lời mở đầu
Kinh tế thị trường từng là động lực thúc đẩy nền kinh tế tư bản phát triển vô cùng nhanh chóng từ khi nó ra đời.Thực tế đã chứng minh cơ chế thị trường làm cho nền kinh tế trở nên năng động và mang lại hiệu quả kinh tế cao.Nền kinh tế thị trường luôn là sự cạnh tranh giưã các hãng sản xuất với nhau, do đó họ phải luôn tìm tòi, sáng tạo các phương thức sản xuất mới để mang lại lợi nhuận cao trong kinh doanh.Chính vì thế nó làm cho nền kinh tế của đất nước ngày càng phát triển và phồn
40 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2127 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Vai trò của chính phủ trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thịnh. Tuy nhiên cơ chế thị trường không phải là một hoạt động kinh tế hoàn hảo mà nó mang trên mình mặt trái của nó như: sự cạnh tranh không hoàn hảo, vấn đề ngoại ứng, sự phân hoá giaù nghèo…và các vấn đề xã hội khác. Chính vì vậy, Nhà nước đã tham gia vào quá trình hoạt động của nền kinh tế để giảm nhẹ hoặc khắc phục những hậu quả của nó.Nhưng trên thực tế không thể tồn tại một nền kinh tế chỉ được điều hành bằng mệnh lệnh và cũng không có nền kinh tế nào hoạt động trên cơ sở tự nguyện.Chính phủ ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong quá trình hoạt động của nền kinh tế. Đặc biệt là đối với Việt Nam- một nước mới chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự đIều tiết vĩ mô của Nhà nước nên còn có nhiều mới mẻ và bỡ ngỡ nên chónh phủ Việt Nam lại càng có vai trò to lớn trong việc hương nền kinh tế đi theo đúng mục tiêu đã chọn. Với hiểu biết của một sinh viên mới được hướng dẫn học tập môn này, em xin được trình bày những hiểu biết của mình về vai trò và các chức năng cơ bản chính phủ trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế đồng thơì liên hệ đến vị trí kinh tế của chính phủ ở nước Cộng hoà XHCN Việt Nam trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất” nước.
Phần I
vai trò và các chức năng cơ bản của chính phủ trong
điều tiết vĩ mô nền kinh tế
1.Mục tiêu của kinh tế vĩ mô:
Các quốc gia đều luôn luôn hướng về mục tiêu chính là: sản lượng cao, công ăn việc làm đầy đủ, ổn định giá cả và cán cân ngoại thương
Mục tiêu thứ 1: là sản lượng cao cả trên thực tế lẫn tiềm năng. “Ngày nay, thước đo cuối cùng để đánh giá thành công kinh tế, là khả năng của một nước để tạo ra sản lượng cao và tăng nhanh được sản lượng hàng hoá và dịch vụ kinh tế” . Có nghĩa là tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao.
Mục tiêu thứ 2: là công ăn việc làm ở mức cao và thất nghiệp thấp ở mức thất nghiệp tự nhiên. Bởi vì một quốc gia càng tạo ra được nhiều công ăn việc làm thì nền kinh tế đó đang ở trong thời kỳ phát triển cao.
Mục tiêu thứ 3: là ổn định giá cả và tỷ lệ lạm phát thấp. Ôn định giá cả là làm cho sự biến động của giá cả là không lớnvà không đột ngột để giới kinh doanh có thể đoán được nhằm định hướng đầu tư cho mình. Khi giá cả của tất cả hàng hoá đồng loạt tăng lên thì người ta gọi là lạm phát. Các quốc gia luôn muố duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức một con số hoặc hai con số ở mức thấp có thể chấp nhận được, các chính phủ tìm mọi cách để giữ tỷ lệ lạm phát dao động quanh tỷ lệ lạm phát nói trên.
Mục tiêu thứ 4: Cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, ổn địn tỷ giá hối đoái. Hầu hết nền kinh tế của các nước đều là nền kinh tế mở cửa, buôn bán với nước ngoài do đó luôn tồn tại việc xuất-nhập khẩu hàng hoá hoặc vay mượn giữa các nước... Cân bằng cán cân thanh toán và ổn định tỷ giá hối đoái nhằm làm cho cán cân hương mại không có những “cú sốc “lớn .
2. Các chức năng kinh tế cơ bản của chính phủ:
Khi thảo luận vai trò của chính phủ, chúng ta thường đương chấp nhận rằng chính phủ là người đề ra luật lệ đi đường. Để khẳng định vai trò của mình chính phủ thực hiện các chức năng của mình.
a- Hiệu quả: Thực tế ở các nước có nền kinh tế thị trường trên đôi khi cũng chịu thất bại thị trường. Ơ hệ thống kinh tế cạnh tranh, nhiều nhà sản xuất đơn giản không biết kỹ thuật sản xuất rẻ nhất, và chi phí sản xuất không hạ xuống mức tối thiểu được. Trên thị trường thực tế, một doanh nghiệp có thể có lãi bằng cách giữ giá cao cũng như bằng cách giữ mức sản xuất cao. Trong nhiều lĩnh vực khác có rất nhiều tác động bên ngoài, vì ô nhiễm độc hại hoặc vì kiến thức quí giá, đối với các nhà doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng. Trong mỗi một trường hợp này, một thất bại thị trường dẫn đến sản xuất không hiệu quả hoặc tiêu dùng không hiệu quả, và ở đây, chính phủ có thể đóng vai trò chữa bệnh. Nhưng trong khi đánh giá vai trò của chính phủ chữa bệnh kinh tế, chúng ta cũng phải cảnh giác với “ những thất bại của chính phủ “- đó là tình huống chính phủ gây thêm bệnh hoặc làm cho bệnh trầm trọng thêm.
Cạnh tranh không hoàn hảo. Một sai lệch nghiêm trọng của cạnh tranh hoàn hảo là cạnh tranh không hoàn hảo hoặc nhân tố độc quyền.
Chúng ta phải luôn luôn nhớ định nghĩa chinnhs xác của nhà kinh tế về “người cạnh tranh hoàn hảo “. Mới chỉ có một vài địch thủ chưa đủ có cạnh tranh hoàn hảo. Định nghĩa kinh tế về cạnh tranh hoàn hảo trên một thị trường là có đủ một số lượng doanh nghiệp hoặc mức độ cạnh tranh đến mức không có một doanh nghiệp nào có thể ảnh hưởng đến giá cả của hàng hoá đó. Một “ người cạnh tranh không hoàn hảo “ là một người mà hành động có thể ảnh hưởng đến giá của một mặt hàng. Thực tế, điều này có nghĩa là hầu hết các ông chủ doanh nghiệp, có lẽ trừ số hàng triệu nhà nông mà từng người một sản xuất ra một phần không đáng kể trong toàn bộ thu hoạch, đều là những người cạnh tranh không hoàn hảo. Ơ đầu cực cạnh tranh không hoàn hảo là nhà độc quyền, người duy nhất cung cấp một mặt hàng cụ thể.
Toàn bộ sinh hoạt kinh tế là sự kết hợp giữa các nhân tố độc quyền và cạnh tranh. Cạnh tranh không hoàn hảo chứ không phải cạnh tranh hoàn hảo là hình thái chính. Nhưng nói rằng, Một doanh nghiệp có thể tác động tới giá cả sản phẩm của mình không có nghĩa là “ độc tài “. Phần sau chúng ta sẽ thấy rõ, một doanh nghiệp không thể định giá hàng hoàn toàn theo ý muốn riêng mà vẫn có lãi. Doanh nghiệp đó phải tính đến giá của các hàng có thể thay thế cho hàng của mình. Thậm chí nếu doanh nghiệp đó sản xuất ra một loại dầu đốt đã có mác với những đặc tính độc đáo, họ vẫn phải tính đến giá của các loại dầu đốt khác cũng như giá của củi, khí đốt và chất cách nhiệt. Như vậy, sức mạnh kinh tế của những người cạnh tranh không hoàn hảo luôn bị kiềm chế phần nào.
Các ông chủ doanh nghiệp và công nhân vừa ưa vừa ghét cạnh tranh khi nó giúp chúng ta mở rộng thị trường. Nhưng chúng ta gọi nó là “ có tính chất đục đẽo”, “ không công bằng “ hoặc “ tai hại “ khi đối thủ cạnh tranh của ta làm chúng ta chúnh ta mất lợi nhuận. Những công nhân sống phụ thuộc vào giá bán sức lao động của mình trên thị trường có thể là những người đầu tiên la ó khi cạnh tranh nước ngoài đe doạ tiền lương của họ ở trong nước.
Khi sức mạnh độc quyền- tức là khi một doanh nghiệp lớn có khả năng tác động đến giá cả ở một thị trường nào đó- thực sự trở thành quan trọng về kinh tế, chúng ta sẽ thấy giá cả cao hơn mức hiệu quả, kiểu mẫu méo mó về cầu và sản xuất, và lợi nhuận siêu thường. Những lợi nhuận này có thể bị biến thành điều quảng cáo lừa dối hoặc là thậm chí có thể mua ảnh hưởng và sự bảo hộ của ngành lập pháp.
Chính phủ không coi mọi hoạt động của độc quyền là tất yếu. Từ những năm 1890 chính phủ Liên bang đã ra các luật chống độc quyền và luật lệ kinh tế để tăng hiệu lực của hệ thống thị trường cạnh tranh không hoàn hảo của chúng ta.
Tác động bên ngoài. Một cách thứ hai để cơ chế thị trường không bị kiềm chế có thể dẫn đến kết quả không có hiệu quả xuất khẩu khi có nhân tố tác động bên ngoài.
Nhưng trên thực tế, nhiều tác động qua lại diễn ra bên ngoài các thị trường. Doanh nghiệp sử dụng tài nguyên hiếm như không khí hoặc nước sạch mà không trả tiền cho những người phải sống trong bầu không khí bị ô nhiễm hoặc nước bị bẩn. Doanh nghiệpB, đóng ở giữa một khu vực dân cư thuê một người bảo vệ mặt mũi dữ tợn canh giữ nhà máy của mình;như vậy làm cho bọn lưu manh vì sợ cũng tránh hành nghề ở các nhà dân lân cận. Trong những trường hợp đó, một cái xấu về kinh tế và một cái tốt về kinh tế đã được chuyển giao tới những đối tượng bên ngoài các thị trường. Tác động bên ngoài xảy ra khi doanh nghiệp hoặc con người tạo ra chi phí lợi ích cho doanh nghiệp khác hoặc nguời khác mà những doanh nghiệp hoặc con người nào không được nhận đúng số tiền cần được trả hoặc không phải trả đúng số chi phí phải trả.
Vì xã hội chúng ta đã trở nên đông dân hơn xưa, vì sản xuất ngày càng dựa trên những quy trình sử dụng chất độc tác động bên ngoài đã từ những phiền toái nhỏ mà trở thành những mối đe doạ lớn. Kết quả là chính phủ đã sử dụnh đến luật lệ điều tiết hành vi kinh tế như là một cách để ngăn chặn những tác động tiêu cực bên ngoài như ô nhiễm nước và không khí, khai thác đến cạn khoáng sản, chất thải-gây nguy hiểm thức ăn, uống thiếu an toàn và các chất phóng xạ...
Những người phê phán việc quy định luật lệ than phiền rằng hoạt động kinh tế của chính phủ có tính chất cưỡng bức không cần thiết. Chính phủ giống như cha
mẹ, luôn nói không được: Không được bán thiếu cân, không được sử dụng lao động trẻ em, không được để ống khói nhà máy nhả khói ra bầu trời, không được bán hoặc hút Cocaine.v.v...
Mặt khác, khi kinh doanh, các nhà sản xuất luôn muốn thu được lợi nhuận cao nhất, nguồn vốn quay vòng nhanh... Do đó, một số loại hàng hoá quan trọng cho việc phát triển kinh tế, cho sự bảo đảm an ninh trật tự cho nền kinh tế lại không được đầu tư vì nó không mang lại lợi nhuận hoặc lợi nhuận quá ít. Vì thế chính phủ pnải đầu tư vào các loại hàng hoá này. “Sự can thiệp của chính phủ vào thị trường để nâng cao hiệu quả của nền kinh tế chứng tỏ những việc làm như thế không phải do ý thích “.(Paul A.Samuel).
b- Công bằng: Cho đến nay chúng ta đã tập trung vào các thiếu sót trong vai trò chỉ đạo của bàn tay vô hình-những sự thiếu hoàn hảo có lẽ có thể sửa chữa được bằng sự can thiệp đúng đắn. Nhưng hãy tạm cho rằng nền kinh tế hoạt động hoàn toàn có hiệu quả-luôn ở trên ranh giới khả năng sản xuất và không bao giờ ở bên trong ranh giới này cả, luôn chọn đúng số lượng hàng hoá công cộng so với hàng hoá tư nhân.v.v... Nhưng thậm chí nếu hệ thống thị trường hoạt động hoàn hảo như vừa mô tả thì nhiều người vẫn không cho nó là lý tưởng. Tại sao vậy?
Thứ nhất, hàng hoá đi theo số phiếu bằng đồng đô la chứ không phải là theo nhu cầu lớn nhất. Một con mèo của người giàu có thể được nhận số sữa mà một đứa trẻ nghèo cần có để được khoẻ mạnh. Có phsải là do cung cầu hoạt động kém không? Hoàn toàn không vì cơ chế thị trường đang làm đúng chức năng-nó đặt hàng vào tay người có thể trả tiền nhiều nhất, người có nhiều phiếu bằng tiền nhất. Những người bảo vệ cơ chế giá cả và những người phê phán nó cần thừa nhận rằng một hệ thống thị trường có hiệu quả có thể gây ra sự bất bình đẳng lớn. Nếu một nước chi tiêu về thức ăn cho súc vật làm cảnh nuôi trong nhà nhiều hơn là về giáo dục đại học cho người nghèo thì đó là một khuyết điểm của việc phân phối thu nhập, chứ không phải là của thị trường. Nhưng, một kết quả như vậy có thể không chấp nhận được về mặt chính trị hoặc đạo lý. Một xã hội không cần chấp nhận kết quả của những thị trường có tính cạnh tranh-sự sống còn của những kẻ sống sót-coi đó là quyền thiêng liêng hoặc công lý trên đời. Bàn tay vô hình có thể dẫn chúng ta đến giới hạn bên ngoài của ranh giới khả năng sản xuất nhưng không nhất thiết nó phân phối sản lượng đó một cách có thể chấp nhận được. Và một khi xã hội dân chủ không thích sự phân phối phiếu đô-la trong mức hệ thống thị trường “thả lỏng “thì nó có biện pháp thay đổi kết quả thông qua những chính sách phân phối lại.
Thứ hai, do tỉ suất thuế thấp không thể giúp gì cho những người hoàn toàn không có thu nhập.trong những thập kỷ gần đây chính phủ đã xây dựng một hệ thống hỗ trợ thu nhập: Giúp đỡ cho người già, người mù, người bị tàn tật, cũng như bảo hiểm thất nghiệp cho những người không có công ăn việc làm. Hệ thống trả tiền chuyển dịch này tạo ra một “mạng lưới an toàn “bảo vệ những người không may khỏi bị huỷ hoại về kinh tế. Cuối cùng, chính phủ đôi khi trợ cấp tiêu dùng cho những nhóm có thu nhập thấp. Nhờ quá trình tăng trưởng kinh tế và những chương trình phúc lợi tạo ra mức sống tối thiểu, phần lớn cảnh túng quẫn ghê gớm và dễ nhìn thấy của chủ nghĩa tư bản thế kỷ 19 đã bị xoá bỏ, một kiểu nghèo đói dai dẳng hơn của thế kỷ 20 còn tồn tại .
c- ổn định. Ngoài vai trò thúc đẩy hiệu quả và công bằng, chính phủ cũng tham gia vào chức năng kinh tế vĩ mô là thúc đẩy sự ổn định kinh tế. Từ khi ra đời, chủ nghĩa tư bản đã từng gặp phải những thăng trầm chu kỳ của lạm phát (giá cả lên) và suy thoái (nạn thất nghiệp rất cao). Đôi khi những hiện tượng này rất dữ dội, như thời kỳ siêu lạm phát ở Đức trong những năm 1920, đến mức tiếp sau đó là rối loạn xã hội, cách mạng và chiến tranh. Đôi lúc, như thời kỳ Đại suy thoái ở Mỹ trong những năm 1930, khó khăn gian khó kéo dài một thập kỷ vì các nhà lãnh đạo chính trị không có đủ hiểu biết kinh tế để có biện pháp phục hồi kinh tế. Gần đây hơn, đầu những năm 1980, chính phủ Mỹ và các nước khác đã có biện pháp nhằm giảm tỷ lệ lạm phát cao. Những biện pháp này đã dẫn đến thất nghiệp cao và lạm phát thì giảm. Nhưng trong thành công lại có hạt giống của thất bại. Bằng cách bảo đảm một thời kỳ nhiều công ăn việc làm và tăng trưởng nhanh, nhiều nước đã vô tình nuôi dưỡng một nền kinh tế trong đó nhân dân bắt đầu cho rằng phồn vinh là lẽ đương nhiên. Nhiều nước đảm bảo cho công nhân và người hưởng thu nhập định kỳ mức sống trong điều kiện thời tiết xấu như mức sống chỉ có thể có được với thời tiết tốt. Trong các hệ thống giá cả, tiền lương và hỗ trợ thu nhập có những điểm cứng nhắc. Khi những rối loạn của những năm 1970 xảy ra sau hai lần tăng mạnh giá dầu lửa, mất mùa ngô, trục trặc trong hệ thống tài chính quốc tế-người ta đã không giữ được lời hứa. Trong sự phát triển của mỗi quốc gia, không có một nền kinh tế ở quốc gia nào đều luôn ổn định mà nó luôn có sự biến động. Có những thời kỳ nền kinh tế cực kỳ phồn thịnh nhưng cũng có lúc nền kinh tế nằm trong vùng đại suy thoái do nhiều nguyên nhân: do lạm phát cao, những thay đổi của nền kinh tế thế giới... Do đó chính phủ góp phần làm cho nền kinh tế dần dần ổn định bằng cách đưa ra những chính sách hợp lý. Các mục tiêu của đời sống kinh tế vĩ mô không phải là vấn đề để bàn cãi gay gắt nữa. Nhưng các nước có thể đạt được các mục tiêu đó một tốt nhất như thế nào? Một nước muốn cải tiến thành tựu của mình có thể có những sự lựa chọn gì? Trả lời cho câu hỏi này nằm một phần trong các công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô .
Cơ chế quản lý kinh tế bao gồm hai nhóm yếu tố: Cơ chế thị trường-nhóm yếu tố chịu sự chi phối của “bàn tay vô hình “ tức các quy luật kinh tế thị trường . Nhóm yếu tố này mang tính chất tự điều chỉnh. Nhóm hai là sự quản lý của chính phủ ở tầm vĩ mô, nhóm này gắn liền với “bàn tay hữu hình “, tức các công cụ quản lý của nhà nước như: pháp luật, chính sách, kế hoạch... Như vậy không thể điều tiết sự vận động của nền kinh tế thị trường khi chỉ có một trong hai yếu tố trên, điều đó giống như người ta định “vỗ tay bằng một tay “
Tóm lại, chính phủ có vai trò thúc đẩy nền kinh tế hướng tới sự công bằng, hiệu quả và ổn định. Tuy nhiên chính phủ không thể hô hào nhân dân là phải làm thế này hay thế kia thì mới đạt được hiệu quả mà chính phủ phải sử dụng các công cụ của kinh tế vĩ mô đang có trong tay một cách hữu hiệu nhất để thực hiện vai trò không thể thiếu được đối với nền kinh tế đất nước .
3.Các công cụ điều tiết của chính phủ :
Trong nhiều trường hợp chính phủ không thể ngồi chờ cơ chế tự ổn định của kinh tế thị trường được mà phải nhanh chóng, trực tiếp sử dụng các cộng cụ của kinh tế vĩ mô để điều tiết nền kinh tế. Một công cụ chính sách là một biến số kinh tế chịu sự quản lý trực tiếp hay gián tiếp của chính phủ , thay đổi công cụ chính sách này sẽ có tác động đến một hoặc nhiều mục tiêu kinh tế vĩ mô .
a.Hệ thống luật pháp :
Nó là hành lang an toàn cho các hoạt động kinh tế, đến mọi thành phần kinh tế ...nhằm tạo ra sự yên tâm cho các nhà đầu tư đồng thời đảm bảo trật tự kinh tế cũng như đảm bảo trật tự xã hội để nền kinh tế phát triển một cách lành mạnh. Bằng cách đưa ra các đạo luật, chính phủ đã buộc mọi người dân hay mọi tổ chức kinh tế phải tuân theo. Hệ thống luật pháp xuyên suốt quá trình phát triển của xã hội và trong các hoạt động kinh tế. Nó đưa xã hội nói chung và nền kinh tế nói riêng vào khuôn khổ theo ý muốn chủ quan của chính phủ. Hệ thống luật pháp ở mỗi nước là có thể khác nhau và có thể sửa đổi, bổ sung ở mọi thời điểm để phù hợp với từng giai đoạn của mỗi nước.
b. Chính sách tài khoá:
Chính sách tài khoá bao gồm chi tiêu của chính phủ và thuế.
. Chi tiêu của chính phủ:
Các chính phủ không thể không chi tiêu bởi vì để tạo hiệu quả cho nền kinh tế thì chính phủ phải bỏ tiền ra để xây dựng đường xá, các ngành công nghiệp quan trọng như điện..., đồng thời phải chi trả lương cho cán bộ viên chức, quân đội. cảnh sát, trợ cấp... Chi tiêu của chính phủ cũng tương tự như việc đầu tư của các doanh nhgiệp nhưng khác ở chỗ là chính phủ không thu được lợi nhuận trong cuộc đầu tư này. Nhưng bù lại nó nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, làm cho xã hội có sự công bằng hơn. Bởi vì chi tiêu của chính phủ là một bộ phận của tổng cầu do đó nó làm cho tổng sản phẩm quốc dân thay đổi. Trong trường hợp sản lượng của nền kinh tế còn dưới mức sản lượnh tiềm năng thì chính phủ tăng cường chi tiêu đẻ làm tăng tổnh cầu từ đó làm cho sản lượng tiến gần sản lượng tiềm năng. Trong trường hợp ngược lại, sản lượng vượt qua sản lượng tiềm năng hay trong thời kì lạm phát cao, chính phủ cắt giảm chi tiêu của mình để cùng với các công cụ vĩ mô khác làm giảm lạm phát. Điều đó chứng tỏ chính phủ không thể chi tiêu một cách lãng phí nguồn ngân sách mà vấn đề là chi tiêu thế nào cho hợp lí trong từng thời kỳ. Bên cạnh đó, chính phủ cần phải kiểm soát chặt chẽ nhu cầu chi tiêu của mình để hạn chế tối đa việc thâm hụt ngân sách. Trong trường hợp thiếu hụt ngân sách chính phủ phải vay tiền dân chúng hoặc vay nước ngoài để bù đắp ngân sách.
Tóm lại, tất cả các chính phủ ở các quốc gia đều phải chi tiêu nhưng không phải tự nhiên có tiền để chi tiêu mà phải có nguồn thu. Nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước là thuế, còn các nguồn thu khác là không đáng kể.
.Thuế khoá :
Thuế khoá là khoản đóng góp mang tính pháp lệnh mà nhà nước bắt buộc mỗi công dân và các tổ chức kinh tế phải nộp để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính phủ. Tất cả các quốc gia đều quy định mức thuế suất với mỗi loại thuế và buộc mọi người phải tuân theo. Các loại thuế đều làm giảm thu nhập của người dân dẫn tới mức chi tiêu cho tiêu dùng của các hộ gia đình giảm. Thuế còn ảnh hưởng đến việc đầu tư của mỗi doanh nghiệp, nếu thuế cao sẽ không khuyến khích đầu tư, việc giảm các sắc thuế đánh vào các khoản bổ sung cho đầu tư hoặc kinh doanh máy móc thiết bị mới sẽ kích thích đầu tư ở nhiều ngành từ đó làm tăng nguồn vốn của nền kinh tế dẫn đến GDP sẽ tăng lên trong tương lai. Ngoài ra, thuế còn ảnh hưởng đến việc xuất-nhập khẩu ở mỗi nước. Nếu các sắc thuế đánh vào các mặt hàng nhập khẩu cao thì sẽ hạn chế được việc nhập khẩu các mặt hàng đó, tương tự đối với xuất khẩu, từ đó chính phủ điều tiết được lượng hàng hoá nội địa và nhập ngoại. Như vậy, khi chính phủ muốn bảo hộ một loại mặt hàng nào đó ở trong nước thì chỉ cần tăng thuế xuất-nhập khẩu của mặt hàng đó lên cao đến mức các doanh nghiệp không muốn nhập khẩu loại mặt hàng đó nữa.
Như vậy, để ổn định sản lượng gần với sản lượng tiềm năng thì chính phủ có thể sử dụng chính sách tài khoá bằng cách: Nếu các bộ phận của tổng cầu hạ thấp một cách không bình thường thì chính phủ phải kích thích nhu cầu bằng cách giảm thuế hoặc tăng chi tiêu hoặc là kết hợp cả hai cách. Trong trường hợp các bộ phận của tổng cầu cao hơn mức bình thường thì chính phủ có thể tăng thuế hoặc giảm chi tiêu hoặc kết hợp cả hai cách.
c. Chính sách tiền tệ:
Chính sách tiền tệ là một cônh cụ kinh tế vĩ mô được dùng tương đối phổ biến của chính phủ. Chính sách tiền tệ chủ yếu tác động đến đầu tư tư nhân, hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và việc làm mong muốn.
Chính sách tiền tệ có hai công cụ chủ yếu là lượng cung về tiền và lãi suất. Thực chất của chính sách tiền tệ là chính phủ thông qua ngân hàng trung ương kiểm soát việc cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế. Ngân hàng trung ương kiểm soát bằng cách tăng hoặc giảm lượng cung ứng tiền trong lưu thông thông qua lãi suất hoặc chứng khoán... Thông thường trong những thời kỳ lạm phát cao, ngân hàng trung ương nâng lãi suất lên cao (chính sách thắt chặt tiền tệ)để thu hút một khối lượng lớn tiền vào ngân hàng làm cholượng tiền trong lưu thông giảm. Hay trong thời kỳ nới lỏng tiền tệ,ngân hàng trung ương giảm lãi suất hay mua chứng khoán của dân chúng để tăng khối lượng tiền trong lưu thông. Như vậy, bằng cách thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ sẽ làm ảnh hưởng đến đầu tư,từ đó sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Bởi vì, tuy chính sách tiền tệ có tác động quan trọng đến tổng sản phẩm quốc dân (GNP) thực tế về mặt ngắn hạn. Song do tác động đến đầu tư, nên nó cũng có ảnh hưởng lớn đến tổng sản phẩm quốc dân tiềm năng về mặt dài hạn.
d. Chính sách thu nhập:
Chính sách thu nhập bao gồm hàng loạt các công cụ mà chính phủ sử dụng nhằm tác động trực tiếp đến tiền công, giá cả... để kìm chế lạm pháp.
Chính sách này bao gồm nhiều biện pháp cứng rắn như:đồng lương,đồng giá; những quy tắc pháp lý ràng buộc sự thay đổi giá-lương-tiền..., đến các biện pháp linh hoạt như: việc hướng dẫn, khuyến khích bằng thuế thu nhập...
Chính sách thu nhập chỉ đặc biệt có ý nghĩa trong thời kỳ lạm phát cao. Thực chất của chính sách thu nhập là chính sách về giá-lương-tiền. Trong thời kỳ lạm phát cao chính phủ thực hiện chính sách đônh giá và đông tiền lương, tức là cố định giá cả và tiền công trong một thời gian nhất định nhằm giảm bớt lượng tiền.
e. Chính sách kinh tế đối ngoại:
Trong nền kinh tế mở cửa thì không thể không có chính sách kinh tế đối ngoại để sự trao đổi mua bán giữa các nước được thuận lợi. Chính sách kinh tế đối ngoại bao gồm nhiều loại công cụ như: quản lý tỷ giá hối đoái, chính sách ngoại thương, trợ giá, hàng rào thuế quan, hạn nghạch. Việc tác động đến hàng hoá xuất-nhập khẩu vào giá cả hàng hoá đó đều thông qua các công cụ này.Chẳng hạn như để khuyến khích xuất khẩu thì chính phủ có thể tác động đến tỷ giá bằng cách hạ thấp tỷ giá xuống làm cho giá ngoại tệ giảm,điều đó là rất thuận lợi cho xuất khẩu, hoặc có thể tác động bằng cách hạ thuế suất các mặt hàng xuất khẩu, hoặc trợ giá... làm cho chi phí xuất khẩu hạ xuống từ đó làm giá thành hạ tạo điều kiện thuận lợi cho việc cạnh tranh với các hãng sản xuất cùng loại mặt hàng ở các nước khác. Như vậy, những biện pháp này nhằm duy trì sự cân bằng trên thị trường ngoại hối và giữ cho xuất-nhập khẩu theo như mong muốn của chính phủ .
Tóm lại, đây là các công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu của chính phủ, ngoài ra còn có các công cụ khác như các kế hoạch, các chương trình phát triển...Việc sử dụng các công cụ kinh tế vĩ mô này trong từng thời kỳ hay ở mỗi quốc gia là không giống nhau. Vì vậy, khi sử dụng chúng cần phải xem xét điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở quốc gia mình .
Phần II
Cụ thể hoá vị trí kinh tế của Chính phủ ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
I- vị trí của Chính phủ Việt Nam trong cơ chế quản lý quốc gia.
1. Nhà nước.
Hệ thống chính trị của Việt Nam thay đổi đáng kể nhằm hỗ trợ cho chế độ pháp quyền cũng như tăng cường tính đại diện và trách nhiệm giải trình. Về nguyên tắc, Việt Nam có một cơ cấu quản lý quốc gia mang tính thống nhất trong đó quyền lực chính trị tập trung vào Quốc hội và một hệ thống chính trị một đảng. Hiến pháp năm 1992 chỉ rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước xã hội” (điều 4). Hiến pháp năm 1992 cũng quy định Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất đại diện cho nhân dân. Quốc hội cũng là cơ quan lập pháp cao nhất và thực hiện “quyền kiểm soát tối cao” đối với tất cả mọi hoạt động của Nhà nước. Tất cả các cơ quan Nhà nước như Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đều chịu trách nhiệm trước Quốc hội và được Quốc hội uỷ quyền. Chính phủ là cơ quan hành pháp của Quốc hội và cũng là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước.
Hiện nay vẫn còn tồn tại những thách thức tương đối lớn trên con đường tiến tới cơ chế thị trường ở mức độ cao hơn trên phương diện tạo ra sự nhất trí rõ ràng hơn về hướng đi và tốc độ của cải cách cũng như năng lực của các cơ quan Chính phủ và của cán bộ để thực hiện có hiệu quả cải cách. Chính phủ đang cố gắng bảo đảm sự cân bằng giữa lý tưởng xã hội chủ nghĩa về một sự công bằng cho tất cả mọi người – mà điều đó cần sự can thiệp nhiều hơn của Nhà nước với tư cách là người bảo vệ quyền lợi của nhân dân với nhưng đòi hỏi mang tính thực dụng của nền kinh tế hướng theo thị trường – mà ở đó các quy luật thị trường sẽ điều hành nền kinh tế còn Nhà nước có xu hướng chỉ tập trung vào khuôn khổ chính sách, các chiến lược chung, bảo đảm thuận lợi cho phát triển và làm nhiệm vụ giám sát. Hiện vẫn còn chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa chức năng “cầm lái” (can thiệp thông qua chính sách) và chức năng “chèo thuyền” (can thiệp trực tiếp bằng hành động) trong vai trò của Nhà nước. Tuy nhiên, để các lực lượng sản xuất được huy động tốt hơn và việc phân bổ các nguồn lực hợp lý hơn, điều quan trọng là vai trò can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào nền kinh tế phải tiếp tục giảm bớt và tăng cường hơn nữa vai trò hoạch định chính sách và xây dựng khuôn khổ pháp lý của Nhà nước . Mặc dụ đã liên tục đạt được tiến bộ trong việc sửa đổi các bộ luật cũ và soạn thảo các bộ luật mới, song Việt Nam vẫn cần phải xây dựng một khuôn khổ pháp lý toàn diện hơn, rõ ràng và thuận lợi nhằm tạo cơ sở cho sự ra đời và phát triển của một khu vực tư nhân và một xã hội dân sự lành mạnh để cuối cùng có thể chia sẻ trách nhiệm với Chính phủ, ở mức độ tiin cậy cao, đối với sự nghiệp phát triển của đất nước.
Chính phủ đã nhận thức được các vấn đề như tham nhũng, lạm dụng chức quyền và nhu cầu tôn trọng cácc quyền công dân và đòi hỏi giải quyết các vấn đề này một cách toàn diện trong khuôn khổ của quá trình cải cách. Tham nhũng phần nào đó là kết quả của việc trả lương chưa gắn với kết quả làm việc cũng như của việc bố trí công tác. Chính phủ đã bắt tay vào giải quyết các vấn đề này. Ngoài ra còn có một số thách thức khác như tăng cường tính công khai minh bạch và nâng cao nhận thức của quần chúng về công tác chính trị cũng như khuyến khích họ tham gia vào công tác này.
Mặc dù có nhiều bộ luật đã được ban hành song trong nhiều trường hợp việc thực hiện có hiệu quả và nhất quán vẫn còn hạn chế. Có những vấn đề nảy sinh trong quá trình xây dựng các quy định thi hành luật cũng như trong quá trình triển khai thi hành trên thực tế. Việc khuyến khích tăng cường tham khảo các cơ quan có liên quan ở bên ngoài trong quá trình phân tích chính sách và luật pháp có thể nâng cao tính công khai minh bạch của quá trình này cũng như đảm bảo sự tham gia đóng góp của nhiều đối tượng hơn. Điều đó còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện và chấp hành tốt những bộ luật sau khi ban hành.
Để tăng cường tính công khai minh bạch và khả năng tiếp cận của luật pháp. Chính phủ đã thể hiện mong muốn đẩy mạnh hơn nữa công tác phổ biến và tuyên truyền về hệ thống pháp lý cũng như khuyến khích sự tham gia của quần chúng. Để thực hiện điều đó, các kỳ hợp Quốc hội giờ đây đã được truyền hình hai chỉ thị về phổ biến luật pháp và Luật Khiếu nại Tố cáo đã được ban hành năm 1998; và các chương trình hỗ trợ pháp lý ở cấp cộng đồng đã được xây dựng. Tuy nhiên, vẫn cần phải tăng cường mạng lưới thông tin và hệ thống tuyên truyền phổ biến về pháp luật cũng như đảm bảo mở rộng các mạng lưới và hệ thống này tới những nơi xa xôi nhất.
Việc chia sẽ những thông tin tin cậy, dễ hiểu và hữu dụng trong các tầng lớp xã hội là đặc biệt quan trọng đối với sự tham gia tích cực của nhân dân. Việc này không chỉ giới hạn trong việc phổ biến và tuyên truyền pháp luật mà còn cần mở rộng sang các lĩnh vực thông tin khác. Việc công bố ngân sách năm 1999 là một bước quan trọng hướng tới sự chia sẽ thông tin. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều việc phải làm. Tăng cường và huấn luyện người dân tham gia sẽ làm cho các cuộc thảo luận chính sách trở nên có ý nghĩa hơn. Đến lượt mình, việc thảo luận chính sách được cải thiện sẽ làm cho quá trình ra quyết định và bản thân quyết định tốt hơn. Như vậy tăng cường chất lượng chia sẻ thông tin sẽ đẩy mạnh hơn nữa tính công khai minh bạch, cho phép mọi tác nhân trở nên có trách nhiệm và trách nhiệm giải trình cao hơn trong công tác quản lý Nhà nước và quản lý phát triển ở Việt Nam. Trong quá trình chia sẻ thông tin, các phương tiện thông tin đại chúng phải đảm bảo rằng họ vươn tới được những bộ phận dân cư xa xôi nhất. Họ phải thực sự là kênh truyền thông tin qua lại một cách hiệu quả giữa công dân và các cơ qua Nhà nước.
Chính quyền địa phương không thể thực hiện bất cứ một chức năng quản lý hành chính nào nếu những trách nhiệm đó không được quy định cụ thể rõ ràng trong luật pháp quốc gia. Trên tinh thần đó, tiếp theo những qui định của hiến pháp năm 1992, Luật tổ chức hội đồng Nhân dân và Uỷ ban Nhân dân (năm 1994) và Pháp lệnh về Nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của Hội đồng Nhân dân và Uỷ ban Nhân dân các cấp (1996) đã được ban hành nhằm tạo ra khuôn khổ pháp lý cơ bản cho tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Luật Ngân sách (1996, 1998) đã chính thức phân cấp quản lý tài chính giữa các cấp chính quyền, giao những trách nhiệm quan trọng về quản lý ngân sách cho chính quyền địa phương, đặc biệt là cấp tỉnh.
Quan hệ giữa các cấp chính quyền mang tính phức tạp ở nhiều khía cạnh. Thứ nhất, Hội đồng Nhân dân ở tất cả các cấp chịu sự giám sát và chỉ đạo của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ . Thứ hai, Uỷ ban Nhân dân chịu trách nhiệm trước Hội đồng Nhân dân cùng cấp cũng như trước cơ quan hành pháp ở cấp cao hơn (có thể là Uỷ ban Nhân dân cấp cao hơn hoặc Chính phủ, tuỳ theo cấp của Uỷ ban Nhân dân đó). Thứ ba, một số Bộ có cơ quan chi nhánh đặt ở mỗi địa phương. Những cơ quan này vừa chịu sự quản lý hành chính của Uỷ ban nhân dân địa phương lại vừa chịu sự quản lý về chức năng chuyên môn của cơ quan cấp cao hơn trực thuộc Bộ chủ quản. Thứ tư, hầu hết các nguồn thu từ thuế thuộc quyền quản lý của Chính phủ Trung ương. Chính quyền địa phương, về lý thuyết, được phân bổ các nguồn thu theo chỉ tiêu do Trung ương quy định. Tuy nhiên, trên thực tế, việc phân bổ các nguồn thu và các khoản chi ở địa phương không phải được quyết định một cách nghiêm ngặt từ trung ương mà thường được quyết định._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35024.doc