Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế hoạch và Phát triển
Đề án môn học
KINH Tế PHáT TRIểN
Đề tài:
Vai trò của chính sách tiền tệ
trong điều tiết hoạt động kinh tế vĩ mô.
Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Kim Dung
Sinh viên thực hiện : Đặng Minh Ngọc
Lớp : Kinh tế phát triển B
Khoá : 43
Hà Nội, tháng 11 năm 2004.
Mục lục
Trang
Lời mở đầu
CHƯƠNG I: Tầm quan trọng của chính sách tiền tệ trong điều tiết hoạt động kinh tế vĩ mô
I - Cơ sở khách quan cho sự can thiệp của Ch
40 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1446 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vai trò của chính sách tiền tệ trong điều tiết hoạt động kinh tế vĩ mô (kinh tế phát triển), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ính Phủ vào nền kinh tế
Nền kinh tế thị trường và những khuyết tật của nó
Vai trò của Chính Phủ trong sự phát triển kinh tế
Các công cụ của Chính Phủ để can thiệp vào nền kinh tế thị trường
II - Vai trò của chính sách tiền tệ trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Khái niệm và đặc trưng của chính sách tiền tệ
Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ
Các công cụ của chính sách tiền tệ
CHƯƠNG II : Đánh giá vai trò của chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn 1986 đến nay
I - Quá trình điều hành chính sách tiền tệ qua các giai đoạn ở Việt Nam nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô:
Giai đoạn 1986 – 1988
Giai đoạn 1989 – 1991
Giai đoạn 1992 – 1995
Giai đoạn từ 1996 đến nay
II - Thực trạng sử dụng công cụ lãi suất tín dụng từ khi có pháp lệnh ngân hàng đến nay:
2.1 Cơ chế lãi suất tín dụng thời kỳ 6/1992 đến 1995
2.2 Cơ chế lãi suất tín dụng thời kỳ 1996 đến 7/2000
2.3 Cơ chế lãi suất tín dụng từ 8/2000 đến nay
CHƯƠNG III : Phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò của chính sách tiền tệ trong điều tiết kinh tế vĩ mô ở Việt Nam thời kỳ 2004 - 2010
I - Một số hạn chế còn tồn tại của chính sách tiền tệ trong thời gian vừa qua và nguyên nhân chủ yếu
Một số hạn chế của các công cụ
Nguyên nhân của những hạn chế trên
II - Phương hướng hoàn thiện công cụ lãi suất tín dụng
Phát huy hiệu quả của cơ chế lãi suất thoả thuận
Tiếp tục tự do hoá lãi suất
Tiến tới thực hiện cơ chế điều hành hệ thống lãi suất chỉ đạo của Ngân hàng nhà nước
III - Giải pháp nhằm nâng cao vai trò của chính sách tiền tệ
Kết luận
2
3
3
5
7
8
8
10
13
15
20
20
20
20
21
22
22
24
28
31
31
32
33
33
34
35
36
38
Lời mở đầu
Nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế năng động, luôn luôn trong trạng thái phát triển với tốc độ nhanh và thực tế, nó “đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”. Kinh tế thị trường và hoạt động của nó tuân thủ những quy luật kinh tế khách quan. Tuy nhiên, khi vận động theo cơ chế thị trường, các ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp… không thể thực hiện tốt chức phận của mình trước xã hội với sự điều khiển của “bàn tay vô hình”, cũng như không thể tránh khỏi những rủi ro trong quá trình kinh doanh đi đến phá sản, thậm chí dẫn đến suy thoái toàn bộ nền kinh tế nếu như không có một chính sách tiền tệ quốc gia cùng với hệ thống công cụ của nó. Đây là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng nhất của mọi quốc gia, đặc biệt chính sách tiền tệ còn được coi là “linh hồn” đối với toàn bộ hoạt động của Ngân hàng Trung ương. Một chính sách tiền tệ với mục tiêu ổn định tiền tệ sẽ đảm bảo khả năng thanh toán, phát huy khả năng kinh doanh, thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội, đã đóng một vai trò thực sự quyết định trong nền kinh tế hiện đại. Với Việt Nam, trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, việc nghiên cứu để lập và thực thi chính sách tiền tệ là một đòi hỏi bức xúc cả về lý luận và thực tiễn.
Nếu như trong nền kinh tế chỉ huy tập trung, Ngân hàng Quốc gia điều hành chính sách tiền tệ bằng các công cụ trực tiếp, các chỉ tiêu pháp lệnh… thì trong nền kinh tế thị trường, với hệ thống ngân hàng hai cấp và các trung gian tài chính đa dạng, Ngân hàng Quốc gia phải điều hành chính sách tiền tệ bằng các công cụ kinh tế thích hợp. Đó là công cụ lãi suất tín dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn, hạn mức tín dụng, tỷ giá hối đoái… Việc sử dụng công cụ nào, mức độ nào là tuỳ thuộc vào quan điểm của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể. Do giới hạn về thời gian nên trong phạm vi của đề án không thể phân tích hết mà chỉ đề cập khái quát các công cụ của chính sách tiền tệ, còn chủ yếu tập trung đi sâu vào công cụ lãi suất tín dụng.
Với phạm vi nghiên cứu như vậy, cơ cấu và nội dung đề tài được thể hiện bao gồm 3 chương:
Chương I : Tầm quan trọng của chính sách tiền tệ trong điều tiết hoạt động kinh tế vĩ mô.
Chương II : Đánh giá vai trò của chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn 1986 đến nay.
Chương III : Phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò của chính sách tiền tệ trong điều tiết kinh tế vĩ mô ở Việt Nam thời kỳ 2004 – 2010.
Do đề án được thực hiện theo nhận thức chủ quan của tôi nên không tránh khỏi có nhiều hạn chế và thiếu xót, mong nhận được sự góp ý của các thày cô giáo và các bạn để đề án thêm hoàn thiện. Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo - TS. Nguyễn Thị Kim Dung, người đã giúp đỡ và tận tâm hướng dẫn tôi hoàn thành đề án này.
Chương i
Tầm quan trọng của chính sách tiền tệ
trong điều tiết hoạt động kinh tế vĩ mô
I - Cơ sở khách quan cho sự can thiệp của Chính Phủ vào nền kinh tế
1.1. Nền kinh tế thị trường và những khuyết tật của nó
Khái niệm nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển cao, được đánh dấu bởi các nét đặc trưng sau đây:
Quá trình lưu thông vật chất trong nền kinh tế – xã hội được thực hiện chủ yếu bằng phương thức mua bán.
Người tham gia mua bán có quyền tự do nhất định trên ba mặt: nội dung mua bán, đối tác mua bán và giá cả trao đổi.
Đánh giá ưu điểm của kinh tế thị trường là một quá trình, ban đầu phái tân cổ điển mà điển hình là W.A.Smith đã đề cao tính ưu việt của kinh tế thị trường thuần tuý. Nhưng thực tiễn cạnh tranh của nền kinh tế thị trường thuần tuý đã chứng tỏ những ưu điểm đó là ảo tưởng, hoặc nếu có cũng chỉ là những ưu điểm không đáng kể.
Các thất bại thị trường - cơ sở để Chính Phủ can thiệp vào nền kinh tế
Độc quyền thị trường
Khi thị trường chỉ do một hay một số ít các tổ chức thống trị thì nguy cơ tồn tại một thế lực độc quyền, chi phối thị trường là rất lớn. Các tổ chức có quyền lực độc quyền có thể tạo thêm lợi nhuận siêu ngạch cho mình bằng cách tăng giá, bán với giá cao hơn và cung cấp mức sản lượng thấp hơn thị trường cạnh tranh. Người mua phải mua với giá cao hơn rất nhiều nhưng lại phải chấp nhận chất lượng hàng hoá thấp hơn, phải cạnh tranh nhau để có được hàng hoá. Và rất nhiều người do không đủ khả năng chi trả nên không có điều kiện tiêu dùng hay tiếp cận hàng hoá đó.
Ngoại ứng
Đây là trường hợp xảy ra khi tác động của một giao dịch trên thị trường có ảnh hưởng đến một đối tượng thứ ba ngoài người bán và người mua, nhưng những tác động này không được tính đến. Ví dụ, khói xả từ các phương tiện giao thông hoặc nhà máy gây ô nhiễm môi trường, nhưng những tổn hại đó không được tính thành chi phí cho các chủ phương tiện và nhà máy, do vậy họ không có ý thức giảm bớt hoạt động của mình vì lợi ích chung.
Hàng hoá công cộng
Trong nhiều trường hợp thị trường không thể cung cấp những hàng hoá hoặc dịch vụ hữu ích cho xã hội, đặc điểm của hàng hoá này là không dễ gì ngăn cản những cá nhân không đóng góp tài chính để cung cấp chúng, tiêu dùng chúng. Ví dụ, ngay cả khi ai đó từ chối góp tiền cho ngân sách quốc phòng thì anh ta vẫn được bảo vệ chừng nào hệ thống quốc phòng của quốc gia đó còn hoạt động. Điều đó có nghĩa rằng, các hãng tư nhân nếu sản xuất và cung cấp hàng hoá công cộng thì sẽ gặp khó khăn rất lớn trong việc tạo doanh thu để bù đắp chi phí. Đây được coi là luận cứ mạnh nhất chứng minh cho sự cần thiết phải có Chính Phủ đứng ra can thiệp vào nền kinh tế.
Thông tin không hoàn hảo
Người tiêu dùng thường yêu cầu Chính Phủ phải can thiệp vào thị trường vì họ không có đủ thông tin về việc mua sắm hàng hoá hoặc tham gia những công việc nhất định. Đôi khi một bên nào đó tham gia thị trường có thông tin đầy đủ về các đặc tính sản phẩm hơn bên kia. Chẳng hạn trong thị trường y tế, người bán (bác sĩ) có nhiều thông tin hơn người mua (bệnh nhân ); trong thị trường bảo hiểm người mua biết rõ về xác suất xảy ra rủi ro hơn người bán (công ty bảo hiểm). Khó khăn trong việc thu thập đủ thông tin đã có ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của nhiều thị trường, khiến các nguồn lực được phân bổ quá nhiều hoặc quá ít cho thị trường đó so với mức hiệu quả xã hội. Ngoài ra nó còn tạo động cơ cho bên có thông tin đầy đủ hơn lợi dụng lợi thế này để thu lợi cho mình trên sự thiệt thòi của bên kia. Bất ổn định kinh tế
Sự vận hành mang tính chất chu kỳ của nền kinh tế đã khiến lạm phát và thất nghiệp trở thành những căn bệnh kinh niên của nền kinh tế thị trường và gây nhiều tổn thất cho xã hội. Việc Chính Phủ chủ động sử dụng các chính sách tài khoá và tiền tệ để cố gắng ổn định hoá nền kinh tế là những nỗ lực để đạt đến trạng thái toàn dụng nhân công. Mặc dù các chính sách ổn định hoá của Chính Phủ nhiều khi không tiêu hao nhiều nguồn lực của xã hội, nhưng lại trợ giúp đắc lực để thị trường hoạt động hiệu quả hơn.
Những nguyên nhân trên đây về các thất bại của thị trường cho thấy, bản
thân thị trường có thể đưa đến những kết cục phi hiệu quả nếu không có sự can thiệp của Chính Phủ. Nhưng ngay cả khi nền kinh tế đã vận hành có hiệu quả thì vẫn còn hai lý do nữa để Chính Phủ có thể can thiệp, đó là phân phối lại thu nhập và hàng hoá khuyến dụng.
Vai trò của Chính phủ trong sự phát triển kinh tế
Vai trò của Chính phủ
Trong mô hình kinh tế, Chính phủ (G) cũng là một tác nhân kinh tế như các tác nhân người tiêu dùng (C), người sản xuất (I) và người nước ngoài (X – M) trong việc tạo ra giá trị sản lượng: Y = C + I + G + (X – M)
Tuy nhiên trong nền kinh tế hỗn hợp Chính phủ có vai trò quan trọng. Về phương diện là tác nhân kinh tế, Chính phủ vừa là người tiêu dùng (C) cũng vừa là người sản xuất (I) và do đó cũng có tham gia vào hành vi xuất nhập khẩu (X – M). Do vậy Chính phủ thực tế có tham gia vào tổng cung và tổng cầu, điều hoà tiền tệ giá cả. Những mối quan hệ này cho thấy vai trò rất lớn của Chính phủ trong hoạt động của thị trường. Về phương diện người quản lý nền kinh tế vĩ mô, chính phủ thông qua thể chế, các chính sách và công cụ để tạo ra điều kiện cho sự ổn định và sự phát triển.
Mặt khác, việc mở rộng kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước không chỉ vì thị trường có những khuyết tật, mà còn vì xã hội đặt ra mục tiêu mà thị trường dù có hoạt động tốt cũng không thể đáp ứng được. Theo Samuelson, Chính phủ cần tạo ra môi trường ổn định để các doanh nghiệp và hộ gia đình có thể tiến hành sản xuất và trao đổi sản phẩm thuận lợi, đưa ra định hướng cơ bản về phát triển kinh tế cho từng thời kỳ và sử dụng các công cụ như thuế quan, tín dụng, trợ giá để hướng dẫn các ngành, doanh nghiệp hoạt động. Chính phủ duy trì công ăn, việc làm ở mức cao bằng cách đưa ra các chính sách thuế, chi tiêu và tiền tệ hợp lý, đồng thời khuyến khích một tỷ lệ tăng trưởng hợp lý, chống lạm phát và giảm ô nhiễm môi trường. Chính phủ thực hiện phân phối lại thu nhập, các hoạt động phúc lợi công cộng như cung cấp phúc lợi cho người già, người tàn tật và người thất nghiệp. Để thể hiện vai trò đó chính phủ thực hiện các chức năng của mình.
Chức năng của Chính phủ
Bảo đảm các lợi ích công cộng của xã hội, thực hiện điều chỉnh quyền và tài sản của công dân bảo đảm dân chủ và công bằng xã hội.
Đó là bảo đảm trật tự, an ninh quốc phòng, bảo đảm phát triển các sự nghiệp phúc lợi công cộng của xã hội như giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá, bảo hiểm và bảo vệ môi trường. Quy định các quyền của công dân, bảo đảm cho cá nhân, tổ chức một sự tự do hoạt động kinh tế, chống lại sự độc quyền, bảo đảm sự ổn định về sở hữu các tài sản… để có thể phát huy được mọi khả năng về nguồn vốn, công nghệ và nhân lực cho sự phát triển.
Phân bổ nguồn lực, tăng cường và hoàn thiện các quan hệ thị trường tạo thuận lợi cho sự tăng trưởng nhanh chóng.
Mục tiêu kinh tế trọng tâm của Chính phủ là hỗ trợ việc phân bổ nguồn lực để nâng cao hiệu quả kinh tế, đạt mức như xã hội mong muốn. Chính phủ đứng ra cung cấp các loại hàng hoá công cộng, điều tiết các luồng đầu tư vào các ngành, các vùng theo quy hoạch chung, khắc phục thất bại của thị trường liên quan đến tính phi hiệu quả như độc quyền, ngoại ứng hay thông tin không hoàn hảo. Bên cạnh đó phải bổ sung những mặt yếu mà thị trường không thể tạo ra được, như các ngành sản xuất có tính chất xương sống của nền kinh tế, phân bố đúng đắn nguồn nhân lực giữa thành thị và nông thôn, phát triển các cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội.
Mặt khác thị trường _ nơi quan hệ cung cầu được thực hiện thông qua giá cả _ đã tạo động lực thúc đẩy sản xuất, phân phối và sử dụng có hiệu quả nguồn lực. Do vậy phải quy định chính sách và luật để mở rộng hơn nữa quy mô thị trường, tạo ra sự giao lưu thương mại nhằm kích thích sự đổi mới công nghệ và tăng thêm đầu tư, dẫn tới sự tăng trưởng nhanh.
Phân phối lại thu nhập.
Ngay cả khi “bàn tay vô hình” của thị trường có hiệu quả thì nó vẫn có thể tạo ra những sự phân phối thu nhập rất bất bình đẳng. Khi quốc gia còn ở mức phát triển thấp, những nguồn lực sẵn có dành cho việc phân phối lại còn rất hạn chế. Nhưng khi đã phát triển cao hơn thì cùng với sự thịnh vượng chung, Chính phủ cũng có khả năng dành nhiều nguồn lực hơn để cung cấp các dịch vụ cho người nghèo. Đây được coi là chức năng kinh tế lớn thứ hai của Chính phủ. Phân phối lại thu nhập thường được thực hiện thông qua chính sách thuế khoá và chi tiêu.
ổn định kinh tế vĩ mô, tổ chức và phối hợp hoạt động trên phạm vi quốc gia, lựa chọn và vạch ra kế hoạch, thúc đẩy có hiệu quả sự phát triển.
Ngày nay khi khoa học kinh tế đã phát triển mạnh, loài người đã có nhận thức đầy đủ hơn về nguyên nhân gây ra lạm phát, thất nghiệp và các bất ổn định kinh tế khác, cũng như khả năng can thiệp của Chính phủ để khắc phục các hiện tượng đó. Vì thế Chính phủ hiện nay có trách nhiệm không để tái diễn các cuộc suy thoái hoặc khủng hoảng trầm trọng như những năm 30 nữa. Công cụ để Chính phủ thực hiện chức năng này là các chính sách tài khoá, tiền tệ và sự giám sát chặt chẽ thị trường tài chính. Ngoài ra Chính phủ còn tập trung vào hoạch định các chính sách thúc đẩy tăng trưởng dài hạn.
Căn cứ vào những mục tiêu và nhiệm vụ đề ra, Chính phủ đưa ra các chế độ, tổ chức bộ máy làm việc ở các cấp, phối hợp và điều hoà hoạt động của chính quyền phù hợp với bộ máy kinh tế chung.
Đại diện cho quốc gia trên trường quốc tế.
Trong những năm gần đây, thương mại và tài chính quốc tế đã trở nên hết sức quan trọng. Do đó Chính phủ đóng vai trò thiết yếu là đại diện cho quyền lợi quốc gia trên các diễn đàn quốc tế và đàm phán các hiệp định cùng có lợi với quốc gia khác trên thế giới. Các lĩnh vực thương mại xuất hiện trên các diễn đàn kinh tế quốc tế ngày nay là: Tự do hoá thương mại giảm dần các rào cản nhằm khuyến khích chuyên môn hoá và phân công lao động quốc tế; Các chương trình hỗ trợ quốc tế giúp cải thiện đời sống cho người nghèo ở các nước khác; Phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô giữa các quốc gia để chống lại lạm phát, thất nghiệp và khủng hoảng…
Các công cụ của Chính phủ để can thiệp vào nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế vĩ mô có bốn lĩnh vực đóng vai trò trọng tâm và cũng là bốn mục tiêu tổng quát: Đó là sản lượng cao, tạo nhiều công ăn việc làm, ổn định mức giá thị trường tự do và cân bằng cán cân ngoại thương. Để đạt được các mục tiêu đó, thực hiện chức năng của mình Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ chính sách khác nhau. Mỗi chính sách lại có những công cụ riêng biệt. Dưới đây là các công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu
1.3.1. Chính sách tài khoá
Chính sách tài khoá nhằm điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của Chính phủ để hướng nền kinh tế vào một mức sản lượng và việc làm mong muốn. Chính sách tài khoá có hai công cụ chủ yếu là chi tiêu của Chính phủ và thuế.
Chi tiêu của Chính phủ có ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô của chi tiêu, do đó có thể trực tiếp tác động đến tổng cầu và sản lượng. Thuế làm giảm các khoản thu nhập do đó làm giảm chi tiêu của khu vực tư nhân, từ đó tác động đến tổng cầu và sản lượng. Thuế cũng có thể tác động đến đầu tư và sản lượng về mặt dài hạn.
Trong thời gian ngắn (1 đến 2 năm) chính sách tài khoá có tác động đến sản lượng thực tế và lạm phát phù hợp với các mục tiêu ổn định kinh tế. Về mặt dài hạn chính sách tài khoá có thể có tác dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế, giúp cho sự tăng trưởng và phát triển lâu dài.
Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ nhằm chủ yếu tác động đến đầu tư tư nhân, hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và việc làm mong muốn. Vì chính sách tiền tệ chỉ có khả năng tác động vào thị trường tiền tệ, qua đó tác động đến tổng cầu và sản lượng nên việc kiểm soát tiền tệ của Ngân hàng Trung ương tập trung vào hai công cụ chủ yếu là lượng cung về tiền và lãi suất. Khi Ngân hàng Trung ương thay đổi lượng cung về tiền, lãi suất sẽ tăng hoặc giảm, tác động đến đầu tư tư nhân, do vậy ảnh hưởng đến tổng cầu và sản lượng. Việc gia tăng cung tiền thực tế sẽ làm tăng sản lượng cân bằng và làm giảm lãi suất cân bằng, và ngược lại.
Chính sách tiền tệ có tác động quan trọng đến GNP thực tế về mặt ngắn hạn, song do tác động đến đầu tư nên nó cũng ảnh hưởng lớn đến GNP tiềm năng về mặt dài hạn.
Chính sách tiền tệ có thể được tiến hành độc lập với chính sách tài khoá. Khi cần mở rộng sản xuất thì thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, khi chống lạm phát cao hoặc kiềm chế nó thì thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ.
Chính sách thu nhập
Chính sách thu nhập gồm hàng loạt các biện pháp (công cụ) mà Chính phủ sử dụng nhằm tác động trực tiếp đến tiền công, giá cả để kiềm chế lạm phát.
Chính sách này sử dụng nhiều loại công cụ, từ các công cụ có tính chất cứng rắn như đông giá, đông lương, những chỉ dẫn chung để ấn định tiền công và giá cả, những quy tắc pháp lý ràng buộc sự thay đổi giá cả và tiền lương… đến những công cụ mềm dẻo hơn như việc hướng dẫn, khuyến khích bằng thuế thu nhập…
Chính sách kinh tế đối ngoại
Chính sách kinh tế đối ngoại trong các nước thị trường mở là nhằm ổn định tỷ giá hối đoái và giữ cho thâm hụt cán cân thanh toán ở mức có thể chấp nhận được. Chính sách này bao gồm các biện pháp giữ cho thị trường hối đoái cân bằng, các quy định về hàng rào thuế quan bảo hộ mậu dịch và cả những biện pháp tài chính tiền tệ khác nhằm tác động vào hoạt động xuất khẩu.
II - Vai trò của chính sách tiền tệ trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Khái niệm và đặc trưng của chính sách tiền tệ
Khái niệm
Chính sách tiền tệ là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính sách kinh tế của Nhà nước để thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế, nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh và nâng cao đời sống nhân dân.
Tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế, thể chế chính trị và giác độ nghiên cứu, người ta phân biệt chính sách tiền tệ theo nghĩa rộng và nghĩa thông thường; chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương và chính sách tiền tệ quốc gia.
Chính sách tiền tệ theo nghĩa rộng là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền trong nền kinh tế, nhằm phân bổ một cách hiệu quả nhất các nguồn tài nguyên để thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, cân đối kinh tế, trên cơ sở đó ổn định giá trị đồng tiền quốc gia.
Chính sách tiền tệ theo nghĩa hẹp là chính sách đảm bảo sao cho khối lượng
tiền cung ứng tăng thêm trong một năm tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế và chỉ số lạm phát (nếu có) nhằm ổn định giá trị của đồng tiền, góp phần thực hiện các
mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Chính sách tiền tệ quốc gia là tổng thể các biện pháp của Nhà nước pháp quyền nhằm cung ứng đầy đủ các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế phát triển, trên cơ sở đó ổn định giá trị đồng tiền quốc gia.
Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương (NHTW) là tổng thể tất cả các biện pháp, công cụ mà NHTW sử dụng nhằm điều tiết khối lượng tiền tệ, tín dụng, ổn định tiền tệ, góp phần đạt được các mục tiêu của các chính sách kinh tế.
Dù quan niệm theo nghĩa nào, chính sách tiền tệ đều nhằm mục tiêu ổn định giá trị tiền tệ, góp phần thực hiện các mục tiêu của các chính sách kinh tế. ở những nước mà NHTW trực thuộc Chính phủ thì sự phân biệt chính sách tiền tệ của NHTW và chính sách tiền tệ quốc gia không có ý nghĩa gì. Trong trường hợp này chính sách tiền tệ mà NHTW thực hiện là chính sách tiền tệ quốc gia.
Trong một khoảng thời gian, chính sách tiền tệ (CSTT) có thể được hoạch định theo hai hướng:
Chính sách tiền tệ mở rộng: Theo hướng này, CSTT nhằm tăng lượng tiền cung ứng à lãi suất giảm à khuyến khích đầu tư à mở rộng sản xuất, kinh doanh và tạo việc làm cho người lao động. Trong trường hợp này chính sách tiền tệ nhằm chống suy thoái kinh tế và thất nghiệp.
Chính sách tiền tệ thắt chặt: Theo hướng này CSTT nhằm giảm lượng tiền cung ứng à lãi suất tăng à hạn chế đầu tư, kìm hãm sự tăng trưởng và phát triển quá đà của nền kinh tế. Trường hợp này chính sách tiền tệ nhằm chống lạm phát và khắc phục tình trạng quá “nóng” của nền kinh tế.
Đặc trưng của chính sách tiền tệ
Qua khái niệm về chính sách tiền tệ, có thể rút ra một số đặc trưng cơ bản sau:
Chính sách tiền tệ là một bộ phận hữu cơ cấu thành chính sách tài chính quốc gia.
Trong tổng thể các chính sách kinh tế – tài chính của một quốc gia, mỗi chính sách đều có một vị trí và vai trò riêng. Trong đó, chính sách tiền tệ luôn được coi là có vị trí trung tâm, gắn kết các chính sách lại với nhau. Người ta cho rằng, mức đọ tiền tệ hoá cao hay thấp của một nền kinh tế phản ánh trình độ phát triển kinh tế của nước ấy. Do đó tiền tệ đã thâm nhập và trở thành một yếu tố hết sức quan trọng trong mọi nền kinh tế. Chính vì vậy, chính sách tiền tệ phải là một bộ phận trung tâm của chính sách kinh tế – tài chính quốc gia.
Chính sách tiền tệ là công cụ thuộc tầm vĩ mô.
Để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô đã được hoạch định, Chính phủ cần sử dụng một hệ thống công cụ. Nếu xét riêng về chính sách kinh tế, có bốn chính sách thông dụng được sử dụng: chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, chính sách kinh tế đối ngoại và chính sách thu nhập.
Chính sách tiền tệ được sử dụng để làm thay đổi lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế, từ đó tác động đến lãi suất, tác động đến đầu tư, ảnh hưởng đến sản xuất và lưu thông hàng hoá, và do vậy chính sách tiền tệ là một chính sách thuộc tầm vĩ mô.
NHTW là người đề ra và vận hành chính sách tiền tệ.
Do chính sách tiền tệ luôn hướng vào việc thay đổi lượng tiền cung ứng nên chủ thể nào thực hiện chức năng phát hành tiền và điều hoà lưu thông tiền tệ thì chính chủ thể đó phải trực tiếp vạch ra và thực thi chính sách tiền tệ. Chủ thể đó không ai khác ngoài NHTW.
Mục tiêu tổng quát của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng tiền và góp phần thực hiện một số mục tiêu kinh tế vĩ mô khác.
Bất kỳ một nền kinh tế nào, vai trò ổn định tiền tệ và nâng cao sức mua đồng tiền trong nước cũng luôn được coi là mục tiêu có tính chất dài hạn. Trên cơ sở thực thi chính sách tiền tệ nhằm tác động đến lượng tiền cung ứng, từ đó tác động đến hàng loạt các yếu tố khác như lãi suất, lạm phát, đầu tư, việc làm… ổn định giá trị đồng tiền là mục tiêu trọng tâm của chính sách tiền tệ. Có ổn định được tiền tệ thì mới khuyến khích tiết kiệm, có tiết kiệm mới có đầu tư, có đầu tư mới có tăng trưởng kinh tế, giảm thất nghiệp…
Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Mỗi quốc gia đều có chính sách tiền tệ riêng phù hợp với nền kinh tế đặc thù của mình, nhưng các chính sách tiền tệ đều hướng vào những mục tiêu chủ yếu là giống nhau. Tuỳ từng giai đoạn khác nhau và điều kiện thực tế của nền kinh tế để lựa chọn mục tiêu trọng tâm. Các mục tiêu tổng quát của chính sách tiền tệ bao gồm:
ổn định giá trị đối nội của đồng tiền trên cơ sở kiểm soát lạm phát
Các nhà kinh tế đã cho rằng, lạm phát là căn bệnh kinh niên của nền sản suất hàng hoá, đặc biệt là nền sản suất hàng hoá phát triển ở mức độ cao (nền kinh tế thị trường). Tuỳ theo quan niệm và góc độ nghiên cứu của mình, các nhà kinh tế học đã đưa ra những khái niệm riêng về lạm phát. Tuy nhiên nhìn chung có thể hiểu: Lạm phát là sự gia tăng giá cả trung bình của hàng hoá theo thời gian.
Lạm phát tác động đến nền kinh tế – xã hội theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực.
Khi lạm phát gia tăng, nó tác động đến mọi mặt của nền kinh tế – xã hội, làm sai lệch các chỉ tiêu kinh tế, làm phân phối lại thu nhập, kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hoá, bất động sản, vàng bạc… gây tình trạng khan hiếm giả tạo, giảm sức mua thực tế của dân chúng về hàng hoá tiêu dùng. Do đó đời sống của người lao động sẽ khó khăn hơn rất nhiều , gây khó khăn hơn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng vì ngân hàng sẽ không thu hút được các nguồn tiền nhàn rỗi cho hoạt động của mình.
Tuy nhiên bên cạnh những tác hại , trong chừng mực nào đó với một tỷ lệ lạm phát vừa phải, lạm phát lại là yếu tố để kích thích kinh tế tăng trưởng. Khi đó lạm phát trở thành công cụ điều tiết. Các nhà kinh tế học còn gọi đó là liều thuốc bổ cho tăng trưởng kinh tế. Bởi lẽ lạm phát chính là việc đưa một khối lượng tiền ra lưu thông. Trong nền kinh tế thị trường, công việc đưa tiền ra lưu thông thường thông qua con đường tín dụng. Khi bơm vốn vào nền kinh tế bằng con đường tín dụng thì sẽ mở mang các doanh nghiệp, tạo điều kiện đầu tư chiều rộng và chiều sâu. Do đó sẽ thu hút nhiều lao động, thất nghiệp giảm, kinh tế tăng trưởng cao hơn trước. Do vậy cần chấp nhận sự tồn tại của lạm phát trong nền kinh tế để có những quyết sách kiềm chế chứ không phải triệt tiêu nó. Vấn đề quan trọng là cần phải kiểm soát được lạm phát, ổn định tiền tệ, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, đảm bảo đời sống cho người lao động..Tuy nhiên thực chất của việc kiểm soát lạm phát là chấp nhận sự biến động với biên độ cho phép ( lạm phát dưới một con số), trách nhiệm này thuộc về chính sách tiền tệ của NHTW.
ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền trên cơ sở cân bằng cán cân thanh toán quốc tế và ổn định tỷ giá hối đoái.
Trong nền kinh tế mở, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế – tài chính thế giới diễn ra rất nhanh và sâu sắc. Trước tình hình đó, các nước trên thế giới đều hướng về các thị trường tài chính quốc tế để theo dõi sự biến động cuả các đồng tiền chủ chốt nhằm tránh các tác dụng tiêu cực thông qua hệ thống tỷ giá hối đoái. Do tính chất tổng hợp, tỷ giá hối đoái ảnh hưởng sâu sắc đến các hoạt động kinh tế của một nước, đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu.
Một tỷ giá hối đoái quá thấp (đồng bản tệ tăng giá so với đồng ngoại tệ) có tác dụng khuyến khích nhập khẩu, gây bất lợi cho xuất khẩu vì lúc này hàng xuất khẩu đắt lên, khó bán cho nước ngoài. Do đó sẽ gất bất lợi cho những cuộc dịch chuyển ngoại tệ từ nước ngoài vào trong nước. Khi đó khối lượng dự trữ ngoại hối quốc gia dễ bị xói mòn.
Ngược lại một tỷ giá hối đoái cao (đồng bản tệ giảm giá so với ngoại tệ) có tác động bất lợi cho nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu vì hàng xuất khẩu rẻ đi sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh, dễ tìm được thị trường hơn. Lưu lượng ngoại tệ có khuynh hướng chuyển vào trong nứơc khá hơn, khối lượng dự trữ ngoại tệ có cơ hội gia tăng. Nhưng khi nhập khẩu, hàng nhập khẩu lại đắt lên, gây khó khăn cho các doanh nghiệp mà sự sản xuất phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập ngoại, và các doanh nghiệp có ý định nhập khẩu máy móc thiết bị…
Như vậy một tỷ giá hối đoái cao hay thấp đều xuất hiện những tác động kép tích cực và tiêu cực. Chính vì thế nhiệm vụ của NHTW là sử dụng những công cụ, chính sách của mình để can thiệp, giữ cho tỷ giá hối đoái không biến động lớn, tránh gây sự bất ổn định trong nền kinh tế, vừa nhằm khuyến khích xuất khẩu vừa kiểm soát nhập khẩu.
Kích thích tăng trưởng kinh tế
Với bất kỳ một chính sách tiền tệ nào, mục đích cao nhất là làm thế nào để phát triển kinh tế, gia tăng sản lượng của nền kinh tế. Về đại thể, khi tỷ lệ tăng tổng sản phẩm quốc nội lớn hơn nhịp độ tăng dân số thì sẽ có sự tăng trưởng kinh tế. Việc thay đổi khối lượng tiền tệ cung ứng sẽ tác động lớn đến nền kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu vĩ mô của bất kỳ một quốc gia nào. Tuy nhiên thực hiện mục tiêu này không có nghĩa là chỉ khuyến khích tăng trưởng kinh tế, mà còn thực hiện việc kìm hãm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nếu nền kinh tế phát triển quá nóng (tốc độ tăng trưởng kinh tế quá cao). Điều này có nghĩa là, mỗi quốc gia phải xác định một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế dự kiến phù hợp với điều kiện nội tại của nền kinh tế nước đó. Trên cơ sở đó, căn cứ vào tốc độ tăng trưởng kinh tế hiện tại là thấp hay cao để sự điều tiết của chính sách tiền tệ sẽ hướng vào khuyến khích hay kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Trường hợp cần khuyến khích tăng trưởng kinh tế, NHTW sẽ thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng nhằm tăng khối lượng tiền tệ, làm cho lãi suất giảm xuống, do vậy sẽ kích thích đầu tư, mở rộng sản xuất, tăng tổng sản phẩm quốc nội. Mặt khác, tăng khối lượng tiền tệ sẽ làm tăng tổng cầu, sức mua hàng hoá trên thị trường tăng lên, hàng hoá tồn đọng của các doanh nghiệp tiêu thụ được, là tiền đề cho các doanh nghiệp gia tăng sản xuất dẫn đến GDP tăng. Nếu mức gia tăng của GDP cao hơn nhịp độ gia tăng dân số thì nền kinh tế sẽ thực sự có tăng trưởng.
Trường hợp cần kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế, NHTW sẽ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ. Khi đó khối lượng tiền tệ trong lưu thông giảm xuống thì lãi suất có xu hướng tăng lên, đồng vốn đầu tư đắt lên dẫn đến đầu tư giảm, do đó tổng sản phẩm quốc nội giảm xuống. Mặt khác khi giảm khối lượng tiền tệ sẽ làm giảm tổng cầu, sức mua sẽ giảm, làm tăng hàng hoá tồn đọng của các doanh nghiệp, do đó các doanh nghiệp không có cơ sở để mở rộng sản xuất, vì vậy GDP giảm.
Tạo việc làm, giảm thất nghiệp
Một xã hội lý tưởng là mọi người đều được lao động, lao động bằng khả năng của mình và được hưởng các thành quả lao động đó. Song thực tế chưa có một quốc gia nào thực hiện được ý nguyện đó. Chính sách tiền tệ luôn nhắm vào mục tiêu là tạo công ăn việc làm cho mọi người. Giải quyết vấn đề này hiện nay đang là một yêu cầu bức thiết của mọi quốc gia và nhất là ở các quốc gia chưa phát triển. Bệnh thất nghiệp như là một căn bệnh kinh niên trong cơ chế mà ở đó sức lao động trở thành hàng hoá. Có thể thấy rằng khi nền kinh tế phát triển thì công ăn việc làm được tạo ra nhiều hơn, thất nghiệp giảm đi và ngược lại, khi nền kinh tế trì trệ thì công ăn việc làm bị suy giảm , thất nghiệp tăng lên. Như vậy có thể nói rằng trong cơ chế thị trường không thể chống thất nghiệp triệt để được, mà chính sách tiền tệ chỉ có thể nhằm vào mục tiêu lý tưởng là gia tăng sản lượng._., tạo công ăn việc làm nhiều hơn và ổn định giá cả. Để đạt mục tiêu này, chính sách tiền tệ hướng vào việc khuyến khích đầu tư để gia tăng sản xuất, việc làm sẽ tăng lên. Mặt khác, khi các hoạt động kinh tế được mở rộng sẽ có tác dụng chống suy thoái, nhất là suy thoái chu kỳ, để đạt được mức tăng trưởng ổn định.
Nhìn chung, giữa các mục tiêu tăng trưởng, lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ chế ước lẫn nhau. Khi kiềm chế được lạm phát thì tăng trưởng chậm lại dẫn đến suy thoái, thất nghiệp cao. Khi mở rộng đầu tư khắc phục suy thoái thì công ăn việc làm được tốt hơn nhưng rất khó kiềm chế lạm phát. Chính vì vậy sự can thiệp của chính phủ để chủ động điều chỉnh mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp ngày càng trở nên hết sức quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường. Để làm được điều đó, chính phủ đã sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ. Vấn đề đặt ra là đối với từng giai đoạn cụ thể, chính sách tiền tệ phải tìm giải pháp để vừa có thể đạt được mục tiêu trọng tâm, vừa dung hoà được bốn mục tiêu trên.
Nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ(CSTT) là một bộ phận quan trọng, cấu thành chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Do vậy việc thực thi (CSTT) phải phục vụ đắc lực cho quá trình phát triển nền kinh tế cả trước mắt và tương lai. Về thực chất, (CSTT) hướng vào điều chỉnh mối quan hệ giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ; giữa tiền và hàng trên bốn lĩnh vực quan trọng nhất: kiểm soát lượng tiền cung ứng; kiểm soát hoạt động tín dụng trong nền kinh tế; kiểm soát ngoại hối; kiểm soát việc tạm ứng cho Ngân sách Nhà nước. Cụ thể là:
Kiểm soát cung ứng tiền và điều hoà lưu thông tiền tệ
Việc thực thi chính sách tiền tệ phải khống chế sao cho “khối lượng tiền tệ cung ứng trong một thời kỳ nhất định phải cân đối với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa và vòng quay tiền tệ trong thời kỳ đó”. Tuy nhiên khối lượng tiền tệ tăng hay giảm đi chỉ là chỉ tiêu định lượng. Điều quan trọng là NHTW phải theo dõi diễn biến của hoạt động kinh tế, của giá cả và tỷ giá hối đoái …từ đó điều chỉnh kịp thời việc cung ứng tiền sao cho khối lượng tiền tệ tăng hay giảm mà không làm tăng giá cả hoặc thiếu phương tiện thanh toán cho nền kinh tế.
Kiểm soát hoạt động tín dụng
Khi ngân hàng cấp phát tín dụng sẽ diễn ra quá trình tạo tiền gửi và phát sinh bội số tín dụng. Để điều tiết tín dụng và khối lượng tiền tệ, NHTW sẽ sử dụng các công cụ như lãi suất tín dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở…
Từ khối lượng tiền có thể cung ứng thêm cho nền kinh tế, NHTW sẽ giành chủ yếu cho hoạt động tín dụng ngắn hạn phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế có dự tính đến lạm phát. Hoạt động này chỉ khi nền kinh tế thực sự có nhu cầu. Khi các ngân hàng thương mại (NHTM) thiếu phương tiện thanh toán thì họ mới đến NHTW xin vay tái cấp vốn. NHTW luôn đóng vai trò là người cho vay cuối cùng đối với hệ thống NHTM, nhằm kiểm soát chất lượng và số lượng tín dụng, các nguồn tiền gửi của các NHTM và các tổ chức tín dụng.
Kiểm soát ngoại hối
Ngoại hối là danh từ dùng chung cho các phương tiện được sử dụng để thanh toán quốc tế, bao gồm ngoại tệ (thường là ngoại tệ mạnh), vàng tiêu chuẩn quốc tế, các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ và các công cụ tiền tệ khác.
Để ổn định giá trị đối ngoại của đồng bản tệ, NHTW thực hiện các giao dịch tài chính – tiền tệ và sử dụng một số chính sách để tác động tới khối lượng tiền tệ.
Chính sách đối với ngân sách Nhà nước
Để có thể đạt được tác dụng như mong muốn, (CSTT) cần phải xử lý mối tương quan của nó với chính sách tài khoá, trước hết là chính sách thu và chi ngân sách. Cách xử sự của (CSTT) tệ với ngân sách tuỳ thuộc vào tình trạng cán cân ngân sách có cân bằng hay không, ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực và mức độ như thế nào vào lưu thông tiền tệ.
Trường hợp ngân sách thăng bằng.
Nếu chính phủ dùng tiền thu được cấp phát cho những người có thu nhập thấp thì số tiêu thụ chung tăng lên, số đầu tư giảm dẫn đến giá cả tăng lên -> Chính sách tiền tệ chống suy thoái.
Nếu chính phủ dùng chi ngân sách để đầu tư thì đầu tư nhà nước tăng, đầu tư tư nhân giảm nhưng tổng đầu tư chung không đổi -> chính sách tiền tệ chống lạm phát.
Trường hợp ngân sách thiếu hụt.
Trường hợp này chính phủ phải đi vay để bù đắp cho sự thiếu hụt ngân sách. Tác động của nó đối với nền kinh tế như thế nào sẽ tuỳ thuộc vào chính phủ vay ở đâu. Trường hợp vay NHTW hoặc vay nước ngoài đều làm tăng khối lượng tiền tệ,
gây áp lực lạm phát tiềm tàng.
Trường hợp vay của dân cư và thị trường tài chính trong nước chỉ gây tác động nhẹ. Do vậy cách tốt nhất là thực hiện ngân sách thăng bằng.
Trường hợp ngân sách thặng dư.
Đây là trường hợp rất quý vì nó rút bớt khối lượng tiền tệ dư thừa, tác động có lợi cho mối tương quan giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ.
Các công cụ của chính sách tiền tệ
Để thực hiện các chức năng của mình thông qua chính sách tiền tệ, Chính phủ phải sử dụng rất nhiều công cụ với những tác động khác nhau vào nền kinh tế.
Dưới đây chỉ xin giới thiệu khái quát về các công cụ được sử dụng, còn tập trung chủ yếu phân tích công cụ lãi suất tín dụng.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ tối thiểu lượng tiền phải dự trữ so với tổng số tiền huy động mà NHTW yêu cầu các NHTM phải duy trì, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (cho vay) của các NHTM. Nếu khả năng thanh toán quá lớn (NHTM đang dư thừa tiền) thì việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm giảm quy mô tín dụng từ đó giảm khối lượng tiền tệ. Ngược lại, nếu khả năng thanh toán thấp thì giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm tăng khả năng cho vay của các NHTM (bành trướng khối lượng tiền tệ).
Cơ chế tác động:
Thông qua công cụ dự trữ bắt buộc NHTƯ tác động đến cả khối lượng và giá cả tín dụng của các NHTM từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng và khả năng tạo tiền của hệ thống NHTM.
Về số lượng, tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc là thắt chặt hay nới lỏng khả năng tạo tiền của các NHTM.
Về chi phí, tăng hoặc giảm dự trữ bắt buộc sẽ làm tăng hay giảm chi phí tín dụng của các NHTM.
Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn do ngân hàng Nhà nước thực hiện trên thị trường tiền tệ, điều hoà cung- cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối dự trữ của các ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.
Cơ chế tác động:
Bằng cách bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, NHTW có thể thu hẹp tín dụng, hút tiền vào làm giảm bớt khối lượng tiền tệ, qua đó giảm khả năng cho vay của các tổ chức tín dụng, ngăn chặn lạm phát.
Ngược lại, khi ngân hàng trung ương mua các giấy tờ có giá ngắn hạn, tăng
khối lượng tiền tệ, mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng khả năng thanh khoản của các NHTM.
Tái cấp vốn
Các ngân hàng thương mại kinh doanh tiền tệ, huy động tiền gửi của mọi cá nhân, tổ chức và cho vay phần lớn số tiền này. Nhưng có những lúc người gửi đến rút tiền quá nhiều, NHTM có thể rơi vào tình trạng thiếu khả năng chi trả, khi đó họ phải tìm đến sự giúp đỡ của NHTW.
Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của NHTW đối với các NHTM. Khi cấp một khoản tín dụng cho NHTM một mặt NHTW đã tăng lượng tiền cung ứng, mặt khác tạo cơ sở cho các NHTM tạo bút tệ cũng như khai thông được năng lực thanh toán cho họ.
Cơ chế tác động:
Khi NHTW thấy rằng cần tăng thêm tiền cho lưu thông thì sẽ hạ thấp lãi suất tái cấp vốn xuống, do đó khuyến khích các NHTM đến NHTW để vay vì giá cả tín dụng giảm, mặt khác khối lượng tín dụng được cấp tăng lên. Ngược lại khi NHTW cần giảm khối lượng tiền trong lưu thông, họ sẽ tăng lãi suất tái cấp vốn lên, làm tăng chi phí tín dụng để hạn chế các NHTM có ý định vay, mặt khác làm giảm khối lượng tín dụng được cấp xuống nếu NHTM vẫn quyết định vay.
Bên cạnh đó, NHTW còn sử dụng hạn mức tái cấp vốn để tác động trực tiếp về mặt lượng đối với dự trữ của hệ thống NHTM. Khi NHTW tăng tổng hạn mức tái cấp vốn, các NHTM có thể được vay ở NHTW nhiều hơn, làm tăng vốn khả dụng của NHTM. Từ đó tăng khả năng cung ứng tín dụng cho nền kinh tế, tăng khả năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng, và ngược lại.
Hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là khối lượng tiền NHTW cần khống chế để cung cấp cho nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Khối lượng tiền này NHTW sẽ cho ngân sách Nhà nước và các NHTM vay theo kế hoạch. Đây là một trong những công cụ can thiệp trực tiếp của NHTW, là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các NHTM phải tuân theo khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Cơ chế tác động:
Qua sử dụng hạn mức tín dụng, NHTW nhằm điều chỉnh khả năng tạo tiền của các NHTM phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế. Tránh tình trạng tổng khối lượng tiền tăng quá mức trong lưu thông, NHTW quy định hạn mức tín dụng tối đa cho từng NHTM, theo dõi hoạt động cho vay của các NHTM, nếu NHTM cho vay quá hạn mức tín dụng sẽ bị xử phạt.
Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua đồng nội tệ và đồng ngoại tệ, vừa phản ánh sức mua của nội tệ, vằ là biểu hiện của quan hệ cung-cầu ngoại tệ. Đến lượt mình, tỷ giá hối đoái lại là công cụ, đòn bẩy điều tiết cung-cầu ngoại tệ, tác
động mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.
Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén và mạnh mẽ đến sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hoá, tình trạng tài chính tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước.
Vai trò của chính sách tiền tệ thông qua công cụ lãi suất tín dụng
Trong việc hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ của NHTW, lãi suất tín dụng là một biến số vĩ mô đầy nhạy cảm và luôn biến động. Với tư cách là giá vốn, lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố vĩ mô và có tác động trở lại đối với các hoạt động kinh tế trong nước. ở những nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, lãi suất là công cụ điều chỉnh kinh tế. Một mặt nó được thị trường chấp nhận với tư cách là yếu tố để hình thành nên giá cả của tiền vay, mặt khác Nhà nước sử dụng nó để điều tiết nền kinh tế thông qua chính sách tiền tệ.
Vai trò của lãi suất tín dụng trong điều tiết hoạt động kinh tế vĩ mô.
Xét trên tầm vĩ mô, lãi suất tín dụng là công cụ quản lý kinh tế của Nhà nước, thực hiện chính sách tiền tệ, góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước. Vai trò này của lãi suất tín dụng được thể hiện trên nhiều mặt:
Một là, thông qua lãi suất tín dụng có thể thực hiện điều chỉnh sự cung ứng lượng tiền, quyết định đến việc thu hẹp hay mở rộng sản xuất. Tình trạng này dẫn đến số lượng công việc làm trong xã hội tăng hay giảm, tức là, lãi suất tín dụng (LSTD) đã có ảnh hưởng trực tiếp tới việc giải quyết tình trạng thất nghiệp trong xã hội, sự tăng giảm sản lượng và lạm phát.
Hai là, LSTD tác động đến tiêu dùng và tiết kiệm dân cư, từ đó ảnh hưởng đến tổng cung và tổng cầu của toàn xã hội. LSTD tăng một mặt sẽ kích thích tăng tiết kiệm của dân cư, giảm cầu đối với hàng hoá dịch vụ, mặt khác lại hạn chế đầu tư của doanh nghiệp làm giảm cung hàng hoá dịch vụ. Nếu LSTD giảm sẽ làm tăng tiêu dùng của dân cư, tăng cầu đối với hàng hoá dịch vụ, đồng thời kích thích đầu tư làm tăng cung hàng hoá dịch vụ.
Ba là, LSTD còn được sử dụng làm công cụ để điều hoà cung cầu ngoại tệ, góp phần cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Bằng cách nâng hay hạ LSTD sẽ hút hoặc đẩy ngoại tệ vào trong nước hay ra ngoài nước, làm tăng hoặc giảm cung ngoại tệ.
Bốn là, LSTD là đòn bẩy kích thích ngân hàng và các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Trong khung lãi suất cho phép, để tăng khối lượng nguồn vốn huy động đồng thời mở rộng quan hệ tín dụng với khách hàng, các NHTM có thể tăng lãi suất tiền gưỉ và giảm lãi suất cho vay. Đây chính là sự cạnh tranh giữa các NHTM. Để đảm bảo cạnh tranh thắng lợi, các NHTM phải tìm mọi biện pháp giảm thấp chi phí kinh doanh và chi phí quản lý. Sự cạnh tranh lành mạnh giữa các NHTM sẽ tạo ra lợi ích kinh tế chung cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đối với các doanh nghiệp, khi vay vốn đòi hỏi phải sử dụng vốn một cách tiết kiệm, có hiệu quả, phải thực sự quan tâm đến kết quả sản xuất kinh doanh để đảm bảo hoàn trả đúng hạn cả vốn và lãi.
Cơ chế tác động của lãi suất tín dụng đối với hoạt động kinh tế vĩ mô.
Cơ chế tác động qua lãi suất tín dụng là cơ chế truyền tải ảnh hưởng của chính sách tiền tệ tới nền kinh tế thông qua phản ứng dây chuyền giữa các mức lãi suất và các loại giá cả trên thị trường tài chính. Đây là cơ chế kiểm soát sự biến động lãi suất mà theo đó, chính sách tiền tệ có thể tác động tới các bộ phận cấu thành tổng cầu thông qua những ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của lãi suất tới hành vi chi tiêu của các chủ thể kinh tế.(Được biểu diễn qua sơ đồ trang sau)
Việc điều hành lãi suất của NHTW chủ yếu được thực hiện thông qua hai cơ chế:
Cơ chế điều hành gián tiếp.
Thông qua cơ chế tái cấp vốn của NHTW đối với các tổ chức tín dụng, NHTW thực hiện quản lý gián tiếp lãi suất cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế. Cơ chế này được thực hiện theo nguyên tắc: NHTW chỉ công bố mức lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay tái chiết khấu hoặc cho vay cầm cố chứng từ có giá của mình đối với các tổ chức tín dụng. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể theo từng kỳ hạn, từng đối tượng của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế sẽ do tổ chức tín dụng ấn định, dựa trên cơ sở cung – cầu về vốn và sự cạnh tranh trên thị trường.
Khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ từng giai đoạn, NHTW sẽ điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu của mình. Từ đó tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng, cuối cùng tác động đến lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng.
Cơ chế điều hành lãi suất này được áp dụng phổ biến đối với các nền kinh tế có hệ thống tài chính phát triển. Cơ chế này cũng trở nên linh hoạt hơn, khi bên cạnh các loại lãi suất trên, NHTW chấp nhận lãi suất do thị trường hình thành và tác động vào lãi suất này để duy trì ở mức mong muốn.
Cơ chế điều hành trực tiếp.
Thông qua các hình thức quản lý lãi suất của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, như quy định các mức lãi suất cụ thể về tiền gửi, cho vay, khung lãi suất, trần lãi suất cho vay, biên độ chênh lệch lãi suất bình quân… Thực chất là NHTW quy định mức lãi suất cho vay tối đa hoặc tiền gửi tối thiểu của các tổ chứctín dụng đối với nền kinh tế. Trong phạm vi lãi suất được phép, các tổ chức tín dụng được quyền ấn định lãi suất kinh doanh phù hợp. Khi có các thay đổi về kinh tế vĩ mô, NHTW có thể xem xét để điều chỉnh giới hạn lãi suất tối đa hợp lý. Nhìn chung, trong các nền kinh tế phát triển lãi suất ngày càng được tự do hoá, còn ở các nước có hệ thống tài chính chưa phát triển, các quy định mang tính quản lý trực tiếp được áp dụng phổ biến hơn, và xu hướng chung là ngày càng giảm dần sự quản lý trực tiếp này.
Sơ đồ : Cơ chế tác động của chính sách tiền tệ
Công cụ CSTT
Dự trữ ngân hàng
Lãi suất liên ngân hàng
Tiền cơ sở MB
Tiền cung ứng
Lãi suất thị trường
Dư nợ
tín dụng
Giá tài sản
Lãi suất thực
Tỷ giá
Tài sản thế chấp
Tổng cầu AD
CHƯƠNG II
Đánh giá vai trò của chính sách tiền tệ ở Việt Nam
giai đoạn từ 1986 đến nay
I - Quá trình điều hành chính sách tiền tệ qua các giai đoạn ở Việt Nam nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô:
Để phù hợp với quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước, đòi hỏi phải đổi mới việc xây dựng chính sách tiền tệ, mà trước hết là phải xác định và lựa chọn mục tiêu điều hành phù hợp với đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước. Mục tiêu của chính sách tiền tệ đã hướng vào kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Giai đoạn 1986 – 1988
Đây là giai đoạn đặc trưng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tổng cầu luôn vượt tổng cung, đồng thời do thiếu hụt ngân sách, Nhà nước đã bành trướng phát hành tiền. Vì vậy nền kinh tế luôn ở trạng thái bất ổn định, lạm phát đạt kỷ lục ba con số tức siêu lạm phát, nền kinh tế tăng trưởng chậm. Tại thời điểm gay cấn đó, hai thay đổi lớn trong chính sách tiền tệ: đưa tỷ giá hối đoái lên ngang mức giá thị trường và thi hành chế độ lãi suất thực dương đã tạo thành xung lực mạnh nhất để đẩy lùi lạm phát và khủng hoảng.
Giai đoạn 1989 – 1991
Các chính sách kinh tế mới đã có ý nghĩa quyết định cắt được cơn sốt lạm phát cao, nhưng vẫn ở mức trên 66% năm 1990 – 1991, vì nguồn lực cho nền kinh tế đang ở trong quá trình chuyển đổi thích nghi theo kinh tế thị trường. NHTW công bố các mức lãi suất cụ thể để các tổ chức tín dụng làm cơ sở ấn định các mức lãi suất kinh doanh, thực hiện cơ chế lãi suất âm. Thực thi chính sách tiền tệ “thắt chặt”, sau đó nới lỏng dần nhằm kiềm chế lạm phát và góp phần tăng trưởng kinh tế, thực hiện cho vay tái cấp vốn đối với các NHTM.
Giai đoạn 1992 – 1995
Sự ổn định kinh tế đã đi vào chế độ dừng do Nhà nước đã nhận thức được rõ nét tác động của cung ứng tiền tệ lên lạm phát. Vì vậy việc cung ứng tiền cho bội chi ngân sách đã chấm dứt, thay thế bằng việc vay dân, vay nước ngoài. Các biện pháp và hình thức vay dần dần được cải thiện nhằm huy động cao nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Bên cạnh việc phát hành tín phiếu kho bạc Nhà nước, việc vay nợ nước ngoài cũng được khai thác triệt để. Kết quả là từ năm 1992 – 1994 Nhà nước không còn phát hành tiền để bù đắp bội chi cho ngân sách Nhà nước.
Trong giai đoạn này có nhiều yếu tố quyết định chiều hướng thuận lợi cho chính sách tiền tệ. Chính phủ luôn chú trọng ổn định kinh tế vĩ mô, quan tâm đến chính sách tiền tệ và giữ lạm phát ở mức thấp. Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước, pháp lệnh ngân hàng thương mại và hợp tác xã tín dụng đã quy định cơ sở cho việc thành lập hệ thống ngân hàng hai cấp. Ngân hàng nhà nước đã tập trung vào điều hành chính sách tiền tệ, chú ý đến cung tiền tệ và thực hiện chính sách lãi suất thực dương. Từ đó quản lý và tạo môi trường cho các ngân hàng thương mại quốc doanh, các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh và các tổ chức tín dụng khác hoạt động có lãi theo cơ chế thị trường.
Bên cạnh đó nhà nước đã mở rộng quan hệ đối ngoại và được sự trợ giúp kỹ thuật của các tổ chức tài chính quốc tế. Cán cân thanh toán có chiều hướng thuận lợi.
Như vậy, với việc đổi mới mạnh mẽ hoạt động ngân hàng và thực hiện thành công chính sách tiền tệ, lạm phát đã giảm thấp và được kiềm chế, chỉ còn 14,4% năm 1994, 12,7% năm 1995 và 2,6% trong 7 tháng đầu năm 1996. Trong khi đó nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định: 8,8% năm 1994 và 9,5% năm 1995 – cao nhất trong những năm gần đây. Điều đó cho thấy nước ta với điểm xuất phát năm sau cao hơn năm trước nhưng nhịp độ tăng trưởng chẳng những không lùi mà vẫn tiếp tục tăng cao, đồng thời tỷ lệ lạm phát được kéo xuống. Điều đó càng khẳng định chính sách tiền tệ của chúng ta là phù hợp và hiệu quả.
1.4. Giai đoạn từ 1996 đến nay
1.4.1. Mục tiêu vĩ mô trong giai đoạn này
Khác với giai đoạn 1992 – 1995, giai đoạn này nền kinh tế đã chuyển sang một trạng thái mới: chính sách kinh tế của đất nước ta đã chuyển sang mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao. Do đó mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo sự tăng trưởng cao của nền kinh tế.
Mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô bao hàm nghĩa rộng hơn nhiều so với mục tiêu kiểm soát lạm phát. ổn định kinh tế vĩ mô nghĩa là tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức đồng đều trong các năm, đạt gần với tiềm năng của nền kinh tế, tỷ lệ lạm phát không giao động quá mạnh, cán cân thanh toán quốc tế cân bằng và không có sự giao động lớn của các biến số trên qua các năm. ở giai đoạn này cố gắng giữ lạm phát ở mức 10%/năm.
Gia tăng tốc độ phát triển là mục tiêu chính trong giai đoạn naỳ. Nếu giai đoạn 1992 – 1995 là bước ổn định nghĩa là kiềm chế lạm phát và chúng ta đã thành công, thì giai đoạn này sẽ là giai đoạn phát triển. Để đạt mục tiêu tăng trưởng, Việt Nam cần một lượng vốn khổng lồ. Với chính sách mở cửa nguồn vốn từ bên ngoài vào sẽ tăng lên. Tuy nhiên để đạt được số vốn đó chính sách tiền tệ cần nỗ lực tối đa cho huy động cả nguồn vốn trong và ngoài nước. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề này là dựa chủ yếu vào nguồn trong nước, đồng thời tận dụng mọi khả năng huy động nguồn vốn từ bên ngoài – yếu tố được coi là đóng vai trò rất quan trọng, đặc biệt trong thời kỳ đầu khi nguồn bảo đảm trong nước còn thấp.
Các quan điểm xây dựng chính sách tiền tệ
Để xây dựng một chính sách tiền tệ phù hợp với tình hình của đất nước phải
dựa trên các quan điểm sau:
Một là, chính sách tiền tệ phải được xây dựng trên cơ sở tính độc lập tương đối của NHTW.
Hai là, phải cân đối giữa ổn định kinh tế vĩ mô và đầu tư phát triển kinh tế. Một chính sách tiền tệ đúng đắn sẽ tạo ra môi trường tài chính lành mạnh, kích thích tối đa sự vận động của các nguồn lực khác của đất nước, kích thích đầu tư phát triển kinh té.
Ba là, xây dựng một chính sách tiền tệ gây lòng tin dân chúng và hệ thống ngân hàng thương mại đối với điều hành của NHTW. Khi đó sẽ thu hút một khối lượng lớn tiết kiệm để tái đầu tư, phát triển.
Bốn là, xây dựng chính sách tiền tệ (CSTT) trên cơ sở hội nhập với thị trường tài chính quốc tế. Với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế, thị trường tài chính trong nước cũng phải mở cửa cho thị trường tài chính quốc tế, nhờ đó mà thu hút được nguồn vốn quốc tế.
Năm là, xây dựng CSTT trên cơ sở chuẩn bị khả năng đối phó với các biến động về cơn sốc kinh tế thế giới tác động đến nền kinh tế trong nước. Có như vậy mới tạo được sự ổn định vĩ mô thực sự trong môi trường đầy biến động của thế giới.
Điều hành chính sách tiền tệ
Nhằm thực hiện mục tiêu CSTT đã lựa chọn, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của NHTW là quản lý và điều hành khối lượng tiền cung ứng. Trong giai đoạn mới này, việc quản lý, vận hành cơ chế cung ứng tiền cũng như điều hành, kiểm soát tiền tệ đã được đổi mới từng bước theo nội dung và nguyên tắc hoàn toàn khác với cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Đó là NHTW đã xác định được khối lượng tiền cung ứng hàng năm phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát. Đồng thời NHTW đã lựa chọn sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn, chủ động điều hành linh hoạt lượng tiền cung ứng đã được Chính phủ phê duyệt hàng năm. Do đó đã cung ứng đủ phương tiện thanh toán đảm bảo sản xuất – lưu thông không bị ách tắc, kinh tế tăng trửơng, đẩy lùi được lạm phát phi mã. Đặc biệt từ 1993, NHTW đã thực hiện quản lý, điều hành hiệu quả lượng tiền cung ứng, sử dụng mềm dẻo các công cụ của chính sách tiền tệ, góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và kiểm soát lạm phát ở mức một con số.
II – Thực trạng sử dụng công cụ lãi suất tín dụng từ khi có pháp lệnh ngân hàng đến nay:
Cơ chế lãi suất tín dụng thời kỳ 6/1992 đến 1995
Tháng 6/1992 được coi là mốc quan trọng đánh dấu một bước chuyển quan trọng nhất về chất trong cơ chế lãi suất tín dụng. NHTW đã chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương và được quản lý theo khung lãi suất. Những điểm cơ bản của chính sách lãi suất mới gồm:
Một là, NHTW quy định khung lãi suất của NHTM đối với nền kinh tế (lãi
suất tối thiểu đối với tiền gửi và lãi suất tối đa đối với tiền cho vay).
Hai là, lãi suất cho vay bình quân phải lớn hơn lãi suất huy động bình quân, chấm dứt sự bao cấp về vốn qua kênh tín dụng ngân hàng.
Ba là, đối với lãi suất ngoại tệ NHTW quy định laĩ suất cho vay tối đa. Lãi suất huy động bằng ngoaị tệ do các NHTM quyết định trên cơ sở lãi suất thị trường tiền tệ quốc tế và cung – cầu vốn ngoại tệ trong nước.
Từ tháng 6/1992 đến cuối năm 1993, NHTW đã năm lần điều chỉnh giảm lãi suất cho phù hợp vơí chỉ số lạm phát và hiêụ quả sản suất kinh doanh cuả nền kinh tế. Lãi suất cho vay tối đa bằng ngoại tệ được điều chỉnh tăng từ 6,5%/ năm lên 7,5%/năm, phù hợp với lãi suất trên thị trường quốc tế.Kết quả là vốn huy động hàng năm tăng hơn 20%, tín dụng đối với nền kinh tế tăng gần 50%.
Trong hai năm 1994 – 1995, cơ chế lãi suất tiếp tục được điều chỉnh theo hướng thích ứng với cơ chế thị trường, phù hợp với quan hệ cung – cầu vốn, đồng thời hạn chế sự can thiệp trực tiếp của NHTW vào hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng. NHTW chỉ khống chế mức lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể do tổ chức tín dụng ấn định. Tăng lãi suất cho vay trung và dài hạn lên 1,7%/ tháng. Lãi suất ngoại tệ được điều chỉnh ba lần từ 7,5%/năm lên 9,5%/năm phù hợp với sự biến động của lãi suất thị trường quốc tế.
Bảng 1: Diễn biến lãi suất cho vay và tiền gửi bình quân các năm
đơn vị: % / tháng
Lãi suất/ thời điểm
1986-1990
1991
1992
1993
1994
1995
Cho vay bình quân tháng
4,3
2,5
2,5
1,8
1,6
1,7
Tiền gửi bình quân tháng
6,0
2,9
1,9
1,4
1,3
1,4
Chênh lệch
-1,7
- 0,4
0,6
0,4
0,3
0,3
Như vậy, điểm nổi bật của cơ chế điều hành lãi suất tín dụng thời kỳ 1992 –1995 so với thời kỳ trước 1992 có thể được nhìn nhận dưới các mặt sau:
- Cơ chế lãi suất thực dương, lãi suất cho vay bình quân lớn hơn lãi suất tiền gửi, lãi suất tiền gửi lớn hơn tỷ lệ lạm phát. NHTW chỉ quy định khung lãi suất tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng (TCTD) linh hoạt hơn. Mặt khác, NHTW còn cho phép các TCTD huy động và cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với các dự án có hiệu quả. Đây là bước khởi đầu đánh dấu tiến trình tự do hoá lãi suất trong các lần điều chỉnh cơ chế lãi suất sau này.
- Xoá bỏ quy định lãi suất phân biệt giữa các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế, đưa lãi suất biến động tiến sát với lãi suất thị trường, rút ngắn khoảng cách chênh lệch bất hợp lý giữa lãi suất cho vay ngắn hạn với lãi suất cho vay trung và dài hạn, giữa lãi suất nội tệ với lãi suất ngoại tệ.
- Bỏ bao cấp qua lãi suất, thúc đẩy các TCTD chuyển sang hạch toán kinh
doanh, hạn chế việc ngân sách phải cấp bù lỗ lãi suất cho ngân hàng. Đồng thời giúp các doanh nghiệp có cơ sở xac định thực chất trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Tuy nhiên cơ chế lãi suất thời kỳ này cũng bộc lộ những tồn tại chủ yếu sau:
- Quá trình điều hành cơ chế lãi suất còn thiếu linh hoạt, chưa điều chỉnh kịp thời với tăng trưởng và lạm phát. Tăng trưởng kinh tế thời kỳ này bình quân hơn 8%, lạm phát được kiềm chế ở mức hai con số, riêng năm 1993 ở mức 1 con số nhưng lãi suất vẫn giữ nguyên ở mức quá cao.
- Lãi suất cho vay còn cao so với hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp.
Cơ chế lãi suất tín dụng thời kỳ 1996 – 7/2000
Từ đầu năm 1996, NHTW tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm góp phần kiềm chế lạm phát, tăng cường sự ổn định của đồng Việt Nam. Do chính sách lãi suất thời kỳ trước vẫn còn nhiều tồn tại, từ tháng 01/1996 cơ chế lãi suất đã được tiếp tục thay đổi.
Trong năm 1996, NHTW đã 4 lần điều chỉnh trần lãi suất bằng đồng Việt Nam, lãi suất huy động vốn cuối năm 1996 giảm 8,4%/ năm, lãi suất cho vay giảm 10%/ năm so với năm 1995. Lãi suất cho vay khu vực nông thôn được quy định cao hơn một chút so với khu vực thành thị, có tác dụng chuyển các luồng vốn dư thừa từ thành thị về nông thôn. Cơ chế lãi suất mới đã rút ngắn chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ.
Bảng 2: Trần lãi suất cho vay năm 1996
đơn vị: VND % / tháng; USD % / năm
Tháng
1
7
9
10
I – Cho vay VND:
1. Trần lãi suất cho vay khu vực thành thị
- Cho vay ngắn hạn
1,7
1,6
1,5
1,25
- Cho vay trung và dài hạn
1,75
1,65
1,55
1,35
2. Trần lãi suất cho vay khu vực nông thôn
2,0
1,8
1,7
1,5
3. Cho vay của HTXTD và QTDND
2,5
2,2
2,1
1,8
II – Cho vay ngoại tệ
9,5
9,5
9,5
9,5
III – Chênh lệch giữa LS cho vay và LS huy động bình quân
0,35
0,35
0,35
0,35
Năm 1997 là năm có nhiều biến động đối với nền kinh tế khu vực và thế giới. Đặc biệt là khủng hoảng tài chính – tiền tệ Châu á được khởi đầu bằng sự thả nổi đồng bạt đã ảnh hưởng phần nào đến nền kinh tế Việt Nam. Mặc dầu vậy nền kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng cao, lạm phát ở mức thấp nhất kể từ trước tới nay. Cơ chế lãi suất tín dụng tiếp tục được điều chỉnh theo hướng duy trì lãi suất cho vay ở mức thấp, tạo điều kiện mở rộng tín dụng đối với nền kinh tế.
Bảng 3: Trần lãi suất năm 1997
đơn vị: VND % / tháng; USD % / năm
Năm
1997
I – Cho vay VND
1. Trần lãi suất cho vay khu vực thành thị
- Cho vay ngắn hạn
1
- Cho vay trung và dài hạn
1,1
2. Trần lãi suất cho vay khu vực nông thôn
1,2
3. Cho vay của HTXTD và QTDND
1,5
II – Cho vay ngoại tệ
8,5
III – Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động bình quân
0,35
Năm 1998, khủng hoảng kinh tế trong khu vực đã ảnh hưởng đến Việt Nam trên nhiều phương diện: làm giảm nguồn vốn đầu tư từ nứơc ngoài vào Việt Nam, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp FDI; lạm phát có chiều hướng gia tăng; tình trạng Đôla hoá xuất hiện và tăng mạnh gây bất ổn cho tỷ giá và khó khăn cho việc huy động vốn bằng VND. Trong bối cảnh đó chính sách lãi suất tiếp tục được điều chỉnh một cách linh hoạt, thận trọng nhằm góp phần hạn chế ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ đến nền kinh tế Việt Nam.
NHTW tiếp tục việc kiểm soát lãi suất trên thị trường tiền tệ bằng cơ chế lãi suất trần, xoá bỏ quy định chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động; không phân biệt lãi suất cho vay thành thị và nông thôn; lãi suất tiền gửi tiếp tục được tự do hoá. Kết quả là đến cuối năm 1998 tín dụng cho nền kinh tế tăng 16,4%, số dư tiền gửi tăng 19,1% so với cùng kỳ năm 1997. Diễn biến các lần điều chỉnh lãi suất tín dụng năm 1998 được thể hiện trong bảng 4.
Bảng 4: Trần lãi suất cho vay năm 1998
đơn vị: VND % / tháng; USD % / năm
Tháng
1
9
I – Trần lãi suất cho vay VND
1. Trần lãi suất cho vay khu vực thành thị
- Cho vay ngắn hạn tối đa
1,2
1,2
- Cho vay trung và dài hạn tối đa
1,25
1,25
2. Trần lãi suất cho vay khu vực nông thôn
1,25
1,25
3. HTXTD và QTD cơ sở cho vay thành viên
1,5
1,5
II – Trần lãi suất cho vay USD
8,5
8,5
Nhằm góp phần tăng cường hoạt động quản lý ngoại hối, hạn chế việc tổ chức kinh tế găm giữ ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi, từ 9/1998 NHTW đã quy định
lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của các pháp nhân tại tổ chức tín dụng như sau:
- Tiền gửi không kỳ hạn: 0,5% / năm
- Tiền gửi có kỳ hạn đến 6 tháng: 3% / năm
- Tiền._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33649.doc