Vai trò của công đoàn trong việc tải thiện điều kiện lao động cho công nhân (qua khảo sát tại 1 Công ty may năm 2006)

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội, tạo ra một tiền đề vững chắc, đưa đất nước chuyển sang thời kỳ CNH-HĐH. Tuy nhiên, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, đời sống xã hội đã đặt ra nhiều vấn đề bức xúc cần giải quyết. Mặt trái của cơ chế thị trường, đó là lối sống coi trọng đồng tiền, ngày càng trở nên lấn át các giá trị chuẩn mực đạo đức tốt đẹ

doc92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1388 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của công đoàn trong việc tải thiện điều kiện lao động cho công nhân (qua khảo sát tại 1 Công ty may năm 2006), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p. Các doanh nghiệp cạnh tranh nhau và đặt lợi ích vật chất lên trên hết, nên các doanh nghiệp ít để ý đến cải thiện điều kiện lao động cho công nhân gây ảnh hưởng tới sức khoẻ, tính mạng người lao động và gây hậu quả khôn lường đối với con người, đối với doanh nghiệp, đồng thời ảnh hưởng tới trình độ phát triển và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì vậy, Công đoàn có vai trò rất quan trọng trong việc thường xuyên kiểm tra, giám sát và cải thiện điều kiện lao động nhằm đảm bảo lợi ích, sức khoẻ, tính mạng cho công nhân, tránh những hậu quả như: tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cho công nhân. Công ty Cổ phần may Chiến Thắng là một đơn vị trực tiếp sản xuất hàng may mặc, ngành này có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế cũng như giải quyết việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, đặc thù ngành may mặc thường tập trung nhiều lao động nữ , trong sản xuất có độ bụi và tiếng ồn lớn nên ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ công nhân.Ý thức được vấn đề này, lãnh đạo Công ty có nhiều văn bản, thông tư, chỉ thị hướng dẫn thực hiện an toàn, VSLĐ trong các xí nghiệp, phân xưởng sản xuất nhằm cải thiện điều kiện lao động cho công nhân, đáp ứng tái sản xuất sức lao động, nâng cao năng suất, chất lượng công việc. Song, khi thực hiện vấn đề này con nhiều bất cập, cụ thể như: người công nhân chưa ý thức tự giác trong việc chấp hành kỷ luật của Công ty, hay Công ty chưa kiểm tra giám sát chặt chẽ người lao động. Do vậy, Công đoàn Công ty - đại diện cho quyền lợi người lao động tại Công ty, cần nhận thức đúng đắn về bảo hộ lao động nói riêng và đảm bảo điều kiện lao động cho công nhân nói chung. Từ đó dẫn tới sự thay đổi hành vi, điều chỉnh quan hệ lao động nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Với lý do trên tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Vai trò của Công đoàn trong việc cải thiện điều kiện lao động cho công nhân”(Qua khoả sát tại Công ty CP may Chiến Thắng- năm 2006). 2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu Trong lao động sản xuất, dù sử dụng công cụ thô sơ hay máy móc hiện đại, dù quy trình đơn giản hay phức tạp, đều có những yếu tố nguy hiểm, độc hại có thể làm giảm sức khoẻ, gây tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho công nhân. Vấn đề lao động nói chung và ĐKLĐ nói riêng luôn là sự quan tâm của nhiều ngành khoa học, đặc biệt là đối với những ngành như: Bảo hộ lao động, y học lao động, vệ sinh môi trường, vệ sinh dịch tễ,…Nhưng do tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường đến các ngành sản xuất đã làm biến đổi nhiều ngành nghề ,và do nắm bắt được quy luật của thị trường, đầu tư trang thiết bị dây chuyền hiện đại nên đời sống sức khoẻ của công nhân được đảm bảo. Ngược lại, một số ngành không có cơ hội phát triển, máy móc cũ, thiết bị lạc hậu đã tác động lớn đến xu hướng biến động của ĐKLĐ trong các ngành sản xuất và làm ảnh hưởng đến sức khoẻ công nhân. Vì vậy, công tác cải thiện ĐKLĐ mà cụ thể là thông qua các biện pháp khoa học, kĩ thuật, kinh tế, xã hội nhằm loại trừ các yếu tố nguy hiểm, độc hại tạo điều kiện thuận lợi cho NLĐ, ngăn ngừa tai nạn lao động bảo vệ sức khoẻ công nhân đã góp phần bảo vệ và phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng xuất lao động. Trong những năm gần đây, ở nuớc ta đã có một số công trình nghiên cứu về lý luận cũng như thực tiễn về điều kiện lao động, bệnh tật, sức khoẻ, môi trường lao động như: + Nghiên cứu về: “Ảnh hưởng của môi trường lao động tới sức khoẻ của công nhân công ty môi trường đầu tư Hà Nội”- do Phạm Xuân Đạt –Giám đốc công ty môi trường đầu tư làm chủ đề tài.Trong đó tác giả đề cập đến môi trường lao động và ảnh hưởng của nó tới tinh thần công nhân. + Nghiên cứu về: “Môi trường lao động ở một số ngành nghề nặng nhọc, độc hại và thái độ của họ”- do Tôn Thiện Chiếu – Phòng xã hội học lao động và công nghệ viện xã hội học –Tháng1/1997- Viện xã hội học. Mục đích chương trình này hướng đến nhận diện thực trạng môi trường lao động nữ công nhân và nhận thức của họ với điều kiện lao động của phụ nữ để đảm bảo sức khỏe cho nữ công nhân. + Công trình nghiên cưú: “Điều kiện lao động, điều kiện sinh hoạt của nữ công nhân ngành dệt”của kĩ sư Trần Thị Lan – Chủ tịch Công đoàn ngành công nghiệp nhẹ. Ở nghiên cứu này, tác giả đề cập đến các yếu tố điều kiện lao động: nhiệt độ, tiếng ồn, độ ẩm, tốc độ gió, bụi ẩm, ánh sáng, đặc điểm lao động và tính chất lao động,… + Bài viết của Ngô Minh Phương về “Vấn đề môi trường lao động qua nghiên cứu xã hội học ở cơ sở hiện nay”. Môi trường này có ảnh hưởng tới sức khoẻ, nó diễn ra lâu dài sẽ dẫn tới bệnh nghề nghiệp cho công nhân. Mà yếu tố thường gặp nhất là bụi, các chất độc hại nhiệt độ cao và tiếng ồn. + Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu, luận văn tốt nghiệp, những bài nghiên cứu trao đổi, tạp chí của nhiều nhà khoa học cũng như bàn về vấn đề này. Trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cưú của các tác giả trên, tác giả đã tiến hành khảo sát nghiên cứu các cấp độ vai trò của Công đoàn trong việc cải thiện điều kiện lao động cho công nhân tại Công ty CP may Chiến Thắng. Với cách tiếp cận xã hội học, kết hợp với sự thu nhận các kết quả đã nghiên cứu từ các chuyên ngành khác: Chính sách xã hội, môi trường, bảo hộ lao động, …sẽ giúp cho việc nghiên cứu có cách nhìn toàn diện hơn. 3. Mục đích nghiên cứu Với giới hạn của một khoá luận tôt nghiệp, tác giả nghiên cứu đề tài này nhằm một số mục đích sau: - Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn để làm sáng rõ thực trạng vai trò của Công đoàn trong việc chăm lo, cải thiện điều kiện lao động cho công nhân. - Đề xuất những giải pháp, khuyến nghị trong việc cải thiện điều kiện lao động và tăng cường vai trò Công đoàn tại một doanh nghiệp. 4. ý nghĩa của đề tài 4.1. Ý nghĩa khoa học Nghiên cứu vai trò của Công đoàn trong việc cải thiện điều kiện lao động cho công nhân giúp ta nhìn nhận đúng đắn vai trò, chức năng của tổ chức Công đoàn trong bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho người lao động. Thông qua nghiên cứu đề tài này phần nào làm sáng tỏ các khái niệm, lý thuyết, phương pháp nghiên cứu Xã hội học, đăc biệt là hệ thống hoá những khái niệm, lý thuyết liên quan đến điều kiện lao động, đóng góp vào kho tàng lý luận chung về khoa học lao động và chỉ đạo công tác công đoàn. 4.2. Ý nghĩa thực tiễn Qua nghiên cứu, đề tài chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế của Công đoàn trong việc cải thiện điều kiện lao động cho công nhân Công ty CP may Chiến Thắng. Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm giúp cán bộ Công đoàn thấy được thực trạng của vấn đề và kịp thời có kế hoạch trong công tác an toàn và vệ sinh lao động đảm bảo sức khoẻ cho người lao động. 5. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, khách thể nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Vai trò của Công đoàn trong việc cải thiện điều kiện lao động cho công nhân. 5.2. Phạm vi nghiên cứu Tiến hành khảo sát trực tiếp tại Công ty CP may Chiến Thắng, từ tháng 2 đến tháng 5 năm 2006. 5.3. Khách thể nghiên cứu Tổ chức Công đoàn và cán bộ công nhân viên chức tại Công ty CP may Chiến Thắng. 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp chung Để đạt mục đích nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin làm cơ sở khoa học để sử dụng các phương pháp cụ thể nhằm biện giải cho những vấn đề nghiên cứu của mình một cách toàn diện, lịch sử, phát triển. Từ đây, các sự kiện, hiện tượng xã hội được đặt trong sự tương tác và mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau chứ không tồn tại một cách độc lập, riêng lẻ, đồng thời chúng tồn tại và được nhìn nhận một cách khách quan trong sự vận động biến đổi của quá trình hình thành phát triển và tiêu vong chứ không phải là bất biến. Phương pháp luận nói trên cho chúng ta một quan điểm đúng đắn khi tiến hành lập luận phân tích các vấn đề lý luận, thực tiễn trong qua trình nghiên cứu đề tài, đồng thời có cơ sở khoa học khi sử dụng các phương pháp cụ thể nhằm luận giải cho vấn đề nghiên cứu. 6.2. Phương pháp cụ thể 6.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu Tác giả đã kế thừa có chọn lọc những tác phẩm, những công trình khoa học, những đề tài nghiên cứu của một số tác giả đi trước đề phục vụ cho công việc nghiên cứu của mình. 6.2.2. Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi Nghiên cứu vai trò của Công đoàn trong việc cải thiện điều kiện lao động cho công nhân được tiến hành khảo sát tại Công ty CP may Chiến Thắng. Bảng hỏi gồm 20 câu, nội dung đi sâu vào tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân cũng như hướng cải thiện điều kiện lao động tại Công ty. 6.2.3.Phương pháp phỏng vấn sâu Tác giả tiến hành phỏng vấn sâu 03 đối tượng một cách chủ đích để từ đó tìm ra bản chất của vấn đề nghiên cứu. Qua bảng phỏng vấn này các thông tin thu được nhằm phục vụ cho khoá luân tốt nghiệp. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng một số phương pháp khác như: Phương pháp so sánh, phương pháp thống kê,… 7. Giả thuyết và khung lý thuyết 7.1. Giả thuyết nghiên cứu + Trong những năm vừa qua, vai trò Công đoàn công ty CP may Chiến Thắng đã thay đổi theo chiều hướng tích cực trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp và chính đáng cho công nhân, thực hiện tốt chế độ chính sách liên quan đến an toàn lao động, vệ sinh lao động. + Trong thực tế việc thực hiện vấn đề này còn nhiều hạn chế. Những hạn chế này xuất phát từ những nguyên nhân khác như: Chế độ chính sách, tâm sinh lý, năng lực cán bộ,…. 7.2. Khung lý thuyết ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI Vai trò của Công đoàn trong việc cải thiện điều kiện lao động cho công nhân Trang thiết bị máy móc Trang thiết cá nhân Môi trường lao động Chế độ chính sách Quan hệ xã hội HIỆU QUẢ SẢN XUẤT – KINH DOANH GIẢI PHÁP – KHUYẾN NGHỊ CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Các lý thuyết có liên quan 1.1.1. Lý thuyết phát triển bền vững Tư tưởng cơ bản của sự phát triển bền vững là bảo toàn chất lượng môi trường cho những người đang sống và cho các thế hệ tương lai, đảm bảo tiềm năng phát triển con người hiện đại cũng như tương lai, đảm bảo sự công bằng giữa các nhóm người, sự công bằng cho các thế hệ. Sự phát triển bền vững gắn liền với phát triển con người không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống cùng với việc gìn giữ, bảo vệ môi trường, bảo toàn chất lượng cuộc sống. Bền vững là công bằng trong phân phối, trong chia sẻ năng lực tạo ra phúc lợi cho tất cả mọi người hiện tại và tương lai. Phát triển con người dưới hình thức con người được giáo dục tốt hơn, khoẻ mạnh hơn, ít suy nhược hơn và chất lượng cuộc sống tốt hơn. Giữa con người và môi trường có mối quan hệ trực tiếp thường xuyên nhưng lại không thể hiểu đơn giản. Mối quan hệ đó bị chi phối bởi mối quan hệ giữa người và người về nhu cầu, lợi ích của từng cá nhân và từng nhóm xã hội. Bảo vệ hay phá hoại môi trường như thế nào là do nhu cầu lợi ích của nhóm xã hội quy định. Nhận thức của họ, hoạt động của họ đối với môi trường xung quanh lại được đặt trong một cơ cấu tổ chức và thể chế phức tạp: Quan hệ gia đình, quan hệ cộng đồng, các thể chế pháp luật,… 1.1.2. Quan điểm Mácxit về sức khoẻ Quan điểm Mácxit về sức khoẻ cho rằng: Sức khoẻ con người là sản phẩm của nền kinh tế xã hội, sự phát triển của nền kinh tế xã hội khác nhau sẽ tạo ra những điều kiện tiền đề cho sự hình thành những bệnh đặc thù. Theo Ănghen: Bệnh tật là một biểu hiện và là hậu quả trực tiếp của việc chạy theo lợi nhuận, không để ý tới điều kiện an toàn lao động. Điểm nổi bật của phương pháp Mácxit là gắn bệnh tật với nền kinh tế xã hội, mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế lại xuất hiện những bệnh tật khác nhau. Cả Mác và Ănghen đều cho rằng: Bệnh tật không phải là bản chất của mỗi cá nhân, mà là sản phẩm của tổ chức công nghiệp trong xã hội. Ănghen giải thích ốm đau, bệnh tật là sản phẩm của các điều kiện xã hội chứ hoàn toàn không phải là sự cố sinh vật không thể tránh được. Quan điểm này cho ta sự so sánh bệnh tật trong mối quan hệ với sự phát triển kinh tế xã hội; bệnh truyền nhiễm, bệnh xã hội là sản phẩm của điều kiện sống cả con người mang tính chủ quan. Nếu điều kiện sống của con người không tốt sẽ ảnh hưởng tới sức khoẻ của chính bản thân họ và đấy là nguồn gốc sinh ra bệnh tật, chứ không phải do sự cố sinh học, mang tính khách quan không thể tránh được. Như vậy, con người muốn có sức khoẻ tốt cần cải thiện điều kiện kinh tế xã hội, bởi yếu tố này có tác động rất lớn tới sức khoẻ con người, có như vậy con người mới ngăn chặn được bệnh tật. 1.1.3. Lý thuyết xã hội học về lao động Xã hội học xem xét lao động với tư cách là hiện tượng xã hội nảy sinh, biến đổi và phát triển trong bối cảnh xã hội. Theo quan niệm của Macxit: “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên”. Xã hội học coi lao động như là hành động xã hội có cấu trúc gồm các thành phần: mục đích lao động, đối tượng lao động, phương tiện lao động, điều kiện lao động, chủ thể lao động và xu hướng lao động. Vậy lao động không những là phương thức tồn tại, phát triển của cá nhân mà còn là phương thức tồn tại và phát triển mối quan hệ giữa con người và xã hội. 1.1.4. Quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về cải thiện điều kiện làm việc cho CN VCLĐ Ở nước ta, từ khi thành lập, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, trong sắc lệnh đầu tiên về lao động, vấn đề đảm bảo cho công nhân được làm việc trong môi trường an toàn, vệ sinh đã được đề cập: “Các xí nghiệp phải có đủ phương tiện để bảo đảm an toàn và giữ gìn sức khoẻ cho công nhân”. “Những nơi làm việc phải rộng rãi thoáng khí và có ánh sáng mặt trời”. (1) Từ đó đến nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, các văn bản pháp luật cũng như hệ thống các văn bản có liên quan quy định về vấn đề này đã ra đời và dần từng bước được hoàn thiện cho phù hợp với tình hình mới của nền kinh tế. Những năm gần đây, do thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhờ đó mà nền kinh tế đã và đang có bước tiến vượt bậc. Cùng với quá trình đó, vấn đề an toàn, vệ sinh lao động, hạn chế ô nhiễm môi trường do lao động, bảo vệ người lao động cũng được đặc biệt chú trọng. Điều này thể hiện ở hai nội dung chính sau: Thứ nhất, việc ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật về vấn đề này như: Luật bảo vệ sức khoẻ của nhân dân (1989); Luật công đoàn (1990); Pháp lệnh về bảo hộ lao động (1991); Điều lệ bảo hiểm xã hội (1995); Luật bảo vệ môi trường (1993); Bộ luật Lao động của nước Công hoà XHCN Việt Nam (ban hành năm 1994 và có hiệu lực thi hành từ 1.1.1995)… Mặc dù mỗi văn bản pháp lý đề cập với mức độ khác nhau, song nhìn chung các văn bản đều toát lên một nội dung cơ bản là công nhận quyền được bảo đảm điều kiện làm việc, an toàn và vệ sinh của người lao động, cũng như quyền hạn và trách nhiệm của Chính phủ, người sử dụng lao động và các tổ chức xã hội liên quan đến việc hạn chế ô nhiễm môi trường lao động sản xuất và bảo vệ người lao động. Song phải nói rằng, những nội dung có tính chất chủ yếu nhất, ảnh hưởng trực tiếp đến việc hạn chế ô nhiễm môi trường do hoạt động lao động và bảo vệ NLĐ là những nội dung được Bộ luật lao đông quy định. Thứ hai là, đi đôi với việc ban hành các văn bản pháp luật về vấn đề này, hệ thống tổ chức hướng dẫn và kiểm soát thi hành pháp luật cũng được hình thành và ngày càng hoàn thiện. Qua các cuộc thanh tra đã kịp thời phát hiện những thiếu sót từ khâu quản lý Nhà nước đến việc thực hiện các quy định về ATLĐ, VSLĐ. Bên cạnh công tác củng cố hệ thống tổ chức hướng dẫn và kiểm soát thi hành pháp luật, Nhà nước còn đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế về lĩnh vực ATLĐ,VSLĐ, hạn chế ô nhiễm môi trường do công nghiệp, ngăn ngừa thảm hoạ công nghiệp… Sự lớn mạnh của Viện, các trung tâm nghiên cứu đầu ngành về Môi trường lao động, Y học lao động, Khoa học kĩ thuật bảo hộ lao động, sự ra đời và phát huy có hiệu quả của các trung tâm Y học lao động ở một số Bộ, Ngành chủ chốt, sự hội nhập của mạng lưới thông tin ATLĐ, VSLĐ và bệnh nghề nghiệp trong khu vực, việc tham gia vào chương trình hoạt động của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) tổ chức y tế thế giới (WHO),…đã chứng tỏ Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác ATLĐ, VSLĐ. 1.2. Những khái niệm công cụ 1.2.1. Môi trường lao động Xuất phát từ định nghĩa môi trường sống “Là tổng thể các yếu tố bao quanh một sinh thể hay quần thể sinh vật tác động lên cuộc sống. Môi trường bao gồm các yếu tố tư nhiên (Đất đai, khí hậu), hệ sinh vật, động thực vật, cùng các yếu tố kinh tế xã hội (các hoạt động sản xuất, các quan hệ sản xuất, phong tục, tập quán,văn hoá,…)”.(2) Hay theo định nghĩa của của Luật Bảo vệ môi trường: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và các yếu tố vật chất, xã hội nhằm tạo ra quan hệ mật thiết với nhau, có ảnh hưởng đến sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người tự nhiên”.(3) Từ định nghĩa trên, ta thấy rằng, môi trường lao động là phạm vi nhỏ hơn nằm trong môi trường sống của con người. Môi trường lao động gồm: các yếu tố tự nhiên trong lao động (ánh sáng, khí hậu, vệ sinh,…) và các yếu tố xã hội trong lao động (quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động, quan hệ giữa những người lao động với nhau,…). 1.2.2. Điều kiện lao động - “Điều kiện lao động là tổng thể các yếu tố tự nhiên, kinh tế xã hội, kĩ thuật được thể hiện bằng các công cụ lao động, quy trình công nghệ ở một khoảng không gian nhất định cho con người trong quá trình lao động. Điều kiện lao động xuất hiện cùng với sự xuất hiện của lao động con người và cùng được phát triển của kinh tế xã hội và khoa học kĩ thuật. Điều kiện lao động phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên của từng nơi và mối quan hệ của con người trong xã hội”.(4) - “Điều kiện lao động tại nơi làm việc là tập hợp các yếu tố của môi trường lao động (các yếu tố: vệ sinh, tâm sinh lý, tâm lý xã hội và thẩm mỹ) có tác động lên trạng thái chức năng của cơ thể con người, khả năng làm việc, thái độ lao động, sức khoẻ, quá trình sản xuất sức lao động và hiệu quả của họ trong hiện tại cũng như lâu dài”.(5) Chúng ta thấy rằng, điều kiện lao động là khái niệm rộng và là tổng thể các yếu tố (công cụ, phương tiện lao động, đối tượng lao động, quá trình công nghệ và môi trường lao động). Các yếu tố đều có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, vì thế trong quá trình nghiên cứu chúng ta cần có giải pháp kĩ thuật để cải thiện điều kiện lao động cho công nhân nhằm nâng cao sức khoẻ cho họ. 1.2.3. Khái niệm công đoàn Trong hiến pháp Nước cộng hoà XHCN Việt Nam năm 1982 tại chương1 điều 10 ghi rõ: “Công đoàn là một tổ chức chính trị xã hội của giai cấp công nhân và người lao động, cùng với cơ quan Nhà nước và các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội chăm lo bảo vệ quyền lợi cán bộ, công nhân viên chức lao động, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục công nhân lao động và những người lao động lao khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tham gia quản lý Nhà nước và quản lý xã hội”.(6) Hồ Chí Minh nói: “Tổ chức công hội (sau này gọi là công đoàn) trước hết là để cho công nhân đi lại với nhau cho có tình cảm, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để sửa sang các sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là để giữ cho quyền lợi của công nhân, năm là để giúp đỡ cho quốc dân, cho thế giới”. Luật công đoàn được quốc hội nước Cộng Hoà XHCN Việt Nam thông qua kỳ họp thứ 7 khoá VIII ngày 30/06/1990 khẳng định: “Công đoàn là tổ chức chính trị xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động Việt Nam tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng Công Sản Việt Nam, là thành viên trong hệ thống chính trị- xã hội Việt Nam, là trường học chủ nghĩa xã hội của người lao động”. Mục đích của tổ chức công đoàn là vì sự tồn tại bản thân tổ chức, đáp ứng nhu cầu lợi ích của công nhân, viên chức và người lao động, đoàn viên công đoàn thực hiện các mục tiêu chính trị –kinh tế- xã hội của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng thông qua quần chúng lao động, góp phần nâng cao hiệu quả của hệ thống chính trị- xã hội cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2.4. Vai trò công đoàn Vai trò là những đòi hỏi của xã hội đặt ra dưới cã vị thế xã hội, những đòi hỏi này được xác định căn cứ vào các chuẩn mực xã hội. Vì vậy, ở mỗi xã hội khác nhau, cùng một vị thế xã hội nhưng mô hình hành vi được xã hội mong đợi là rất khác nhau, tức là vai trò khác nhau. Vai trò của một tổ chức là sự tác động của tổ chức đó đến tiến trình phát triển của lịch sử xã hội được thể hiện trên các mặt chính trị, tư tưởng, văn hoá, kinh tế, xã hội mà tổ chức đó tồn tại và phát triển. Dưới CNXH, theo V.I Lênin: “Công đoàn có vai trò là trường học quản lý, trường học kinh tế, trường học cộng sản”. Ta có thể thấy rằng: Vai trò Công đoàn Việt Nam trong sự nghiệp CNH-HĐH ngày càng được mở rộng, vai trò của công đoàn được cụ thể hoá theo các cấp độ tham gia; + Tập hợp ý kiến phản ánh của công đoàn viên. + Đề xuất ý kiến nguyện vọng của công đoàn viên đối với cấp trên về các vấn đề có liên quan đến lợi ích NLĐ. + Đưa ra các phương án giải quyết các yêu cầu, thắc mắc, kiến nghị của người lao động. + Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định, các chế độ chính sách đối với NLĐ. - Từ đó việc nghiên cứu vai trò Công đoàn sẽ tập trung vào các hoạt động cụ thể của công đoàn: + Công đoàn không trực tiếp quản lý mà phải tăng cường hoạt động giám sát, kiểm tra để tham gia ý kiến có trọng lượng. + Sự tham gia của tổ chức Công đoàn trong việc cải thiện ĐKLĐ cho công nhân. 1.2.5. Quan hệ xã hội Trước hết, ta cần hiểu khái niệm xã hội là: “Tập đoàn người xây dựng trên quan hệ sản xuất- chính trị- văn hoá”.(7) Khái niệm quan hệ xã hội là: “Sự gắn liền về mặt nào đó giữa những người hay những vật với nhau hoặc giữa người, vật khiến cho mỗi chuyển biến ở mỗi bên gây ra sự thay đổi ở bên kia”.(8) Xét về góc độ Xã hội học thì quan hệ xã hội được hình thành không phải là tương tác ngẫu nhiên mà thưòng có mục đích, có hoạch định. Chủ thể quan hệ xã hội có thể là cá nhân nhưng cũng có thể là nhóm, tập đoàn xã hội tương tác với nhau. Trong số các loại quan hệ xã hội, quan hệ sản xuất đóng vai trò quan trọng đối với các loại quan hệ khác. Theo Mác thì “Bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Vì vậy, nhu cầu trao đổi giữa con người với nhau không thể không diễn ra (có thể là mối quan hệ đồng cấp hoặc có thể mối quan hệ khác cấp). Đây là hệ thống các hoạt động thông qua tương tác xã hội để nhằm đến một giá trị chung nào đó giữa con người với nhau; nhằm tạo ra sự đoàn kết, trợ giúp trong sản xuất, thúc đẩy hiệu quả sản xuất, cải thiện điều kiện lao động. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.1. Khái quát về công ty Cổ phần may Chiến Thắng. Tác giả: Đỗ Thị Làn Công ty CP may Chiến Thắng là doanh nghiệp Nhà nước thuộc Tổng Công ty dệt may Việt Nam, có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, có trụ sở chính tại số 22 phố Thành Công – Ba Đình –Hà Nội. Công ty được thành lập ngày 2/3/1968 (với tên gọi là Xí nghiệp may Chiến Thắng) có nhiệm vụ tổ chức sản xuất các loại quần áo, mũ vải, găng tay, áo dạ, áo dệt kim... cho các lực lượng vũ trang và trẻ em. Ngày đầu mới thành lập Xí nghiệp có tổng số lao động là 325 Công nhân (147 lao động nữ, 178 lao động nam). Xí nghiệp đã hoàn thành kế hoạch sản lượng là 466.902 sản phẩm bao gồm: Quần áo chiến sĩ, bao gạo... Đến 1973 Xí nghiệp bắt đầu làm hàng xuất khẩu. Năm 1987 doanh thu của Xí nghiệp đạt 186 triệu đồng, sản phẩm xuất khẩu đạt 1.200.000 chiếc, lợi nhuận đạt 31triệu đồng. Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường Xí nghiệp đã nhanh chóng chuyển hướng kinh doanh từ vật tư nguyên liệu do Nhà nước cung cấp sang sản xuất gia công bằng nguyên vật liệu do khách hàng đưa đến, đồng thời chủ động sản xuất sản phẩm để tung ra thị trường trong nước. Ngày 25/8/1992 Bộ công nghiệp nhẹ quyết định đổi tên Xí nghiệp may Chiến Thắng thành Công ty may Chiến Thắng, với nhiệm vụ chính là gia công hàng xuất khẩu, hàng nội địa. Ngoài ra Công ty còn tiến hành một số dịch vụ khác như gia công thêu chương trình tự động cho các nhu cầu của cá nhân và tập thể. Dưới các chính sách chủ chương của Đảng và Nhà nước. Từ một Xí nghiệp may quy mô sản xuất đơn thuần theo chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước đến nay Công ty may Chiến Thắng đã trở thành một Công ty lớn mạnh cả về quy mô, năng lực và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đến năm 2005 Công ty may Chiến Thắng đã cổ phần hoá thành Công ty Cổ phần may Chiến thắng. SƠ ĐỒ 1: SƠ ĐỒ TỔ CHỨC CÔNG TY CỔ PHẦN MAY CHIẾN THẮNG Tổng giám đốc Phó tổng giám đốc kỹ thuật Phó tổng giám đốc kinh tế Giám đốc điều hành Văn phòng Tổ chức lao động Tài vụ Xuất nhập khẩu Kỹ thuật Phục vụ sản xuất Kinh doanh tiếp thị TT thiết kế thời trang Xưởng dạy nghề Bảo vệ quân sự Y tế Các xí nghiệp may Xí nghiệp thảm len PX cắt da XN may da XN thêu 2.2. Đặc điểm lực lượng lao động và tổ chức sản xuất của Công ty 2.2.1. Đặc điểm lực lượng lao động Hiện nay Công ty có tổng số 2467 cán bộ công nhân viên chức, trong đó có: - Lao động ngành công nghiệp là 2375 (chiếm 96%) - Lao động nữ có 2084 người ( chiếm 85%) - Lao động làm công tác quản lý là 142 người (chiếm 5,8%) - Lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên 80 người - Lao động trực tiếp 2325 người ( chiếm 94%) - Độ tuổi từ 18-29 có 1720 người (chiếm 69,7%) - Cán bộ công nhân viên chức có trình độ đại học cao đẳng là 96 người, trung cấp là 265 người, công nhân bậc 4 trở xuống 2014 người. Ngoài ra, công ty còn có kế hoạch bổ sung mới lao động cần đào tạo các ngành nghề từ nay đến 2010 là: - Đại học: 35 người - Cao đẳng: 14 người - Trung học chuyên nghiệp: 65 người.Ngoài ra, Công ty còn tổ chức ba lớp học may để chủ động đào tạo công nhân có tay nghề phù hợp quy trình sản xuất của Công ty để bổ sung lao động cho các xí nghiệp, phân xưởng. 2.2.2. Đặc điểm tổ chức sản xuất Công ty may Chiến Thắng là một doanh nghiệp chuyên sản xuất và gia công hàng may mặc theo qui trình khép kín từ cắt, là, đóng gói, đóng hòm bằng các máy chuyên dùng với số lượng lớn được chế biến từ nguyên liệu chính là vải. Cơ cấu tổ chức sản xuất của Công ty được bố trí như sau: SƠ ĐỒ 2: MÔ HÌNH TỔ CHỨC SẢN XUẤT Ở CÔNG CP TY MAY CHIẾN THẮNG. CÔNG TY XN May 1 XN May 2a XN May 2b XN May 3 XN May U5 XN May thêu PX Cắt da PX May da XN Thảm len TT T.kế thời trang Văn phòng xí nghiệp Tổ cắt và phục vụ tổ cắt Các tổ may Tổ hoàn thành Tổ bảo toàn Cửa hàng giới thiệu sản phẩm Trung tâm mốt và may đo 2.3. Điều kiện lao động tại công ty Cổ phần may Chiến Thắng 2.3.1. Môi trường lao động Việc đảm bảo điều kiện lao động đối với một số cơ sở sản xuất không phải là một vấn đề đơn giản mà chịu sự tác động từ nhiều phía, không thể bó gọn trong phạm vi sản xuất. Cũng như việc đảm bảo điều kiện lao động là phải thường xuyên khảo sát các yếu tố độc hại trong môi trường sản xuất nhằm đánh giá thực tế mức độ độc hại ảnh hưởng đến sức khoẻ NLĐ, đồng thời tiếp nhận các khuyến nghị và giải pháp tương ứng cải thiện ĐKLĐ cho công nhân. Hiện nay khi nói về hiệu quả kinh tế- xã hội của công tác ATVS lao động ta mới tính được phần “hiện”như: tiết kiệm được lao động, nguyên vật liệu, chi phí do ĐKLĐ xấu gây ra,…Còn chưa tính được phần “ẩn”như: đảm bảo sức khoẻ người lao động, tạo điều kiện cho NLĐ phát triển toàn diện, tăng tuổi nghề, tình yêu đối với công việc. Như vậy, không thể nghiên cứu về môi trường lao động chung chung mà phải xem xét nó trong mối quan hệ với hàng loạt các yếu tố khác. Môi trường lao động bao gồm cả những yếu tố: vật lý- tự nhiên và các điều kiện xã hội. Nếu một nhà quản lý biết quan tâm xây dựng một môi trường trong sạch thì doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi từ năng suất lao động cao. Ngược lại, nếu không chú ý tới môi trường sẽ dẫn tới sự suy giảm môi trường, từ đó ảnh hưởng đến sức khoẻ NLĐ và cuối cùng là năng suất lao động bị giảm sút. Yếu tố đầu tiên, tác giả đề cập đến là môi trường tự nhiên. Vậy môi trường tự nhiên trong lao động được hiểu như là cấu trúc không gian nơi làm việc, bao gồm các yếu tố của môi trường tự nhiên như: nhiệt độ, độ ẩm, buị, rung động, hơi khí độc, tiếng ồn, ánh sáng,… Riêng đối với công nhân ngành may mặc, do đặc thù công việc nên nữ chiếm số đông và thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với môi trường lao động có nhưng yếu tố bất lợi gây ảnh hưởng sức khoẻ cho họ. Cùng với việc đảm bảo ĐKLĐ cho công nhân thì việc thường xuyên khảo sát các yếu tố độc hại ảnh hưởng đển sức khoẻ NLĐ cũng rất quan trọng.Ta có thể xét cụ thể theo các thông số được khảo sát ở Công ty với câu hỏi: “Anh (chị ) có nhận xét gì về môi trường lao động tại nơi làm việc của mình?” Bảng 2.1. Sự đánh giá của công nhân về môi trường lao động. Mức độ Các yếu tố Dễ chịu Bình thường Khó chịu 1.Tiếng ồn 0 24.5 75.5 2.Bụi 2 26 72 3.Ánh sáng 98 2 0 4.Nhiệt độ 11 79 10 5.Độ ẩm 48 34 18 6.Nhà xưởng 15 80 5 (Nguồn: Theo kết quả điều tra từ bảng hỏi) mức độ các yếu tố Biểu đồ đánh giá môi trường lao động 2.3.1.1. Tiếng ồn trong sản xuất. Qua phiếu trưng cầu ý kiến, kết quả là:Không có ý kiến nào cho rằng dễ chịu với tiếng ồn, 24.5% cho là bình thường, 75.5% công nhân cho rằng khó chịu với tiếng ồn. Như vậy là đại đa số công nhân khó chịu với tiếng ồn vì tiếng ồn trong sản xuất và trong sinh hoạt gây tác hại đến cơ thể con người và dẫn tới làm giảm năng suất lao động. Do ảnh hưởng của tiếng ồn sau một thời gian dài, độ nhạy của thính giác của con người sẽ giảm dần, có thể dẫn tới bị điếc hẳn. Tiếng ồn không những tác động lên cơ quan thính giác mà còn tác động lên hệ thống thần kinh cũng như các chức năng khác của cơ thể. Tiếng ồn gây ra mệt mỏi toàn thân: nhức đầu, choáng váng, ăn mất ngon, rối loạn thần kinh. Ngoài ra, nó còn gây ảnh hưởng xấu tới tim mạch, gây rối loạn nhịm tim, hệ thống thần kinh bị căng thẳng liên tục có thể gây ra bệnh cao huyết áp, giảm khả năng thính giác. Tiếng ồn là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến sản xuất. Nó là một dạng ô nhiễm phổ biến trong các nhà máy, khu công nghiệp, nó tác động trực tiếp đến lực lượng công nhân khi làm việc. “Tiếng ồn là âm thanh không có giá trị, không phù hợp với mong muốn của ngư._.ời nghe, có thể trở thành một âm thanh hay nhưng sẽ trở thành những tiếng ồn khi xảy ra không đúng lúc đúng chỗ”. Tiếng ồn trong phân xưởng phụ thuộc chủ yếu vào sự vận hành của máy móc. Mặc dù Công ty đã có nhiều cố gắng để cải thiện ĐKLĐ như đổi mới máy móc, trang bị bảo hộ lao động: găng tay, mũ, khẩu trang, quần áo,… để hạn chế tối đa tiếng ồn nhưng kết quả chưa nhiều. Nguyên nhân là do máy móc mặc dù đã được nâng cấp và trạng bị mới nhưng vẫn còn nhiều máy cũ và việc nâng cấp không đồng bộ. 2.3.1.2. Bụi trong sản xuất. Bụi là nhân tố nguy hiểm ảnh hưởng xấu đến sản xuất công nghiệp. Chúng có thể thâm nhập vào cơ thể con người bằng 3 con đường: Hô hấp, da và tiêu hoá. Nó là nguyên nhân gây ra các bệnh viêm phổi, lao phổi, ung thư, ăn mòn da ... bụi còn làm viêm kết mạc mắt. Theo kết quả bảng 2.1 ta thấy: có tới 72% người được hỏi khó chịu với bụi, một công nhân làm việc ở bộ phận cắt vải cho biết “Công việc này của tôi có lượng bụi vải lớn mà chỗ ngồi lai gần cửa sổ, khi có gió là một lượng bụi lớn bay vào".Trong số 100 người được hỏi thì chỉ có 2 người (2%) trả lời dễ chịu với bụi còn 26% cho là bình thường. Rõ ràng kết quả trên cho thấy: người công nhân đã có những cảm giác khác nhau trước những yếu tố của môi trường lao động. Nhiều người đã cảm thấy rất khó chịu với các yếu tố như: tiếng ồn, bụi. Người lao động đã thừa nhận yếu tố tiếng ồn có ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện lao động của công nhân làm việc ở bất kì vị trí nào Yếu tố thứ 2 có hại cho sức khoẻ công nhân là bụi 72% cho rằng khó chịu bụi vì nó có ảnh hưởng tới sức khoẻ và năng suất lao động. Bụi và tiếng ồn là tác nhân gây cản trở hô hấp, thần kinh và sẽ làm tăng các ảnh hưởng xấu đến công nhân trong Công ty trực tiếp làm việc trong môi trường đó. Trong điều kiện như vậy, người công nhân sẽ nhanh chóng mệt mỏi về mặt thần kinh, tâm lý. Nếu tác động đó kéo dài sẽ gây suy giảm sức khoẻ. Tóm lại, môi trường lao động của Công ty vẫn còn những yếu tố có hại cho sức khoẻ của công nhân như: bụi, tiếng ồn. Đó là những tác nhân dẫn tới những căn bệnh nghề nghiệp như: Viêm đường hô hấp, các bệnh liên quan tới thần kinh ... và làm tăng các ảnh hưởng xấu tới công nhân trực tiếp làm việc trong xưởng. Trong điều kiện như vậy, người công nhân sẽ nhanh chóng mệt mỏi về mặt thần kinh, rối loạn tâm lý. 2.3.1.3. Độ ẩm và chiếu sáng. Việc đánh giá kết quả đo nhiệt độ và hệ thống chiếu sáng tại nơi làm việc của công nhân là quan trọng vì nó ảnh hưỏng đến năng suất lao động và trạng thái chức năng của cơ thể con người. Độ ẩm và tình trạng chiếu sáng trong sản xuất có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng lao động của công nhân. Qua bảng 2.1.ta thấy có tới 98% trong mẫu nghiên cứu cho rằng dễ chịu với tình trạng chiếu sáng trong Công ty. Điều đó chứng tỏ hệ thống chiếu sáng trong Công ty được quan tâm và đảm bảo, làm cho công nhân làm việc thoải và dễ chịu khi làm việc. Về độ ẩm thì trong số 100 mẫu điều tra thì có 48 người (48%) trả lời dễ chịu, 18% khó chịu, 34% trả lời bình thưòng. Kết quả đó cho ta thấy độ ẩm trong Công ty cũng được đảm bảo, tuy nhiên có số ít cho rằng khó chịu vì độ ẩm thay đổi theo thời tiết nên tình trang sức khoẻ công nhân cũng thay đổi gây cảm giác khó chịu đối với họ. Nhìn chung về độ ẩm và ánh sáng được Công ty quan tâm và đảm bảo tốt, thường xuyên nâng cấp và trang bị nhằm hạn chế tối đa môi trưòng ảnh hưởng sức khoẻ công nhân, từ đó mới nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh. 2.3.1.4. Nhiệt độ và nhà xưởng Điều kiện nhà xưởng cũng là vấn đề mà các cấp các ngành đều phải quan tâm hàng đầu. Nếu nhà xưởng đặt ở những nơi quá ẩm thấp hoặc quá cao thì gây ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ công nhân. Mặt khác, người công nhân thường không thích làm việc ở những nơi điều kiện nhà xưởng tồi tàn, cũ kĩ. Theo số liệu điều tra bảng hỏi ở Công ty may Chiến Thắng có 80% công nhân cho rằng điều kiện nhà xưởng bình thưòng, điều đó cho ta thấy ban lãnh đạo Công ty có sự quan tốt đến nhà xưởng làm cho công nhân yên tâm làm việc. Bên cạnh đó thì điều kiện nhiệt độ trong sản xuất cũng được đảm bảo, 79% công nhân trả lời nhiệt độ bình thường,11% dễ chịu,10% khó chịu (bảng 2.1). Nhiệt độ có ảnh hưởng lớn đến khả năng lao động của công nhân. Về mùa hè, họ chịu sự tác động của ánh sáng mặt trời, nhiệt độ cao và nhất là những công nhân làm ở khâu cầu là. Về mùa đông, khí hậu quá lạnh nhiệt độ giảm xuống thấp cũng làm ảnh hưởng năng suất lao động. Hoặc sự chênh lệch về nhiệt độ cũng gây ảnh hưỏng xấu đến cơ thể. Chính vì vậy, Công ty đã có sự quan tâm kịp thời đến điều kiện nhiệt độ cho công nhân, sức khoẻ họ được đảm bảo tức là năng suất lao động sẽ tăng lên, mặt khác tinh thần lao động của công nhân tăng lên. Tóm lại, môi trưòng lao động của Công ty được đảm bảo, nhìn chung không có phản ánh gì nhiều về các yếu tố này, bên cạnh đó còn có những yếu tố có hại cho sức khoẻ công nhân cần phải khắc phục như: bụi,tiếng ồn đó là những tác nhân dẫn tới các bệnh: Viêm đường hô hấp, các bệnh liên quan đến thần kinh…và làm ảnh hưởng xấu tới công nhân trực tiếp làm việc trong xưởng. 2.3.1.5. Rung động trong sản xuất Ngoài những yếu tố trên, thì sự dung động trong sản xuất cũng ảnh hưởng đến hệ thần kinh và tim mạch của công nhân. Khi cường độ nhỏ và tác động ngắn sự rung động gây ảnh hưởng tốt cho cơ thể, nhưng khi sự rung động có cường độ lớn và kéo dài sẽ dẫn đến những biến chuyển khó chịu trong cơ thể làm thay đổi hoạt động của tim, rối loạn dinh dưỡng. Người công nhân trong công ty phải thường xuyên sử dụng máy móc dây chuyền là nguyên nhân gây ra rung động. Rung động cơ khí có thể sinh ra từ sự làm việc của máy móc, của cơ cấu phát sinh ra tiếng ồn không trực tiếp bởi bề mặt cơ cấu đó cũng như bởi các bộ phận kết cấu liên quan đến chúng. Đây cũng chính là nguyên nhân gây ra các bệnh nghề nghiệp cho người lao động, đặc biệt là những người làm việc lâu năm, cường độ lao động liên tục. Quan sát trực tiếp tại nhà xưởng cho ta thấy, máy móc làm việc theo dây chuyền hầu như độ rung động không lớn lắm, mọi thao tác trong công việc cũng rất nhẹ nhàng. Vì thế, người công nhân không có cảm giác khó chịu với độ rung trong sản xuất. 2.3.2. Máy móc, thiết bị của Công ty Đẩy mạnh CNH-HĐH đang là mục tiêu hàng đầu của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Tiến hành cơ giới hoá và tự động hoá trong nhiều công đoạn sản xuất đã thực sự giải phóng sức lao động chân tay, giúp cho việc tăng năng xuất và chất lượng lao động. Đối với ngành may mặc nói chung và Công ty may Chiến Thắng nói riêng thì đó là một công đoạn rất quan trọng. Trong thực tế hiện nay, nhiều công ty đã cơ giới hoá, tự động hoá một phần hoặc hoàn toàn dây chuyền sản xuất. Nhưng cũng như bất kì một ngành nào, việc đầu tư còn gặp rất nhiều khó khăn do thiếu vốn và nguồn đầu tư kinh phí nên việc đổi mới máy móc chưa thể thực hiện được ngay. Tuy nhiên, trong những năm qua Công ty may Chiến Thắng đã tăng cường đầu tư hiện đại hoá một số khâu sản xuất, mua thêm nhiều máy móc, trang thiết bị hiện đại để phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Lãnh đạo Công ty đã làm hết sức để có được nguồn vốn mua sắm máy móc. Tuy nhiên việc cải tạo và đổi mới máy móc chưa thể đồng bộ ngay được. Đối với vấn đề kĩ thuật: Để cải thiện kĩ thuật chuyên môn; nhiều cán bộ chuyên môn đã được cử đi học, nhiều công nhân được đào tạo tại chỗ để thích nghi với máy móc mới, công nghệ mới. Đây là sự cố gắng lớn của Công ty trong điều kiện sản xuất còn gặp nhiều khó khăn, sự thay đổi máy móc được thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 2.2: Một số máy móc, thiết bị của Công ty. Stt Tên thiết bị Nước sản xuất Sốlượng (Chiếc) Chất lượng (o/o) 1 Máy may 1 kim Nhật 800 90 2 Máy may 2 kim Nhật 158 90 3 Máy nẹp kan sai Nhật 1 90 4 Máy 6 kim Hàn Quốc 1 90 5 Máy trần diêu Nhật 5 90 6 Máy zic zắc 1 bước Nhật 11 90 7 Máy zic zắc 3 bước Nhật - Đức 14 90 8 Máy vắt sổ Nhật 114 90 9 Máy thùa bằng Nhật 22 90 10 Máy thùa tròn Tiệp 7 70 11 Máy đính cúc Nhật 16 90 12 Máy đính bo Nhật 16 90 13 Máy cuốn ống Nhật 1 90 14 Máy ép Nhật-Đức 5 80 15 Máy cắt vòng Đức 8 70 16 Máy cắt tay Nhật 17 80 17 Máy thêu Nhật 4 80 Tổng 1514 (Nguồn:Báo cáo kết qủa phòng kĩ thuật Công ty- tháng12/2005) Từ số liệu bảng 2.2 ta thấy: Điều kiện về máy móc thiết bị của Công ty đã được trang bị khá đồng bộ theo dây chuyền (phần lớn là của Nhật) với công nghệ tiên tiến hiện đại, đã tạo điều kiện cho Công ty sản xuất hàng loạt với số lượng lớn đáp ứng được các đơn đặt hàng, hầu hết công nhân được làm việc với máy móc hiện đại, số lượng và chất lượng sản phẩm tăng lên rõ rệt vì thế đời sống công nhân cũng thay đổi theo. 2.3.3. Hệ thống an toàn vệ sinh lao động trong Công ty Với quan điểm con người là vốn quí nhất, Đảng và Nhà nước ta đã đề cao yêu cầu đảm bảo vệ sinh an toàn lao động, bảo đảm vệ sinh sức khỏe của người lao động, gắn liền với sản xuất theo phương châm: “An toàn để sản xuất, sản xuất phải an toàn”. Bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động là nội dung quan trọng của pháp luật lao động. An toàn lao động là ngăn ngừa sự cố tai nạn xảy ra trong quá trình lao động, gây thương tích cho cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động. Vệ sinh lao động là ngăn ngừa bệnh tật do những chất độc hại tiếp xúc trong quá trình lao động gây ra đối với nội tạng hoặc gây ra bệnh nghề nghiệp. An toàn lao động không tốt thì gây ra tai nạn lao động, vệ sinh không tốt thì gây ra bệnh nghề nghiệp. ATLĐ, VSLĐ là trách nhiệm của Nhà nước, của các tổ chức, của người sử dụng lao động, và của người lao động. Trong lao động sản xuất, vấn đề ATLĐ, VSLĐ rất quan trọng, nó trực tiếp bảo vệ sức khoẻ cho người lao động. Người công nhân làm việc trong môi trường có nồng độ bụi, tiếng ồn ... cần phải được trang bị BHLĐ. BHLĐ tốt là góp phần vào việc củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. BHLĐ mang ý nghĩa quan trọng, trong sản xuất người lao động được bảo vệ tốt, không bị tai nạn, không bị ốm đau, bệnh tật họ sẽ an tâm phấn khởi sản xuất, nâng cao năng suất lao động, hoàn thành kế hoạch sản xuất. Do vậy, thu nhập cá nhân và phúc lợi tập thể sẽ được tăng lên, điều kiện đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được cải thiện. Ngược lại, tai nạn lao động, ốm đau, bệnh tật xảy ra nhiều ảnh hưởng tới lực lượng sản xuất. Đồng thời chi phí khắc phục hậu quả do tai nạn, ốm đau cũng rất lớn. Cho nên việc quan tâm thực hiện tốt ATLĐ-VSLĐ và cải thiện ĐKLĐ cho người lao dộng là đảm bảo điều kiện sản xuất an toàn và đem lại hiệu quả kinh tế cao. Ngoài ra cải thiện ĐKLĐ cho người lao động còn góp phần vào bảo đảm vệ sinh môi trường. Mặc dù các điều kiện lao động, các thiết bị an toàn... đã không ngừng được cải thiện và ngày càng tiến bộ song chưa đáp ứng đầy đủ cho việc bảo vệ con người. Bởi vì các tai nạn rủi ro là do nhiều nguyên nhân phức tạp gây ra, chúng có mối liên hệ giữa kỹ thuật, sinh học, tâm lý, sự mệt mỏi... vì vậy đòi hỏi phải có những biện pháp phòng hộ cho người lao động. Vào phân xưởng sản xuất, tác giả quan sát thấy ở các tổ sản xuất đều có một bảng nội quy quy định việc sử dụng trang thiết bị bảo hộ lao động: Công nhân may, cắt phải đeo khẩu trang. Công nhân cắt vải phải đeo găng tay sắt. Công nhân vận hành máy thêu phải đeo bảo hộ chống ồn. Vậy thực tế việc cấp phát và sử dụng các trang thiết bị bảo hộ lao động như thế nào? Qua khảo sát và trưng cầu ý kiến tác giả thu được kết quả như sau: Bảng 2.3: Sự đánh giá của công nhân về thiết bị bảo hộ lao động Mức độ Trang bị Đủ Không đủ Không được cấp Không cần cấp 1.Găng tay 50 0 0 50 2.Mũ 75 0 0 25 2.Khẩu trang 100 0 0 0 3.Quần áo 100 0 0 0 4.Khác 0 0 0 0 (Nguồn: theo kết quả điều tra bằng bảng hỏi) Qua bảng số liệu trên ta thấy: 100% công nhân được cấp phát khẩu trang, quần áo. Ngoài ra công nhân ở tổ cắt còn được cấp găng tay sắt, tổ thêu thì đựơc cấp thêm bảo hộ chống tiếng ồn. Một số trang bị như: găng tay và mũ cũng được cấp đầy đủ nhưng 50% trả lời không cần cấp găng tay và 25% không cần mũ, thường là những công việc không cần sử dụng các thiết bị này. Khi ra vào phân xưởng mọi người đều được cấp một đôi dép để đi trong nhà xưởng nhằm đảm bảo phân xưởng luôn sạch sẽ. Nhưng đó là việc cung cấp trang thiết bị bảo hộ lao động, còn việc người lao động có sử dụng các thiết bị này không? 100% người trả lời đều sử dụng quần áo, khẩu trang trong khi làm, nhưng riêng găng tay thì chỉ công nhân ở tổ cắt là sử dụng, còn bảo hộ chống ồn thì chỉ được sử dụng ở tổ thêu. Khi hỏi lý do không sử dụng găng tay khi làm việc thì hầu hết đều đưa ra lý do như: Công việc của mình không cần đến găng tay, không thoải mái, ảnh hưởng tới hiệu quả công việc. Mặt khác cũng phải kể đến lý do là do những qui định bắt buộc của Công ty với từng tổ sản xuất nên người công nhân phải sử dụng những thiết bị lao động nhất định theo quy định. Đặc thù của Công ty may Chiến Thắng là lao động nữ chiếm tới 80% do đó Công ty đã rất chú ý tới vấn đề sản xuất và trang thiết bị bảo hộ lao động phù hợp với lao động nữ . Trong công ty “chỗ thay quần áo, buồng tắm và khu vực vệ sinh luôn sạch sẽ và đảm bảo đủ nước dùng cho công nhân, công tác vệ sinh phí cũng được quan tâm. Ngay tại Công ty có tổ chức nhà trẻ, mẫu giáo, hỗ trợ bữa ăn trưa cho trẻ. Các qui định về thời gian làm việc, nghỉ ngơi đều đựơc Công ty chấp hành nghiêm chỉnh. Qua tìm hiểu ở Công ty, tác giả nhận thấy rằng: Công ty may Chiến Thắng đã thực hiện khá tốt các qui định, nội qui, biện pháp ATLĐ-VSLĐ phù hợp với từng loại máy móc, thiết bị, vật tư và nơi làm việc theo tiêu chuẩn qui định làm việc của Nhà nước. Mặt khác, Công ty còn tổ chức huấn luyện, hướng dẫn các tiêu chuẩn, qui định biện pháp an toàn, VSLĐ đối với người lao động. Việc kiểm tra công tác BHLĐ đã thực sự được quan tâm phối hợp của các cấp chính quyền, Công đoàn, Đoàn thanh niên phổ biến tới từng xí nghiệp, phòng ban trong công ty. Chính vì vậy mà tại Công ty rất ít khi xảy ra tai nạn lao động. Theo báo cáo của Công ty năm 2005 chỉ có một vụ tai nạn nhẹ. Tóm lại, các yếu tố kể trên đã tác động rất lớn đến việc bảo vệ người lao động. Đây là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta đang cố gắng thực hiện tạo điều kiện cho người công nhân nâng cao hơn nữa vị trí của mình cũng như việc bảo vệ sức khoẻ người lao động. Vì vậy, việc cải thiện ĐKLĐ là một trong những vấn đề cần thiết và cấp bách để đảm bảo sức khoẻ, nâng cao hiệu quả sản xuất. 2.3.4. Tình hình sức khoẻ của công nhân Ta có thể đưa ra một định nghĩa về sức khoẻ như sau: “Sức khoẻ là một trạng thái thoải mái, đầu đủ về vật chất, tâm hồn và xã hội chứ không chỉ bó hẹp vào, nghĩa là không có bệnh hoặc không thương tật. Đây là một quyền cơ bản của con người, khả năng vươn lên đến một sức khoẻ cao nhất có thể đạt được là mục tiêu xã hội quan trọng, liên quan đến toàn thế giới, và đòi hỏi sự tham gia của nhiều tổ chức xã hội khác nhau chứ không đơn thuần là lĩnh vực của ngành y tế”.(9) Luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân 1989 - Điều 9,10,14 đã đề cập về vấn đề vệ sinh trong sản xuất, bảo quản, vận chuyển và sử dụng hoá chất, vệ sinh các chất thải công nghiệp và trong sinh hoạt, vệ sinh lao động. Các yếu tố này có thể gây mất an toàn vệ sinh và ô nhiễm môi trường cần xử lý nhằm bảo vệ sức khoẻ NLĐ và mọi người xung quanh. Qua kết quả khám sức khoẻ định kỳ của công nhân Công ty cho thấy: Bảng 2.4: Kết quả khám định kỳ của công nhân Phân loại sức khoẻ Loại I Loại II Loại III Loại IV Loại V Nam ( người) 8 78 58 16 0 Nữ ( người) 18 416 379 76 3 Tổng số (người) 26 494 437 92 3 Tỷ lệ% (So với TS khám) 2.5 47.0 41.5 8.7 0.3 (Nguồn: Báo cáo kết quả khám định kỳ của công nhân) Ghi chú: Loại I: Rất khoẻ, Loại II: Khoẻ, Loại III: Trung bình, LoạiIV: yếu, Loại V: Rất yếu. Theo kết quả trên ta thấy tình hình sức khoẻ công nhân Công ty tốt và đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh: loại khoẻ chiếm tỷ lệ lớn 47% và loại trung bình 41.5% điều đó chứng tỏ lực lượng lao động ở đây rát tốt là một trong những thuận lợi để nâng cao hiệu quả sản xuất. Đó cũng là cơ sở để sắp xếp NLĐ vào công việc một cách hợp lý, nhằm phát huy hết khả năng của từng công nhân. Bên cạch đó, công nhân có sức khoẻ loại IV vẫn chiếm tỷ lệ khá cao (8.7%) gấp hơn 3 lần so với loại I (2.5%). Vậy điều kiện do đâu ? Do hàng loạt các yếu tố của ĐKLĐ như: Môi trường lao động không thuận lợi, môi trường xã hội, chính sách xã hội về lao động,… Điều kiện lao động ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ công nhân, theo kết quả khảo sát tại Công ty ta thấy có một số chứng bệnh thường gặp là: Bảng 2.5: Tương quan giữa tuổi và nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp (Tỷ lệ: %) TT Tuổi Bệnh 18-25 26-35 36-49 1 Tai-mũi- họng 5 10 13 2 Đau đầu 4 15 20 3 Phổi 6 20 22 4 Đau lưng 2 10 16 5 Hô hấp 8 11 15 6 Khác 15 20 9 7 Không có bệnh 60 14 5 ( Nguồn: Báo cáo kết quả khám định kỳ) Số liệu ở bảng trên cho thấy: Những người mắc bệnh kể trên thường xuất hiện ở những công nhân có độ tuổi từ 36-49 tuổi mắc các bệnh chủ yếu như: tai-mũi- họng, đường hô hấp. Tuổi này thường có nguy cơ mắc bệnh cao hơn độ tuổi 18-25 và 26-35 tuổi. Công nhân ngành may thường mắc một số bệnh: đau lưng do ngồi nhiều, mỏi mắt, đau đầu.Vì cường độ công việc cao, ngồi nhiều và phải làm việc với máy móc nên NLĐ hay bị mệt mỏi, căng thẳng, đau đầu, ù tai,…Còn những công nhân ở tuổi 18-25 do còn trẻ, làm việc chưa lâu nên chưa chịu ảnh hưởng nhiều của ĐKLĐ cho nên tỷ lệ mắc bệnh nghề nghiệp thấp. Điều đó chứng tỏ rằng công nhân công nhân làm việc trong Công ty lâu năm, tiếp xúc với môi trường nhiều hơn, khả năng mắc bệnh cao hơn so với tuổi 18-35. Nhưng trên thực tế, NLĐ ở độ tuổi này đại đa số tích luỹ được kinh nghiệm sản xuất, trình độ tay nghề cao nhưng do ảnh hưởng của ĐKLĐ hoặc do sức khoẻ nên họ sớm phải ra khỏi dây chuyền sản xuất. Có thể nói đó là một trong những trở ngại lớn đối với NLĐ và người sử dụng lao động. Vì vậy, việc khám sức khoẻ khi tuyển dụng và định kỳ cho NLĐ, đặc biệt là công nhân có thâm niên nghề nghiệp cao là điều rất quan trọng và cần thiết. Xét cho cùng thì khám sức khoẻ để có sự đánh giá khách quan sự phù hợp sức khoẻ NLĐ trong công việc, trong đó có sự đánh giá ảnh hưỏng của ĐKLĐ tới sức khoẻ công nhân và phát hiện những hiện tượng không bình thường của mỗi cá nhân và tập thể lao động trong mối quan hệ giữa sức khoẻ và thực trạng sản xuất của họ. Từ sự phân tích trên ta có thể đi đến nhận xét: những người có thâm niên nghề nghiệp cao thì nguy cơ mắc bệnh càng lớn. 2.4. Môi trường xã hội Trong hoạt động sản xuất, quan hệ xã hội giữa các thành viên có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất. Nếu như môi trường kỹ thuật là điều kiện vật chất chi phối năng suất cũng như hiệu quả của công việc thì quan hệ đồng nghiệp và quan hệ giữa ban giám đốc với công nhân lại là cơ sở tinh thần có tác dụng rất lớn trong công việc. Chính vì vậy, nếu mối quan hệ giữa các đồng nghiệp mà tương trợ nhau sẽ thể hiện được tinh thần dân chủ và nó sẽ là một phần động lực thúc đẩy trong sản xuất. + Mối quan hệ giữa công nhân với ban lãnh đạo. Trong các doanh nghiệp nói chung thì mối quan hệ giữa người lãnh đạo và người lao động là mối quan hệ ít bình đẳng, đó là mối quan hệ giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo. Tuy nhiên, tại Công ty may Chiến Thắng, ban lãnh đạo Công ty luôn quan tâm đến đội ngũ công nhân, viên chức lao động và coi đây là nguồn nội lực quan trọng, quyết định sự phát triển của công ty. Mặc dù ban giám đốc là bộ phận có quyền quyết định cao nhất nhưng thực chất mọi quyết định của Công ty không nằm ngoài mục tiêu đem lại việc làm ổn định, điều kiện lao động tốt nhất cho cán bộ, công nhân viên chức trong công ty, từ đó tăng thu nhập, cải thiện từng bước đời sống người lao động, tạo nên sự phát triển bền vững của công ty. Người lao động trong công ty luôn được quan tâm khuyến khích phát triển, đóng góp ý kiến nhằm xây dựng tổ chức hoạt động của công ty. Những đóng góp, sáng kiến, cải tiến có lợi và có tính khả thi của người lao động luôn được Ban giám đốc Công ty hoan nghênh và nghiên cứu nhằm đưa vào quy chế hoạt động của Công ty. Giữa Giám đốc và người lao động ở Công ty may có mối quan hệ khăng khít. Giám đốc là người trực tiếp lãnh đạo, chăm lo đời sống vật chất cũng như tinh thần, giải quyết chế độ chính sách, đảm bảo việc làm cho công nhân viên chức lao động tại Công ty. Ngược lại, người lao động có nghĩa vụ tuân theo mệnh lệnh của Giám đốc. Những quyết định của giám đốc luôn luôn xuất phát từ lợi ích của người lao động trong Công ty. + Mối quan hệ giữa công nhân với công nhân. Đây là mối quan hệ quan trọng. Những mối quan hệ này càng bền chặt, càng thống nhất càng là điều kiện củng cố khối đoàn kết công nhân. Mối quan hệ giữa công nhân với nhau ở Công ty may thể hiện qua việc tham gia góp ý, giúp đỡ nhau phấn đấu hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty và phấn đấu học tập nâng cao tay nghề cũng như giúp đỡ nhau khi gặp hoạn nạn khó khăn. Cụ thể như: thăm nom khi đau ốm, hỗ trợ nhau vốn để phát triển kinh tế gia đình.Nâng cao tinh thần học tập, kiến thức và đảm bảo VSLĐ, ATLĐ, phòng chống tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp để mỗi người tự bảo đảm sức khoẻ và lợi ích của chỉnh mình. 2.5. Các hoạt động của Công đoàn Công ty với vấn đề cải thiện ĐKLĐ 2.5.1. Hệ thống tổ chức Công đoàn Công ty CP may Chiến Thắng 2.5.1.1. Mô hình tổ chức hoạt động Công đoàn Công ty Tổ chức công đoàn Công ty được thành lập tương ứng với bộ máy quản lý của Công ty. Khi thay đổi bộ máy quản lý Công ty thì tổ chức Công đoàn cũng thay đổi theo hệ thống tương ứng từ Ban chấp hành Công đoàn Công ty đến tổ chức Công đoàn ở các xí nghiệp, phân xưởng, các tổ sản xuất. Mỗi đơn vị, bộ phận sản xuất kinh doanh của Công ty đều có Công đoàn bộ phận phối hợp hoạt động thống nhất dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Công đoàn Công ty. Sơ đồ 3: Mô hình tổ chức hoạt động công đoàn công ty BCH CÔNG ĐOÀN CÔNG TY Uỷ ban kiểm tra công đoàn Ban thi đua Ban Nữ công Ban Tuyên giáo Ban An toàn VSLĐ CĐ XN may 1 CĐ XN may 2a CĐ XN may 2b CĐ XN may U5 CĐ PX cắt da CĐ XN may da CĐ XN Thêu CĐ XN Thảm len CĐ Cơ quan CÁC TỔ CÔNG ĐOÀN 2.5.1.2. Đội ngũ cán bộ Công đoàn Công ty. + Về số lượng cán bộ Công đoàn. Công đoàn Công ty may Chiến Thắng hoạt động theo điều lệ Công đoàn Việt Nam, công tác kiện toàn bộ máy lãnh đạo tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ. Vì vậy, đội ngũ cán bộ Công đoàn từ tổ trưởng lên đều được bầu cử. Hiện tại Công đoàn Công ty may Chiến Thắng có 2410 đoàn viên, 14 Công đoàn bộ phận, 4 Công đoàn phòng ban nghiệp vụ còn lại 10 Công đoàn phân xưởng, sản xuất gồm 3 nghành hàng: May mặc - May da - Thảm len. Cán bộ Công đoàn Công ty là những người có năng lực công tác, nhiệt tình đối với công tác đoàn, được quần chung tín nhiệm. Cán bộ Công đoàn Công ty hầu hết đảm nhiệm các chức vụ chuyên môn, kiêm nghiệm thêm công tác đoàn, trong đó tổ trưởng Công đoàn hầu hết trực tiếp sản xuất kinh doanh. Toàn Công ty có hai cán bộ Công đoàn chuyên trách là chủ tịch và phó chủ tịch. + Về chất lượng đội ngũ cán bộ Công đoàn. Cùng với sự phát triển của Công ty, Công đoàn đã từng bước trưởng thành về mọi mặt, đặc biệt về chất lượng đội ngũ cán bộ Công đoàn ngày càng cao. Công ty luôn quan tâm tạo mọi điều kiện cho cán bộ Công đoàn tham gia học tập, nâng cao trình độ kiến thức, có năng lực công tác. Sau đại hội Công đoàn Công ty, ban chấp hành mới nhanh chóng bầu chủ tịch, uỷ ban kiểm tra và phân công phụ trách từng nhiệm vụ: Chủ tịch Công đoàn phụ trách chung, theo dõi công tác tổ chức thi đua, hai phó chủ tịch Công đoàn phụ trách công tác đời sống, tài chính, chế độ chính sách, đồng phân công các uỷ viên ban chấp hành phụ trách từng mảng như: Nữ công, an toàn,… Nhờ có sự phân công cụ thể và phù hợp với khả năng mà hoạt động của Công đoàn thực sự có chất lượng đem lai hiệu quả công tác. 2.5.2. Trách nhiệm và quyền hạn của tổ chức Công đoàn Công đoàn thay mặt người lao động ở cơ sở kí thoả ước lao động tập thể đối với người sử dụng lao động, trong đó có nội dung về HBLĐ, biện pháp cải thiện ĐKLĐ. Công đoàn con đại diện cho người lao động trước pháp luật, giải quyết các chanh chấp liên quan đến các vấn đề thực hiện các quy định pháp luật, chế độ, chính sách BHLĐ giữa ngưòi lao động và người sử dụng lao động. Công đoàn giám sát và kiểm tra việc chấp hành luật pháp, các chế độ chính sách, tiêu chuẩn, quy phạm về BHLĐ của các Cơ quan Nhà nước, các cấp chính quyền, thực hiện các điều về BHLĐ trong thoả ước lao động tập thể đã được kí kết với người sử dung lao động. Công đoàn tham gia với chính quyền xây dựng quy chế về ATLĐ,VSLĐ, chế độ chính sách về BHLĐ, kế hoạch BHLĐ, biện pháp đảm bảo ĐKLĐ an toàn vệ sinh. Công đoàn tuyên truyền phổ biến về an toàn- vệ sinh lao động, chính sách BHLĐ, quyền và nghĩa vụ về BHLĐ. Công đoàn giáo dục, vận động mọi người lao động và sử dụng người lao động, thực hiện đầy đủ trách nhiệm, nghĩa vụ về BHLĐ. Tham gia huấn luyện BHLĐ cho người lao động và người sử dụng lao động. Ngoài ra, Công đoàn còn ttổ chức các phong trào quần chúng về BHLĐ, phát huy sáng kiến, cải thiện điều kiện làm việc, tổ chức các hội thi về ATLĐ-VSLĐ. Vì vậy, Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động nên tổ chức công đoàn có vai trò rất quan trọng trong việc đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng về BHLĐ. Điều đó đã được khẳng định trong Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, được quy định cụ thể trong Luật công đoàn, Bộ Luật lao động. 2.5.3. Công tác bảo hộ lao động của Công đoàn Công ty Bảo hộ lao động là một nội dung quan trọng của mỗi cấp Công đoàn. Bảơ hộ lao động có liên quan đến ba chức năng của Công đoàn: Công đoàn bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động, hưởng lương xứng đáng với công việc của mình và quyền được làm việc trong điều kiện đảm bảo an toàn VSLĐ. Nếu không được đảm bảo sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ an toàn thân thể tính mạng của công nhân do tác động thường xuyên hoặc bất bình thường của các yếu tố độc hại, nguy hiểm trong sản xuất cỏ thể dẫn tới bệnh nghề nghiệp hoặc tai nạn lao động. Công đoàn công ty cùng với chuyên môn tổ chức các cuộc họp, các đợt tuyên truyền phổ biến, huấn luyện BHLĐ. Tổ chức tuyên truyền, học tập, triển khai thực hiện pháp lệnh BHL, những nghị định của chính phủ cụ thể: Nghị định 06/CP ngày 20/01/1995 của chính phủ quy định về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động, quyền và nghĩa vụ của NLĐ với công tác BHLĐ. Thông tư số 08/LĐ-TBXH ngày 11/04/1995 của Bộ LĐTBXH hướng dẫn công tác huấn luyện về ATLĐ,VSLĐ. Công ty đã chấp hành thực hiện tốt việc xây dựng kế hoạch cho công tác BHLĐ và cải thiện ĐKLĐ cho công nhân. Giám đốc công ty đề ra nội dung, quy chế cụ thể rõ ràng, trách nhiệm của người sử dụng lao động và và người lao động. Công tác BHLĐ, an toàn vệ sinh lao động, phòng cháy chữa cháy là nhiệm vụ được đưa và nghị quyết của Đảng uỷ công ty. Việc kiểm tra hàng quý, công tác BHLĐ đã thực sự được quan tâm phối hợp của Chính quyền, Công đoàn, Đoàn thanh niên phổ biến tới từng xí nghiệp, phòng ban trong Công ty. Để nâng cao chất lượng việc thực hiện công tác BHLĐ, ATLĐ,VSLĐ, phòng cháy chữa cháy, Giám đốc Công ty cùng với Công đoàn lập ban BHLĐ nhằm duy trì thường xuyên công tác BHLĐ vệ sinh máy móc, cải tạo nhà xưởng, kho vật liệu đảm bảo môi trường làm việc cho công nhân trong Công ty. Như vậy, làm tốt công tác BHLĐ sẽ góp phần vào việc củng cố lực lượng sản xuất và phát triển quan hệ sản xuất. Chăm lo đến sức lao động. Một trong những hoạt động thiết thực của Công đoàn Công ty là tổ chức các phong trào thi đua cho công nhân viên chức lao động về an toàn vệ sinh lao động, phát huy sáng kiến cải thiện ĐKLĐ; tổ chức quản lí mạng lưới an toàn, vệ sinh viên và khuyến khích những đoàn viên hoạt động tích cực cho công tác an toàn, vệ sinh lao động. Ngoài ra, Công đoàn công ty còn tổ chức một số phong trào thi đua với nội dung chống các hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội: chống tham nhũng, cờ bạc, rượu chè,… nhằm xây dựng đội ngũ công nhân vững manh cả về số lượng lẫn chất lượng. Thông qua các phong trào này trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ của người lao động được nâng lên, các chế độ chính sách của Nhà nước được Công ty và công nhân thực hiện tốt. 2.5.4. Các hoạt động của Công đoàn Công ty 2.5.4.1. Công đoàn với phong trào nữ công nhân viên chức lao động Công đoàn cùng với ban nữ công của Công ty đã vận động chị em làm tròn trách nhiệm trong sản xuát và công tác, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Làm tròn nghĩa vui của người phụ nữ trong gia đình, thực hiện tốt: người phụ nữ đảm việc nước, giỏi việc nhà, nuôi con khoẻ, dạy con ngoan và học giỏi. Công đoàn cùng với ban nữ công của công ty đã làm tốt công tác tuyên truyền, vận động kế hoạch hoá gia đình sinh con có kế hoạch. Chị em phụ nữ được bố trí công việc phù hợp với sức khoẻ, Công đoàn cũng tổ chức cho ccông nhân học tập về ATLĐ, VSLĐ, được chăm sóc và bảo vệ quyền lợi khi sinh con.Công tác thăm hỏi đoàn viên cũng được làm thường xuyên có nề nếp từ tổ chức Công đoàn đến ban chấp hành Công đoàn cơ sở. 2.5.4.2 Công tác tuyên truyền giáo dục về điều kiện lao động Công đoàn Công ty đã tổ chức tuyên truyền chủ trương chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước cho công nhân. Tập trung cho công nhân học Luật lao động, Luật Công đoàn, tập huấn, huấn luyện về công tác Bảo hộ lao động, an toàn lao động. Công đoàn công ty đã tham gia cùng Giám đốc và Ban lãnh đạo đơn vị tìm mọi biện pháp nâng cao tay nghề cho công nhân, tổ chức thi nâng bậc thợ giỏi như Đại hội VII công đoàn Việt Nam đã nêu: “Trong cơ chế thị trường, trình độ học vấn và nghề nghiệp là cơ sở để nâng cao sức khoẻ người lao động. Công đoàn phải tham gia với Nhà Nước, với Công ty có kế hoạch, bồi dưỡng nâng cao tay nghề, khuyến khích tạo điều kiện để người lao động tự bồi dưỡng nâng cao trình độ”(9). Cùng với việc tuyên truyền giáo dục Công đoàn còn tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của người lao động, qua tổ trưởng Công đoàn, hay quần chúng, để nắm bắt tâm tư nguyện vọng, hoàn cảnh của từng người mà có đề xuất với ban G._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4956.doc
Tài liệu liên quan