Vai trò của của Nhà nước đối với CNH-HĐH và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước đối với quá trình..

Mục lục Lời mở đầu 2 Chương I Một số lý luận chung về vai trò của Nhà nước đối với quá trình CNH,HĐH, ở nước ta 1. Tính tất yếu khách quan vai trò của Nhà nước đối với quá trình CNH,HĐH 4 Tính tất yếu khách quan của quá trình CNH,HĐH đối với sự phát triển chung của đất nước. 4 Tính tất yếu khách quan về vai trò của Nhà nước đối với quá trình CNH,HĐH 6 Nội dung vai trò của Nhà nước đối với CNH,HĐH. 8 Quản lý vĩ mô nền kinh tế. 10 Quản lý ngân sách Nhà nước. 13 Hoạt động kinh tế củ

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1362 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của của Nhà nước đối với CNH-HĐH và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước đối với quá trình.., để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a Nhà nước. 14 Kinh nghiệm một số nước. 15 3.1. Các nước ASEAN. 15 3.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản. 17 Chương II Thực trạng về vai trò của của Nhà nước đối với CNH, HĐH và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước đối với quá trình CNH, HĐH ở nước ta. Thực trạng vai trò của Nhà nước đối với quá trình CNH,HĐH ở nước ta thời gian qua. . 18 Nhà nước thực hiện việc tạo nguồn nhân lực cho tiến trình đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. 18 Nhà nước tích cực tìm cách giải quyết việc làm cho người lao động. 20 Nhà nước đưa ra chính sách tài chính nhằm thúc đẩy tiến trình CNH,HĐH. 21 Chính sách cải cách tiền lương. 22 Nhà nước tích cực thu hút vốn đầu tư nước ngoài phục vụ cho sự nghiệp CNH,HĐH. 23 2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước đối với quá trình CNH,HĐH ở nước ta thời gian tới. 25 Kết luận. 29 Lời mở đầu Công nghiệp hoá là quá trình tất yếu khách quan mà bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển cũng phải trải qua . Riêng đối với Việt Nam là một nước đang trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội tại một điểm xuất phát thấp vì vậy viêc xây dựng được nguồn cơ sở vật chất là một việc hết sức cấp thiết. Bởi vậy nhà nước ta đã chọn con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đại hội lần thứ III của Đảng ( 1960 ) đã đề ra đường lối công nghiệp hoá ở miền Bắc là “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”. Đại hội lần thứ IV ( 1976 ) và Đại hội lần thứ V ( 1982 ) tiếp tục cụ thể hoá điều chỉnh đường lối và phương hướng công nghiệp hoá nói trên cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và kinh tế - xã hội của đất nước. Việc thực hiện đường lối công nghiệp hoá của Đảng đã tạo ra những cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu cho đất nước, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, trong quá trình thực hiện cũng bộc lộ những sai lầm và khuyết điểm mà Đại hội lần thứ VI của Đảng đã chỉ rõ. Đại hội đã đề ra đường lối và nguyên tắc đổi mới toàn diện, trong đó có đổi mới phương hướng công nghiệp hoá. Công nghiệp hoá phải tạo ra những điều kiện cần thiết về vật chất kỹ thuật, về con người và khoa học công nghệ, thúc đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, không ngừng tăng năng suất lao động xã hội, làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Từ nhiều năm nay, Đảng ta đã nêu vấn đề công nghiệp hoá coi đó là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điểm mới lần này là gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá, với việc áp dụng rộng rãi những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thời đại. Và để thực hiện tốt, phát huy hết sức mạnh của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước,vì vậy mà vai trò của nhà nước là hết sức quan trọng. Đặc trưng nổi bật của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay là nó diễn ra trong điều kiện Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường mở. Phải nói rằng đây là một vấn đề rất mới mẻ đối với chúng ta. Vì vậy, chúng ta cần vừa làm, vừa học, đồng thời tham khảo những kinh nghiệm của các nước đã thực hiện. Để nghiên cứu vai trò của nhà nước đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá chúng ta xem xét thông qua các chiến lược, chính sách kinh tế để thấy được thực trạng đang diễn ra và có kế hoạch trong tương lai nhằm đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Để thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước trong khuôn cảnh phát huy nội lực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trước hết cần phối hợp tốt các chính sách đóng vai trò là trục chủ đạo của hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô trọng yếu và là cơ sở hàng đầu để lựa chọn, áp dụng các công cụ chính sách thích hợp với yêu cầu đặt ra, chẳng hạn như: Chính sách cơ cấu kinh tế, Chính sách thương mại, Chính sách tài chính, Chính sách giá, Chính sách lao động, Các công cụ tiền tệ - tín dụng - ngân hàng, các công cụ chính sách đất đai... Cuối cùng, em xin trân thành cám ơn thầy Trần Việt Tiến đã tận tình chỉ bảo em trong quá trình nghiên cứu đề tài này. Chương I Một số lý luận chung về vai trò của nhà nước đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ( CNH,HĐH ) ở nước ta. Tính tất yếu khách quan vai trò của nhà nước đối với quá trình CNH, HĐH 1.1. Tính tất yếu khách quan của quá trình CNH, HĐH đối với sự phát triển chung của đất nước. Cho đến nay, tuy chúng ta đã nhất trí vế sự cần thiết và tính tất yếu của CNH, HĐH, song nhận thức và quan niệm về vấn đề này còn có sự khác nhau. Do đó, việc phối hợp trong các chính sách và biện pháp có liên quan tới CNH, HĐH còn thiếu chặt chẽ và đồng bộ. Nhìn chung, nhiều người quan niệm CNH,HĐH là quá trình phát triển công nghiệp hoặc là quá trình ứng dụng các thành tựu tiến bộ khoa học, kỹ thuật trong các ngành kinh tế quốc dân. Quan niệm về CNH,HĐH như vậy tất yếu sẽ dẫn đến những quyết định bố trí cơ cấu đầu tư thiên về phát triển các ngành công nghiệp là chủ yếu, mà ít chú ý đến công nghệ, các khía cạnh phát triển công nghệ trong chính sách và cơ chế quản lý kinh tế. Thực tế trong nhiều năm quan ở nước ta đã phát triển được một số ngành công nghiệp, nhưng sự phát triển của công nghiệp không đồng nghĩa với công nghiệp hoá. Công nghiệp hoá bao hàm một nội dung rộng hơn nhiều. Vậy thực chất CNH,HĐH là quá trình phát triển công nghệ, là quá trình chuyển nền sản xuất xã hội từ trình độ công nghệ thấp lên trình độ công nghệ tiên tiến, hiện đại, biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại. Mục tiêu của CNH,HĐH là tạo ra tiềm lực to lớn, đủ khả năng xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của toàn dân, thực hiện dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng văn minh, bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc. Đó là một quá trình phấn đấu lâu dàI, gian khổ, đòi hỏi mọi người phải có hoài bão lớn, quyết tâm cao, chấp nhận những khó khăn , thử thách và hi sinh cần thiết để vĩnh viễn đưa dân tộc ta thoát khỏi lạc hậu, nghèo nàn, tiến lên “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” như Bác Hồ đã nói. Thật vậy, đối với một nước hiện vẫn còn ở tình trạng một nước nghèo, chúng ta không có con đường phát triển nào khác ngoài con đường CNH,HĐH. Để nhanh chóng thoát khỏi tình trạng đó, để tránh khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực và đưa nước ta mau chóng đạt tới trình độ của một nước phát triển, chúng ta cần đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước với tư cách là “ một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”. ý thức rõ đó là con đường tất yếu khách quan. Đảng ta dã xác định mục tiêu của sự nghiệp cao cả đó là: “Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại , cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. Ngoài ra Việt Nam là nước quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội vì vậy tất yếu phải tiến hành CNH,HĐH. Nói cho đúng không phải đến nay, trong bối cảnh quốc tế hiện thời, chúng ta mới xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cũng không phải đến nay chúng ta mới coi đó là quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc ta. Ngày nay trên phạm vi toàn thế giới công nghiệp hoá hiện vẫn đang được coi là phương hướng chủ đạo, là con đường tất yếu phải trải qua của các nước đang phát triển. Đối với nước ta , khi những tư tưởng cơ bản trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội được nhận thức lại một cách sâu sắc với tư cách là cơ sở lý luận vững chắc cho công cuộc đổi mới đất nước, công nghiệp hoá được quan niệm là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, có khả năng tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đó chính là quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhằm cải biến một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành xã hội công nghiệp,gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, thể hiện ngày một đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ mới.So với các nước trong khu vực nước ta đang ở trong tình trạng thụt hậu khá xa so với họ vì vậy mà việc phát triển để sánh ngang với các nước trong khu vực là một việc hết sức quan trọng, việc này yêu cầu nước ta phải phát triển nền kinh tế theo xu hướng CNH,HĐH với một quan niệm đúng đắn tránh những sai lệch trong tư tưởng. Trong cuốn sách “ Sự thần kỳ của các nước Đông á”, Chủ tịch Ngân hàng thế giới đã rút ra kết luận rằng sự phát triển thần kỳ của các nước Đông á có một nguyên nhân quan trọng là đã biết phân bổ nguồn nhân lực và vật lực cuả mình, đầu tư có hiệu quả cao vào việc nghiên cứu, sáng chế và làm chủ công nghệ... là những yếu tố hết sức quan trọng của quá trình CNH,HĐH. 1.2. Tính tất yếu khách quan về vai trò của nhà nước đối với quá trình CNH,HĐH. Công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đang bước vào thời kỳ phát triển mới - “ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước” đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc đầy đủ những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người - chủ thể của mọi sáng tạo. Mỗi quốc gia đều có một truyền thống lịch sử riêng của mình và do vậy việc thực hiện CNH,HĐH hoàn toàn không thể dập khuôn như các nước khác. Alain Touraine đã nhận xét: “ Hiện đại hoá cưỡng bước, rập khuôn theo mô hình của nước khác chỉ là tai hoạ cho các dân tộc, vì nó đối nghịch với bản sắc dân tộc, thù địch với dân chủ”. Như vậy, có thể nói rằng trên thực tế không có “ công thức chung”, “ mô hình khuôn mẫu” về hiện đại hoá cho tất cả các nước , mà chỉ có những hình thức và con đường hiện đại hoá cụ thể để đáp ứng yêu cầu phát triển của mỗi nước trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Do đó ta thấy rằng CNH,HĐH ở nước ta hiện nay bao hàm trong mình những đặc điểm quan trọng sau: CNH được triển khai đồng thời với hiện đại hóa và luôn gắn bó với hiện đại hoá để tạo nên một quá trình thống nhất thúc đẩy đất nước phát triển. Bởi vì, trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã và đang làm thay đổi về chất cả công nghệ sản xuất lẫn quy trình quản lý và trên thế giới đang diễn ra quá trình toàn cầu hoá kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn hoá ngày càng sâu rộng. Trong điều kiện này, chúng ta không thể chờ thực hiện xong CNH, sau đó mới triển khai HĐH, mà nhất thiết và cần phải triển khai đồng thời và đồng bộ hai quá trình này. Chỉ có cách làm như vậy mới có thể đẩy lùi được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới và nhanh chóng đưa nước ta tiến kịp các nước trong khu vực, dần hội nhập vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới CNH,HĐH là quá trình trang bị và trang bị lại những công cụ, thiết bị, phương tiện hiện đại và áp dụng công nghệ tiên tiến cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là các ngành then chốt để trước hết, làm tăng tỷ trọng của sản xuất công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân Trên cơ sở của quá trình nói trên, diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội, trước hết là từ cơ cấu kinh tế “ nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ “ sang cơ cấu kinh tế “ công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ “. CNH,HĐH ở nước ta vừa là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, vừa là quá trình kinh tế xã hội, văn hoá, khoa học ... Nó tác động một cách tổng hợp, đa diện, đa cấp độ đến mọi người, mọi gia đình và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. CNH,HĐH ở nước ta cũng chính là quá trình ngày càng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về các mặt kinh tế xã hội, khoa học và công nghệ, văn hoá... Với nước ta hiện nay CNH,HĐH không phảI là mục tiêu tự thân, mà là phương thức để đưa nền kinh tế tiểu nông lên nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Phương thức này được thực hiện một cách linh hoạt bằng bước đi tuần tự từ thấp đến cao ( thủ công - cơ giới - tự động hoá ) kết hợp với việc tranh thủ những điều kiện thời cơ thuận lợi “ đi tắt đón đầu”, “ rút ngắn thời gian” để nhanh chóng tạo ra những ngành kinh tế mũi nhọn. CNH,HĐH ở nước ta hiện nay về thực chất là quá trình sử dụng những công cụ phương tiện hiện đại cùng những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến và những kinh nghiệm lịch sử để đổi mới toàn diện, triệt để mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội đưa đất nước ta lên trình độ “ dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng dân chủ văn minh. Có thể nói , những đặc điểm quan trọng đó là những nét đặc trưng của con đường CNH,HĐH “ rút ngắn thời gian”, “vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt” mà chúng ta đang tiến hành. Con đường và bước đi công nghiệp hoá ở nước ta phải được tính toán một cách đấy đủ và chính xác không chỉ bối cảnh trong nước và quốc tế mà còn phải tính toán cả những tiềm năng và lợi thế so sánh của đất nước và con người Việt Nam. Từ kinh nghiệm công nghiệp hoá của các nước cũng như từ tình hình thực tế của Việt Nam những năm qua cho ta thấy quá trình CNH,HĐH là một quá trình rất to lớn ảnh hưởng đến nền kinh tế nước ta mà những công việc trong CNH,HĐH không một cá nhân hay tổ chức nào có thể đứng ra thực hiện vì vậy mà việc thực hiện quá trình CNH,HĐH không thể tách rời với sự quản lý điều tiết của nhà nước hay nói cách khác vai trò của nhà nước đối với quá trình CNH,HĐH là một tất yếu khách quan. Nội dung vai trò của nhà nước đối với CNH,HĐH. Quá trình chuyển đổi nền kinh tế của nước ta từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang hoạt động theo cơ chế thị trường đang đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết , trong đó có vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của Nhà nước trong quá trình CNH,HĐH, đặc biệt là đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là những chủ thể trực tiếp thực hiện quá trình đó. Trong khi khẳng định vai trò hết sức quan trọng của Nhà nước trong quản lý kinh tế, chúng ta cũng cần thấy những đặc thù quy định mối quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đó là: Thị trường nước ta còn đang ở trong giai đoạn phôi thai, hình thành chưa đầy đủ còn thô sơ. Môi trường kinh tế biến động lớn, mức lạm phát còn cao. Thông tin thị trường còn chắp vá, thiếu tin cậy, không đầy đủ. Hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh và đồng bộ. Kinh tế quốc doanh chiếm giữ phần lớn (2/3) tài sản xã hội nhưng hiệu quả kinh doanh thấp. Phân công lao động trên cơ sở kế hoạch hoá tập trung, bao cấp bị xoá bỏ, nhưng phân công lao động xã hội trên cơ sở mới lạI chưa hình thành. Những đặc đIểm trên cho ta thấy rằng trong điều kiện hiện nay ở nước ta vai trò của Nhà nước đặc biệt quan trọng. Nhà nước không đơn thuần là người trọng tài, người định hướng mà mức độ can thiệp, mức độ tác động trực tiếp của Nhà nước đối với các quá trình kinh tế phải mạnh hơn và rộng hơn so với trong nền kinh tế thị trường vận động bình thường. Sự can thiệp đó là nhằm khắc phục những thiếu sót của thị trường. Trong nền kinh tế thị trường mức độ cạnh tranh càng nhỏ, thông tin hữu dụng đến với người mua và người ván càng hạn chế và mức độ không chắc chắn của các điều kiện kinh doanh nói chung càng cao, thì kết quả của hoạt động thị trường sẽ càng thấp. Trong nền kinh tế hỗn hợp Nhà nước có vai trò khắc phục những khuyết tật của thị trường, làm cho sự phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế quốc dân có hiệu quả cao hơn. Điều đó có nghĩa rằng thị trường càng nhiều khuyết tật thì vai trò của Nhà nước càng lớn, sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường càng mạnh. Vấn đề đặt ra là trong khi nhấn mạnh vai trò tất yếu và hết sức quan trọng của Nhà nước trong quản lý kinh tế, chúng ta không chỉ khẳng định sự can thiệp và tác động của Nhà nước đối với quá trình kinh tế, mà còn phải xác định rõ Nhà nước thực hiện vai trò quản lý của mình như thế nào, bằng cách thức nào mà nhận biết rõ ranh giới quyền lực của mình, không xâm phạm quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp.Điều đó có liên quan tới việc xác định rõ những chức năng, cũng như nội dung quản lý mà Nhà nước phải đảm nhiệm thực hiện. Trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường ở nước ta, Nhà nước thực hiện vai trò quản lý của mình thông qua ba chức năng cơ bản sau: Quản lý vĩ mô nền kinh tế. Quản lý ngân sách nhà nước. Hoạt động kinh tế. 2.1 Quản lý vĩ mô nền kinh tế. Trong các chức năng trên thì chức năng đầu là quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định đối với phát triển kinh tế. Nếu không làm được như vậy thì Nhà nước sẽ không có lý do để tồn tại trong nền kinh tế thị trường và khi ấy Nhà nước trở thành thuần tuý là bộ máy cai trị , đứng ngoài guồng máy kinh tế. Đối với doanh nghiệp thì nội dung quan trọng nhất của chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước là tạo môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh trực tiếp là thị trường mà hằng ngày , hàng giờ các doanh nghiệp có quan hệ trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình: từ quyết định sản xuất cái gì, bao nhiêu, như thế nào cho tới việc bán các sản phẩm sản xuất ra, thậm chí cả những sản phẩm trong tương lai xa Đặc biệt trong việc tạo môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp hay nói khác là tạo môi trường cho CNH,HĐH thì việc khai thác môI trường kinh tế quốc tế là hết sức quan trọng. Sự thành công của sự nghiệp CNH,HĐH ở nước ta hiện nay phụ thuộc quyết định vào việc kết hợp hiệu quả nội lực dân tộc với các nhân tố quốc tế - thời đại. Bởi vậy, tạo lập và khai thác tốt môi trường kinh tế quốc tế đóng vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình CNH,HĐH phát triển. Môi trường kinh tế quốc tế tác động đến CNH,HĐH nước ta trên nhiều lĩnh vực như: tạo vốn qua đầu tư quốc tế, đổi mới và chuyển giao công nghệ, giảI quyết việc làm, thay đổi cơ cấu kinh tế, hội nhập nền kinh tế Việt Nam với khu vực và quốc tế v.v.. Vấn đề tạo lập , sử dụng môi trường kinh tế quốc tế cho CNH,HĐH ở nước ta được thể hiện trên hai lĩnh vực chủ yếu là nguồn vốn đầu tư nước ngoài và công nghệ. Tạo lập môi trường thu hút và sử dụng nguồn vốn nước ngoài. Đối với tất cả các nước khi tiến hành CNH,HĐH, huy động vốn luôn là một trong những vấn đề cốt yếu. Dựa vào tính chất đặc đIểm của từng thời kỳ cụ thể để lựa chọn, huy động, sử dụng nguồn vốn trở thành một việc làm đòi hỏi phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng, vì nó ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ và kết quả CNH,HĐH. Nhằm tạo lập môi trường trong nước thuận lợi cho thu hút vốn nước ngoài, trước hết cần chú trọng các biện pháp vĩ mô bảo đảm sự ổn định về chính trị, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại khai thông và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước, các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế và khu vực. Nhà nước phải chú trọng xây dựng và hoàn thiện các pháp chế kinh tế một cách đồng bộ , nhất quán, bảo đảm trật tự kỷ cương trong hoạt động kinh tế, tạo lập môi trường tài chính, tiền tệ lành mạnh; khống chế lạm phát, đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng theo hướng ưu tiên đối với các cơ sở phục vụ phát triển kinh tế đối ngoại, củng cố niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài. Do đặc thù riêng của vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và viện trợ phát triển (ODA) cho nên đối với từng loại vốn cụ thể Nhà nước cần có những biện pháp riêng. Đối với nguồn vốn FDI, chúng ta xác định đây là một trong những nguồn lực bên ngoài rất quan trọn trong công cuộc phát triển đất nước. Luật Đầu tư nước ngoài( ĐTNN) tại Việt Nam được ban hành vào tháng 12/1987 chỉ hơn một năm sau khi nước ta tiến hành công cuộc đổi mới. Để tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư nươc ngoài, từ năm 1990 đến nay nươc ta đã tiến hành 3 lần sửa đổi , bổ sung Luật Đầu tư nước ngoài. Nhà nước ta phải làm thế nào để thu hút được nhiều nhất nguồn vốn đầu tư của nước ngoài để thúc đẩy quá trình CNH,HĐH diển ra nhanh hơn.Tuy nhiên, để nguồn vốn ĐTNN phát huy tác dụng và hiệu quả cao đối với sự nghiệp CNH,HĐH cần thiết phải sớm khắc phục một số vấn đề mới đang đặt ra hiện nay. Trước hết, cần có giải pháp để nguồn vốn nước ngoài đầu tư trong công nghiệp không chỉ chủ yếu tập trung vào những ngành, những vùng có điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng , về thị trường và có khả năng thu hồi vốn nhanh( lắp ráp ôtô, xe máy, đIện tử, v.v... ) mà còn phải tăng các dự án đầu tư vào công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, vào công nghiệp cơ khí... Mặt khác, cần xoá bỏ tình trạng thua lỗ kéo dài của nhiều dự án công nghiệp; đồng thời khắc phục sự cạnh tranh không cân sức giữa lĩnh vực công nghiệp có đầu tư trực tiếp nước ngoài với công nghiệp trong nước. Còn đối với nguồn vốn ODA do được xác định là nguồn vốn bên ngoài quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội nói chung và cho CNH,HĐH cho nên nước ta rất quan tâm để thu hút nguồn viện trợ phát triển chính thức này.Nhà nước ta phảI nối lại quan hệ với các tổ chức tài chính thế giới như: Quỹ tiền tệ quốc tế ( IMF ), Ngân hàng thế giới ( WB ), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB )... Đồng thời phải sử dụng nguồn vốn cho có hiệu quả như: Cải tạo nâng cấp và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội , triển khai một số chương trình tại các vùng nông thôn miền núi, lập các dự án cho phát triển giao thông, điện , thuỷ lợi, y tế , giáo dục và đào tạo... Tạo lập môi trường để thu hút và sử dụng công nghệ cao cho CNH,HĐH. Là một nước đang phát triển, cho nên việc tạo lập môI trường để khai thác tốt công nghệ quốc tế phục vụ cho quá trình CNH,HĐH ở nước ta giữ một vai trò hết sức quan trọng, nó góp phần vào sự thành bại của quá trình đó. Thực trạng về trình độ công nghệ của nước ta khi bước vào CNH,HĐH cho thấy: hệ thống công nghệ trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất đều lạc hậu , chắp vá, không đồng bộ, năng suất và hiệu quả thấp. Sản phẩm làm ra chất lượng còn hạn chế ; giá thành cao; sức cạnh tranh kém trên thị trường quốc tế và khu vực. Trước thực trạng còn nhiều bất cập nêu trên, bên cạnh việc cố gắng tìm kiếm, khai thác nhập các công nghệ tiên tiến, Nhà nước còn chủ trương quản lý và sử dụng tốt hơn nữa công nghệ hiện có, phát huy tiềm năng, nội lực sẵn có của đất nước. Quan điểm của Đảng và Nhà nước hiện nay về xây dựng môi trường để thu hút và khai thác công nghệ thể hiện trên những vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất, phát huy cao độ yếu tố xã hội của công nghệ để tạo ra hiệu quả kinh tế xã hội cao cho dù chưa có được thiết bị tiên tiến nhất. Chúng ta tiếp thu công nghệ và làm chủ nó, bảo đảm vận hành tốt tiến tới cải tiến từng bộ phận để thích nghi với từng đIều kiện cụ thể của ta , nâng cao hơn nữa sự sáng tạo quy trình công nghệ mới. Thứ hai, đầu tư theo chiều sâu để khai thác tối đa năng lực hiện có, kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại. Thứ ba, ở những ngành công nghệ có tầm chiến lược và các ngành công nghệ mũi nhọn như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, cơ khí điện tử, tự động hoá... Nhà nước cần tập trung đầu tư lớn, nhập trực tiếp hoặc hợp tác liên doanh nhằm mau chóng có những công nghệ hiện đại, nhanh chóng có những sản phẩm hàm lượng công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh hiệu quả trên thị trường quốc tế. Đây chính là chủ trương của Nhà nước nhằm tạo nên những ngành kinh tế mũi nhọn, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển toàn bộ nền kinh tế nói chung và sự nghiệp CNH,HĐH nói riêng của nước ta. Và để tiếp tục xây dựng và sử dụng tốt môi trường công nghệ cho CNH,HĐH đất nước hiện nay và những năm sắp tới, chúng ta phải chú trọng những vấn đề: Cần hoàn chỉnh hơn nữa hệ thống pháp luật, các văn bản pháp lý, cũng như phải thực hiện nghiêm túc các quy phạm đã nêu trong luật pháp để tránh các trường hợp “ lọt lưới “ công nghệ lạc hậu, công nghệ ô nhiễm... mà không quy được trách nhiệm thuộc về ai. Cần lập ra những cơ quan chuyên trách với các chuyên gia giỏi ở từng ngành để tập hợp, phân tích, tổng hợp các thông tin về công nghệ trên thế giới từ các kênh cập nhật theo thời gian để có cơ sở tin cậy cho việc đánh giá, lựa chọn các thiết bị, công nghệ nhập ngoại. Đây là công việc vừa có lợi trước mắt, vừa có lợi lâu dài cho sự nghiệp CNH,HĐH. Cần đầu tư nhiều hơn nữa cho việc đào tạo nguồn cán bộ khoa học công nghệ. Ngoài ra, Nhà nước còn cần có chính sách tăng cường khả năng tham gia của khu vực kinh tế tư nhân thông qua việc hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân nhận thức đúng đắn việc phát hiện, tìm kiếm, lựa chọn và sử dụng công nghệ tiên tiến, thích hợp; tích cực sử dụngcác kết quả nghiên cứu của các viện nghiên cứu, các trường đại học... nhằm hoàn thiện công nghệ sản xuất, sử dụng những trang thiết bị hiện đại, những giống cây, con mới, chú trọng tăng năng suất lao động đạt hiệu quả và lợi nhuận cao trong sản xuất kinh doanh. 2.2 Quản lý ngân sách Nhà nước. Ngân sách Nhà nước là nguồn thu chi cho hoạt động điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế. Vì vậy, Nhà nước phải quản lý ngân sách một cách có hiệu quả. Đó là một yêu cầu cấp bách đối với quản lý kinh tế ở nước ta. Một chính phủ với ngân sách Nhà nước ốm yếu, thường xuyên thâm hụt, bội chi nhiều thì chắc chắn không thể đIều hành tốt nền kinh tế được. Thực trạng cân đối thu chi ngân sách của nước ta nhiều năm qua luôn luôn ở trong trình trạng căng thẳng bộ chi lớn. Sự căng thẳng trong nguồn thu ngân sách đã dẫn đến những lúng túng, bị động trong chi tiêu ngân sách, dẫn đến cơ cấu chi tiêu không hợp lý. Năm 192, chi cho xây dựng cơ bản vượt quá 70%, trong khi đó chi cho các vấn đề xã hội lại chỉ đạt 70%, còn lại phải chuyển sang năm 1993. Vì vậy, cần phải chú ý vai trò quan trọng của Nhà nước và phải thường xuyên hoàn thiện chức năng quản lý ngân sách của Nhà nước. 2.3 Hoạt động kinh tế của Nhà nước. Nhà nước trực tiếp làm kinh tế với tư cách là người chủ sở hữu (tới 75%) tài sản của đất nước. Mặc dù hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp Nhà nước quá thấp, song không thể xoá bỏ nó, mà phải chú ý củng cố và tăng cường cho nó đủ mạnh để có thể đảm nhiệm được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nói chung vai trò của Nhà nước là rất to lớn trong kinh tế thị trường. Kinh nghiệm của thế giới cho thấy rằng , đối với các nước đang phát triển , vai trò quản lý của Nhà nước đối với công nghiệp thể hiện ở những đIểm sau đây: Trong mọi trường hợp, Nhà nước chỉ nên định hướng chung, mà không nên trực tiếp tham gia vào các quyết định của các doanh nghiệp. Nhà nước tập trung thông tin và chia sẻ một cách có chọn lọc những thông tin ấy cho các doanh nghiệp. Nhà nước cung cấp vốn liên doanh cho các doanh nghiệp mới, thường là ở mức lãi suất rất thuận lợi đối với họ. Nhà nước hỗ trợ cho các ngành công nghiệp đột phá. Sự hỗ trợ cần phải được cân nhắc và xử lý cụ thể từng trường hợp. Nhà nước phải kiên quyết xoá bỏ mọi sự ưu đãi nếu như doanh nghiệp không đáp ứng được những tiêu chuẩn thực hiện. Bản thân các tiêu chuẩn phảI không phức tạp và rõ ràng. Có sự phân công sản xuất giữa doanh nghiệp công cộng, doanh nghiệp tư nhân và có thể cả các công ty xuyên quốc gia. Chú ý công tác đào tạo và y tế. Có sự liên kết hỗ trợ về vốn giữa khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân. Các chương trình đầu tư của Nhà nước phảI được thiết kế nhằm tăng hiệu quả của cả hai khu vực Nhà nước và tư nhân, Tránh moi sự không rõ ràng. Kinh nghiệm một số nước. 3.1. Các nước ASEAN. Vào thập kỷ 80 chiến lược phát triển công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu được đẩy mạnh tại các nước ASEAN. Điều nổi bật trong chiến lược này là kết hợp xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp truyền thống, sản phẩm sử dụng nhiều lao động với sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao. Trong khoảng 15 năm gần đây với chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu các nước ASEAN đã thay đổi một cách mạnh mẽ cơ cáu công nghiệp hóa. Các mặt hàng về công nghiệp chế biến, máy móc thiết bị vận tảI, hàng đã chế biếnkhác ở các nước đều tăng lên mạnh mẽ. ĐIều đó góp phần làm thay đổi cân đối xuất khẩu từ nhập siêu sang xuất siêu góp phần làm tăng GNP của đất nước. Bảng cân đối xuất nhập khẩu Đơn vị tính: triệu đôla Nước 1976 1990 Xuất khẩu(FOB) Nhập khẩu(CIF) + - Xuất khẩu(FOB) Nhập khẩu(CIF) + - Inđônêxia Malaixia Xingapo Thailan 1055 1087 1554 710 1258 1390 2461 1293 -203 +297 -907 -583 25675 26645 52600 22940 21837 26506 60605 33229 3838 139 8005 10289 Sở sĩ đạt được kết quả này là nhờ 2 biện pháp quan trọng sau đây mà hầu hết các nước ASEAN đã áp dụng. Một là, biện pháp bảo hộ: ở hầu hết các nước ASEAN trừ Xingapo đều áp dụng biện pháp bảo hộ cả thị trường xuất khẩu lẫn thị trường nội địa. Hai là, các nước ASEAN có chính sách tích cực thâm nhập thị trường nước ngoài. Trong bối cảnh những năm 50 đến cuối thập kỷ 90 xu hướng vận động của vốn đầu tư có sự thay đổi . Do nhiều lý do khác nhau mà vốn đầu tư chuyển dịch sang các nước công nghiệp phát triển. ở các nước đang phát triển thì đã nghèo lạI thiếu vốn đầu tư. Song trong bối cảnh đó, các nước ASEAN lại tạo điều kiện để khởi dòng cho vốn đầu tư nước ngoài chảy vào lãnh địa của mình. Trong số đó phải kể đến tốc độ tăng vốn đầu tư của Nhật và Mỹ vào các nước ASEAN. Để thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, Chính phủ các nước ASEAN đã có nhiều chính sách khuyến khích như sau: Mở cửa không hạn chế đầu tư nước ngoài. Tạo bầu không khí thuận lợi cho đầu tư. Khuyến khích vật chất để thu hút vốn đầu tư. Sử dụng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư , tận dụng nhiều nguồn đầu tư như đầu tư ODA,NGO, và FDI. Sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình CNH,HĐH ở các nước ASEAN là vừa phải theo chuẩn mực quốc tế. Các nước ASEAN đã sử dụng các biện pháp: Về tổ chức: Thành lập các Uỷ ban đầu tư (BOI) để kết hơp khuyến khích và quản lý đầu tư vào các ngành kinh tế. Nhiệm vụ chủ yêú của BOI là : phân phát phần lớn các khuyến khích tài chính của chính phủ cho các chủ đầu tư mới Phối hợp hoạt động đầu tư của các bộ, ngành trong chính phủ. Giúp các công ty mới được thành lập được đăng ký và thừa nhận chính thức. Về chính sách kinh tế: Các nước ASEAN đã xây dựng và áp dụng một loạt chính sách quan trọng. Nhà nước có định hướng chiến lược cho sự phát triển công nghiệp. Nhà nước có chính sách can thiệp vào ngoại thương như bảo hộ ngành chế tạo nội địa; khuyến khích xuất khẩu và điều t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35417.doc