Vai trò của đầu tư đối với sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới năm 1986, một trong những mục tiêu chiến lược xuyên suốt được Đảng và Nhà Nước đặc biệt quan chú trọng là vai trò của đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kể từ khi luật đầu tư được ban hành đã thu hút được rất nhiều các dự án, đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển, ổn định nền kinh tế vĩ mô, năng cao năng lực và trình độ của nền kinh tế, góp phần chuyển dịch nền kinh tế theo hướng CNH-HĐH, mạnh xuất khẩu, tăng nguồn thu cho ngân sách, tạo công

doc45 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1534 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của đầu tư đối với sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăn việc làm mới, góp phần thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập của Việt Nam trong khu vực và Quốc tế…. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày một phát triển sâu rộng như hiện nay thì đầu tư đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với các nước. Đặc biệt là đối với các nước đang phát triển, trình độ sản xuất còn yếu kém. Bởi vậy đối với Việt Nam đầu tư lại càng có tầm quan trọng đặc biệt. Đầu tư làm thay đổi diện mạo,giúp cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Đầu tư tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế,làm thay đổi cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Vậy đầu tư có tác động,có vai trò như thế nào đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế? Để trả lời cho câu hỏi này em đã chọn đề tài:”vai trò của đầu tư đối với sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế ở Việt Nam” để nghiên cứu,xem xét. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do trình độ hiểu biết còn hạn chế nên chắc chắn đề tài sẽ có nhìều thiếu sót,rất mong sự đóng góp của các thầy cô giáo để bài viết của em được tốt hơn. Em xin trân thành cảm ơn cô Trần Mai Hương đã hướng dẫn em hoàn thành đề tài này. Chương I Đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. I. Đầu tư. Khái niệm đầu tư: 1.1.Khái niệm: Dưới góc độ tài chính thì đầu tư là một chuỗi hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu. Dưới góc độ tiêu dùng thì đầu tư là sự hy sinh tiêu dùng hiện tại để thu được mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. Khái niệm chung: Đầu tư là việc bỏ vốn hoặc chi dùng vốn cùng các nguồn lực khác ở hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả có lợi trong tương lai. Đầu tư phát triển là một bộ phận cơ bản của đầu tư,là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hay tạo ra những tài sản vật chất(nhà xưởng,thiết bị…)và tài sản trí tuệ (tri thức,kỹ năng…),gia tăng năng lực sản xuất,tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. Vai trò của đầu tư. - Đầu tư tác động tới tổng cung tổng cầu của nền kinh tế. - Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học- công nghệ của đất nước:Công nghệ là trung tâm của CNH. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay.Có 2 con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là sự nghiên cứu hay nhập nó thì cũng cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. - Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế:Muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ15- 20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước(Ở các nước phát triển, ICOR thường lớn từ 5- 7. ở các nước chậm phát triển ICOR thấp từ2- 3). Đối với các nước đang phát triển, phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được một tỉ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến.Có sự khác nhau trên là vì chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực. - Đầu tư tác động tới việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế:Cơ cấu kinh tế là cơ cấu của tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, có quan hệ chặt chẽ với nhau,được biểu hiện cả về mặt chất và mặt lượng, tuỳ thuộc mục tiêu nền kinh tế.Đầu tư có tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.Đầu tư góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp quy luật và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ,tạo ra sự cân đối mới trên phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành,vùng,phát huy nội lực của nền kinh tế,tronh khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực.Đối với cơ cấu ngành,đầu tư vốn vào ngành nào,quy mô vốn đầu từng ngành nhiều hay ít, viêc sử dung vốn hiệu quả cao hay thấp…đều ảnh hưởng tới tốc độ phát triển, khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành,tạo tiền đề vật chất để phát triển ngành mới…do đó làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành. Đối với cơ cấu lãnh thổ,đầu tư có tác động giảI quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ,đưa vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo,phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên,địa thế,kinh tế,chính trị…của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn,làm bàn đạp thúc đẩy các vùng khác cùng phát triển. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế Phát triển kinh tế với tốc độ cao và bền vững là mục tiêu phấn đấu của tất cả các nước. Để thực hiện được mục tiêu đó cần thiết phải xây dựng 1 cơ cấu kinh tế hợp lý. Trong đó cần phải xác vai trò, tỷ trọng và mối quan hệ hợp thành giưã các ngành kinh tế quốc dân, giữa các vùng, lãnh thổ và giữa các thành phần kinh tế. Các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế phải được thể hiện cả về mặt số lượng cũng như về mặt chất lượng và được xác định trong những giai đoạn nhất định, phù hợp với những đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội cụ thể của mỗi quốc gia qua từng thời kỳ. Có thể hiểu cơ cấu kinh tế là một tổng thể các bộ phận hợp thành kết cấu (hay cấu trúc) của nền kinh tế trong quá trình tăng trưởng sản xuất xã hội. Các bộ phận đó gắn bó với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và biểu hiện ở các quan hệ tỷ lệ về số lượng, tương quan về chất lượng trong những không gian và thời gian nhất định, phù hợp với những điều kiện kinh tế xã hội nhất định nhằm đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao. Cơ cấu kinh tế không phải là một hệ thống tĩnh bất biến mà luôn ở trạng thái vận động, biến đổi không ngừng. Chính vì vậy, cần phải nghiên cứu các qui luật khách quan, thấy được sự vận động phát triển của lực lượng sản xuất xã hội để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp với những mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội của từng thời kỳ lịch sử nhất định. Một cơ cấu kinh tế hợp lý phải có các bộ phận kết hợp một cách hài hoà, cho phép khai thác tối đa các nguồn lực của đất nước một cách có hiệu quả, đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng với nhịp độ cao và phát triển ổn định, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của người dân. Nước ta trong thời gian tương đối dài, nền kinh tế tồn tại theo cơ chế tập trung bao cấp. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới cho tới nay,nước ta đã đạt được nhiều kết quả khả quan.Từ đại hội VI đảng ta chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển 3 chương trình kinh tế lớn. Sản xuất lương thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, chú trọng phát triển kết cấu hạ tầng vào 3 chương trình và thực hiện luật đầu tư nước ngoài. Đến các đại hội tiếp theo(8,9,10),khi công cuộc đổi mới bắt đầu đi vào chiều sâu, đảng ta tiếp tục khẳng định xây dựng cơ cấu kinh tế hợ lý là một nội dung quan trọng của CNH – HĐH, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa xã hội. 2. Phân loại cơ cấu kinh tế: 2.1. Cơ cấu kinh tế ngành. Ngành nông nghiệp: Là tổ hợp các ngành gắn liền với các quá trình sinh học gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Do sự phát triển của phân công lao động xã hội, các ngành này hình thành và phát triển tương đối độc lập, nhưng lại gắn bó mật thiết với nhau. Nông nghiệp là một ngành cơ bản của nền kinh tế cả nước, vừa chịu sự chi phối chung của nền kinh tế quốc dân, vừa gắn bó mật thiết với các ngành khác trên địa bàn nông thôn, đồng thời lại phản ánh những nét riêng biệt mang tính đặc thù của 1 ngành mà đối tượng sản xuất là những cơ thể sống. Theo nghĩa hẹp: nông nghiệp bao gồm trồng trọt và chăn nuôi, theo nghĩa rộng thì nông nghiệp còn bao gồm cả lâm nghiệp và thuỷ sản. Ngành công nghiệp: Là một ngành quan trọng của nền kinh tế bao gồm ngành công nghiệp nhẹ: Chế biến nông, lâm, thuỷ sản, may mặc, da – giầy, điện tử – tin học, một số sản phẩm cơ khí và hàng tiêu dùng. Công nghiệp nặng: Dầu khí, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng. Ngành dịch vụ: Đây là một ngành kinh tế ra đời và phát triển gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Dịch vụ bao gồm rất nhiều loại: Thương mại, dịch vụ vận tải hàng hoá, hành khách, dịch vụ bưu chính – viễn thông, dịch vụ tài chính tiền tệ như tín dụng, bảo hiểm, kiểm toán, chứng khoán,dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ tư vấn, dịch vụ phục vụ đời sống. Đối với Việt Nam hiện nay, du lịch đang thực sự trở thành 1 ngành kinh tế mũi nhọn. 2.2. Cơ cấu kinh tế vùng- lãnh thổ. Trong từng Quốc gia do những điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khác nhau nên trong quá trình phát triển đã hình thành các vùng kinh tế sinh thái khác nhau. Cơ cấu vùng – lãnh thổ kinh tế là sự phân công lao động xã hội theo lãnh thổ trên phạm vi cả nước. Cơ cấu vùng – lãnh thổ được coi là nhân tố hàng đầu để tăng trưởng và phát triển bền vững các ngành kinh tế được phân bố ở vùng. Việc xác lập cơ cấu kinh tế vùng – Lãnh thổ 1 cách hợp lý nhằm phân bố trí các ngành sản xuất trên vùng – lãnh thổ sao cho thích hợp để triển khai có hiệu quả mọi tiềm năng và lợi thế của từng vùng. Việc bố trí sản xuất ở mỗi vùng không khép kín mà có sự liên kết với các vùng khác có liên quan để gắn với cơ cấu kinh tế của cả nước, ở nước ta có thể chia ra các vùng kinh tế như sau: Trung du và miền núi bắc bộ Tây Nguyên Đồng bằng sông cửu long Vùng KTTĐ Bắc bộ Vùng KTTĐ Miền trung Vùng KTTĐ Phía Nam 2.3. Cơ cấu theo thành phần kinh tế (gồm có): Kinh tế nhà nước: Phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là nhân tố quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Kinh tế tập thể: Phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Kinh tế cá thể, tiểu chủ: Cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. - Kinh tế tư nhân. - Kinh tế hỗn hợp: Dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước. - Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam được khuyến khích phát triển, hướng mạch vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá và dịch vụ có công nghệ cao, xây dựng kết cấu hạ tầng. 3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Từ khi đổi mới đến nay cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ và nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn, các ngành nghề chưa được phát triển. Nhìn chung cơ cấu kinh tế ở nước ta còn bất hợp lý, dẫn tới sản xuất đạt hiệu quả thấp, chưa khai thác hết mọi tiềm năng của đất nước. Do đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một tất yếu cần thiết để phát triển đất nước. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Cơ cấu kinh tế ngành: Có sự chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Đẩy nhanh CNH – HĐH nông nghiệp và nông thôn tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ nhất là công nghệ sinh học. Công nghiệp: Vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa đi nhanh vào một số ngành lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản, may mặc.Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng. Sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị cho các ngành kinh tế và quốc phòng, khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ, thương mại, kể cả thương mại điện tử, các loại hình vận tải, bưu chính – viễn thông, du lịch, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. - Cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ: Phát huy vai trò của vùng kinh tế trọng điểm có mức tăng trưởng cao, tích luỹ lớn, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy thế mạnh của từng vùng, liên kết với vùng trọng điểm tạo mức tăng trưởng khá,. Quan tâm phát triển kinh tế- xã hội gắn với tăng cường quốc phòng- an ninh ở các vùng miền núi, đồng bào các dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo chú trọng các vùng tây nguyên, tây bắc, tây nam. Có chính sách hỗ trợ nhiều hơn cho các vùng khó khăn để phát triển cơ cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, xoá đói giảm nghèo, đưa các vùng này vượt qua tình trạng kém phát triển. - Cơ cấu thành phần kinh tế. Chú trọng phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế khác nhau, giữa trong nước và nước ngoài. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội. III VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRONG VIỆC CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Vai trò của đầu tư trong việc chuyển dịch cơ cấu ngành Cơ cấu ngành của nền kinh tế là tổ hợp các ngành, hợp thành các tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối liên hệ giữa các ngành đó của nền kinh tế quốc dân. Chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế là sự thay đổi có mục đích, có định hướng và dựa trên cơ sở phân tích đầy đủ căn cứ lý luận và thực tiễn, cùng với việc áp dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để chuyển cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác, hợp lý và hiệu quả hơn Chuyển dịch cơ cấu ngành phải được coi là điểm cốt tử, một nọi dung cơ bản lâu dài trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nếu xác định phương hướng và giải pháp chuyển dịch đúng sẽ đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội cao trong sự phát triển. Ngược lại sẽ phải trả giá đắt cho những sự phát triển về sau . Chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế thành công hay thất bại phụ thuộc rất nhiều vào khâu quyết định chủ trương chuyển dịch và tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã xác định. ở đây, nhà nước có vai trò quyết định trong việc hoạch định chủ trương và chính sách kinh tế vĩ mô, còn các doanh nghiệp thì có vai trò quyết định việc thực thi phương hướng, nhiệm vụ chuyển dịch. Một nền kinh tế quốc dân bao gồm nhiều ngành sản xuất khác nhau. Do đó, 1 quốc gia muốn phát triển và đạt được tốc độ tăng trưởng cao phải có 1 cơ cấu ngành hợp lý. Chính vì vậy, việc đầu tư vào chuyển dịch cơ cấu ngành, tạo sức bật cho nền kinh tế đóng 1 vai trò hết sức quan trọng. Vai trò này của đầu tư được thể hiện ở những khía cạnh sau: Thứ 1: Đầu tư tác động làm thay đổi tỷ trọng đóng góp vào GDP của các ngành: Đây là 1 hệ quả tất yếu của đầu tư. Đầu tư vào ngành nào càng nhiều thì ngành đó càng có khả năng đóng góp lớn hơn vào GDP. Việc tập trung đầu tư vào ngành nào phụ thuộc vào chính sách và chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Thông qua các chính sách và chiến lược, nhà nước có thể tăng cường khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư đối với các ngành cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Dẫn đến sự tăng đầu tư vào 1 ngành sẽ kéo theo sự tăng trưởng kinh tế của ngành đó và thúc đẩy sự phát triển của các ngành, các khu vực có liên quan. Vì vậy sẽ tạo ra sự tăng trưởng kinh tế chung của đất nước. Việc xác định nên tập trung đầu tư vào ngành nào có tính chất quyết định sự phát triển của quốc gia. Nhưng kinh nghiệm của các nước trên thế giới đã cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Do đó, để thực hiện được các mục tiêu đã định, Việt Nam cũng không thể nằm ngoài sự phát triển. Thứ 2: Như đã nói ở trên, đầu tư đã làm thay đổi tỷ trọng của các ngành trong cả nền kinh tế. Sự thay đổi này lại đi liền với sự thay đổi cơ cấu sản xuất trong từng ngành hay nói cách khác, sự phân hoá cơ cấu sản xuất trong mỗi ngành kinh tế là do có tác động của đầu tư. Sự phân hoá này cũng là một tất yếu để phù hợp với sự phát triển của ngành. Trong từng ngành, đầu tư lại hướng vào các ngành có điều kiện thuận lợi để phát triển, phát huy được lợi thế của ngành đó và làm điểm tựa cho các ngành khác cùng phát triển. Thứ 3: Nhờ có đầu tư mà quy mô, năng lực sản xuất của các ngành cũng được tăng cường. Mọi việc như mở rộng sản xuất, đổi mới sản phẩm, mua sắm máy móc.Suy cho cùng đều cần đến vốn, 1 ngành muốn tiêu thụ rộng rãi sản phẩm của mình thì phải luôn đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm đa dạng hoá mẫu mã, kiểu dáng, nghiên cứu chế tạo các chức năng, công dụng mới cho sản phẩm. Do đó việc đầu tư để nâng cao hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm là 1 điều kiện không thể thiếu được nếu muốn sản phẩm đứng vững trên thị trường, nhờ vậy mà nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ trên thị trường. 2. Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng- lãnh thổ. Đầu tư thúc đẩy phát triển kinh tế của một số vùng- lãnh thổ. Một số vùng – lãnh thổ khi có nguồn vốn đầu tư vào sẽ có thể có nhiều cơ hội để sản xuất kinh doanh, tạo đà cho sự tăng trưởng kinh tế của mình. Tác động này của đầu tư có thể xem xét trên 2 khía cạnh như sau: Thứ nhất là: Đầu tư giúp các vùng – lãnh thổ phát huy được tiềm năng, thế mạnh kinh tế của vùng. Với nhưng vị trí địa lý, đặc thù tự nhiên khác nhau mỗi vùng – lãnh thổ sẽ có những thế mạnh kinh tế khác nhau, nhưng để phát triển kinh tế thì không chỉ dựa vào những tài nguyên vị trí địa lý sẵn có đó, mà phải có đủ điều kiện để khai thác và sự dụng nó có hiệu quả. Điều này đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư. Vì khi được dầu tư thích đáng các vùng sẽ có điều kiện để xây dựng cơ sở hạ tầng, máy móc công nghệ hiện đại, xác định các phương hướng phát triển đúng đắn để tận dụng, phát huy sức mạnh của vùng. Như một số vùng miền núi có địa hình đồi núi cao ( Sơn La – Hoà Bình ) trước khi được đầu tư vùng không có công trình nào lớn mạnh thực sự, nhưng nhờ đầu tư khai thác thế mạnh sông núi của vùng nhà máy thuỷ điện đã được xây dựng, góp phần làm phát triển nền kinh tế của vùng. Thứ hai là: Đầu tư góp phần nâng cao tỷ trọng đóng góp vào GDP của các vùng – lãnh thổ được đầu tư. Như phân tích trên đầu tư giúp các vùng tận dụng được thế mạnh của mình, tạo đà cho sự phát triển kinh tế của vùng. Khi nền kinh tế phát triển hơn thì khả năng đóng góp vào GDP cũng sẽ cao hơn so với trước kia. Như vậy đầu tư tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, vùng nào có sự đầu tư nhiều hơn sẽ có cơ hội phát triển kinh tế nhiều hơn, khả năng đóng góp vào GDP của vùng tăng cao hơn, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của vùng cao hơn các vùng – lãnh thổ ít được đầu tư khác. Đầu tư tác động nâng cao đời sống của dân cư. Nguồn vốn đầu tư được sử dụng vào các hoạt động sản xuất và dịch vụ góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động. Nhờ có nguồn vốn đầu tư mà các vùng mới có điều kiện để xây dựng các nhà máy, cơ sở hạ tầng trên lãnh thổ của vùng. Ngay khi những công trình của dự án đầu tư mới đang được xây dựng thì đã là cơ hội tạo việc làm cho nhiều người dân của vùng, thu hút lao động nhàn rỗi của vùng. Cho đến khi các cơ sở đó đi vào hoạt động cũng đã thu hút được nhiều lao động trong vùng. Như hàng loạt các nhà máy đường, xi măng được đầu tư xây dựng đã thu hút công nhân lao động trong vùng vào làm, giải quyết nhiều công ăn việc làm cho khu vực đó. Đầu tư giúp nâng cao thu nhập của dân cư, giúp xoá đói giảm nghèo, người dân từ chỗ bế tắc, thất nghiệp, sau khi có nguồn vốn đầu tư thu hút lao động, tạo việc làm, người dân có thể có thu nhập cao hơn, ổn định cuộc sống, phát huy năng lực của mình. Đầu tư góp phần giải quyết những mất cân đối về phát triển kinh tế giữa các vùng. Nguồn vốn đầu tư thường được tập trung ở những vùng kinh tế trọng điểm của đất nước, thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế của những khu vực đó, và đến lượt mình những vùng phát triển này lại làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Các vùng kinh tế trọng điểm được đầu tư phát huy thế mạnh của mình, góp phần lớn vào sự phát triển chung của cả đất nước, kéo con tàu kinh tế chung của đất nước đi lên, khi đó các vùng kinh tế khác mới có điều kiện để phát triển. Đầu tư cũng đã thúc đẩy các vùng kinh tế khó khăn có khả năng phát triển, giảm bớt sự chênh lệch kinh tế với các vùng khác. Các vùng kinh tế khó khăn khi nhận được sự đầu tư, giúp họ có thể có đủ điều kiện để khai thác, phát huy tiềm năng của họ, giải quyết những vướng mắc về tài chính, cơ sở hạ tầng cũng như phương hướng phát triển,tạo đà cho nền kinh tế vùng , làm giảm bớt về sự chênh lệch với nền kinh tế các vùng khác. Qua những phân tích trên cho thấy , đầu tư có sự tác động quan trọng đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng _lãnh thổ, từng vùng có khả năng phát triển kinh tế cao hơn, phát huy được thế mạnh của vùng, đời sống nhân dân trong vùng có nhiều thay đổi, tuy nhiên trên thực tế mức độ đầu tư vào từng vùng là khác nhau, điều đó làm cho nền kinh tế giưa các vùng vẫn luôn có sự khác nhau, chênh lệch nhau. 3. Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế. Đầu tư đã có tác động tạo ra những chuyển biến về tỷ trọng đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước, trong những năm qua cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta đã có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ và bước đầu đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Bên cạnh khu vực kinh tế trong nước, khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài FDI cũng ngày càng có những đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế của cả nước. Đáng chú ý là trong khu vực kinh tế trong nước (bao gồm các thành phần kinh tế nhà nước, tập thể, tư nhân, cá thể và kinh tế hồn hợp ). Cơ cấu của các thành phần đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các thành phần kinh tế ngoài nhà nước và giảm tỷ trọng của kinh tế nhà nước phù hợp với chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế nhưng vẫn đảm bảo vai trò quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Tạo ra sự phong phú đa dạng về nguồn vốn đầu tư Nền kinh tế bao cấp đã chỉ rõ những nhược điểm của mình với 2 thành phần kinh tế và nguồn vốn chỉ do ngân sách cấp, do đó không mang lại hiệu quả cao. Nhưng từ khi nước ta chuyển sang kinh tế thị trường thì nền kinh tế không chỉ tồn tại 2 thành phần như trước đây là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể mà đã xuất hiện thêm các thành phần kinh tế khác như kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với sự xuất hiện này là sự đa dạng về nguồn vốn đầu tư do các thành phần kinh tế mới mang lại. Các thành phần kinh tế mới đã bổ sung một lượng vốn không nhỏ vào tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, tạo nên một nguồn lực mạnh mẽ hơn trước để phát triển kinh tế. Việc có thêm các thành phần kinh tế đã huy động và tận dụng được các nguồn lực trong xã hội một cách hiệu quả hơn, khuyến khích được mọi cá nhân tham gia đầu tư làm kinh tế.Vốn đầu tư của họ có thể đến được những nơi, những lĩnh vực mà nhà nước chưa đầu tư đến hoặc không có đủ vốn để đầu tư. Chính vì vậy, việc đa dạng hoá nguồn vốn là một yếu tố không thể thiếu được trong đầu tư phát triển. Chương II Đánh giá một số tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam I/Tổng quan chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Theo báo cáo đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội các năm 2005, 2006, 2007 và những tháng đầu năm 2008 của Chính phủ, theo thông cáo báo chí các năm 2005, 2006, 2007, và thông báo Tổng điều tra dân số năm 2007 cuả Tổng cục Thống kê, và theo các báo cáo của nhiều đảng bộ tỉnh và thành phố tại các Hội nghị kiểm điểm giữa nhiệm kỳ vừa qua, nhìn riêng về góc độ chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế đất nước theo định hướng do Đại hội X của Đảng đề ra, bước đầu chúng ta có thể khẳng định cơ cấu của nền kinh tế nước ta gần 3 năm qua đang tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá… Bức tranh toàn cảnh nền kinh tế nước ta 3 năm qua là bức tranh của một nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN với cơ cấu nội bộ được sắp xếp, tổ chức tương đối hoàn chỉnh đáp ứng với mục tiêu phát triển bền vững… Phát huy tiềm năng và thế mạnh của mình, các thành phần kinh tế phát triển khá mạnh mẽ. Khu vực kinh tế Nhà nước 3 năm qua luôn luôn duy trì tỷ lệ khoảng 38,4% và đang được đổi mới, tổ chức lại giữ vai trò chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt và tập trung hơn vào những lĩnh vực chủ yêú của nền kinh tế. Kinh tế dân doanh (bao gồm kinh tế cá thể, doanh nghiệp tư nhân, và hợp tác xã) phát triển nhanh đã chiếm tỷ lệ khoảng 45 đến 46% và hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, có nhiều đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là giải quyết việc làm, cải thiện dân sinh, xoá đói giảm nghèo.Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng tăng trưởng cao, có nhiều dự án có nguồn vốn lớn, khu vực này chiếm tỷ lệ khoảng từ 15 đến 17,5 % … Ba năm qua, kinh tế ngành cũng có nhiều biến đổi tích cực: Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP chiếm từ 40,6 – 40,7%, tỷ trọng dịch vụ chiếm khoảng 38,7 – 38,8%, tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp chiếm khoảng 20,6 – 20,7%. Trong từng ngành nghề kinh tế đang có sự chuyển dịch tích cực về cơ cấu sản xuất, cơ cấu công nghệ, cơ cấu sản phẩm chẳng hạn như trong nhóm nông, lâm, ngư nghiệp thì tỷ trọng thuỷ sản đang tăng lên, trong công nghiệp, tỷ trọng của ngành chế biến công nghiệp đang có chiều hướng phát triển, trong dịch vụ, tỷ trọng các ngành dịch vụ có chất lượng cao như : tài chính, ngân hàng, du lịch, bảo hiểm ngày càng phát triển nhanh. Ba năm qua ,kinh tế vùng phát triển khá ngoạn mục và đồng đều. Ngoài bốn vùng kinh tế trọng điểm là: Đồng bằng Sông Hồng, duyên hải Nam Trung bộ, Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Cửu long, các vùng kinh tế khác như Tây Bắc, Tây Nguyên …đều có những bước phát triển đột phá. Tính đến tháng 7-2007 cả nước đã có 577 cụm công nghiệp, trong đó có 168 khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Gắn liền với sự phát triển ngành nghề sản xuất, cơ cấu lao động 3 năm qua đang có sự chuyển dịch nhanh chóng. Tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp, dịch vụ tăng lên, và lao động trong nông nghiệp đang giảm đi. Một thực tế đáng buồn là tỷ trọng lao động qua đào tạo để đáp ứng với nghề nghiệp mới còn rất hạn chế, người ta ước tính tỷ lệ này vẫn chỉ dừng ở mức khoảng 20 đến 30%. II/ Tác động của đầu tư tới tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Viêt Nam: 1/Chuyển dịch cơ cấu ngành: Kinh tế ngành có nhiều biến đổi tích cực: Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP chiếm từ 40,6 – 40,7%, tỷ trọng dịch vụ chiếm khoảng 38,7 – 38,8%, tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp chiếm khoảng 20,6 – 20,7%. Trong từng ngành nghề kinh tế đang có sự chuyển dịch tích cực về cơ cấu sản xuất, cơ cấu công nghệ, cơ cấu sản phẩm chẳng hạn như trong nhóm nông, lâm, ngư nghiệp thì tỷ trọng thuỷ sản đang tăng lên, trong công nghiệp, tỷ trọng của ngành chế biến công nghiệp đang có chiều hướng phát triển, trong dịch vụ, tỷ trọng các ngành dịch vụ có chất lượng cao như : tài chính, ngân hàng, du lịch, bảo hiểm ngày càng phát triển nhanh. Bảng 1 - Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm từ 1997 - 2007 (%) Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 GDP 8,15 5,76 4,77 6,79 6,89 7,08 7,34 7,79 8,44 8,17 8,44 NLTS 4,33 3,53 5,53 4,63 2,89 4,17 3,62 4,36 4,02 3,3 3,0 CNXD 12,62 8,33 7,68 10,07 10,39 9,48 10,48 10,22 10,69 10,37 10,4 DV 7,14 5,08 2,25 5,32 6,10 6,54 6,45 7,26 8,48 8,29 8,5 (Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2008) 1.1/ Thực trạng ngành nông nghiệp: Sau khi gia nhập WTO,nỗi lo lớn nhất của Đảng,Nhà nước,Chính phủ là vấn đề nông nghiệp.Bởi ngành nông nghiệp vốn có năng suất,chất lượng,hiêu quả và sức cạnh tranh kém,liêu có đứng vững khi hội nhập. Năm 2007 cũng đầy thách thức khó khăn khi giá cả tăng cao kéo theo mặt bằng giá tăng mạnh.Ngoài ra thiên tai cũng gây thiệt hại nặng nề(11.514tỷ đồng,tương đương với 0,7% GDP).Sản lượng lúa chỉ bằng năm 2006,nước ta mất khoảng 700 nghin tấn do mưa lũ. Đó là chưa kể tới thiêt hại do dịch bệnh của gia súc,gia cầm. Cả nước đã đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực.trong đó giá trị nông nghiệp đạt gần 200 nghìn tỷ đồng,tăng 4,6% so với năm2006.Tổng sản phhẩm nông-lâm-thuỷ sản tăng 3,4% đóng góp 0,6 điểm phần trăm vào tăng trưởng của nền kinh tế. Chúng ta vẫn giữ được vị trí thứ 2 về xuất khhẩu gạo, đứng đầu về xuất khẩu cà phê robusta và hạt tiêu,là một trong 10 nước hàng đầu về thuỷ sản…Riêng trong nông nghiêp có 5 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1tỷ USD, đó là thuỷ sản(3,8 tỷ USD),gỗ(2,4 tỷ USD),cà phê(1,86 tỷ USD),gạo(1,46 tỷ USD) và cao su(1,4 tỷ USD). Chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp nói chung mấy năm gần đây là chậm ,hầu như không đáng kể(năm 2006 là 20,26% xuống 20,23% năm 2007,mục tiêu của chính phủ là 19,5). 1.2/Thực trạng ngành công nghiệp Liên tục trong nhiều năm lại đây(kể từ năm 1991) sản xuất công nghiệp đều ở mức hai con số. Đặc biệt hai nnăm 2005,2006 có mức tăng trưởng cao nhất(lần lượt 17,2 % và 17%) và thời kỳ kế hoạch 5năm 2001-2005 là thời kì có tốc độ tăng bình quân cao nhất 16%(1996-2000 là 13,9%,1991-1995 là 13,2%,1986-1990 là 5,9%).Như vậy,ngành công nghiêp nước ta từ sau năm 2000 đến nay đã chuyển sang giai đoan mới với tốc đôj tăngg trởng cao và ổn định,năm 2006 tốc độ tăng trưởng đã đạt mức thang mới. Năm 2006 giá trị sản xuất toàn ngành (tính theo giá cố định năm 1994) tăng 17%,giá trị tăng them 10,2% so với năm 2005 .Trong đó giá trị sản xuất khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 9,1%,khu vực ngoài quốc doanh 23,9%,khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,8%. Trong ngành công nghiệp cấp 1,giá trị sản xuấtt nganh công nghiẹp chế biến tăng cao nhất(18.8%),ngành sản xuất và phânn phối điện nước tăng 13%,thấp nhất là ngành khai thác mỏ tăng 1,1% (do giá trị sản xuất ngành dầu khí-chiếm 65% tổng ngành khai thác-giảm 6,5% so với năm2005). Sản xuất công nghiệp trên địa bàn các tỉnh,thành phố đều tăng so với năm 2005. Đại đa số các tỉnh,thành phố có quy mô công nghiêp lớn đều tăng trưởng ở mức khá,,từ 13-trên 25%(trừ Bà Rịa-Vũng Tàu tăng 4% dô ngành dầu khí giảm và Đà Nẵng tăng 7,7% do khu vực có vốn ĐTNN tăng chậm và khu vực DNNN địa phương sụt giảm lớn). Bảng 2: Mức tăng trưởng sản xuất công nghiêp ở các tỉnh,thành phố trong năm 2006 Tỉnh,thành phố Mức tăng trưởng Hà nội 16,0 Hải phòng 18,0 TP.Hồ Chí Minh 13,6 Vĩnh Phúc 25,6 Hà Tây 23,3 Hải dương 23,2 Quảng Ninh 18,0 Khánh Hoà 16,1 Bình dương 25,3 Đồng Nai 22,0 Cần Thơ 22,0 ( nguồn:Bộ kế hoạch đầu tư) Tuy nhiên, sản xuất công nghiệp vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục: (1)Một số mục tiêu hướng tới chưa cao và c._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5990.doc