BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: KINH TẾ ĐẦU TƯ
VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ LIÊN HỆ VỚI TÌNH HÌNH THỰC TIẾN Ở VIỆT NAM
------------
Tăng trưởng kinh tế có vai hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, nó là điều kiện vật chất cần thiết để đảm bảo cho sự phát triển. Ngày nay, nó đã trở thành mục tiêu và là động lực của nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là đối với các nước đang phát triển như nước ta.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế lại phụ thuộc vào các yếu tố ng
7 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1727 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế và liên hệ với tình hình thực tiễn ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uồn lực và khả năng huy động, sử dụng các yếu tố đó vào quá trình sản xuất để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Quá trình đó liên tục được tiếp diễn và tạo thành chu kỳ tái sản xuất với quy mô ngày càng được mở rộng, đây là cơ sở và cũng chính là kết quả được tích luỹ lại từ hoạt động đầu tư.
Như vậy, đầu tư có tác động trực tiếp đối với tăng trưởng kinh tế và phát triển của một nền kinh tế. Kết quả của hoạt động đầu tư là làm gia tăng năng lực sản xuất, cung ứng các sản phẩm vật chất, dịch vụ cho nền kinh tế, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển giao công nghệ, từ đó tạo đà cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển, duy trì được mức tăng trưởng cao và ổn định so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, mức sống người dân được cải thiện rõ rệt, chất lượng cuộc sống được nâng cao,... Để có được những thành tựu đó, phải kể đến vai trò đặc biệt quan trọng của đầu tư. Với những chính sách nhằm thu hút và sử dụng có hiệu qủa vốn đầu tư trong và ngoài nước, Việt Nam đang nâng cao uy tín, vị thế của mình trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, trong quá trình huy động và sử dụng các nguồn lực cho hoạt động đầu tư để tạo động lực cho tăng trưởng và phát triển nền kinh tế ở nước ta cũng bộc lộ nhiều hạn chế, đòi hỏi chúng ta phải có những đánh giá, nhận định đúng về quá trình thực hiện, rút ra những vấn đề cần phải khắc phục và đề ra biện pháp tổ chức thực hiện cho phù hợp với tình hình thực tế nhằm đạt được những mục tiêu mong muốn.
Để giải quyết vấn đề này, trong phạm vi của bài viết xin đưa ra một số phân tích, đánh giá về tác động, vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, từ đó đưa ra các kiến nghị, đề xuất về các giải pháp tổ chức thực hiện trong thời gian tới, cụ thể như sau:
I. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM, LÝ LUẬN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1. Đầu tư
Hiện nay, có nhiều khái niệm khác nhau về đầu tư như: Theo quan điểm dưới góc độ tiêu dùng, thì đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu được mức tiêu dùng lớn trong tương lai; Theo quan điểm trên góc độ tài chính, thì đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời; Theo nghĩa rộng và bao quát thì đầu tư là việc sử dụng phối hợp các nguồn lực ở hiện tại vào một hoạt động nào đó nhằm đạt được một hay một số tập hợp mục đích của nhà đầu tư trong tương lai.
Tuy nhiên, theo Luật đầu tư số: 59/2005/QH11, được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2006 thì: “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật”.
Tuỳ theo mục đích và yêu cầu quản lý đối với từng loại hình đầu tư mà người ta tiến hành phân loại hoạt động đầu tư theo các tiêu chí khác nhau, ví dụ: Nếu theo bản chất của đối tượng đầu tư, có: đầu tư cho các đối tượng vật chất, đầu tư cho các đối tượng tài chính, đầu tư cho các đối tượng phi vật chất; Theo cơ cấu tái sản xuất, có đầu tư chiều rộng, đầu tư chiều sâu;Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư, có: đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, có: đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp. Theo nguồn vốn, có: đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài,...
2. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng về sản lượng của nền kinh tế theo thời gian. Theo quan điểm của kinh tế học, thì tăng trưởng kinh tế thường chỉ sự gia tăng của giá trị tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc sự gia tăng của giá trị GNP bình quân đầu người.
Tuy nhiên, để phán ánh chính xác hơn sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, người ta thường chỉ tính sản lượng ròng của một nền kinh tế, tức là tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nền kinh tế đó.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế được tính bằng mức tăng GDP hoặc mức tăng GDP bình quân đầu người theo thời gian. Điều này có nghĩa là tăng trưởng kinh tế chỉ thể hiện sự gia tăng về mặt lượng của nền kinh tế theo thời gian.
3. Vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế
3.1 Đầu tư tác động đến quy mô sản lượng của nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường thì hàng hoá, dịch vụ được điều tiết thông qua quan hệ cung, cầu. Do đó, nó tác động đến quy mô sản lượng của nền kinh tế của mỗi quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Trong khi đó, hoạt động đầu tư lại là một bộ phận cấu thành lên tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế, cụ thể:
- Tác động đến tổng cầu: Do tổng cầu của nền kinh tế: AD = C + I + G + NX, tức là tổng cầu của nền kinh tế bao gồm: Chi tiêu của khu vực Chính phủ + Chi tiêu của các hộ gia đình và các doanh nghiệp + Tiết kiệm (hay đầu tư) + Chênh lệch xuất nhập khẩu.
Vì vậy, đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu, nó tác động đến tổng cầu trong ngắn hạn và tác động một cách trực tiếp. Tức là, khi tổng cung chưa thay đổi thì sự tăng lên của đầu tư sẽ làm cho tổng cầu của nền kinh tế tăng lên. Khi đó sẽ làm cho quy mô sản lượng cân bằng thay đổi trong ngắn hạn.
- Tác động đến tổng cung: Kết quả của hoạt động đầu tư là tài sản và năng lực sản xuất mới tăng thêm, vì vậy nó tạo ra sự gia tăng về mặt sản lượng của nền kinh tế. Nhưng tác động của đầu tư là trong dài hạn, khi đầu tư tăng sẽ làm cho sản lượng của nền kinh tế gia tăng, do đó sẽ làm cho sản lượng tiềm năng tăng lên và giá cả sản phẩm giảm xuống. Đến lượt nó, khi giá cả giảm sẽ kích thích, gia tăng tiêu dùng và kích thích sản xuất phát triển, tạo gia sự tăng trưởng của nền kinh tế.
3.2 Quy mô đầu tư tác động đến tốc độ của tăng trưởng kinh tế:
Cho đến nay, đã có rất nhiều mô hình nghiên cứu và chỉ ra vai trò của hoạt động đầu tư đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế, ví dụ như: Mô hình Robert Solow (1956) cho rằng: việc tăng vốn sản xuất chỉ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn mà không ảnh hưởng trong dài hạn, tăng trưởng sẽ đạt ở trạng thái dừng; Mô hình Sung Sang Park cho rằng: nguồn gốc tăng trưởng là tăng cường vốn đầu tư quốc gia cho đầu tư con người; Theo mô hình Tân cổ điển, thì nguồn gốc của tăng trưởng tùy thuộc vào cách thức kết hợp hai yếu tố đầu vào vốn (K) và lao động (L). Theo quan điểm tăng trưởng của trường phái kinh tế học vĩ mô Keynes, với mô hình tiêu biểu là mô hình Harrod-Domar thì: nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu tố K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên.
Mặc dù các mô hình kinh tế được đưa ra đều khẳng định vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế, nhưng bản than mô hình cũng có những hạn chế nhất định. Nhưng các nguyên lý về vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng đã tiếp tục được làm rõ qua hoạt động thực tiễn.
Thực tế cho thấy rằng: mức gia tăng sản lượng của nền kinh tế phụ thuộc vào sự gia tăng quy mô vốn đầu tư. Vì vậy, việc gia tăng quy mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất nhân tố tổng hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế…do đó, nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng được mô hình hoá qua công thức:
Mức gia tăng GDP
=
Vốn đầu tư
ICOR
Trong đó: Hệ số ICOR là tỷ số giữa quy mô đầu tư tăng thêm với mức gia tăng sản lượng, hay là suất đầu tư cần thiết để tạo ra một sản lượng tăng thêm. Hệ số này được tính toán như sau:
ICOR=
Vốn đầu tư tăng thêm
=
Đầu tư trong kỳ
GDP tăng thêm
GDP tăng thêm
Nếu đem chia cả tử và mẫu số cho GDP, ta có:
ICOR=
Tỷ lệ vốn đấu tư/GDP
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Như vậy, nếu hệ số ICOR không đổi, mức tăng trưởng kinh tế GDP hoàn toàn phụ thuộc vào quy mô vốn đầu tư.
II. VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
1. Khái quát về tình hình tăng trưởng kinh tế:
Trong những năm qua, mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức nhưng nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, kinh tế duy trì ở mức tăng trưởng cao, chất lượng tăng trưởng ngày càng được cải thiện, các cân đối vĩ mô được đảm bảo,
Trong giai đoạn 2001-2005, nền kinh tế nước ta duy trì được khả năng tăng trưởng khá nhanh và tương đối bền vững, đạt ở mức cao so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm đạt 7,5%/năm, đạt mục tiêu đề ra trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 và cao so với nhiều nước trong khu vực.
Trong giai đoạn 2006-2010, tổng sản phẩm trong nước (GDP) ước đạt khoảng 6,9% (mục tiêu 7,5-8%), trong đó: khu vực nông, lâm, thuỷ sản đạt 3,8%; công nghiệp-xây dựng đạt 10,2%; dịch vụ đạt 7,0%. Nhìn chung, trong bối cảnh khung hoẳng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu thì kết quả đạt được này là rất đáng khích lệ, thể hiện được tính tự thích ứng và sức bền vững của nền kinh tế ở nước ta. Đặc biệt trong hai năm đầu thực hiện Kế hoạch 2006-2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt ở mức cao hơn so với mục tiêu 5 năm đề ra (năm 2006: tăng 8,23%; năm 2007: tăng 8,46%); các năm 2008-2010 chịu tác động khá lớn của khung hoẳng kinh tế thế giới, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2008 vẫn đạt 6,3%; năm 2009 đạt 5,3%, dự kiến năm 2010 đạt khoảng 6,5%.
Dự kiến, quy mô nền kinh tế vào năm 2010 gấp khoảng 2 lần so với năm 2000. GDP theo giá thực tế tính bình quân đầu người quy đổi ra USD vào năm 2010 đạt khoảng 1.200 USD, vượt mục tiêu KH đề ra là từ 1.050-1.100 USD.
2. Khái quát về hoạt động đầu tư:
2.1 Giai đoạn 2001-2005:
Trong giai đoạn 5 năm (2001-2005), tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt 1.202,2 nghìn tỷ đồng, gấp 1,98 lần so với 5 năm 1996-2000, trong đó: vốn ngân sách Nhà nước chiếm 22,8%, vốn tín dụng đầu tư chiếm 12,4%, vốn của khu vực doanh nghiệp Nhà nước chiếm 15,4%, vốn của dân cư và khu vực tư nhân chiếm 30%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 16,6%.
Cơ cấu đầu tư đã có sự dịch chuyển theo hướng tích cực, tập trung cho những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế, xã hội: đầu tư cho lĩnh vực kinh tế chiếm 70% tổng mức vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó: ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 13,5%, công nghiệp và xây dựng 44,3%, giao thông - bưu điện 12,1%; lĩnh vực xã hội 26,9%, trong đó: giáo dục - đào tạo 4,1%, y tế, xã hội 2,3%, văn hóa thể thao 2,3%, khoa học và công nghệ 1,3%; đồng thời quan tâm đầu tư nhiều hơn cho vùng nghèo, xã nghèo.
Quy mô vốn đầu tư ở các vùng đều tăng, tỷ trọng vốn đầu tư vùng núi phía Bắc chiếm 8,3%; vùng Bắc Trung bộ là 8%; vùng Duyên hải miền Trung 12,4%; vùng Tây Nguyên 5,3%.
Bên cạnh nguồn vốn trong nước, trong 5 năm đã thu hút được khối lượng vốn ODA cho phát triển cơ sở hạ tầng ; Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong cả giai đoạn đạt khoảng 14,3 tỷ USD, tăng 40% so với 5 năm trước, tập trung chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, chiếm 82%; lĩnh vực dịch vụ chiếm 13%, nông, lâm, thuỷ sản, chiếm 5%.
Điểm nổi bật về đầu tư trong giai đoạn này là sự tăng lên mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân. Đến năm 2005 cả nước có trên 160 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, với số vốn đăng ký khoảng 321 nghìn tỷ đồng, gấp 2,6 lần số doanh nghiệp giai đoạn 10 năm (giai đoạn 1991-2000) cộng lại. Tỷ trọng đầu tư của khu vực này ngày càng tăng, chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
2.1 Giai đoạn 2006-2010:
Mặc dù chịu tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng chúng ta đã huy động được một khối lượng khá lớn vốn đầu tư phát triển. Tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội trong 5 năm 2006-2010 đạt khoảng 3.073,8 nghìn tỷ đồng, gấp hơn 2,5 lần so với giai đoạn trước, trong đó:
Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước ước thực hiện khoảng 647 nghìn tỷ đồng, chiếm 21% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Nguồn vốn này được tập trung ưu tiên cho các dự án kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế, các chương trình mục tiêu quan trọng đã góp phần cải thiện hệ thống kết cấu hạ tầng, tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, góp phần xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Vốn trái phiếu Chính phủ 5 năm ước đạt khoảng 136,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 4,4%; Vốn tín dụng đầu tư ước đạt 195,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 6,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Nguồn trái phiếu Chính phủ được tập trung vào các công trình giao thông, thủy lợi, kiên cố hóa trường lớp học, từ năm 2008 bổ sung thêm đầu tư nâng cấp hệ thống bệnh viện tuyến huyện và tuyến tỉnh; từ năm 2009 bổ sung thêm đầu tư ký túc xá cho sinh viên.
Nguồn vốn đầu tư của khu vực doanh nghiệp tư nhân và dân cư đã tăng lên mạnh mẽ và đóng vai trò ngày càng quan trọng, 5 năm ước thực hiện khoảng l.092,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 35,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Đáng chú ý trong hai năm 2008-2009, trong bổi cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt kết quả khá cao. Tính chung trong 5 năm, tổng vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỷ USD, gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001-2005; trong đó 2 năm 2006-2007 đều đạt tốc độ năm sau cao hơn năm trước gấp hơn 1,7 lần, riêng năm 2008 gấp gần 3,4 lần so với năm 2007 (71,7 tỷ USD). Trong 5 năm ước thực hiện khoảng 658,5 nghìn tỷ đồng, gấp hơn l,4 lần so với kế hoạch đề ra.
Trong bổi cảnh nguồn cung vốn ODA dành cho các nước đang phát triển giảm, nhưng Việt Nam vẫn nhận được sự ủng hộ và cam kết mạnh mẽ của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế. Tổng vốn ODA cam kết 5 năm ước đạt trên 3 l tỷ USD, gấp hơn l,5 lần so với mục tiêu đề ra (19-21 tỷ USD), trong đó khối lượng vốn đã giải ngân ước đạt khoảng 13 tỷ USD, vượt 8,4% so với kế hoạch đề ra.
3. Đánh giá chung về vài trò của đầu tư với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam:
Nếu như trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung thì nền kinh tế gần như không có tăng trưởng, thậm trí rơi vào tình trạng trì trệ. Nhưng kể từ khi khi chuyển sang cơ chế thị trường mà đặc biệt là kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta đã từng bước phát triển, sản lượng của nền kinh tế ngày càng cao. Đây cũng là kết quả của quá trình đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực đầu tư.
Trong những năm qua, hoạt động đầu tư ở Việt Nam đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ, môi trường đầu tư được cải thiện, huy động được các nguồn lực trong xã hội tạo ra sự tăng trưởng của nền kinh tế, và được thể hiện chi tiết qua bảng số liệu sau:
Phụ lục: Tổng hợp vốn đầu tư, GDP và hệ số ICOR của Việt Nam qua các năm:
Năm
Vốn đầu tư
(Nghìn tỷ đồng)
GDP giá thực tế
(Ngàn tỷ đồng)
Tốc độ tăng GDP (%)
Vốn đầu tư/GDP(%)
ICOR (lần)
1995
72,45
228,89
9,54
31,65
3,32
1996
87,39
272,03
9,34
32,12
3,44
1997
108,37
313,62
8,15
34,55
4,24
1998
117,13
361,01
5,76
32,44
5,63
1999
131,17
399,94
4,77
32,79
6,88
2000
151,18
441,64
6,79
34,23
4,85
2001
163,54
481,29
6,86
33,98
4,95
2002
193,10
535,72
7,08
36,04
5,09
2003
219,68
613,44
7,26
35,81
5,00
2004
290,92
715,30
7,79
40,67
5,22
2005
343,13
839,21
8,44
40,88
4,84
2006
398,90
973,79
8,23
40,96
4,98
2007
532,093
1143,715
8,46
46,52
5,50
2008
610,876
1477,717
6,18
41,34
6,69
2009
704,2
1658,4
5,32
42,8
8,1
ƯTH2010
805,5
1931,3
6,5
41,7
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Qua số liệu tổng hợp trên, ta thấy vốn đầu tư của Việt Nam trong thời kỳ 1995-2009 có xu hướng gia tăng qua các năm, 1995 vốn đầu tư chỉ là 72,45 ngàn tỷ đồng đến 2009 vốn đầu tư tăng lên 704,2 ngàn tỷ đồng. Hệ số ICOR của Việt Nam thời kỳ 1995-2009 không ngừng gia tăng, điều này thể hiện rằng để tạo ra một đồng GDP thì cần nhiều đồng vốn đầu tư hơn, ví dụ như để tạo ra một đồng GDP thì cần tới 8,1 đồng vốn đầu tư trong năm 2009. Mặc dù chỉ tiêu này cho ta biết vai trò của đầu tư với tăng trưởng, nhưng trên thực tế hệ số ICOR ở nước ta đang có xu hướng gia tăng qua các năm, điều này thể hiện tính hiệu quả của hoạt động đầu tư chưa cao.
Bên cạnh những thành quả đã đạt được, hoạt động đầu tư ở nước ta ở nước ta cũng còn bộ lộ nhiều điểm còn hạn chế, làm chậm quá trình tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, đòi hỏi cần phải có sự khắc phục, đó là:
- Môi trường đầu tư tuy có sự cải thiện đáng kể, song chưa đồng bộ, một số cơ chế chính sách không phù hợp với điều kiện thực tế nhưng lại chậm được sửa đổi, bổ sung chỉnh sửa.
- Việc huy động và sử dụng các ngồn vốn cho hoạt động đầu tư chưa thực sự hiệu quả, còn gây thất thoát, lãng phí các nguồn lực của xã hội.
- Cơ cấu đầu tư còn mất cân đối giữa các thành phần kinh tế, giữa các ngành và giữa các vùng miền trong cả nước.
- Năng lực hấp thụ các nguồn vốn thấp, tiến độ giải ngân và tiến độ thực hiện các dự án đầu tư chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra,…
III. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VỀ GIẢI PHÁP VÀ CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH TRONG THỜI GIAN TỚI
Với mục tiêu “Phát triển nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững trên cơ sở tiếp tục chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và chủ động hội nhập quốc tế”, trong Kế hoạch 5 năm giai đoạn 2011-2015 đã xác định một số chỉ tiêu tổng quát cần phải phấn đấu là: tăng trưởng kinh tế GDP bình quân đạt 7,5-8%/năm, trong đó: giá trị gia tăng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,7%-3,7%; công nghiệp và xây dựng tăng 7,5-8,5%; dịch vụ tăng 8-9%. Quy mô GDP theo giá hiện hành đến năm 2015 đạt khoảng 4.050-4.088 nghìn tỷ đồng, xấp xỉ 192-194 tỷ USD; GDP bình quân đầu người đạt khoảng 2.100 USD, gấp 1,7 lần so với năm 2010, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 1.117 nghìn tỷ đồng và huy động từ các nguồn khác khoảng 277 nghìn tỷ đồng.
Để có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế nêu trên, trong giai đoạn tới (giai đoạn 2011-2015) cần phải huy động một lượng vốn đầu tư với tỷ trọng chiếm khoảng 41,5% GDP, tương đương với 6.336 nghìn tỷ đồng, trong đó: vốn ngân sách Nhà nước là 1.192 nghìn tỷ đồng, vốn trái phiếu chính phủ là 220 nghìn tỷ đồng, vốn tín dụng nhà nước là 400 nghìn tỷ đồng, vốn của doanh nghiệp nhà nước là 535 nghìn tỷ đồng, vốn của dân và doanh nghiệp tư nhân là 2.593 nghìn tỷ đồng.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang phục hồi sau một thời kỳ suy giảm, kinh tế trong nước cũng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, trở ngại. Do đó để có thể đạt mục tiêu như đã đề ra, trong thời gian tới cần tập trung thực hiện tốt mốt số nhiệm vụ sau:
- Tiếp tục rà soát, bổ sung và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật, nhằm tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm huy động tối đa các nguồn lực của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Quản lý và sử dụng có hiệu quả các ngồn vốn đầu tư phát triển một cách ổn định và theo hướng công khái, minh bạch.
- Tập trung đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, tạo ra động lực và sức lan toả lôi kéo các ngành, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh phát triển. Áp dụng rộng rãi các hình thức đầu tư các công trình theo các phương thức khác nhau như: BOT, BT, đầu tư công-tư (PPP) kết hợp,…
- Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, gắn quy hoạch với kế hoạch và hoạt động đầu tư hàng năm. Tiếp tục triển khai xây dựng mới các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch xây dựng, quy hoạch ngành, lĩnh vực và sản phẩm chủ yếu.
- Tăng cường công tác theo dõi, đánh giá, giám sát đối với hoạt động đầu tư, nhất là các dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Thực hiện tốt quy định và mở rộng đối tượng và phạm vi giám sát của cộng đồng đối với hoạt động đầu tư./.
Hải Dương, tháng 5 năm 2010
Học Viên
Nguyễn Văn Kỷ
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26702.doc