Vai trò của chính phủ trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế đồng thời liên hệ với vai trò kinh tế của CP VN gđ CNH-HĐH đất nước

LờI Mở ĐầU Ngày nay , chúng ta đang được chứng kiến sự phát triển đầy năng động ,sáng tạo của các nền kinh tế trên thế giới cùng với xu hướng toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẻ, sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt, đẻ có thể đứng vững và giành thắng lợi trong cạnh tranh các quốc gia đều phải tìm ra cho mình một phương hướng đẻ có thể vươn lên. Ta có thể lấy những ví dụ rất điển hình như Nhật , Mỹ , EU , và khối ASEAN (trong đó có VN ) . Nắm bắt được xu thế của thời đại, Đảng ta đã có những bước c

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1930 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của chính phủ trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế đồng thời liên hệ với vai trò kinh tế của CP VN gđ CNH-HĐH đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huyển kịp thời .Tại đại hội Đảng 6 Đảng ta đã đề ra dường lối đổi mới trong đó quan trọng nhất là sự chuyển đổi cơ chế kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường . nền KTTT (kinh tế thị trường ) đã từng là động lực thúc đẩy CNTB phát triển một cách mạnh mẽ trong những giai đoạn trước đây và cả hiện nay . Thực tế đã chứng minh cơ chế thị trường phát triển vô cùng nhanh chóng từ khi nó ra đời.Cơ chế thị trường làm cho nền kinh tế trở nên năng động và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nền kinh tế thị trường luôn là sự cạnh tranh giữa các hãng sản suất với nhau do đó họ phải luôn tìm tòi,sáng tạo các phương thức sản suất mới để mang lại lợi nhuận cao trong kinh doanh. Chính vì thế nó làm cho nền kinh tế của đất nước ngày càng phát triển và phồn thịnh. (tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 90 –95 luôn đạt 8,5%, GDP trên đầu người đạt 380 $ / năm tính đến thời điểm năm 2001) Tuy nhiên cơ chế thị trường không phải là một hoạt động kinh tế hoàn hảo mà nó mang trên mình mặt trái của nó như:sự cạnh tranh không hoàn hảo; vấn đề ngoại ứng; sự phân hoá giàu nghèo...và các vấn đề xã hội khác. Chính vì vậy, nhà nước đã tham gia vào quá trình hoạt động của nền kinh tế để giảm nhẹ hoặc khắc phục những hậu quả của nó. Nhưng trên thực tế không thể tồn tại một nền kinh tế chỉ được điều hành bằng mệnh lệnh và cũng không có nền kinh tế nào hoạt động trên cơ sở tự nguyện mà không có sự điều tiết của nhà nước. Chính phủ ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong hoạt đọng của nền kinh tế, đặc biệt đối với một nước đang trong thời kì quá độ lên CNXH như nước ta .Chính vì vậy sau khi được học tập và nghiên cứu môn KTCT em xin được trình bày những hiểu biết của mình về vai trò của chính phủ trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế đồng thời liên hệ với vai trò kinh tế của CP VN trong giai đoạn“ CNH – HĐH” đất nước. Phần I Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường I-/ Ưu thế và khuyết tật của thị trường Để hiểu rõ vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường, trước hết ta phải hiểu khái niệm về thị trường và cơ chế thị trường. 1 Khái niệm thị trường và cơ chế thị trường a) Thị trường Có nhiềukháiniệm khác nhau vè thị trường ,đó là do tuỳ từng gó độ xem xét . Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá , nó ra đời và phát triển cung với sự ra đơì và phất triển của sản xuất lưu thông hàng hoá . Vậy thị trường là gì ? Theo nghĩa ban đầu – nghĩa nguyên thuỷ , Thị trường gắn liền với một địa điểm nhất định .Nó là nơi diễn ra quá trình trao đổi ,mua bán hàng hoá .Thị trường có tính không gian và thời gian .Theo nghã này ,thị trường có thể là nơi hội chợ các địa dư hoặc các khu vực tiêu thụ phân theo các mặt hàng ngành hàng. Sản xuất hàng hoá ngày cangf phát ttrển ,lưọng sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào phong phú ,thị trường dược mở rộng . Thị trường được hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn . Nó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới . Tại đây ,người muavà người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lưọng hàng hoá lưu thông trên thị trường .Và cũng có thể hiểu theo một nghĩa tưong đối khái quát ,đó là: “Thị trường là một quá trình trong đó người mua và người bán một thứ hàng tác động qua lại nhau để xác định giá cả và số lượng hàng “(Paul A.Samuelson). Vai trò của thị trường : kinh tế hàng hoá gắn liền cới thị trường .Sản xuất cho thị trường .Tiêu dùng phải thông qua thị trường .Thị trường là trung tâm của toàn bộ quá trình tái sản xuất .Thị trường là yếu tố cơ bản của môi trường kinh doanh, là nơi hình thành các quan hệ kinh tế. Các quan hệ kinh tế này là cơ sở quan trọng để hình thành cơ cấu kinh tế. Thông qua thị trường các quan hệ kinh tế giữa các ngành, các khu vực kinh tế mới được biểu hiên. Thị trường có khả năng dự báo và hướng dẫn ngưới sản suất và tiêu dùng trong hành vi kinh tế. Nói một cách khác,trong nền kinh tế hàng hoá tất nhiên tồn tại một cơ chế thị trường b) Cơ chế thị trường Đề cập đến khái niệm “cơ chế thị trường ”thì hiện nay còn có nhiều ý kiến khác nhau nhưng hiểu theo một nghĩa khái quát thì cơ chế thị trwongf chính là bộ máy kinh tế điều tiết toàn bộ sự vận động của kinh tế thị trường ,điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá thông qua sự tác động của các quy luật kinh tế ,đặc biệt là quy luật giá trị –quy luật kinh tế căn bản của sản xất và lưu thông hàng hoá . Tuy nhiên ,cơ chế thị trường là sự cạnh tranh khốc liệt .Đó là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế nhằm dành phần sản xuất và tiêu thụ hànghoá cólợi cho mình để thu lợi nhuận cao . Sự tồn tại cơ chế thị trường là một tất yếu khách quan đối với những xã hội còn tồn tại nền kinh tế hàng hoá . Coi nhẹ hoặc bỏ qua vai trò của kinh tế thị trường là một trong những nguyên nhân thất bại trên lĩnh vực kinh tế . Cơ chế thị trường được coi là “ bàn tay vô hình ’’ điều tiết sự vận động của nềnkinh tế hàng hoá. Cơ chế thị trường có những ưu thế và khuyết tật của nó mà ta phải nắm được để có biện pháp phát huy những ưu điểm của nó đồng thời khắc phục những khuyết tật đó. 2. Những ưu thế và khuyết tật của cơ chế thị trường Cơ chế thị trưòng có những ưu thế sau đây : Một là : cơ chế thị trường kích thích việc áp dụng những tiến bộ KHKT , nhờ đó mà năng suất lao động tăng , nâng cao trình độ xẫ hội hoá sản xuất . Hai là : cơ chế thị trường có tính năng động , khả năng thích nghi nhanh chóng Ba là : cơ chế thị trường tạo điều kiện cho mọi chủ thể sản xuất kinh doanh cho nên hàng hoá rất đa dạng ,phong phú . Vì vậy việc thoã mãn nhu cầu vật chất ,văn hoá của mọi thành viên trong xã hội ngày càng tốt hơn . Bốn là:Lợi nhuận là động lực cao nhất để thúc đẩy quá trình sản xuất. Từ đó nó trả lời các câu hỏi sản suất ra cái gì,sản suất như thế nào và sản xuất cho ai. Nó biết kết hợp các nguồn lực một cách hợp lýnhất để sản xuất ra một khối lượng sản phẩm lớn nhất với chi phí thấp nhất,từ đó tối đa hoá được lợi nhuận. Nền kinh tế thị trường vận dụng được năng lực tối đa của nền kinh tế về vốn, kinh nghiệm lao động. Năm là:Trong nền kinh tế thị trường, tất cả các ngành thuộc các lĩnh vực khác nhau thì yếu tố chung duy nhất tác động đến doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận. Các doanh nghiệp chỉ khác nhau ở hình thái quy mô tổ chức. Nhưng chúng có điểm giống nhau là hoạt động trực tiếp với thị trường. Do đó họ là những người dám chịu trách nhiệm trước các quyết định của mình, từ đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có trình độ,năng lực tổ chức kinh doanh Tuy nhiên bên cạnh những ưu thế mà không một nền kinh tế nào có thể sánh được thì cơ chế thị trường cũng có những khuyết điểm tự bản thân nó không thể giải quyết được . Người ta gọi đó là những thất bại thị trường . Đó là : Thứ nhất : khủng hoảng kinh tế .Khủng hoảng sản xuất thừa luôn là căn bệnh cố hữu của các nền kinh tế thị trường phát triển . Lúc này , sản lượng hàng hoá trên thị trường vượt quá mức mức cầu có khả năng thanh toán dẫn đến tình trạng “dư thừa hàng hoá ” và cùng với đó là sự phá sản của hàng loạt các doanh nghiệp do hàng hoáẩan xuất ra không tiêu thụ được , khoong có khả năng thu hồi vốn để tái sản xuất . Thứ hai : gắn liền với khủng hoảng kinh tế là nạn thất nghiệp của người lao động , đây luôn là vấn đề nan giải đối với kinh tế thị trường . Thứ ba : sự phân hoá giai cấp sâu sắc càng làm cho mâu thuẫn giai cấp vốn đã không thể điều hoà được trở nên gay gắt hơn . Các tác động của nền kinh tế thị trường đã dẫn đến tình trạng một số ngưòi trở nên giàu có còn một số khác làm ăn thua lỗ phá sản trơ thành những ngưòi làm thuê . Sự đối kháng về lợi ích kinh tế là cơ sở của đấu tranh giai cấp . Thứ tư : cơ chế thị trường gây ô nhiễm môi trường sinh thái , tàn phá nghiêm trọng các tài nguyên thiên nhiên . Thứ năm: Thị trường phát triển dẫn đến độc quyền do đó làm giảm động lực phát triển. Thứ sáu: Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì nó gây ra những tệ nạn xã hội như: hàng giả, buôn lậu, tham nhũng, hối lộ ... Thứ bẩy: Thị trường trong nhiều trường hợp là kìm hãm chứ không phải là thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ. Tóm lại, cơ chế thị trường có tác động điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá , chi phối sự vận đọng của nền kinh tế thị trường , song tuy nhiên sự điều tiết đó là mù quáng . Các chủ thể tham gia chỉ vì lợi ích của riêng mình cho nên sự vâv động của cơ chế thị trường tất yếu dẫn đến mâu thuẫn . Bên cạnhđó ,cạnh tranh khó tránh khỏi lừa gạt , phá sản ,thất nghiệp . Tất cả đều gây nên sự bất bình thường trong quan hệ kinh tế và sự mất ổn định xã hội. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 càng chứng tỏ “ bàn tay vô hình ”không thể đảm bảo cho kinh tế thị trường phát triển bình thường , hơn nữa trình độ xã hội hoá ngà càng cao của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải có sự điều tiét của một trung tâm quyền lực . Chính vì lẽ đó , các quan hệ kinh tế đòi hỏi phải có sự kiểm tra , điều tiết , định hướng có ý thức đối với sự vận động của kinh tế thị trường . Do đó “ trong kinh tế thị trường , mọi nhà nước , bất kể nhà nước đó thuộc chế độ chính trị nào ,cũng đều phải can thiệp , quản lý nền kinh tế ấy ” nói cách khác là cần tới “ bàn tay hữu hình ’’ của Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế. ở nứơc ta sự quản lý của Nhà nước là nhằm hướng tới sự ổn định về kinh tế xã hội , công bằng hiệu quả làm cho nền kinh tế ngày càng tăng trưởng và phát triển với tốc độ cao . II-/ Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở phần trên ta đã xem xét những ưu thế và khuyết tật của kinh tế thị trường , kinh tế thị trường vẫn luôn tồn tại tính hai mặt nhưng cho đến hiện nay nó vẫn được rất nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng , đó là do không một nền kinh tế thị trường nào lại không có sự điều tiết ,quản lý của Nhà nước . . Chính sự điều tiết đó đã làm giảm bớt hoặc khắc phục những hậu quả của cơ chế thị trường làm cho cơ chế thị trường ưu việt hơn hẳn so với các cơ chế kinh tế khác và chính phủ dễ dàng hơn trong việc hướng nền kinh tế đi đúng mục tiêu mà mình đã đề ra. 1. Mục tiêu của kinh tế vĩ mô Mọi quốc gia hiện nay đều hướng tới mục tiêu là :sản lượng cao , tạo đủ công ăn việc làm cho người lao động , ổn định giá cả và cán cân ngoại thương . Mục tiêu 1: “Ngày nay, thước đo cuối cùng để đánh giá thành công kinh tế, là khả năng của một nước để tạo ra sản lượng cao và tăng nhanh được sản lượng hàng hoá và dịch vụ kinh tế” .Có nghĩa là tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao. Mục tiêu 2: tỉ lệ thất nghiệp cao luôn là vấn đề làm đau đầu những nhà quản lý kinh tế của chính phủ .Một quốc gia có số lao động thất nghiệp thấp chứng tỏ nền kinh tế đó đang ở giai đoạn tăng trưởng kinh tế cao. Mục tiêu 3: ổn định giá cả và tỉ lệ lạm phát thấp . Việc ổn định được giá cả trên thị trường giúp cho các nhà kinh doanh có thể định hướng đầu tư sản xuất . Khi đồng tiền mất giá ,giá cả hàng hoá tăng thì đó là lạm phát . Chính phủ luôn muốn duy trì tỉ lệ lạm phát ở mức hai con số bởi vì nếu tỉ lệ lạm phát quá thấp thì cũng không có lợi cho phát triển kinh tế . Mục tiêu 4: Cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, ổn định tỷ giá hối đoái. Hầu hết nền kinh tế của các nước đều là nền kinh tế mở cửa, buôn bán với nước ngoài do đó luôn tồn tại việc xuất-nhập khẩu hàng hoá hoặc vay mượn giữa các nước... Cân bằng cán cân thanh toán và ổn định tỷ giá hối đoái nhằm làm cho cán cân hương mại không có những “cú sốc lớn” . 2 Chức năng kinh tế của Chính phủ Khi thảo luận vai trò của chính phủ, chúng ta thường đương chấp nhận rằng chính phủ là người đề ra luật lệ đi đường. Để khẳng định vai trò của mình chính phủ thực hiện các chức năng của mình. Hiệu quả,như đã nói ở trên, các nền kinh tế trên thực tế đôi khi chịu thất bại thị trường. Ơ hệ thống kinh tế cạnh tranh, nhiều nhà sản xuất đơn giản không biết kỹ thuật sản xuất rẻ nhất, và chi phí sản xuất không hạ xuống mức tối thiểu được. Trên thị trường thực tế, một doanh nghiệp có thể có lãi bằng cách giữ giá cao cũng như bằng cách giữ mức sản xuất cao. Trong nhiều lĩnh vực khác có rất nhiều tác động bên ngoài, vì ô nhiễm độc hại hoặc vì kiến thức quí giá, đối với các nhà doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng. Trong mỗi một trường hợp này, một thất bại thị trường dẫn đến sản xuất không hiệu quả hoặc tiêu dùng không hiệu quả, và ở đây, chính phủ có thể đóng vai trò chữa bệnh. Nhưng trong khi đánh giá vai trò của chính phủ chữa bệnh kinh tế, chúng ta cũng phải cảnh giác với “ những thất bại của chính phủ “- đó là tình huống chính phủ gây thêm bệnh hoặc làm cho bệnh trầm trọng thêm. Cạnh tranh không hoàn hảo. Một sai lệch nghiêm trọng của cạnh tranh hoàn hảo là cạnh tranh không hoàn hảo hoặc nhân tố độc quyền. Chúng ta phải luôn luôn nhớ định nghĩa chính xác của nhà kinh tế về “người cạnh tranh hoàn hảo “. Mới chỉ có một vài địch thủ chưa đủ cho cạnh tranh hoàn hảo. Định nghĩa kinh tế về cạnh tranh hoàn hảo trên một thị trường là có đủ một số lượng doanh nghiệp hoặc mức độ cạnh tranh đến mức không có một doanh nghiệp nào có thể ảnh hưởng đến giá cả của hàng hoá đó. Một “ người cạnh tranh không hoàn hảo “ là một người mà hành động có thể ảnh hưởng đến giá của một mặt hàng. Thực tế, điều này có nghĩa là hầu hết các ông chủ doanh nghiệp, có lẽ trừ số hàng triệu nhà nông mà từng người một sản xuất ra một phần không đáng kể trong toàn bộ thu hoạch, đều là những người cạnh tranh không hoàn hảo. Ơ đầu cực cạnh tranh không hoàn hảo là nhà độc quyền, người duy nhất cung cấp một mặt hàng cụ thể. Toàn bộ sinh hoạt kinh tế là sự kết hợp giữa các nhân tố độc quyền và cạnh tranh. Cạnh tranh không hoàn hảo chứ không phải cạnh tranh hoàn hảo là hình thái chính. Nhưng nói rằng, Một doanh nghiệp có thể tác động tới giá cả sản phẩm của mình không có nghĩa là “ độc tài “. Phần sau chúng ta sẽ thấy rõ, một doanh nghiệp không thể định giá hàng hoàn toàn theo ý muốn riêng mà vẫn có lãi. Doanh nghiệp đó phải tính đến giá của các hàng có thể thay thế cho hàng của mình. Thậm chí nếu doanh nghiệp đó sản xuất ra một loại dầu đốt đã có mác với những đặc tính độc đáo, họ vẫn phải tính đến giá của các loại dầu đốt khác cũng như giá của củi, khí đốt và chất cách nhiệt. Như vậy, sức mạnh kinh tế của những người cạnh tranh không hoàn hảo luôn bị kiềm chế phần nào. Các ông chủ doanh nghiệp và công nhân vừa ưa vừa ghét cạnh tranh khi nó giúp chúng ta mở rộng thị trường. Nhưng chúng ta gọi nó là “ có tính chất đục đẽo”, “ không công bằng “ hoặc “ tai hại “ khi đối thủ cạnh tranh của ta làm chúng ta chúnh ta mất lợi nhuận. Những công nhân sống phụ thuộc vào giá bán sức lao động của mình trên thị trường có thể là những người đầu tiên la ó khi cạnh tranh nước ngoài đe doạ tiền lương của họ ở trong nước. Khi sức mạnh độc quyền- tức là khi một doanh nghiệp lớn có khả năng tác động đến giá cả ở một thị trường nào đó- thực sự trở thành quan trọng về kinh tế, chúng ta sẽ thấy giá cả cao hơn mức hiệu quả, kiểu mẫu méo mó về cầu và sản xuất, và lợi nhuận siêu thường. Những lợi nhuận này có thể bị biến thành điều quảng cáo lừa dối hoặc là thậm chí có thể mua ảnh hưởng và sự bảo hộ của ngành lập pháp. Chính phủ không coi mọi hoạt động của độc quyền là tất yếu. Từ những năm 1890 chính phủ Liên bang đã ra các luật chống độc quyền và luật lệ kinh tế để tăng hiệu lực của hệ thống thị trường cạnh tranh không hoàn hảo của chúng ta. Tác động bên ngoài. Một cách thứ hai để cơ chế thị trường không bị kiềm chế có thể dẫn đến kết quả không có hiệu quả xuất khẩu khi có nhân tố tác động bên ngoài. Vì xã hội chúng ta đã trở nên đông dân hơn xưa, vì sản xuất ngày càng dựa trên những quy trình sử dụng chất độc tác động bên ngoài đã từ những phiền toái nhỏ mà trở thành những mối đe doạ lớn. Kết quả là chính phủ đã sử dụng đến luật lệ điều tiết hành vi kinh tế như là một cách để ngăn chặn những tác động tiêu cực bên ngoài như ô nhiễm nước và không khí, khai thác đến cạn khoáng sản, chất thải-gây nguy hiểm thức ăn, uống thiếu an toàn và các chất phóng xạ... Mặt khác, khi kinh doanh, các nhà sản xuất luôn muốn thu được lợi nhuận cao nhất, nguồn vốn quay vòng nhanh... Do đó, một số loại hàng hoá quan trọng cho việc phát triển kinh tế, cho sự bảo đảm an ninh trật tự cho nền kinh tế lại không được đầu tư vì nó không mang lại lợi nhuận hoặc lợi nhuận quá ít. Vì thế chính phủ pnải đầu tư vào các loại hàng hoá này. “Sự can thiệp của chính phủ vào thị trường để nâng cao hiệu quả của nền kinh tế chứng tỏ những việc làm như thế không phải do ý thích “.(Paul A.Samuel). Công bằng. Cho đến nay chúng ta đã tập trung vào các thiếu sót trong vai trò chỉ đạo của bàn tay vô hình-những sự thiếu hoàn hảo có lẽ có thể sửa chữa được bằng sự can thiệp đúng đắn. Nhưng hãy tạm cho rằng nền kinh tế hoạt động hoàn toàn có hiệu quả-luôn ở trên ranh giới khả năng sản xuất và không bao giờ ở bên trong ranh giới này cả, luôn chọn đúng số lượng hàng hoá công cộng so với hàng hoá tư nhân.v.v... Nhưng thậm chí nếu hệ thống thị trường hoạt động hoàn hảo như vừa mô tả thì nhiều người vẫn không cho nó là lý tưởng. Ôn định. Ngoài vai trò thúc đẩy hiệu quả và công bằng, chính phủ cũng tham gia vào chức năng kinh tế vĩ mô là thúc đẩy sự ổn định kinh tế. Từ khi ra đời, chủ nghĩa tư bản đã từng gặp phải những thăng trầm chu kỳ của lạm phát (giá cả lên) và suy thoái (nạn thất nghiệp rất cao)mà ví dụ điển hình là thời kì siêu lạm phát ở Đức ,đại suy thoái ở Mĩ. Trong sự phát triển của mỗi quốc gia, không có một nền kinh tế ở quốc gia nào đều luôn ổn định mà nó luôn có sự biến động. Có những thời kỳ nền kinh tế cực kỳ phồn thịnh nhưng cũng có lúc nền kinh tế nằm trong vùng đại suy thoái do nhiều nguyên nhân: do lạm phát cao, những thay đổi của nền kinh tế thế giới... Do đó chính phủ góp phần làm cho nền kinh tế dần dần ổn định bằng cách đưa ra những chính sách hợp lý. Cơ chế quản lý kinh tế bao gồm hai nhóm yếu tố: Cơ chế thị trường-nhóm yếu tố chịu sự chi phối của “bàn tay vô hình “ tức các quy luật kinh tế thị trường . Nhóm yếu tố này mang tính chất tự điều chỉnh. Nhóm hai là sự quản lý của chính phủ ở tầm vĩ mô, nhóm này gắn liền với “bàn tay hữu hình “, tức các công cụ quản lý của nhà nước như: pháp luật, chính sách, kế hoạch. Tóm lại, chính phủ có vai trò thúc đẩy nền kinh tế hướng tới sự công bằng, hiệu quả và ổn định. Tuy nhiên chính phủ không thể hô hào nhân dân là phải làm thế này hay thế kia thì mới đạt được hiệu quả mà chính phủ phải sử dụng các công cụ của kinh tế vĩ mô đang có trong tay một cách hữu hiệu nhất để thực hiện vai trò không thể thiếu được đối với nền kinh tế đất nước . 3, Các công cụ quản lý vĩ mô của Chính phủ Nhà nước muốn thực hiện chức năng quản lý của mình thì phải có những công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế có hiệu quả . . Một công cụ chính sách là một biến số kinh tế chịu sự quản lý trực tiếp hay gián tiếp của chính phủ thay đổi công cụ chính sách này sẽ có tác động đến một hoặc nhiều mục tiêu kinh tế vĩ mô. a) Hệ thống pháp luật : Hệ thống pháp luật tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho các hoạt động kinh tế, đến mọi thành phần kinh tế ... nhằm tạo ra sự yên tâm cho các nhà đầu tư đồng thời đảm bảo trật tự kinh tế cũng như đảm bảo trật tự xã hội để nền kinh tế phát triển một cách lành mạnh. Nó đưa xã hội nói chung và nền kinh tế nói riêng vận động theo ý muốn chủ quan của chính phủ. Hệ thống pháp luật có thể được sửa đổi bổ sung cho phù hợp với từng giai đoạn cụ thể . b. Chính sách tài khoá Chính sách tài khoá bao gồm : Chi tiêu của Chính phủ và hệ thống thuế . Chi tiêu của Chính phủ : Chính phủ không thể không chi tiêu bởi vì để có thể đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định thì Nhà nước phải bỏ tiền để xây dựng những công trình phục vụ cho các hoạt động kinh tế như : đường sá , cầu cống , chợ , các ngành công nghiệp quan trọng … ngoài ra còn phải trả lương cho cán bộ công nhân viên chức , cảnh sát , quân đội …. Việc chi tiêu này của chính phủ cũng là một hình thức đầu tư nhưng nó khác với việc đầu tư của doanh nghiệp do nó không đem lại lợi nhuận cho Nhà nước nhưng bù lại nó lại đem lại những lợi ích rất thiết thực cho xã hội và nâng cao hiệu quả kinh tế . Trong thời kì lạm phát , Chính phủ phải cắt giảm chi tiêu của mình và sử dụng những công cụ kinh tế khác để đẩy lùi lạm phát . Như vậy , Chính phủ không thể chi tiêu một cách lãng phí ngân sách Nhà nước . Chính phủ luôn phải cân nhắc kĩ càng trong việc chi tiêu của mình để tránh thâm hụt ngân sách nhà nước . Trong trường hợp ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì Chính phủ phải huy động tiền gửi trong nhân dân hay vay nước ngoài để bù đắp ngân sách . Như vậy, Nhà nước nào cũng phải chi tiêu, nhưng không phải số tiền mà nhà nước đã chi tiêu là tự nhiên có mà phải có nguồn thu. Nguồn thu chính của nhà nước là thuế , còn những nguòn thu khác không đáng kể . Hệ thống thuế : Thuế khoá là khoản đóng góp mang tính pháp lệnh mà nhà nước bắt buộc mỗi công dân và các tổ chức kinh tế phải nộp để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính phủ. Tất cả các quốc gia đều quy định mức thuế suất với mỗi loại thuế và buộc mọi người phải tuân theo. Thuế còn ảnh hưởng đến việc đầu tư của mỗi doanh nghiệp, nếu thuế cao sẽ không khuyến khích đầu tư, việc giảm các sắc thuế đánh vào các khoản bổ sung cho đầu tư hoặc kinh doanh máy móc thiết bị mới sẽ kích thích đầu tư ở nhiều ngành từ đó làm tăng nguồn vốn của nền kinh tế dẫn đến GDP sẽ tăng lên trong tương lai. Ngoài ra, thuế còn ảnh hưởng đến việc xuất-nhập khẩu ở mỗi nước. Nếu các sắc thuế đánh vào các mặt hàng nhập khẩu cao thì sẽ hạn chế được việc nhập khẩu các mặt hàng đó, tương tự đối với xuất khẩu, từ đó chính phủ điều tiết được lượng hàng hoá nội địa và nhập ngoại. Như vậy, khi chính phủ muốn bảo hộ một loại mặt hàng nào đó ở trong nước thì chỉ cần tăng thuế nhập khẩu của mặt hàng đó lên cao đến mức các doanh nghiệp không muốn nhập khẩu loại mặt hàng đó nữa. Như vậy, để ổn định sản lượng gần với sản lượng tiềm năng thì chính phủ có thể sử dụng chính sách tài khoá bằng cách: Nếu các bộ phận của tổng cầu hạ thấp một cách không bình thường thì chính phủ phải kích thích nhu cầu bằng cách giảm thuế hoặc tăng chi tiêu hoặc là kết hợp cả hai cách. Trong trường hợp các bộ phận của tổng cầu cao hơn mức bình thường thì chính phủ có thể tăng thuế hoặc giảm chi tiêu hoặc kết hợp cả hai cách. Cính sách thuế đúng đắn không chỉ có mục đích tạo nguồn thu cho ngân sách mà còn khyuến khích sản xuất , xuất khẩu , điều tiết tiêu dùng ,khắc phục có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực trog nền kinh tế , thu hút được nhiều vốn đầu tư của nước ngoài , khuyến khích việc đầu tư có hiệu quả kinh tế - xã hội cao. c, Chính sách tiền tệ Trong nền kinh tế thị trường , tiền tệ đóng vai trò vô cùng quan trọng Chính sách tiền tệ là một cônh cụ kinh tế vĩ mô được dùng tương đối phổ biến của chính phủ. Chính sách tiền tệ chủ yếu tác động đến đầu tư tư nhân, hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và việc làm mong muốn. Chính sách tiền tệ có hai công cụ chủ yếu là lượng cung về tiền và lãi suất. Thực chất của chính sách tiền tệ là chính phủ thông qua ngân hàng trung ương kiểm soát việc cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế. Ngân hàng trung ương kiểm soát bằng cách tăng hoặc giảm lượng cung ứng tiền trong lưu thông thông qua lãi suất hoặc chứng khoán... Thông thường trong những thời kỳ lạm phát cao, ngân hàng trung ương nâng lãi suất lên cao (chính sách thắt chặt tiền tệ)để thu hút một khối lượng lớn tiền vào ngân hàng làm cholượng tiền trong lưu thông giảm. Hay trong thời kỳ nới lỏng tiền tệ,ngân hàng trung ương giảm lãi suất hay mua chứng khoán của dân chúng để tăng khối lượng tiền trong lưu thông. Như vậy, bằng cách thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ sẽ làm ảnh hưởng đến đầu tư,từ đó sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Bởi vì, tuy chính sách tiền tệ có tác động quan trọng đến tổng sản phẩm quốc dân (GNP) thực tế về mặt ngắn hạn. Song do tác động đến đầu tư, nên nó cũng có ảnh hưởng lớn đến tổng sản phẩm quốc dân tiềm năng về mặt dài hạn. d.Chính sách thu nhập: Chính sách thu nhập bao gồm hàng loạt các công cụ mà chính phủ sử dụng nhằm tác động trực tiếp đến tiền công, giá cả... để kìm chế lạm pháp. Chính sách này bao gồm nhiều biện pháp cứng rắn như:đồng lương,đồng giá; những quy tắc pháp lý ràng buộc sự thay đổi giá-lương-tiền..., đến các biện pháp linh hoạt như:việc hướng dẫn, khuyến khích bằng thuế thu nhập... Chính sách thu nhập chỉ đặc biệt có ý nghĩa trong thời kỳ lạm phát cao. Thực chất của chính sách thu nhập là chính sách về giá-lương-tiền. Trong thời kỳ lạm phát cao chính phủ thực hiện chính sách đônh giá và đông tiền lương, tức là cố định giá cả và tiền công trong một thời gian nhất định nhằm giảm bớt lượng tiền. e.Chính sách kinh tế đối ngoại: Trong nền kinh tế mở cửa thì không thể không có chính sách kinh tế đối ngoại để sự trao đổi mua bán giữa các nước được thuận lợi. Chính sách kinh tế đối ngoại bao gồm nhiều loại công cụ như: quản lý tỷ giá hối đoái, chính sách ngoại thương, trợ giá, hàng rào thuế quan, hạn nghạch. Việc tác động đến hàng hoá xuất-nhập khẩu vào giá cả hàng hoá đó đều thông qua các công cụ này.Chẳng hạn như để khuyến khích xuất khẩu thì chính phủ có thể tác động đến tỷ giá bằng cách hạ thấp tỷ giá xuống làm cho giá ngoại tệ giảm,điều đó là rất thuận lợi cho xuất khẩu, hoặc có thể tác động bằng cách hạ thuế suất các mặt hàng xuất khẩu, hoặc trợ giá... làm cho chi phí xuất khẩu hạ xuống từ đó làm giá thành hạ tạo điều kiện thuận lợi cho việc cạnh tranh với các hãng sản xuất cùng loại mặt hàng ở các nước khác. Như vậy, những biện pháp này nhằm duy trì sự cân bằng trên thị trường ngoại hối và giữ cho xuất-nhập khẩu theo như mong muốn của chính phủ . Tóm lại, đây là các công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu của chính phủ, ngoài ra còn có các công cụ khác như các kế hoạch, các chương trình phát triển...Việc sử dụng các công cụ kinh tế vĩ mô này trong từng thời kỳ hay ở mỗi quốc gia là không giống nhau. Vì vậy, khi sử dụng chúng cần phải xem xét điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở quốc gia mình . Qua nghiên cứu việc điều tiết của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ta có thể thấy được mặt tiến bộ vượt trội hơn hẳn so với trong nền kinh tế chỉ huy : Nền kinh tế chỉ huy là nền kinh tế mà ở đó Chính phủ trực tiếp giải quyết ba vấn đề cơ bản của nền kinh tế .Còn trong nền kinh tế thị trường có sj điều tiết của Nhà nước thì cả Chính phủ và thị trường đều tham gia giải quyết những vấn đề cơ bản của nền kinh tế . Ba vấn đề đó là : sản xuát cái gì , sản xuất như thế nào , và sản xuất cho ai . Sản xuất cái gì : trong nền kinh tế chỉ huy , Nhà nước sẽ trực tiếp phân bố những nguồn lực ( đất đai , nguyên liệu , vốn kỹ thật , lao động…) cho các ngành , địa phương , các đơn vị kinh tế (công ty, xí nghiệp…); Nhà nước qui định công ty này , xí nhgiệp này sẽ sản xuất cái gì , số lượng là bao nhiêu , nhà nước cấp vốn , nguyên liệu . Còn trong kinh tế thị trường , Chính phủ cho phép các doanh nghiệp sản xuất bất cứ mặt hàng nào đem lại lợi nhuận cho họ trong khuôn khổ của pháp luật . Còn Chính phủ tham gia sản xuất những hàng công cộng hay còn gọi là cơ sở hạ tầng phục vụ cho các quá trình kinh tế . Bên cạnh đó Nhà nước cũng tham gia sản xuất những mặt hàng tư nhân như sắt , thép … Sản xuất như thế nào : trong nền kinh tế chỉ huy , Nhà nước quyết định kỹ thuật , công nghệ , cách thức sản xuất . Còn trong kinh tế thị trường , Nhà nước sẵn sàng nhập những công nghệ kĩ thuật tốt nhất mà Nhà nước có thể và can thiệp tới những công ty nhập những ccông nghệ có hại cho cộnh đồng . Sản xuất cho ai: Trong nền kinh tế chỉ huy , Nhà nước phân chia tổng sản phẩm quốc dân cho từng đơn vị , từng gia đình , từng cá nhân . Nghĩa là , các đơn vị sản xuất sau khi hoàn thành chỉ tiêu đã được đặt ra thì nộp lại cho Nhà nước .Nhà nước sẽ phân phối đều những mặt hàng đó đến các ngành , các gia đình thông qua tem phiếu . Trong kinh tế thị trường , cả Nhà nước và thị trường đều tham gia quá trình phân phối sản phẩm. Nhà nước có những chính sách trợ cấp cho người già , người tàn tật , trợ cấp khó khăn . Đối với một số mặt hàng , Nhà nước khyuến khích bằng những chính sách như : giảm thuế , trợ giá … Qua đây ta thấy, nền kinh tế chỉ huy hoạt động kém hiệu quả hơn hẳn so với nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của chính phủ do chỉ được điều hành bằng mệnh lệnh, sản xuất không thông qua cung- cầu trên thị trường, bên cạnh đó hệ thống cơ quan nhà nước rất đồ sộ làm cho nhà nước phải có chi phí quá lớn vào hệ thống này. Trên thực tế cơ chế kinh tế chỉ huy này đã được áp dụng ở các nước XHCN trước đây và nó đã bị tan rã . Chính vì vậy việc chuyển đổi cơ cấu cấu kinh tế ở nức ta là một quyết định đúng đắn. Phần II Vị trí kinh tế của chính phủ nước CHXHCV VIệT NAM TRONG GIAI ĐOạN “ CÔNG NGHIệP HOá HIệN ĐạI HOá ĐấT NƯớc ” Đất nước ta đang tự khẳng định mình bằng công cuộc “Công nghiệp hóa và hiện đại hóa “. Mặc dù chúng ta mới đang lẫm chẫm từng bước nhưng có sự điều tiết của chính phủ ở tầm vĩ mô thì cái đích trước mắt nhất định chúng ta sẽ sớm đạt được. Để có được những thành tựu đáng kể của ngày hôm nay, chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã bao phen phải đương đầu với những khó khăn thử thách. Điều đó cho thấy vai trò to lớn của chính phủ Việt Nam trong quản lý nền kinh tế của đất nước nói chung và nhất là trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hóa và hiệh đại hóa “đất nước. Thực tế chứng minh rằng: Chính phủ Việt Nam luôn đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế của đất nước . I-/ Vị TRí KINH Tế CủA CHíNH PHủ VIệT NAM TRONG ThờI Kì CHUYểN ĐổI CƠ CHế Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2010 được thông qua tại Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định sự lựa chọn phát triển nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa . Sự lựa chọn đó bắt nguồn từ nhận thức rõ những sai lầm trong việc xây dựng thể chế kinh tế theo mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính và cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp. Mô hình này quá đề cao vai trò thúc đẩy và mở đường của quan hệ sản xuất, mà không tính đến quy luật về sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, đem chủ nghĩa xã hội đối lập với thị trường. Kết quả của mô hình đó là nền kinh tế kém phát triển, thị trường hạn hẹp ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35239.doc
Tài liệu liên quan