có những khuyết tật. Vì lí do đó nên ở bất cứ nơi nào trên thế giới, không có chính phủ nào dù bảo thủ đến đâu lại không nhúng tay vào nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển và theo đó quan hệ sản xuất mới được thiết lập cho phù họp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy Nhà nước cần phải nắm vai trò chủ đạo trongviệc đưa ra giải pháp để phát triển lực lượng sản xuất. Trong thời kì quá độ, để phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường cần phải giải quyết hai mâu thuẫn chính. Thứ nhất đó là mâu thuẫn giữa nền kinh tế chậm phát triển với yêu cầu phát triển nền kinh tế hiện đại bằng quá trình đẩy nhanh phát triển nền kinh tế hàng hoá. Thứ hai đó là mâu thuẫn giữa những yếu tố nhanh nhạy, tự phát của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.Với tư cách là cơ quan quyền lực đại diện cho lợi ích của nhân dânvà là người chủ đại diện cho sở hữu toàn dân, Nhà nước phải quản lí nền kinh tế đ, thực hiện chế độ dân chủ về mọi khâu, mọi mặt của quá trình tái sản xuất. II- Sự hình thành cơ chế quản lí mới ở Việt Nam Trước hết ta cần nắm được khái niệm cơ chế kinh tế: Đó là tồng thể các yếu tố có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau tạo thành động lực dẫn dắt nền kinh tế phát triển. 1. Cơ chế quản lí kinh tế cũ ở Việt Nam a)Đặc trưng cơ bản Cơ chế quản lí kinh tế cũ của nước ta là cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp (Giai đoạn trước ĐạI hội VI của Đảng năm 1986) Đặc trưng chủ yếu của cơ chế quản lý kinh tế giai đoạn này đó là coi kế hoạch là công cụ quản lí số một, có tính chất pháp lệnh bắt buộc trực tiếp hoặc gián tiếp đối với tất cả các nghành, các cấp, tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế trong đó công dân, luật pháp về kinh tế (mới có rất ít) và các công cụ quản lí khác đều được xếp sau công cụ kế hoạch. Nhà nước bị biến thành “ông chủ của một doanh nghiệp lớn”, thông qua hệ thống chỉ tiêu kế hoạch chi tiết, Nhà nước trực tiếp quyết định tất cả các vấn đề liên quan tới đời sống kinh tế xã hội của đất nước. b)Ưu điểm Cơ chế này đã góp phần đắc lực vào việc huy động những nguồn lực khổng lồ trong thời gian ngắn để triển khai các chương trình quy mô của quốc gia, đặc biệt là việc động viên nhân tài vật lực phục vụ các nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu phù hợp với đặc điểm tình hình đất nước trong những năm chiến tranh. Có thể nói cơ chế quản lí này đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của mình. c)Nhược điểm - Quản lí kinh tế bằng các mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, điều đó thể hiện ở sự chi tiết hóa quá đáng các nhiệm vụ do Trung ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ trên giao xuống, qua đó làm suy yếu, triệt tiêu động lực kinh tế thậm chí gây ra tác động như khuyến khích sự ỷ lại, dựa dẫm, lười biếng gây thiệt hại cho những người tích cực, tạo môi trường cho lãng phí, gây thất thoát cho tài sản quốc gia . - Các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhưng lại không chịu trách nhiệm về những quyết định của mình. - Coi thường các quan hệ hàng hoá- tiền tệ và hiệu quả quản lí kinh tế, quản lí nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hạch toán chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thể hiện dưới các hình thức: bao cấp quá giá, chế độ cung cấp và cấp phát vốn của ngân sách mà không ràng buộc vật chất đối với người được cấp phát vốn. - Từ những đặc điểm trên tất yếu dẫn đến một bộ máy quản lý cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ quản lý kém năng lực quản lí, không theo nghiệp vụ kinh doanh, nhưng phong cách thì quan liêu cửa quyền. Những quan niệm “ ấu trĩ” trên đây về xây dựng và phát triển kinh tế là biểu hiện sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, mà đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp đã tích cóp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh sự trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội. Vấn đề đặt ra là phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó theo hướng căn bản của sự đổi mới cơ chế quản lí đã được Đại hội VI của Đảng xác định và được tiếp tục khẳng định tại Đại hội VII:” Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ, vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước” 2. Cơ chế thị trường và sự vận dụng ở Việt Nam a)Một số khái niệm cơ bản Để có thể đi sâu nghiên cứu cơ chế quản lí kinh tế mới ở Việt Nam cần nắm vững một số khái niệm sau - Thị trường là gì? Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá, sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, lượng sản phẩm lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào và phong phú, thị trường được mở rộng. Như vậy thị trường là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới, tại đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường. Thị trường là trung tâm của toàn bộ quá trình tái sản xuất hàng hoá. Những vấn đề cơ bản của nền sản xuất hàng hoá là sản xuất cái gì? Số lượng bao nhiêu? Bằng phương pháp nào? đều phải thông qua thị trường vì vậy thị trường đóng vai trò hoạt động và phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. - Cơ chế thị trường là gì? Mọi hệ thống kinh tế đều được tổ chức cách này hay cách khác, để huy động tối đa các nguồn lực xã hội và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó nhằm sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ thoả mãn nhu cầu của xã hội. Việc sản xuất ra hàng hoá gì? Theo phương thức nào là tốt nhất? Việc phân phối hàng hoá được sản xuất ra sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu xã hội? Đó là những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế xã hội, lực lượng nào quyết định những vấn đề cơ bản đó? Trong nền kinh tế hàng hoá có một loạt những quy luật kinh tế vốn có cho nó hoạt động như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ... và lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động của nó. Các quy luật đó thể hiện sự tác động của mình thông qua các mối quan hệ kinh tế trong lĩnh vực trao đổi- thị trường, thông qua sự vận động của giá cả. Nhờ sự vận động của hệ thống giá cả thị trường mà diễn ra sự thích ứng tự phát khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu của nhu cầu của xã hội, tức là các quy luật điều tiết nền sản xuất xã hội. Một nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường. Như vậy, cơ chế thị trường là cơ chế tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hoá, là “ bộ máy” kinh tế điều tiết toàn bộ sự vận động của kinh tế thị trường, quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá dưới sự tác động khách quan của các quy luật kinh tế vốn có của nó (đặc biệt là quy luật giá trị- quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng hoá) cơ chế đó quyết định những vấn đề cơ bản của nền kinh tế: sản xuất cái gì? như thế nào? cho ai? - Vai trò của kinh tế thị trường?Kinh tế thị trường giúp nhân loại giải quyết 3 vấn đề cơ bản trong nền kinh tế một cách có hiệu quả +Sản xuất cái gì? Không phải do thượng đế, một tổ chức mệnh lệnh và cũng không phải do người sản xuất quyết định, mà do người tiêu dùng thông qua việc bỏ đồng tiền để lựa chọn: Họ thích hàng hoá này chứ không phải hàng hoá kia, họ cần số lượng này chứ không phải số lượng khác, chấp nhận mức giá này chứ không phải mức giá khác. Thông qua việc bỏ phiếu bằng đồng tiền để chọn cho mình những thứ hàng hoá hợp sở thích, thị hiếu, nhu cầu, về chủng loại, số lượng, mẫu mã. ở đây tính dân chủ tự do thực sự được thể hiện rõ nét. +Sản xuất như thế nào? Vấn đề này được giải quyết thông qua cạnh trạnh và chủ yếu là do cạnh tranh quyết định. Muốn đứng vững và chiến thắng trong cạnh tranh, người sản xuất phải lựa chọn kĩ thuật và công nghệ tối ưu. Cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong ngành hình thành nên lợi nhuận siêu ngạch cho người sản xuất. Động lực hấp dẫn này thúc đẩy họ luôn đổi mới kĩ thuật, phấn đấu đưa năng suất lao động cá biệt lên cao hơn năng suất lao động xã hội. Hơn nữa, cạnh tranh còn là cơ chế sàng lọc, bình tuyển những kiểu sản xuất tân tiến, loại bỏ những cơ chế sản xuất cũ kĩ lạc hậu. Vì thế cạnh tranh là linh hồn của đời sống kinh tế trong nền kinh tế thị trường. +Sản xuất cho ai? Như ta đã biết mục đích của sản xuất hàng hoá là để bán, để chuyển H thành T, làm cho sản xuất tái diễn. Do vậy để trả lời câu hỏi “Sản xuất cho ai” chỉ có thể là sản xuất cho người có tiền. Trong phân phối, động lực vì đồng tiền để làm giàu trở thành một sức mạnh thật sự thúc đẩy con người trong các hoạt động kinh tế của họ. Tất nhiên sự phân phối trong kinh tế thị trường không tránh khỏi một số mặt trái về hậu quả xã hội. -Đặc điểm chung của cơ chế thị trường +Ưu điểm: Trước hết nó kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ, lấy lợi nhuận siêu ngạch làm động lực hoạt động nên đòi hỏi các doanh nghiệp thường xuyên phải hạ thấp chi phí lao động cá biệt xuống thấp hơn chi phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó mà động viên được các nguồn lực của xã hội và sử dụng tiết kiệm các nguồn lực đó, thúc đẩy việc áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất. * Hai là cơ chế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi nhanh chóng khi những điều kiện kinh tế thay đổi, làm thích ứng kịp thời khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu của nhu cầu. Lí do là vì trong kinh tế thị trường tồn tại một nguyên tắc ai đưa ra thị trường một loại hàng hoá mới và sớm nhất sẽ thu được lợi nhiều nhất. * Ba là trong nền kinh tế thị trường hàng hoá rất phong phú và đa dạng, do vậy tạo điều kiện thuận lợi cho việc thoả mãn ngày càng tốt hơn những nhu cầu vật chất, văn hoá và sự phát triển toàn diện của mọi thành viên xã hội. Những việc này nếu để Nhà nước tự làm thì sẽ phải thực hiện một khối lượng công việc khổng lổ, có khi còn không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong việc ra các quyết định. +Nhược diểm: Bên cạnh những ưu điểm kể trên, kinh tế thị trường còn có hàng loạt các khuyết tật, trước hết là sự phát triển không ổn định của nền kinh tế, điều đó xuất phát từ tính tự phát của cơ chế kinh tế thị trường. Những cân đối lớn trong nền kinh tế được xác lập thông qua hàng loạt những dao động. Do đó cứ sau một thời kì phồn thịnh lại đến thời kì trì trệ, suy thoái, khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát...là những hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường. Những hiện tượng kể trên ảnh hưởng tiêu cực tới các mặt đời sống kinh tế xã hội. * Thứ hai, đó là sự xuất hiện độc quyền trong nền kinh tế. Độc quyền vi phạm các điều kiện hiệu quả Pareto, điều đó làm tổn hại tới lợi ích của người tiêu dùng và của xã hội. * Thứ ba, các ngoại ứng. Ngoại ứng tồn tại khi việc sản xuất hoặc tiêu dùng một mặt hàng trực tiếp làm ảnh hưởng tới các doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng không can dự đến việc mua hoặc bán hàng hóa đó, nhưng không được phản ánh đầy đủ trong giá cả thị trường. Ngoại ứng dù tích cực hay tiêu cực khi không được phản ánh trong giá cả thị trường sẽ làm cho mức sản lượng không phải là tối ưu và do đó làm thiệt hại tới lợi ích xã hội. * Thứ tư, hàng hoá công cộng. Đây là hàng hoá mà sự tiêu dùng của một người không ảnh hưởng đến sự tiêu dùng của ngưởi khác như: đường cao tốc, quốc phòng, an ninh...hàng hoá công cộng hết sức cần thiết nhưng các cá nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp không ai chịu bỏ tiền ra để sản xuất. * Thứ năm, phân phối thu nhập. Do sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường, sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, sự phân hoá giàu nghèo là hiện tượng không tránh khỏi. Những điều đó có thể dẫn đến mâu thuẫn, thậm chí xung đột trong xã hội. Điều này sẽ trở thành những nhân tố cản trở quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. * Thứ sáu, vấn để thông tin. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp cần rất nhiều thông tin khác nhau. Trong khi đó, khả năng của từng doanh nghiệp trong việc thu nhập và xử lý thông tin rất hạn chế. Mỗi doanh nghiệp không thể tự giải quyết được nhu cầu về thông tin của chính mình. * Thứ bảy, mục đích của doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, do đo họ có thể lạm dụng tài nguyên xã hội, có thể gây ra ô nhiễm nguồn nước, không khí... * Thứ tám, khủng hoảng sản xuất thừa là căn bệnh cố hữu của các nền kinh tế thị trường phát triển. ở đây, do mức cung hàng hoá vượt quá mức cầu có khả năng thanh toán nên dẫn tới tình trạng “ dư thừa hàng hoá” Nguyên nhân của tình trạng trên là do mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn này được thể hiện trên tính kế hoạch cao độ ở từng doanh nghiệp với tính vô chính phủ trên toàn bộ nền sản xuất xã hội. Xu hướng mở rộng sản xuất vô hạn độ mâu thuẫn với sức mua có hạn của._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0174.doc
Tài liệu liên quan