Vai trò của bên Việt Nam ở Công ty Liên doanh du lịch Quốc tế Hải Phòng - Thực trạng, bài học & giải pháp

mở đầu Hải Phòng nằm trên tuyến du lịch của khu vực phía Bắc:Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh với lượng khách du lịch hằng năm khoảng 10.000 người. Bên cạnh đó, lượng khách nước ngoài đến Hải Phòng như thuỷ thủ tàu viễn dương,quan chức cơ quan ngoại giao, đại diện các hãng và các đoàn thương nhân nước ngoài đến Hải Phòng bằng đường hàng không, đường bộ không phải là nhỏ.Do đó, việc phát triển hệ thống khách sạn và tổ chức các trò chơi giải trí cho khách nước ngoài đã trở thành một nhu cầu cấp thiết

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1212 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của bên Việt Nam ở Công ty Liên doanh du lịch Quốc tế Hải Phòng - Thực trạng, bài học & giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đối với ngành du lịch Hải Phòng nói riêng và đối với các cấp, các ngành của Hải Phòng nói chung. Trên cơ sở đó,Thành phố Hải Phòng cũng đã nâng cấp và tổ chức xây dựng mới một số khách sạn kèm theo các trò chơi giải trí và tham quan du lịch quần đảo Cát Bà, Vịnh Bái Tử Long, Vịnh Hạ Long. Tuy nhiên, do các phương tiện phục vụ và trình độ có hạn nên không thể đáp ứng nhu cầu và trình độ ngày càng cao về mặt nghỉ ngơi và vui chơi giải trí của khách quốc tế,vì vậy lượng khách du lịch đến Hải phòng còn ít, chưa xứng với tiềm năng du lịch của thành phố, nguồn thu ngoại tệ của ngành du lịch còn rất thấp. Để giải quyết khó khăn nói trên, Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng cho phép thành lập Công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải phòng với mục đích cùng nhau liên doanh xây dựng một trung tâm giải trí quốc tế với Casino tại khu du lịch Đồ Sơn kèm theo việc xây dựng mới một khách sạn quốc tế 4 sao và cải tạo nâng cấp nhà hàng Vạn Hoa, khu giải trí Hòn Dáu. Trong quá trình thực tập, được sự hướng dẫn của cô giáo cũng như sự giúp đỡ của công ty Liên doanh du lịch Quốc tế Hải Phòng, em nhận thấy việc nghiên cứu vai trò của Bên Việt Nam trong công ty Liên doanh nói chung và công ty Liên doanh du lịch Quốc tế nói riêng là rất cần thiết. Việc nghiên cứu này sẽ phục vụ tốt cho quá trình học tập và làm việc của em sau này và cũng là góp phần nghiên cứu, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Bên Việt Nam ở công ty Liên doanh du lịch Quốc tế Hải Phòng. Vì vậy, em chọn đề tài nghiên cứu là “Vai trò của Bên Việt Nam ở công ty Liên doanh du lịch Quốc tế Hải Phòng - thực trạng, bài học và giải pháp” với đối tượng nghiên cứu là Bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng. Do đó, luận văn đi nghiên cứu trong phạm vi công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng đồng thời kết hợp tham khảo một số công ty khác để đề tài có sức thuyết phục hơn. Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được trình bày làm 3 chương: Chương I. Những vấn đề cơ bản của Doanh nghiệp liên doanh Nước ngoài Chương II:Thực trạng vai trò của bên Việt Nam ở công ty Liên doanh Du lịch quốc tế Hải phòng Chương III:Bài học kinh nghiệm và một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng Hy vọng với đề tài này, chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về vai trò của Bên Việt Nam trong công ty Liên doanh, với ví dụ tiêu biểu là vai trò của Bên Việt Nam ở công ty Liên doanh du lịch Quốc tế Việt Nam. Chương I Những vấn đề cơ bản của Doanh nghiệp liên doanh Nước ngoài Cùng với xu hướng toàn cầu hoá, việc các thành phần kinh tế khác quốc gia cùng nhau hợp tác đã trở nên phổ biến trên toàn thế giới. Sự hình thành các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hợp đồng hợp tác kinh doanh, … đã chứng tỏ điều này. Trong các hình thức đó thì hình thức doanh nghiệp liên doanh là nổi bật hơn cả, nó chiếm phần lớn trong số những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là ở Việt Nam. Để có thể hiểu rõ hơn về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói chung và doanh nghiệp Liên doanh nói riêng, dưới đây em đi nghiên cứu về doanh nghiệp Liên doanh, từ đó mới xây dựng nền tảng cho việc nghiên cứu Công ty liên doanh quốc tế Hải Phòng. 1.Doanh nghiệp liên doanh:Khái niệm và những đặc trưng cơ bản 1.1.Khái niệm: Doanh nghiệp liên doanh là hình thức được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. ở bất kỳ các quốc gia nào, doanh nghiệp liên doanh cũng là một tổ chức kinh doanh quốc tế của các bên tham gia có quốc tịch khác nhau trên cơ sở cùng sở hữu về vốn góp, cùng quản lý, cùng phân chia lợi nhuận và cùng chia sẻ rủi ro để tiến hành các hoạt động kinh doanh theo các điều khoản cam kết trong hợp đồng liên doanh và điều lệ doanh nghiệp phù hợp với luật pháp của nước sở tại. Tuy nhiên, do có xuất phát điểm khác nhau, sự nghiên cứu trên các giác độ khác nhau mà xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau về doanh nghiệp liên doanh, như định nghĩa của Hoa Kỳ, của tổ chức OECD …. Khi bàn về doanh nghiệp liên doanh tại Việt Nam, chúng ta thấy doanh nghiệp liên doanh được xác định rất rõ trong nghị định 24/CP của chính phủ và luật đầu tư ngước ngoài sửa đổi năm 2000. ở đây, doanh nghiệp liên doanh được hiểu như là một doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa hai bên hay nhiều bên để tiến hành đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam (trong trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp liên doanh có thể được thành lập trên cơ sở hiệp định ký kết giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ các nước khác). Để có thể hiểu sâu hơn nữa về hình thức doanh nghiệp liên doanh ở Việt Nam, chúng ta đi xem xét một hình thức kinh doanh quốc tế nữa cũng phổ biến ở Việt Nam, đó là hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Như vậy, về bản chất thì doanh nghiệp Liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là hoàn toàn khác nhau, nếu ở doanh nghiệp Liên doanh là theo cơ chế hợp tác giữa hai bên thông qua các công việc như cùng góp vốn, cùng chia sẽ rủi ro, cùng hưởng lợi nhuận, … thì ở doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có hiện tượng tự góp vốn, tự quản lý, tự chịu trách nhiệm trước kết qủa kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài. Trên đây là khái niệm chung về doanh nghiệp liên doanh, khái niệm doanh nghiệp liên doanh tại Việt Nam và để hiểu rõ hơn về doanh nghiệp liên doanh chúng ta xem xét những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp liên doanh. 1.2. Những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp liên doanh nước ngoài: Khi đi tìm hiểu bất kỳ một hình thức đầu tư quốc tế nào, vấn đề đầu tiên mà chúng ta phải nghiên cứu, đó chính là khía cạnh pháp lý. Theo luật pháp quốc tế nói chung và luật Việt Nam nói riêng thì khía cạnh pháp lý của doanh nghiệp liên doanh được thể hiện ở chỗ: doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân mới được thành lập ở nước sở tại, nó là một thực thể kinh doanh hoàn toàn độc lập, chịu sự chi phối của pháp luật của nước sở tại và pháp luật quốc tế có liên quan. Mặt khác, doanh nghiệp là một doanh nghiệp hoạt động theo đúng luật liên doanh và điều lệ doanh nghiệp của chính doanh nghiệp đó đề ra. Tại Việt Nam, hình thức doanh nghiệp liên doanh cũng tuân thủ ở luật pháp quốc tế, có nhiều là doanh nghiệp liên doanh cũng mang tư cách pháp nhân Việt Nam, hoạt động theo hợp đồng liên doanh và điều lệ liên doanh, tuân thủ theo pháp luật của Việt Nam, … Khía cạnh pháp lý của doanh nghiệp liên doanh là rất quan trọng, nó chi phối tới hoạt động kinh doanh của chính doanh nghiệp liên doanh. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về doanh nghiệp liên doanh, chúng ta không thể không nghiên cứu tới khía cạnh kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh. Về mặt bản chất, việc hình thành doanh nghiệp liên doanh chính là phục vụ cho hoạt động kinh doanh, đây chính là khía cạnh đúng trong toàn bộ những đặc trưng của doanh nghiệp liên doanh. Trước hết, khi nghiên cứu về khía cạnh kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh, chúng ta phải thấy một đặc trưng cơ bản là trong doanh nghiệp liên doanh có việc cùng nhau góp vốn để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp liên doanh. ở đây, các bên liên doanh có thể cùng nhau góp vốn vào liên doanh theo một tỷ lệ vốn nhất định. ở Việt Nam, bên tham gia liên doanh của phía Việt Nam góp ít nhất 20% tổng số vốn pháp định. Các bên trong doanh nghiệp liên doanh tham gia góp vốn không nhất thiết bằng tiền mà có thể góp vốn bằng máy móc, đất đai, nhà xưởng, kinh nghiệm, uy tín của công ty, … Bên Việt Nam thường tham gia góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Do có sự cùng sở hữu về vốn ở doanh nghiệp liên doanh, vì vậy xuất hiện yếu tố cùng tham gia quản lý trong doanh nghiệp liên doanh. ở bất kỳ một doanh nghiệp liên doanh nào, các bên tham gia liên doanh cũng đều cử người tham gia trong hội đồng quản trị của liên doanh. Thông thường, việc quy định số thành viên của từng bên tham gia liên doanh là phụ thuộc vào tỷ lệ vốn của bên đó trong tổng số vốn pháp định, do đó tính chất quyết định các vấn đề sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh cũng phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp. ở Việt Nam, các Bên liên doanh không chỉ góp vốn vào Hội đồng quản trị và còn phân công người vào ban điều hành của doanh nghiệp liên doanh theo tỷ lệ vốn góp. Bên nào có tỷ lệ vốn cao hơn thì được cử người giữ chức Tổng giám đốc ( hoặc giám đốc ) còn bên kia giữ chúc Phó tổng giám đốc thứ nhất (hoặc Phó giám đốc). Cũng do yếu tố cùng góp vốn, các bên tham gia lao động cũng cùng kinh doanh với nhau. Trong quá trình tham gia vào quá trình hoạt động của doanh nghiệp, do vậy các bên liên doanh sẽ cùng nhau chia sẻ rủi ro, mạo hiểm trong hoạt động sản xuất – kinh doanh. Lại do yếu tố cùng góp vốn, nên các bên tham gia trong doanh nghiệp liên doanh cùng nhau phân phối lợi nhuận. Thông thường, việc phân phối lợi nhuận này cũng chia theo tỷ lệ vốn góp, trừ những ngành kinh doanh có lợi nhuận siêu nghạch mà các bên có thể chia không nhờ tỷ lệ vốn góp. Việc phân chia lợi nhuận này được thực hiện sau khi doanh nghiệp liên doanh thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về tài chính đối với nước sở tại. Ngoài ra, một trong những khía cạnh không thể thiếu được của bất kỳ một doanh nghiệp liên doanh nào chính là khía cạnh văn hoá. Do doanh nghiệp liên doanh là sự hợp tác của các bên tham gia liên doanh có quốc tịch khác nhau, do vậy doanh nghiệp liên doanh là nơi hội tụ nhiều nền văn hoá khác nhau, phong tục tập quán khác nhau. Do vậy, trong doanh nghiệp liên doanh thường xảy ra những bất đồng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh. Trong doanh nghiệp liên doanh, yếu tố văn hoá này cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của doanh nghiệp liên doanh, nếu chúng ta biết tôn trọng, hiểu biết văn hoá của nhau thì thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp là 1 , nếu chúng ta không biết tôn trọng văn hoá của nhau thì nó gây bất lợi cho hoạt động của doanh nghiệp là 10. Như vậy, ta có thể thấy vai trò to lớn của yếu tố văn hoá trong hoạt động của doanh nghiệp liên doanh. 1.3. Phân loại doanh nghiệp liên doanh nước ngoài: Nhằm mục đích thuận tiện cho việc nghiên cứu, các nhà kinh tế đã tiến hành việc phân loại doanh nghiệp liên doanh nước ngoài. Khi tiến hành phân loại doanh nghiệp liên doanh nước ngoài, các nhà kinh tế phân chia doanh nghiệp liên doanh theo các tiêu thức như về mặt pháp lý, về lĩnh vực kinh doanh, về các giai đoạnh của quá trình sản xuất. Khi tiến hành phân loại doanh nghiệp liên doanh theo lĩnh vực kinh doanh, các nhà kinh tế học chia doanh nghiệp liên doanh nướcngoài thành các loại doanh nghiệp như doanh nghiệp chế tạo lắp ráp, doanh nghiệp chế biến, doanh nghiệp dịch vụ, doanh nghiệp nghiên cứu và triển khai. Việc phân loại này cho ta biết rõ về lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh nước ngoài, như vậy tạo thuận lợi cho việc giám sát, quản lý của nước sở tại đối với liên doanh, đồng thời cũng giúp các nhà nghiên cứu có cái nhìn tổng quát nhất về doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc phân loại này cũng không thể chỉ ra cho chúng ta loại hình kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh, do đó cũng gặp một số bất lợi. Để khắc phục điểm yếu này, các nhà kinh tế phân chia doanh nghiệp liên doanh nước ngoài theo các giai đoạn của quá trình tái sản xuất, bao gồm các loại sau: doanh nghiệp cung cấp nguyên liệu, doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp thương mại, … Như vậy, việc phân chia doanh nghiệp liên doanh nước ngoài theo căn cứ các này đã chỉ rõ loại hình kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh nước ngoài, cho ta cái nhìn rõ hơn về doanh nghiệp liên doanh mà ta đang quan tân, song việc phân chia này vẫn chưa thực sự rõ cho việc nghiên cứu về loại hình doanh nghiệp Liên doanh. Cũng với khái niệm, những đặc trưng cơ bản củ doanh nghiệp liên doanh, việc phân loại doanh nghiệp liên doanh nước ngoài cho chúng ta cái nhìn tổng quát về doanh nghiệp liên doanh nước ngoài, tuy nhiên việc nghiên cứu này chỉ có tính sơ lược. Điểu hiểu rõ hơn về doanh nghiệp liên doanh, chúng ta đi xem xét bộ máy tổ chức của doanh nghiệp liên doanh nói chung và doanh nghiệp liên doanh tại Việt Nam nói riêng. 2.Bộ máy quản lý của doanh nghiệp liên doanh: Bộ máy quản lý của doanh nghiệp liên doanh là một vấn đề không thể thiếu trong sự hình thành và phát triển doanh nghiệp liên doanh, nó đóng một vai trò cũng quan trọng trong sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Để hình thành được một bộ máy quản lý hợp lý thì doanh nghiệp cần phải đảm bảo thực hiện các nguyên tắc như nguyên tắc thống nhất mục tiêu, nguyên tắc hiệu lực điều hành, nguyên tắc hiệu qủa kinh tế. ở đây, nguyên tắc thống nhất mục tiêu được thể hiện là việc hình thành bộ máy quản lý sao cho phải đạt được mục tiêu chung, đã xác định của doanh nghiệp, còn nguyên tắc hiệu lực điều hành thì yêu cầu việc hình thành và tổ chức bộ máy quản lý của doanh nghiệp liên doanh phải đảm bảo tốt việc điều hành từ trên xuống dưới và ngược lại. Đối với nguyên tắc hiệu quả kinh tế thì yêu cầu việc hình thành bộ máy quản lý của doanh nghiệp liên doanh phải đảm bảo thực hiện hiệu quả cao nhất, tức là chi phí nhỏ nhất nhưng thuận lợi nhất cho hoạt động – kinh doanh, đây chính là nguyên tắc quan trọng nhất trong việc tổ chức bộ máy doanh nghiệp. Hiện nay, nguyên tắc hiệu qủa kinh tế là mối quan tâm hàng đầu của hầu hết các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp liên doanh nói riêng, nó đóng vai trò quyết định trong việc hình thành bộ máy quản lý của doanh nghiệp. Trên cơ sở những nguyên tắc đó, thông thường một doanh nghiệp liên doanh thường hình thành bộ máy quản lý như sau: Hình 1: Bộ máy quản lý của doanh nghiệp liên doanh Ban Giám đốc Hội đồng quản trị Bộ phận quản trị nghiên cứu thiếp thị Bộ phận quản trị kỹ thuật công nghệ Bộ phận quản trị vật tư Bộ phận quản trị nhân sự Bộ phận quản trị tài chính Bộ phận quản trị sản xuất Để hiểu rõ hơn về hội đồng quản trị, ban Giám đốc và các bộ phận của doanh nghiệp liên doanh, dưới đây chúng ta đi nghiên cứu kỹ từng vấn đề có thể thấy rõ được bộ máy quản lý của doanh nghiệp liên doanh. Hội đồng quản trị Nói về Hội đồng quản trị là nói về cơ quan lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp, là đại diện về mặt sở hữu của doanh nghiệp, có quyền quyết định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp. Theo nghị định số 24/ CP và luật đầu tư nước ngoài ban hành năm 2000, Hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh có những chức năng sau: * Định hướng các vấn đề quan trọng như: xây dựng chiến lược kinh doanh, hoạt động tài chính, công nghiệp sản xuất và các mối quan hệ với số chiến lược trong và ngoài nước. * Giám sát, kiểm tra, đánh giá hoạt động của cán bộ quản lí và tình hình hoạt động của các doanh nghiệp. * Quy định các cán bộ chủ chốt của công ty như: Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc, Kế toán trưởng. Hội đồng quản trị là một tập thể bao gồm nhiều thành viên, bao gồm người đại diện của các bên đối tác, số lượng người tương ứng với phần vốn góp, do đó từng thành viên trong Hội đồng quản trị không thể ra được quyết định, không thể ra lệnh cho nhân viên mà phải thông qua quyết định của Hội đồng quản trị. Từng thành viên trong Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm cá nhân trước Hội đồng quản trị về công việc được phân công. Hội đồng quản trị bao gồm là chủ tịch Hội đồng quản trị, phó chủ tịch Hội đồng quản trị và các thành viên Hội đồng quản trị. Trên nguyên tắc thoả thuận và được sự cho phép của cơ quan chủ quản, Bộ kế hoạch đầu tư, Thủ tướng Chính phủ thì sẽ quyết định được Chủ tịch hội đồng quản trị và Phó chủ tịch Hội đồng quản trị.Thông thường thì nếu Chủ tịch Hội đồng quản trị là người nước ngoài thì Phó chủ tịch Hội đồng quản trị là người Việt Nam và ngược lại. ở đây, Chủ tịch Hội đồng quản trị có trách nhiệm và quyền hạn đối với doanh nghiệp liên doanh như sau: * Triệu tập và chủ trì các cuộc họp của Hội đồng quản trị. * Giữ vai trò chủ chốt trong việc giám sát, đôn đốc thực hiện các quy định của Hội đồng quản trị. Như vậy, về quyền hạn và trách nhiệm cũng tương đương như thành viên trong Hội đồng quản trị, chủ tịch Hội đồng quản trị không thể ra quyết định mà chỉ thực hiện các quy định của Hội đồng quản trị; chỉ khác ở chỗ là chủ tịch Hội đồng quản trị là người triệu tập và chủ trì các cuộc họp của Hội đồng quản trị. Trên cơ sở chức năng, quyền hạn của Hội đồng quản trị và quyền hạn nghĩa vụ của các thành viên trong Hội đồng quản trị, cho nên việc ra quyết định của Hội đồng quản trị là quyết định có tính chất tập thể, được các bên đem ra thảo luận và cùng nhau ra quyết định. Việc ra quyết định của Hội đồng quản trị bao gồm 2 nguyên tắc sau: nguyên tắc nhất trí và nguyên tắc theo đa số. Những vấn đề quan trọng sau đây thì phải được Hội đồng quản trị quyết định theo nguyên tắc nhất trí giữa các thành viên của Hội đồng quản trị: * Sửa đổi, bổ xung điều lệ của doanh nghiệp. * Bổ nhiệm, miễn nhiệm Ban điều hành gồm Tổng giám đốc và Phó tổng giám đốc thứ nhất của doanh nghiệp.Tuy nhiên, nếu các bên liên doanh có thể thoả thuận với nhau về các vấn đề khác, tuân theo nguyên tắc nhất trí thì có thể ghi trong điều lệ của doanh nghiệp liên doanh. Các vấn đề khác ngoài vấn đề tuân theo nguyên tắc nhất trí thì sẽ tuân theo nguyên tắc đa số. Đối với các vấn đề được tuân theo nguyên tắc nhất trí nhưng không đạt được sự nhất trí giữa các thành viên trong Hội đồng quản trị, gây ảnh hưởng không tốt tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh ngiệp thì Hội đồng quản trị có thể lựa chọn các phương án sau đây: - Đưa vấn đề này ra Hội đồng hoà giải. Hội đồng này được thành lập theo nguyên tắc thoả thuận giữa các bên liên doanh gồm có các thành viên đại diện cho mỗi bên với số lượng ngang nhau và đại diện của Bộ kế hoạch và đầu tư tham gia với tư cách là chủ tịch Hội đồng hoà giải. Quyết định của Hội đồng hoà giải phải được thông qua theo nguyên tắc đa số và là quyết định cuối cùng; được các bên tham gia chấp thuận. - Đề nghị Bộ kế hoạch và đầu tư làm hoà giải. Như vậy, quyết định của Bộ kế hoạch và đầu tư sẽ là quyết định cuối cùng, buộc các bên tham gia phải chấp thuận. Bên cạnh đó Hội đồng quản trị cũng phải có một quy chế hoạt động. Hội đồng quản trị họp mỗi năm một lần.Các cuộc họp của Hội đồng quản trị do chính chủ tịch Hội đồng quản trị triệu tập; bất kì cuộc họp nào cũng phải có ít nhất 2/3 số thành viên của Hội đồng quản trị đại diện cho mỗi bên liên doanh tham gia. Các thành viên của Hội đồng quản trị có thể uỷ quyền bằng văn bản cho người đại diện tham gia cuộc họp và biểu quyết thay về các vấn đề được uỷ quyền. Chủ tịch Hội đồng quản trị được uỷ quyền cho Phó chủ tịch hội đồng quản trị triệu tập và chủ trì cuộc họp của Hội đồng quản trị. Nhiệm lỳ của Hội đồng quản trị do các bên liên doanh thoả thuận nhưng không quá 5 năm. Ban giám đốc Trong doanh nghiệp liên doanh, nếu Hội đồng quản trị là đại diện về mặt sở hữu của doanh nghiệp thì ban giám đốc chính là nơi điều hành mọi hoạt động của doanh nghiệp hàng ngày. Ban giám đốc của doanh nghiệp gồm có Tổng giám đốc ,các Phó tổng giám đốc. ở đây, ban giám đốc là những người được ủy thác của Hội đồng quản trị nhằm mục đích quản lý, điều hành hoạt động của doanh nghiệp theo mục tiêu, phương hướng mà Hội đồng quản trị đã đề ra. Thực chất ở đây ban giám đốc có thể cho Hội đồng quản trị thuê nhưng đại đa số hiện nay thì ban giám đốc là do người của các bên liên doanh đề ra. Nếu như phía nước ngoài cử người giữ chức Tổng giám đốc thì phía Việt Nam cử người giữ chức Phó tổng giám đốc và ngược lại. Việc quyết định cho bên nào được cử người giữ chức Tổng giám đốc, bên nào được cử người giữ chức Phó tổng giám đốc là tuỳ thuộc vào Hội đồng quản trị quyết định và do sự thỏa thuận giữa các bên. Trên thực tế hiện nay việc quy định người làm Tổng giám đốc và Phó tổng giám đốc là do tỷ lệ góp vốn giữa bên Việt Nam và bên nước ngoài. Nếu bên Việt Nam góp số vốn chiếm đa số trong tổng số vốn thì phía Việt Nam được quyền đề cử chức Tổng giám đốc, còn phía nước ngoài được đề cử chức Phó tổng giám đốc và ngược lại. Trong trường hợp hợp đồng liên doanh, điều lệ liên doanh quy định mỗi bên được đề cử người giữ chức vụ Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc thứ I thì người của bên nào do bên đó có quyền thay thế khi cần thiết với điều kiện không làm ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp. Việc đề cử này phải được thông báo bằng văn bản cho các bên khác ít nhất là 30 ngày trước khi thay thế. Hội đồng quản trị có quyền yêu cầu các bên cử người thay thế người khác khi không đáp ứng nhu cầu Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc thứ I có trách nhiệm thực hiện các quyết định của Hội đồng quản trị. Trường hợp quyết định của Hội đồng quản trị không phù hợp với tình hình thực tế, tuỳ từng trường hợp cụ thể, nếu thấy cần thiết, Tổng giám đốc và Phó tổng giám đốc thứ I có thể đề nghị Chủ tịch Hội đồng quản trị triệu tập cuộc họp bất thường của Hội đồng quản trị đề xem xét, giải quyết. Tổng giám đốc và Phó tổng giám đốc thứ I có quyền từ chối chấp hành các quyết định của cá nhân các thành viên Hội đồng quản trị hoặc các quyết định trái pháp luật nước sở tại của Hội đồng quản trị. ở trong doanh nghiệp liên doan, Hội đồng quản trị đóng vai trò rất quan trọng trong việc phân định quyền hạn giữa Tổng giám đốc và phó tổng giám đốcI. Hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh có trách nhiệm phân biệt trách nhiệm và quyền hạn một cách rõ ràng giữa Tổng giám đốc và Phó tổng giám đốc thứ I. Tuy nhiên, Tổng giám đốc và Phó tổng giám đốc thứ I đều phải chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về mọi hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là các hoạt động sau: * Tổ chức triển khai, điều hành, giám sát việc thực hiện chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh, theo dõi và báo cáo kết quả thực hiện các quyết định của Hội đồng quản trị. *Thay mặt doanh nghiệp ký hợp đồng lao động với người lao động, thỏa ước lao động tập thể với đại diện tập thể người lao động tại doanh nghiệp phù hợp với các quy định của Nhà nước Việt Nam. *Trong phạm vi quyền hạn theo uỷ nhiệm của Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc và Phó tổng giám đốc thứ I tiến hành tổ chức ký kết các hợp đồng kinh tế để phục vụ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như các hợp đồng lao động, cung cấp nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm, cung cấp nhiên liệu năng lượng… *Đại diện cho doanh nghiệp trong giao dịch với các cơ quan Nhà nước, với các bên thứ ba và trước tòa án về tất cả mọi vấn đề có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp trong khuôn khổ điều lệ doanh nghiệp đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Tuy nhiên giữa Tổng giám đốc và Phó tổng giám đốc cũng được phân chia quyền hạn rõ ràng. Tổng giám đốc thường là người đưa ra quyết định cuối cùng trong điều hành các hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp, do vậy Tổng giám đốc là người chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị về hoạt động của doanh nghiệp liên doanh. Tuy nhiên, Tổng giám đốc cần phải trao đổi ý kiến với Phó tổng giám đốc trước khi quyết định các vấn đề có liên quan trực tiếp đến việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng quản trị, đặc biệt là những công việc sau đây: *Bộ máy tổ chức cán bộ, tiền lương, tiên thưởng cho công nhân của doanh nghiệp. *Bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức vụ lãnh đạo của các bộ phận nhân sự chủ chốt. *Báo cáo quyết toán tài chính hàng năm, quyết toán công trình hàng năm. *Ký kết các hợp đồng kinh tế với các các nhân và tổ chức kinh tế - xã hội trong và ngoài nước. Trong trường hợp có ý kiến khác nhau giữa Tổng giám đốc và Phó tổng giám đốc thứ I trong điều hành hoạt động của doanh nghiệp thì ý kiến của Tổng giám đốc là quyết định nhưng Phó tổng giám đốc thứ I nhưng Phó tổng giám đốc thứ I có quyền bảo lưu ý kiến của mình để đưa ra Hội đồng quản trị xem xét và quyết định tại phiên họp gần nhất. Chúng ta phải đặc biệt lưu ý rằng, ở đây quyền lợi và nghĩa vụ của Phó tổng giám đốc thứ I và Phó tổng giám đốc thứ II là khác nhau, Phó tổng giám đốc thứ I tương đương gần như Tổng giám đốc .Thật vậy, trong trường hợp Tổng giám đốc vắng mặt, Phó tổng giám đốc thứ I được ủy quyền thay mặt Tổng giám đốc điều hành doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc về các việc mình làm, Phó tổng giám đốc thứ II hoàn toàn xếp sau, không tương đương với Phó tổng giám đốc thứ I. Các bộ phận chức năng Để hoạt động của doanh nghiệp Liên doanh có hiệu qủa doanh nghiệp liên doanh cần có một số các phòng ban chức năng đóng vai trò cố vấn, hỗ trợ cho ban giám đốc thực hiện các mục tiêu đã đề ra của Hội đồng quản trị. Các phòng ban chức năng này tuỳ thuộc vào tình hình từng doanh nghiệp mà có số lượng các phòng ban khác nhau, song tựu chung lại thì nó bao gồm các bộ phận như: Bộ phận quản trị kỹ thuật – công nghệ, bộ phận quản trị nghiên cứu tiếp thị,… ở đây, bộ phận quản trị sản xuất thực hiện bố trí các dây truyền sản xuất sản phẩm bao gồm việc bố trí máy móc, thiết bị, bộ máy công nhân vào dây truyền, điều độ quá trình sản xuất và thực hiện các biện pháp an toàn kỹ thuật đối với máy móc, thiết bị, công nhân,…Do vậy, có thể nói bộ phận quản trị sản xuất là bộ phận điều hành sản xuất sao cho đạt hiệu qủa một cách cao nhất, chi phí sản xuất là nhỏ nhất. Bên cạnh bộ phận quản trị sản xuất, ở bộ máy tổ chức của doanh nghiệp liên doanh còn hình thành bộ phận quản trị tài chính- Kế toán. Bộ phận này có chức năng khai thác, lập kế hoạch tạo nguồn vốn và phân bổ cho các hoạt động của doanh nghiệp, điều hành, giám sát các hoạt động của doanh nghiệp, lập quỹ cho sản xuất-kinh doanh, thực hiện các công việc Kế toán, hạch toán, thực hiện nghĩa vụ về tài chính đối với nhà nước và thanh toán các khoản tiền liên quan đến các loại hợp đồng của doanh nghiệp. Như vậy có thể nói bộ phận quản trị tài chính- Kế toán thực hiện chức năng rất quan trọng, nó đóng vai trò đáng kể trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, bộ phận quản trị nhân sự cũng là phần cấu thành nên bộ máy tổ chức của doanh nghiệp liên doanh. Theo đó, bộ phận quản trị nhân sự có chức năng tuyển chọn, đào tạo cán bộ và nguồn nhân lực cho doanh nghiệp, ký kết các hợp đồng lao động, tuyển chọn và sa thải lao động, thanh toàn tiền lương, tiền công lao động và thực hiện các chế độ bảo hiểm đối với người lao động như luật lao động nước ngoài sở tại. Để bộ phận quản trị nhân sự này hoạt động có hiệu quả thì cần sự góp sức của tất cả các cán bộ và công nhân viên trong doanh nghiệp liên doanh, đồng thời có sự chỉ đạo tốt từ hội đồng quản trị và ban Giám đốc của doanh nghiệp liên doanh. Bên cạnh đó trong bộ máy quản lý của doanh nghiệp liên doanh còn có bộ phận quản trị vật tư. Bộ phận này có chức năng bảo đảm, điều độ vật tư cho quá trình sản xuất như các hoạt động mua bán vật tư, kiểm tra các loại máy mó thiết bị,…. Tuy nhiên, để thực hiện tốt chức năng cải tiến kỹ thuật công nghệ để sản xuất sản phẩm mới, chất lượng cao, thực hiện chuyển dao công nghệ, ứng dụng công nghệ mới cải tiến sản phẩm….thì trong doanh nghiệp cần xây dựng bộ phận quản trị kỹ thuật – công nghệ. Chính nhờ bộ phận này mà hoạt động của doanh nghiệp mới trôi chảy hơn, tạo được hiệu qủa cao hơn trong sản xuất kinh doanh. Cuối cùng, một bộ phận không thể thiếu hay bộ máy quản lý của doanh nghiệp liên doanh, đó chính là bộ phận quản trị nghiên cứu tiếp thị. Bộ phận này thực hiện các cấp việc nghiên cứu thị trường, tiến hành các hoạt động quảng cáo, chào hàng, xây dựng bộ máy tiếp thị, tiếp thu ý kiến phản hồi từ khách hàng,…Chính nhờ bộ phận này mà hoạt động của doanh nghiệp liên doanh mới được trôi chảy, tiêu thụ được nhiều sản phẩm và đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Trên đây là những khái quát về các bộ phận chức năng trong bộ máy quản lý của doanh nghiệp liên doanh. Cùng với hội đồng quản trị, ban Giám đốc, các bộ phận chức năng này góp phần tạo nên một bộ máy quản lý của doanh nghiệp liên doanh đó mạnh để đưa doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, thu được lợi ích cao nhất. 3.Sự cần thiết phải nâng cao vai trò của bên Việt Nam trong bộ máy quản lý của doanh nghiệp liên doanh Là một phận cấu thành nên bộ máy quản lý của doanh nghiệp liên doanh, bên Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong chính bộ máy đó. Việc nghiên cứu bộ máy quản lý của doanh nghiệp liên doanh là cần thiết, song việc nghiên cứu kỹ hơn về bên Việt Nam trong bộ máy quản lý đó lại càng cần thiết hơn, nó chỉ rõ cho chúng ta thấy được vai trò của bên Việt Nam trong bộ máy đó, qua đó tạo mọi điều kiện để nâng cao vai trò của bên Việt Nam trong bộ máy quản lý của doanh nghiệp liên doanh. Sở dĩ chúng ta phải nâng cao vai trò của bên Việt Nam ở bộ máy quản lý của doanh nghiệp liên doanh là do rất nhiều nguyên nhân. Trước tiên, việc nâng cao vai trò của bên Việt Nam trong bộ máy quản lý của doanh nghiệp liên doanh là góp phần bảo vệ lợi ích của các bên tham gia doanh nghiệp, trong đó có lợi ích của bên Việt Nam. Bên Việt Nam trong hội đồng quản trị hoặc Ban giám đốc của doanh nghiệp liên doanh cùng với bên nước ngoài tham gia điều hành doanh nghiệp, họ cũng ra quyết định trong mọi vấn đề của doanh nghiệp liên doanh. Do đó bên Việt Nam đóng một vai trò không nhỏ trong việc ra quyết định đó, nhờ vậy mà bên Việt Nam đã bảo vệ lợi ích của chính mình trong doanh nghiệp liên doanh. Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp liên doanh, không phải bất kỳ một quyết định nào cũng có lợi cho bên Việt Nam, do vậy đòi hỏi vị thế của bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh phải có đủ uy tín, đủ độ kiên quyết, có như vậy thì bên Việt Nam mới không bị thua thiệt trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Chúng ta đi xem xét như doanh nghiệp liên doanh Cocacola, do vai trò của bên Việt Nam trong doanh nghiệp quá yếu, vì vậy bên Việt Nam không thể quyết định được hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó đặc biệt là hoạt động Marketing do đó dẫn tới chi phí cho những việc này quá lớn, gây thua lỗ kéo dài ở doanh nghiệp, và do vậy bên Việt Nam phải bán cổ phần cho bên nước ngoài, biến doanh nghiệp liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Như vậy, chúng ta có thể thấy vai trò của bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh là rất quan trọng, do đó đòi hỏi chúng ta phải nâng cao hơn nữa vai trò của bên Việt Nam tr._.ong doanh nghiệp liên doanh, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh đặc biệt như hoạt động Casino ở công ty liên doanh quốc tế Hải Phòng. Bên cạnh đó, việc bảo đảm lợi ích của doanh nghiệp chính là nguyên nhân nâng cao vai trò của bên Việt Nam ở doanh nghiệp liên doanh. ở đây, lợi ích của doanh nghiệp chính là hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, yếu tố phúc lợi xã hội,…Hoạt động của bên Việt Nam hay doanh nghiệp liên doanh phải luôn có hiệu quả, luôn luôn tạo ra lợi nhuận như HĐQT đã đề ra,…, có như vậy thì doanh nghiệp liên doanh mới có thể tồn tại và phát triển. Bên Việt Nam là một phần của doanh nghiệp liên doanh, việc nâng cao vai trò của bên Việt Nam ở doanh nghiệp liên doanh là rất cần thiết và chính nhờ đó mà hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh mới được trôi chảy. Song song với việc đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp, việc nâng cao vai trò của bên Việt Nam ở doanh nghiệp liên doanh cũng đã bảo đảm được lợi ích của người lao động nói riêng và tập thể người lao động nói chung. Một trong những vai trò của bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh là phải đảm bảo được lợi ích của người lao động. Cùng với bên nước ngoài, bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh luôn luôn phải tham gia vào các hoạt động về quản trị nhân lực trong doanh nghiệp, có như vậy thì mới có thể đảm bảo được lợi ích của người lao động. Việc vai trò của bên Việt Nam được nâng cao hơn cũng không nằm ngoài mục đích là đảm bảo cho người lao động về tiền lương, tiền thưởng, điều kiện lao động, an toàn lao động…Một thực tế hiện nay ở các doanh nghiệp liên doanh Việt Nam là hiện tưọng bên nước ngoài ngược đãi lao động Việt Nam, sở dĩ có điều này cũng là do bên Việt Nam hay doanh nghiệp liên doanh chưa có uy tín, không được coi trọng, do vậy việc nâng cao vai trò của bên Việt Nam ở doanh nghiệp liên doanh là rất cần thiết. Cuối cùng, một trong những nguyên nhân mà phải nâng cao vai trò của bên Việt Nam là bên Việt Nam luôn luôn phải đảm bảo lợi ích của Nhà nước. Lợi ích của Nhà nước ở đây được hiểu là pháp luật Việt Nam, các chính sách về doanh nghiệp liên doanh của Việt Nam, hiệu quả kinh tế, bảo toàn và phát triển vốn, và đặc biệt là đúng chủ trương đường lối của Đảng. Bên Việt Nam cùng với Bên Nước ngoài trong doanh nghiệp liên doanh luôn luôn phải đảm bảo mọi hoạt động của doanh nghiệp liên doanh luôn phải đi đúng hướng, tuân thủ đúng pháp luật Việt Nam…Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, việc nâng cao vai trò của bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh là một trong các biện pháp chính để đảm bảo lợi ích Nhà nước Việt Nam, chủ quyền Quốc gia, qua đó ta thấy được sự cần thiết trong việc nâng cao vai trò của bên Việt Nam hay doanh nghiệp liên doanh. Nói tóm lại, việc nâng cao vai trò của bên Việt Nam hay doanh nghiệp liên doanh là thực sự cần thiết, một mặt nó bảo đảm được lợi ích của doanh nghiệp, mặt khác nó đảm bảo được lợi ích của chính bên Việt Nam, của người lao động và lợi ích Nhà nước Việt Nam. Để có thể thấy rõ hơn về vai trò của bên Việt Nam hay doanh nghiệp liên doanh, dưới đây chúng ta đi xem xét các nhân tố tác động tới bên Việt Nam hay doanh nghiệp liên doanh. 4. Các nhân tố tác động tới việc nâng cao vai trò của bên Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh: Khi nghiên cứu các nhân tố tác động tới việc nâng cao vai trò của bên Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh, chúng ta nhận thấy có hai loại nhân tố, đó là nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan. 4.1 – Những nhân tố khách quan: Nổi lên ở nhân tố khách quan này chính là yếu tố Nhà nước tác động tới vai trò của bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh. Trong yếu tố Nhà nước này, bao gồm hai yếu tố là pháp luật Việt Nam và các cơ quan quản lý doanh nghiệp. Về yếu tố pháp luật Việt Nam thì chính luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, luật lao động Việt Nam là nguồn luật chính chi phối hoạt động của doanh nghiệp liên doanh và nó quyết định tới vai trò của bên Việt Nam hay doanh nghiệp liên doanh. Hiện nay, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã quy định về quyền hạn và chức năng của Chủ tịch Hội đồng quản trị (hoặc Phó chủ tịch Hội đồng quản trị) là người Việt Nam, do đó có thể thấy vai trò của bên Việt Nam ở doanh nghiệp liên doanh luôn được đảm bảo bằng luật pháp. Tuy nhiên, để nâng cao hơn vai trò của bên Việt Nam ở doanh nghiệp liên doanh, pháp luật Việt Nam cũng dần từng bước quy định như việc phải 100% thành viên Hội đồng quản trị tán thành việc bổ nhiệm, bãi nhiệm ban điều hành, sửa đổi điều lệ doanh nghiệp liên doanh. Hiện nay, ở một số doanh nghiệp liên doanh thì bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh không được coi trọng do bên nước ngoài coi thường pháp luật Việt Nam. Điều này thể hiện rõ nét vai trò yếu kém của bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh, đòi hỏi chúng ta phải dần từng bước thiết lập lại kỷ cương ở doanh nghiệp liên doanh và bằng mọi cách nâng cao vai trò bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh. Bên cạnh đó, các hoạt động quản lý doanh nghiệp liên doanh của các cơ quan Nhà nước, các bộ, các ngành cũng ảnh hưởng tới việc nâng cao vai trò của bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh. Thông thường, trong doanh nghiệp liên doanh thì bên Việt Nam phải chịu trách nhiệm quan hệ với các ban, các ngành hữu quan của bên Việt Nam, do vậy việc các ban, ngành tạo điều kiện cho doanh nghiệp liên doanh hoạt động cũng góp phần nâng cao vai trò của bên Việt Nam ở doanh nghiệp liên doanh, nhưng ngược lại thì cũng ảnh hưởng không tốt tới vai trò của bên Việt Nam ở doanh nghiệp liên doanh, ví dụ như vấn đề thuế,…. Bên cạnh yếu tố Nhà nước, yếu tố thông lệ Quốc tế cũng tác động tới việc nâng cao vai trò của bên Việt Nam ở doanh nghiệp liên doanh. Việc tuân thủ theo đúng thông lệ Quốc tế cũng góp phần nâng cao vai trò của bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh. Trên đây là những nhân tố khách quan tác động tới vai trò của bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh, song còn những nhân tố chủ quan cũng tác động tới vai trò của bên Việt Nam ở doanh nghiệp liên doanh. 4.2 – Những nhân tố chủ quan: Trước tiên, về năng lực, trình độ của bên Việt Nam quyết định vai trò của bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh. Một khi bên Việt Nam có năng lực và trình độ thực sự, bên nước ngoài luôn luôn coi trọng bên Việt Nam, họ rất tôn trọng quyết định của bên Việt Nam trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh. Thực tế hiện nay, một phần do năng lực, trình độ, kinh nghiệm quản lý của bên Việt Nam có hạn mà vai trò của bên Việt Nam ở doanh nghiệp liên doanh chưa được phát huy tới mức cần thiết. Mặt khác, nhân tố bên nước ngoài cũng tác động tới vai trò của bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh. Nếu bên nước ngoài thực sự coi trọng pháp luật Việt Nam thì họ rất tôn trọng bên Việt Nam, do đó vai trò của bên Việt Nam cũng được nâng cao, còn ngược lại thì vai trò của bên Việt Nam không được phát huy. Tuy nhiên sở dĩ có hiện tượng bên nước ngoài thiếu tôn trọng bên Việt Nam cũng là do mối quan hệ của hai bên trong hoạt động sản xuất kinh doanh không tốt, nhiều bất đồng nảy sinh. Ngoài ra, chính những quy định trong hợp đồng lao động, điều lệ liên doanh, các quyết định của Hội đồng quản trị cũng tác động tới vai trò của bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh. Điều cần thiết ở đây là đòi hỏi bên Việt Nam luôn luôn phải tỉnh táo, song phải có tinh thần hợp tác, có như vậy thì việc nâng cao vai trò của bên Việt Nam ở doanh nghiệp liên doanh mới được thể hiện và phát huy. Trên đây là toàn bộ những lý luận cơ bản về doanh nghiệp liên doanh nói chung và vai trò của bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh nói riêng. Trên cơ sở đó, chúng ta đi nghiên cứu vai trò của bên Việt Nam ở Công ty liên doanh Du lịch Quốc tế Hải Phòng, từ đó mới có cái nhìn thực tế hơn, toàn diện hơn về vai trò của bên Việt Nam ở doanh nghiệp liên doanh tại Việt Nam. Chương II Thực trạng vai trò của bên Việt Nam ở công ty Liên doanh Du lịch quốc tế Hải phòng 1.Khái quát về công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng: 1.1.Sự hình thành công ty liên doanh: Công ty liên doanh quốc tế Hải Phòng được thành lập theo giấy phép đầu tư số 401/ GP ngày 06/08/1998 của Uỷ ban nhà nước về hợp tác và đầu tư (SCCI) nay là Bộ kế hoạch và đầu tư (MPI). Đây là liên doanh được thành lập giữa tập đoàn United Internation Bussinees (UIB – Hồng Kông) và công ty du lịch – dịch vụ Hải phòng (UNITOUR) Thuộc Uỷ ban nhân dân thành phố Hải phòng. Trong quá trình triển khai dự án, Uỷ ban nhân dân thành phố Hải phòng đã ra quyết định số 874/QĐ - UB ngày 05/ 06/1997 về việc công ty Thương mại dịch vụ xuất nhập khẩu Hải phòng thay thế công ty du lịch – dịch vụ Hải phòng trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải phòng. Sở dĩ có sự việc này là về bản chất công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải phòng là liên doanh giữa tập đoàn UIB và khối kinh tế Đảng của thành phố Hải phòng. Do công ty du lịch - dịch vụ Hải phòng không thuộc khối kinh tế Đảng, vì vậy, công ty Thương mại dịch vụ xuất nhập khẩu được chỉ định thay thế công ty du lịch – dịch vụ Hải phòng và đứng ra làm đối tác liên doanh với tập đoàn nước ngoài. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, công ty thương mại dịch vụ xuất nhập khẩu Hải phòng không còn trực thuộc khối kinh tế Đảng, vì vậy Uỷ ban nhân dân thành phố Hải phòng đã ra quyết định về việc công ty du lịch – dịch vụ Vạn Hoa thay thế công ty thương mại dịch vụ xuất nhập khẩu Hải Phòng làm đối tác trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng. Trong khi đó, phía đối tác nước ngoài là tập đoàn UIB (Hồng Kông), thực chất họ bao gồm nhiều cổ đông. Hiện nay, tập đoàn STDM (Ma Cao) là cổ đông lớn nhất của công ty; họ chiếm tới 80% vốn của phía đối tác nước ngoài và là người trực tiếp điều hành công ty. Như vậy, ta có thể nhận thấy rằng, về bản chất thì công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải phòng này là liên doanh giữa tập đoàn STDM (Ma Cao) và công ty Thương mại dịch vụ xuất nhập khẩu Hải phòng. Để nắm rõ hơn về phía đối tác nước ngoài, dưới đây là một vài nét phác thảo về tập đoàn STDM (Ma Cao) – cổ đông chính của công ty. Tập đoàn Sociedadede Turismo e Diversões de Macao, S. A. R. L (STDM) được thành lập vào năm 1962 (1 năm sau khi Macao thành lập), dưới sự điều hành của tiến sĩ Staney Ho, nay ông là chủ tịch tập đoàn STDM. Tập đoàn STDM là tập đoàn lớn nhất ở Ma cao, hằng năm họ đóng thuế bằng 50% ngân sách chính phủ Ma Cao, đồng thời tập đoàn cũng chính là người đóng góp chính cho sự phát triển cơ sở hạ tầng ở Ma Cao. Hiện nay, tập đoàn STDM đang đầu tư xây dựng toà tháp Ma Cao với số vốn lên tới 1 tỷ HK$, đồng thời cũng đóng góp 500 triệu HK$ để xây dựng trung tâm văn hoá Ma Cao. ở Việt Nam, tập đoàn STDM cũng đang dự định đầu tư khoảng 225 triệu đô la Mỹ hoặc hơn nữa vào các lĩnh vực khánh sạn, nhà hàng hay các công trình hạ tầng khác theo yêu cầu của phía Việt Nam. Đặc biệt, tập đoàn còn cam kết cho Hải phòng vay 25 triệu USD, thời hạn 24 năm không lấy lãi và trả bằng hiệu quả kinh doanh của công ty của Casino Đồ sơn để thành phố xây dựng tuyến đường 14 Hải phòng - Đồ sơn , tuyến đường huyết mạch trong sự phát triển của thành phố Hải phòng. Qua đây ta có thể thấy, Tập đoàn STDM (Ma Cao) là tập đoàn có năng lực lớn về tài chính (thể hiện qua 60% các công trình ở Ma Cao là do tập đoàn này đầu tư xây dựng và việc họ đã phát triển cơ sở hạ tầng ở các nước họ tham gia đầu tư : Mỹ, Hồng Công,…) họ có kinh nghiệm về phát triển sòng bạc, do vậy đây là một đối tác có đủ năng lực tài chính và năng lực pháp luật trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải phòng. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào đối tác này và có quyền hy vọng nhờ đối tác STDM mà công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải phòng phát triển ngày càng mạnh trong sự phát triển của đất nước nói chung và thành phố Hải phòng nói riêng. Bên cạnh việc tìm hiểu các Bên tham gia liên doanh trong công ty du lịch quốc tế Hải phòng, chúng ta tìm hiểu về các lĩnh vực hoạt động và mục đích hoạt động của công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải phòng. Do bản chất là một công ty liên doanh, nên công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải phòng (tên giao dịch quốc tế là: Hai phong joint – venture in ternational tourist corporation), hoạt động dưới hình thức là một công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo luật Việt Nam, mỗi bên chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp của mình. Thời hạn của liên doanh là 30 năm. Trong quá trình ký kết hợp đồng liên doanh, các Bên thoả thuận và thống nhất để thành lập công ty liên doanh tại Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm mục đích sau: + Xây dựng và khai thác trung tâm giải trí quốc tế với các hình thức giải trí khác nhau, bao gồm cả Hotel,Casino tại khu du lịch Đồ sơn – Hải phòng cho khách nước ngoài. + Xây dựng mới một khách sạn quốc tế 4 sao và nâng cấp một khách sạn cũ tại Đồ sơn để phục vụ khách nước ngoài. + Tổ chức các hình thức giải trí thích hợp cho khách du lịch quốc tế nhằm khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên du lịch khu vực Hải phòng – Quảng ninh. + Quan hệ với các tổ chức du lịch quốc tế để tìm nguồn khai khác du lịch. Như vậy chúng ta có thể nhận thấy rằng, công ty kinh doanh chủ yếu trên 3 lĩnh vực: Casino, nhà hàng và khách sạn. Thực tế hiện nay, hầu như chỉ có hoạt động Casino là lĩnh vực hoạt động chủ đạo, phần lớn trong công ty liên doanh. Do đặc thù của ngành kinh doanh, trong hoạt động Casino của công ty liên doanh xuất hiện loại tiền “chip”-đây là loại tiền dùng để cho khách vui chơi tại Casino. Trong giai đoạn đầu hình thành, hoạt động Casino được chơi với 15 kiểu, bao gồm: 1-Slot Machine 9-Sever Card Poker 2-Roulette 10-Cussec 3-Boule 11-Fantan 4-Baccarat 12-Paikau 5-Black jack 13-Ma juang Paikau 6-3 King 14-Keno 7-Bingo 15-Hold’em 8-Các bàn chơi và trò chơi điện tử Trên đây là một số kiểu vui chơi mà chính phủ Việt nam cho phép hoạt động tại trung tâm Casino. Hiện tại, tổng số vốn đầu tư của công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải phòng là 25 triệu USD, trong đó vốn cố định là 24,3 triệu USD, vốn lưu động là 700.000 USD. Vốn pháp định của xí nghiệp liên doanh do các bên đóng góp được xác định là 25 triệu USD, trong đó các bên đóng góp như sau: a)BênViệt Nam góp: 5 triệu USD Bằng 20 % vốn pháp định, gồm: + Quyền sử dụng đất: 44ha. + Cơ sở hạ tầng hiện có: 1 km đường và nhà hàng Vạn Hoa với mức giá như sau: 4USD/1m2/1 năm với đất xây dựng khách sạn và nhà hàng Vạn hoa. 1USD/1m2/1 năm với đất xây dựng khu giải trí ngoài trời, khu dịch vụ. 500USD/1m2/1năm với phần mặt nước, thung lũng và khu đảo Hòn Dáu. b)Bên nước ngoài góp: 20 triệu USD Bằng 80% tổng số vốn pháp định, gồm: + Tiền xây dựng khách sạn mới : 9.000.000 USD. + Tiền nâng cấp khách sạn cũ và thuê bao : 500.000 USD. + Trang thiết bị trung tâm giải trí với Casino : 4.500.000 USD. + Tiền nâng cấp nhà hàng Vạn Hoa : 800.000 USD. + Làng Camping : 600.000 USD. + Khu giải trí Hòn Dáu : 1.200.000 USD. + Công trình khác : 2.700.000 USD. + Vốn lưu động : 700.000 USD 1.2.Tổ chức bộ máy nhân sự trong công ty: Trên cơ sở chức năng và nhiệm vụ của công ty liên doanh, Hội đồng quản trị của công ty đã tổ chức bộ máy nhân sự của mình theo sơ đồ sau(Hình 1). Bộ máy của công ty đã tổ chức rất phù hợp với mô hình mini Cáino. Tuy nhiên, khi cần thiết, công ty cũng có thể mở rộng thành nhiều phòng chức năng, như trong năm 1997,do nhu cầu phát triển kinh doanh mà công ty mở thêm phòng tiếp thị(hình 2) Trên đây là một vài nét về bộ máy tổ chức của công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng. Hình 2: sơ đồ tổ chức bộ máy của công ty Hội đồng quản trị Ban điều hành Tiếp thị& Quảng cáo An ninh& Bảo vê Ngân khố Hành chính KháchSạn Trungtâm giải trí casino Nhà hàng-Câu lạc bộ Làng Cam-ping Khu Hòn Dáu Dịch vụ khác 1.3.Thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng: Sau khi được cấp giấy phếp kinh doanh,ngày 22/10/1994 công ty liên doanh bắt đầu bước vào hoạt động.Qua khảo sát hoạt động kinh doanh ở công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng,chúng ta có thể thấy kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong 6 năm vừa qua: a.Kết quả kinh doanh của công ty liên doanh : Biểu 1. Doanh thu của Casino từ 1995-2000 STT Năm Doanh thu (1000VNĐ) Tốc độ tăng(%) Thu nhập sau thuế (1000 VND) Tốc độ tăng(%) 1 1995 16.937.940 10.070.365 2 1996 26.308.141 155,3 16.219.632 161 3 1997 20.586.500. -21,7 11.430.179 -29,53 4 1998 40.685.238 197,63 32.453.413 283,93 5 1999 51.450.246 126,46 41.695.587 128,48 6 2000 53.115.213 103,24 41.905.588 100,5 7 Tổng cộng 203.083.280 153.774.816 Nguồn: Số liệu tổng hợp từ báo cáo của công ty năm 1994 tới năm 2000 Qua đây, chúng ta thấy được tình hình doanh thu và thuế nộp ngân sách tăng liên tục, thể hiện được sự phát triển của công ty. (Biểu 2) Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy hoạt động Casino thua lỗ từ năm 1995 tới 1997, song từ năm 98 trở lại đây hoạt động Casino bắt đầu có lãi, tuy nhiên gần đây lãi của Casino có giảm. Để phân tích rõ hơn về hoạt động kinh doanh của công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng, dưới đây chúng ta nghiên cứu kết quả kinh doanh của hoạt động nhà hàng khách sạn. (Biểu 3 +4) Biểu 2. Chi phí và hiệu quả kinh doanh của Casino từ 1995-2000 STT Năm Chi phí (1000VNĐ) Tốc độ tăng(%) Kết quả kinh doanh Lãi(+), Lỗ (-)(1000 VND) Tốc độ tăng(%) 1 1995 18.492.108 -8.421.743 2 1996 21.083.828 114 -4.864.196 157,76 3 1997 18.448.253 -12,5 -7.018.074 -55,72 4 1998 23.311.361 126,31 9.142.102 230,26 5 1999 27.385.559 117,48 14.310.027 156,53 6 2000 37.585.516 137,26 4.320.071 -30,19 7 Tổng cộng 146.306.628 7.468.188 Nguồn: Số liệu tổng hợp từ báo cáo của công ty năm 1994 tới năm 2000 Biểu 3. Doanh thu của nhà hàng, khách sạn từ 1995-2000 STT Năm Doanh thu (1000VNĐ) Tốc độ tăng(%) Thu nhập sau thuế(1000 VND) Tốc độ tăng(%) 1 1995 2,889,474 2,637,621 2 1996 2,001,171 -30,74 1,693,403 -35,8 3 1997 1,188,851 -40,6 1,064,901 -37,11 4 1998 804,457 -32,33 743,189 -31,06 5 1999 488,331 -39,3 488,331 -33,49 6 2000 368,994 -24,44 368,994 -24,44 7 Tổng cộng 7,741,280 6,987,441 Nguồn: Số liệu tổng hợp từ báo cáo của công ty năm 1994 tới năm 2000 Biểu 4: Chi phí và hiệu quả kinh doanh của nhà hàng, khách sạn từ năm 1995-2000 STT Năm Chi phí (1000VNĐ) Tốc độ tăng(%) Kết quả kinh doanh (1000VNĐ) Tốc độ tăng(%) 1 1995 4.340.055 -1.702.433 2 1996 4.100.355 -5,52 -2.406.951 -41,38 3 1997 3.061.149 -25,34 -1.996.248 17,06 4 1998 2.871.105 -6,2 -2.136.916 -7,05 5 1999 2.567.971 10,56 -2.079.639 2,75 6 2000 2.566.312 0,06 -2.197.317 3,45 7 Tổng cộng 19.506.949 -12.519.507 Nguồn: Số liệu tổng hợp từ báo cáo của công ty năm 1994 tới năm 2000 Trên cơ sở đó, chúng ta tính được mức lãi (Lỗ) của hoạt động nhà hàng, khách sạn ở công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng . Như vậy, chúng ta nhận thấy hoạt động nhà hàng, khách sạn của công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng luôn luôn thu lỗ suốt từ năm 1995-2000. Sở dĩ hiện tượng này là do công ty chưa xây dựng được khách sạn, phải đi thuê khách sạn, đồng thời có thể đây là chiến lược kinh doanh của công ty (thua lỗ ở hoạt động nhà hàng, khách sạn để lãi ở hoạt động Casino) Dưới đây, chúng ta đi xem xét toàn bộ kết quả kinh doanh của Công ty trong thời gian từ 1995-2000 (Biểu 5) Chúng ta nhận thấy thời gian gần đây hoạt động kinh doanh của Công ty bước đầu có lãi (Từ năm 1998 tới năm 2000), song tính chung hoạt động kinh doanh của công ty vẫn thua lỗ (lỗ 6216237423 VND). Đây chính là một thách thức đối với Hội đồng quản trị, Ban giám đốc của công ty và trong vấn đề này cần sự đóng góp không nhỏ của Bên Việt Nam ở công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng . Biểu 5. Kết quả kinh doanh của Công ty liên doanh Du lịch Quốc tế Hải Phòng từ năm 1995-2000 STT Năm Kết quả kinh doanh (VNĐ) Tốc độ tăng 1 1995 10,124,177,118 2 1996 7,271,148,055 -28,18% 3 1997 9,014,322,910 123,97% 4 1998 7,005,186,725 -22,29% 5 1999 12,230,387,571 174,59% 6 2000 2,122,754,192 -82,64% 7 Tổng cộng -6,216,237,423 Nguồn: Số liệu tổng hợp từ báo cáo của công ty năm 1994 tới năm 2000 b.Lượng khách của Casino: Biểu 8: Số lượng khách trung bình trongtháng qua các năm Số thứ tự Năm Bình quân người/ tháng 1 1995 400 2 1996 500 3 1997 800 4 1998 2700 5 1999 5100 6 2000 6200 Nguồn: Số liệu tổng hợp báo cáo của công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng năm 94 tới năm 2000 Nhìn vào lượng khách đến vui chơi tại Casino, chúng ta có thể thấy lượng khách đã tăng lên một cách đáng kể trong thời gian hiện nay (98, 99). Lượng khách hiện nay chủ yếu là khách Trung Quốc, đi theo chuyến du lịch vào Việt Nam. Sở dĩ có hiện tượng hành khách đánh bạc là do những nguyên nhân sau: -Cho phép khách Trung Quốc vào Hải phòng, Hà nội bằng giấy thông hành. -Đơn giản hoá thủ tục cấp visa cho khách du lịch ở khu vực khác. -Đặc điểm của người á đông nói chung và người Trung Quốc nói riêng là thích chơi đánh bạc, nhất là hoạt động hợp pháp như ở Casino. c.Lao động và tiền lương: Hiện nay, lực lượng lao động của công ty trong khoảng trên khoảng 500 người tuỳ theo tình hình hoạt động của công ty. Thu nhập bình quân của công nhân viên ổn định ở mức 1.200.000 đồng/ tháng. Về điều kiện làm việc của cán bộ công nhân viên chức không ngừng được cải thiện: Cán bộ công nhân viên chức đi làm có xe ôtô đưa đón từ nội thành ra Đồ sơn và ngược lại, được hưởng bữa ăn giữa ca miễn phí, được trang bị bảo hộ lao động theo quy định. Công tác chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh cho công nhân viên chức luôn được sự quan tâm đúng mức. Công ty hiện có trạm y tế được trang bị thuốc men đầy đủ, thiết bị và bác sĩ để phục vụ công nhân viên chức và chuyên gia. Quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động luôn đúng mức, không có mâu thuẫn. Chưa để xảy ra trường hợp đáng tiếc nào về quan hệ giữa chuyên gia và người lao động. Các quy định về quyền lợi, chế độ với người lao động được công ty thực hiện nghiêm túc. Do trong thời gian hiện nay công ty hoạt động thời gian hiện nay có hiệu quả, nên vào tháng 9 năm 1999, công ty đã tiến hành ký lại hợp đồng cho cán bộ công nhân viên.Theo hợp đồng mới ký này, toàn bộ chế độ và quyền lợi của người lao động được cải thiện, trong đó 200 cán bộ công nhân viên được điều chỉnh tăng lương, chính điều này đã tạo sự tự tin và hưng phấn trong công ty. Công ty đã tạo mối quan hệ tốt với Tổng liên đoàn và Liên đoàn lao động thành phố Hải phòng, đã được Tổng liên đoàn đánh giá cao về nỗ lực của công ty trong việc thực hiện chế độ chính sách với người lao động. d. Một vài đánh giá về hoạt động của Casino: d1-Những mặt đạt được của công ty: + Trong những năm 98, 99 hoạt động của Casino đã bắt đầu có lãi, lãi ròng trong hai năm 98, 99 lên tới 9 – 10 tỷ đồng/ năm. Sở dĩ, hoạt động của Casino có lãi là do: - Thay đổi phương pháp tính thuế: Cục thuế Hải phòng đã áp dụng phương pháp tính thuế đúng hơn, do vậy hoạt động của công ty đã dần dần có lãi. - Lượng khách tăng lên một cách đáng kể: Từ năm 95 – 97, lượng khách chỉ từ 500 – 600 người/ tháng nhưng đã tăng lên gấp 3 lần vào năm 1998 (2.700 người/ tháng) và tăng lên gấp 10 lần vào năm 1999 (5100 người/ tháng). - Hoạt động Marketing hoạt động ngày càng hiệu quả: công ty đã chi cho hoạt động quảng cáo Casino tại nước ngoài, tỉ lệ % hoa hồng cho đại lý du lịch,....do vậy cũng thúc đẩy lượng khách tăng lên. -Ngoài ra, Thành uỷ, Uỷ ban nhân thành phố, các ban ngành hữu quan và Bên đối tác Việt Nam thường xuyên quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ. -Công đoàn làm tốt công tác giáo dục, vận động quần chúng và tham gia tích cực vào việc bảo vệ quyền lợi cho người lao động và cho doanh nghiệp. - Đối tác nước ngoài trong liên doanh ngày càng hiểu và có ý thức chấp hành luật Việt Nam hơn. - Mối quan hệ giữa hai Bên đối tác ngày càng chặt chẽ, họ càng hiểu nhau hơn và cùng nhau phối hợp tốt hơn. - Cán bộ công nhân viên gần đây rất phấn khởi do công ty làm ăn ngày càng có lãi, chỗ làm ổn định, thu nhập không ngừng được cải thiện. + Công ty đã hoàn thành những nhiệm vụ nộp thuế đối với ngân sách nhà nước. + Công ty đã tạo ra hơn 500 chỗ làm ổn định, thu nhập tương đối cao. d2-Những tồn tại trong hoạt động kinh doanh của công ty: Song song với những mặt chưa làm được, hiện nay công ty vẫn còn gặp một số khó khăn, cần phải tháo gỡ và giải quyết dứt điểm như sau: - Trong những năm gần đây, công ty hoạt động liên tục có lãi, song vẫn chưa bù đắp được khoản lỗ trong những năm 95 – 97 gây ra. - Công ty lãi xấp xỉ 9 – 10 tỷ đồng/ năm (98, 99), song lãi như thế là chưa đủ đối với hoạt động kinh doanh đặc biệt như Casino, cần phải có doanh thu và lãi nhiều hơn thế. -Hàng tháng, chi phí cho chuyên gia nước ngoài là rất lớn so với chi phí tiền lương. - Tuy hai Bên đối tác cũng đã hiểu nhau hơn, song vẫn có nhiều khúc mắc, khó khăn cần bàn bạc, giải quyết. - Điều lệ của công ty còn nhiều bất hợp lý, ví dụ như ở quyền hạn và những nghĩa vụ của Hội đồng quản trị, song cho đến nay những điều lệ đó vẫn chưa được sửa chữa và thống nhất lại. - Có hiện tượng nhân viên thông đồng gây thiệt hại cho công ty về mặt tài chính, nội bộ chuyên gia mất đoàn kết. d3-Nguyên nhân của các tồn tại: *Nguyên nhân khách quan: - Từ năm 95 – 97, hiện tượng thua lỗ là lớn (hơn 20 tỷ đồng), do vậy đây vẫn là gánh nặng tài chính lớn của công ty. -Do đối tác là người nước ngoài, nên họ thường cử đại diện của tổng giám đốc nó gây khó khăn trong quá trình hoạt động của công ty. -Luật đầu tư Nước ngoài tại Việt Nam còn nhiều điểm không phù hợp với loại hình kinh doanh đặc biệt của công ty, ảnh hưởng tới mối quan hệ của các bên đối tác. *Nguyên nhân chủ quan: - Do trình độ người lao động Việt Nam chưa tiếp cận được trình độ chuyên gia Nước ngoài , làm cho chi phí của công ty tăng cao, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của công ty. - Hoạt động Marketing dần từng bước có hiệu qủa, tuy nhiên chưa có đủ để thu hút khách nước ngoài vào. Hoạt động này chỉ dừng lại một nơi là Hồng Kông mà chưa mở rộng ra các khu vực khác. - Một số thành viên trong Hội đồng quản trị, trong Ban giám đốc chưa thống nhất được với nhau về nhiều mặt như hoạt động quản lý, điều hành, chấp hành pháp luật Việt Nam....vì vậy hoạt động của công ty có phần kém hiệu quả. -Nhân viên tuy có việc làm ổn định, song lại có hiện tượng bị mua chuộc bởi khách nước ngoài, do vậy làm thiệt hại kinh tế công ty. Đôi lúc, họ còn cho cả người việt Nam vào Casino để chơi sòng bạc, đó cũng là điều vi phạm pháp luật nước Việt Nam. 2.Thực trạng vai trò của Bên Việt Nam ở công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng 2.1. Thực trạng về vai trò của bên Việt Nam trong Hội đồng quản trị của công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng 2.1.1. Vai trò của bên Việt Nam trong hội đồng quản trị của công ty liên doanh: Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hội đồng quản trị của công ty liên doanh bao gồm hai phía là phía Việt Nam và phía nước ngoài. Là công dân Việt Nam, việc chúng ta đi phân tích vai trò của bên Việt Nam ở công ty liên doanh trong hội đồng quản trị là rất cần thiết, nó chỉ cho ta thấy những mặt làm được và chưa làm được của phía Việt Nam nói riêng và công ty liên doanh nói chung. Từ đó tìm ra những giải pháp nhằm mục đích hoàn thiện và nâng cao hơn nữa vai trò của phía Việt Nam trong Hội đồng quản trị ở công ty liên doanh. Khi đi phân tích vai trò của bên Việt Nam trong Hội đồng quản trị thuộc một công ty liên doanh, chúng ta phải thấy được rằng, bên Việt Nam có vai trò mang tính chất quyết định trong việc ra những quyết định và nghị quyết của Hội đồng quản trị. Theo nghị định số 24/ CP của chính phủ và luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam năm 2000, chúng ta nhận thấy việc ra quyết định đều phải có ý kiến từ bên Việt Nam. Khi Hội đồng quản trị ra quyết định tuân theo nguyên tắc nhất trí thì lúc đó ý kiến của bên Việt Nam là rất quan trọng, nó có thể phủ nhận hoặc chấp nhận nghị quyết của Hội đồng quản trị. Còn khi Hội đồng quản trị tuân theo nguyên tắc đa số, thì có thể ý kiến Bên Việt Nam không đồng ý nhưng Hội đồng quản trị vẫn thông qua (vì quá 50%), tuy nhiên ý kiến của phía Việt Nam vẫn rất quan trọng, nó rất có “trọng lượng” trong việc ra quyết định của Hội đồng quản trị. Thông thường, một Hội đồng quản trị của công ty liên doanh khi ra quyết định đều muốn các Bên nhất trí mặc dù nó tuân theo nguyên tắc nào đi nữa, do vậy một yêu cầu được đặt ra là Bên Việt Nam và Bên Nước ngoài đều xuất phát từ cơ sở hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau; đặc biệt là tôn trọng ý kiến của nhau. Trên cơ sở đó, Bên Việt Nam trong Hội đồng quản trị cũng đóng góp một phần không nhỏ vào việc xây dựng và phát triển công ty liên doanh giúp hoạt động của công ty ngày càng có hiệu qủa. Bên cạnh đó, phía Việt nam trong Hội đồng quản trị còn thực hiện và tuân thủ đúng pháp luật Việt Nam. Đây là vấn đề rất lớn mà cả đối tác nước ngoài, nhân dân và chính phủ Việt Nam đều rất quan tâm, nó là một vấn đề rất bức xúc, đòi hỏi chúng ta phải tìm hiểu và có ý kiến. Hiện nay, khi các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành đầu tư vào Việt Nam, họ thường rất sợ pháp luật Việt Nam. Họ sợ pháp luật Việt Nam ở chỗ là pháp luật Việt Nam hay thay đổi, nhiều kẽ hở, vì vậy hoạt động kinh doanh của họ tại Việt Nam cũng gặp phải nhiều khúc mắc, cản trở. Một trong những vai trò của bên Việt Nam trong Hội đồng quản trị là việc tuyên truyền và giáo dục pháp luật Việt Nam cho phía đối tác nước ngoài, làm sao cho họ hiểu được rằng, pháp luật Việt Nam rất khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, rằng không sợ pháp luật Việt Nam quốc hữu hoá, rằng cơ chế đường lối Việt Nam rất mở cửa,....Có như vậy, phía đối tác mới có thể yên tâm làm ăn. Vai trò tuyên truyền, giáo dục của Bên Việt Nam trong Hội đồng quản trị còn thể hiện qua việc Bên Việt Nam đóng góp của mình trên cơ sở hiểu biết luật pháp Việt Nam, làm cho Hội đồng quản trị không thể đưa ra những quyết định trái quy định và pháp luật Việt Nam, có như vậy thì hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty mới gặp nhiều thuận lợi. Bên cạnh vai trò tuyên truyền, giáo dục đối với Bên Nước ngoài tro._.phát huy vai trò của Bên Việt Nam ở công ty Liên doanh du lịch Quốc tế Hải Phòng mới trở thành hiện thực. Bên đó, do sự khác biệt lớn Vũ ngôn ngữ, văn hoá cho nên vẫn có nảy sinh mâu thuẫn giữa Bên Việt Nam và Bên nước ngoài. Chính yếu tố này làm cho Bên nước ngoài không nể Bên Việt Nam, do đó vai trò của Bên Việt Nam ở công ty Liên doanh du lịch Quốc tế Hải Phòng chưa được phát huy đúng mức. Một vấn đề nữa mà chúng ta luôn phải bàn tới là hiện tượng làm ăn thua lỗ của công ty, chi phí quá lớn, điều này làm nảy sinh mâu thuẫn giữa Bên Việt Nam và Bên nước ngoài trong quá trình hoạt động của công ty, do vậy việc nâng cao vai trò Bên Việt Nam trong công ty Liên doanh du lịch Quốc tế Hải Phòng vẫn gặp khó khăn. Cuối cùng, do một số điểm không hợp lý trong luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mà việc phát huy vai trò của Bên Việt Nam trong công ty Liên doanh du lịch Quốc tế Hải Phòng gặp một số trở ngại nhất định. Trên đây là một số tồn tại ảnh hưởng tới việc phát huy vai trò Bên Việt Nam ở công ty Liên doanh du lịch Quốc tế Hải Phòng, đòi hỏi chúng ta đi phân tích kỹ tìm hiểu nguyên nhân của những tồn tại này. 3.3. Nguyên nhân của các tồn tại + Trước tiên, đó là do trình độ lao động chưa cao, kỹ luật lao động còn yếu của nhân viên lao động người Việt Nam, điều này dẫn tới hiện tượng mâu thuẫn giữa Bên Việt Nam và Bên nước ngoài, do đó không phát huy được vai trò của Bên Việt Nam ở nước ngoài. + Ngoài ra, do sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hoá, nên sự hiểu biết giữa 2 bên đối tác là hạn chế, việc phát huy vai trò của bên Việt Nam cũng chưa cao. + Bên cạnh đó, còn do chi phí quá lớn (tiêu biểu như là chi phí chuyên gia nước ngoài) mà hoạt động của công ty gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng tới việc phát huy vai trò của Bên Việt Nam ở công ty Liên doanh du lịch Quốc tế Hải Phòng. + Do sự bất hợp lý ở một số điểu trong luật đầu tư nước ngoài, dẫn tới hiện tượng vai trò của Bên Việt Nam ở công ty Liên doanh du lịch Quốc tế Hải Phòng. Trên đây là một số ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của tồn tại trong việc phát huy vai trò của Bên Việt Nam ở công ty Liên doanh du lịch Quốc tế Hải Phòng. Từ thực trạng này của vai trò Bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng, dưới đây luận văn chỉ ra một số bài học và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh nói chung và công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng nói riêng. Chương III Bài học kinh nghiệm và một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng 1.Các bài học kinh nghiệm rút ra từ công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng: Qua phân tích vai trò của Bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng, chúng ta thấy được một số bài học đối với Bên Việt Nam nếu muốn nâng cao vai trò của mình ở công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng . 1.1. Bên Việt Nam phải thực sự nắm vững quan điểm, chính sách pháp luật của Nhà nước và thông lệ quốc tế liên quan tới hoạt động đầu tư tại Việt Nam để hợp tác đầu tư. Trong qúa trình hợp tác cùng hoạt động sản xuất kinh doanh tại công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng, Bên Việt Nam cần hiểu rõ về pháp luật như luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam 2000 nghị định 24-CP của Chính phủ Việt Nam,… có như vậy thì vai trò của Bên Việt Nam mới được phát huy và nâng cao. Đặc biệt là với loại hình kinh doanh đặ là đánh bạc tại công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng , Bên Việt Nam cần phải nắm vững các quan điểm của Đảng, Nhà nước nhằm hướng hoạt động của công ty theo quan điểm đó. Ví dụ như quan điểm của Đảng ta “ngươì Việt Nam không được tham gia hoạt động đánh bạc” do vậy việc cấm người Việt Nam vào Casino là rất cần thiết. Do đó, ở đây lại cần tới vai trò của bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng , Bên Việt Nam là người đề ra những biện pháp chính và cũng là người trực tiếp cấm người Việt Nam vào hoạt động tại Casino. Nói tóm lại, việc nắm vững được quan điểm, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước là góp phần nâng cao vai trò của Bên Việt Nam ở công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng. Một thực tế cho thấy, tại công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng, khi đã đụng tới pháp luật Việt Nam là Bên Nước ngoài luôn nghe theo, điều nà có nghĩa là Bên Việt Nam được coi trọng trong công ty. Đây chính là một bài học rất quan trọng, rất cần thiết cho việc nâng cao vai trò của Bên Việt Nam ở công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng, đồng thời nó cũng là bài học không thể quên đối với Bên Việt Nam khi tham gia liên doanh tại Việt Nam. 1.2. Khi tiến hành hoạt động hợp tác đầu tư thì phải nắm vững khả năng của phía đối tác Nước ngoài. Khả năng của phía đối tác được thể hiện ở năng lực quản lý, năng lực tài chính, sức cạnh tranh trên thị trường, uy tín và kinh nghiệm, … Việc Bên Việt Nam có thể nắm vững được năng lực của đối tác đầu tư phụ thuộc vào quá trình lựa chọn đối tác đầu tư, công tác thẩm định dự án. Xuất phát từ quan điểm này, Bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng khi tiến hành lựa chọn đối tác đầu tư đã chọn UIB (Hồng Kông ) với cổ đông chính là tập đoàn STDM (Ma cao) một tập đoàn có kinh nghiệm kinh doanh Casino lớn của Macao, năng lực tài chính rất mạnh (như đã trình bày ở phần giới thiệu về sự hình thành và phát triển của công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng ). Việc chọn lựa được đối tác đầu tư này là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với định hưóng của Đảng và Nhà nước, do vậy hoạt động kinh doanh của công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng luôn phát triển. ở đây, chúng ta cũng có thể lựa chọn được tác dụng rất đúng đắn này góp phần tạo hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng, qua đó Bên Việt Nam cũng có được uy tín trong công ty. Ta cũng phải nói thêm rằng, Bên Việt Nam rất tỉnh táo khi lựa chọn đối tác, lựa chọn đối tác là tập đoàn lớn (STDM), do đó họ rất không muốn thất baị trong bất kỳ một hoạt động đầu tư nào sợ ảnh hưởng tới uy tín của tập đoàn, vì vậy đây cũng là một yếu tố quan trọng để đối tác STDM triển khai dự án đúng tiến độ. Đây là một bài học quạn trọng không chỉ cho Bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng mà còn quan trọng cho tới các Bên Việt Nam trong quá trình hợp tác đầu tư . Cố nhân xưa dạy: “Chọn bạn mà chơi”, chọn được bạn tốt thì họ tôn trọng ta, vai trò của ta đươc nâng cao, điều này hoàn toàn đúng đắn đối với Bên Việt Nam trong quá trình hợp tác liên doanh. 1.3. Lựa chọn kỹ các cán bộ của Bên Việt Nam giữ các chưc vụ chủ chốt trong bộ máy lãnh đạo và điều hành của doanh nghiệp liên doanh. Những người này tham gia liên doanh, họ hoạt động trong Hội đồng quản trị, ban Giám đốc và các thành viên chủ chốt trong công ty như trưởng phòng bảo vệ, trưởng phòng hành chính,…. Đối với bất kỳ Bên Việt Nam nào khi tiến hành cử cán bộ tham gia liên doanh thì phải chọn người có hiểu biết về pháp luật, có trình độ quản lý doanh nghiệp, có bản lĩnh chính trị vững vàng, là người liêm chính, công tâm để hợp tác với phía nước ngoài trên cơ sở hợp tác cùng có lợi, đồng thời đủ năng lực, trình độ, đạo đức để tuyên truyền, vận động và giám sát phía đối tác nước ngoài trong công ty, có như vậy thì vai trò của Bên Việt Nam mới được coi trọng. Trong thực tế hoạt động của công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng, Bên Việt Nam thực sự cần nhiều người có đủ bản lĩnh, trình độ và năng lực, có như vậy thì vai trò của Bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng mới được nâng cao. Một thực tế hiện nay là nếu Bên Việt Nam có đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ, đạo đức thì tiếng nói của Bên Việt Nam trong công ty có uy tín hơn, vai trò của Bên Việt Nam trong công ty mới được nâng cao rõ rệt. 1.4. Bên Việt Nam cần phải hiểu biết tâm tư, tình cảm, đặc điểm văn hoá,… của đối tác nước ngoài để hợp tác làm ăn có hiệu quả. Việc nắm bắt được tâm tư, tình cảm của bên nước ngoài tạo cho Bên Việt Nam cách phối hợp với bên nước ngoài trong hoạt động của mình, khi đó thì Bên Nước ngoài luôn tôn trọng Bên Việt Nam. Một vấn đề ta cần phải thấy rõ là trong nội bộ công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng , do Bên Việt Nam và bên nước ngoài chưa thực sự hiểu hết lẫn nhau, do đó vẫn có những bất đồng nảy sinh làm ảnh hưởng tới vai trò của Bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng. Việc hai bên đối tác hiểu nhau dẫn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh gặp nhiều thuận lợi, như vậy vai trò của cả hai bên mới được củng cố và phát huy. Đặc biệt, đối với những cán bộ Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng, họ nhận định rằng, đối với người Trung Quốc nếu ta tốt với họ 1 thì họ tốt với ta 10, còn nếu ta xấu với họ 1 thì họ xấu với ta 100. Như vậy, ta có thể thấy việc nâng cao vai trò của Bên Việt Nam trong công ty liên doanh luôn cần tới sự hiểu biết, cảm thôngtừ cả 2 phía đối tác. 1.5. Bên Việt Nam cần xây dựng tổ chức Đảng, công đoàn vững mạnh trong công ty. Về chức năng, tổ chức này nhằm bảo vệ quyền lợi người lao động và hướng Bên Nước ngoài hoạt động theo đúng luật pháp Việt Nam, do vậy việc xây dựng các tổ chức này trong lòng các doanh nghiệp liên doanh thực sự là cần thiết cho việc nâng cao vai trò của Bên Việt Nam trong doanh nghiệp. Đối với hoạt động của công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng cũng thế, việc xây dựng tổ chức Đảng và công đoàn là rất cần thiết. Thực tế cho thấy, từ ngày xây dựng tổ chức Đảng và công đoàn thì quyền lợi của người lao động đã được bảo đảm, bên nước ngoài cũng né trọng tổ chức Đảng và công đoàn công ty. Việc bên nước ngoài nể trọng tổ chức Đảng và công đoàn là một minh chứng cho vai trò của Bên Việt Nam ở công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng được nâng cao rõ rệt. tuy nhiên, hiện nay ở nhiều doanh nghiệp liên doanh cả nước chưa có tổ chức Đảng và công đoàn, do vậy vai trò của Bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh đó vẫn chưa được phát huy. Trên đây là một bài học kinh nghiệm được đúc kết trong quá trình tìm hiểu, phân tích vai trò của Bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng nói riêng và Bên Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh tại Việt Nam nói chung. Tuy nhiên bài học này chỉ mang tính hạn chế, song nó cũng phần nào giúp chúng ta có những kinh nghiệm sâu sắc trong quá trình hợp tác đầu tư với nước ngoài tại Việt Nam. 2.Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng: Trên cơ sở việc nghiên cứu vai trò Bên Việt Nam ở công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng va những bài học kinh nghiệm trong quá trình hợp tác đó, chúng ta có thể đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng. Hệ thống giải pháp dưới đây được phân loại thành những giải pháp đối với Bên Việt Nam ở công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng và những kiến nghị đối với công tác quản lý Nhà nước nhằm nâng cao vai trò của Bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng. 2.1. Những giải pháp đối với Bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng: a. Bên Việt Nam cần có kế hoạch đào tạo đội ngũ lao động Việt Nam thay thế chuyên gia nước ngoài theo điều lệ liên doanh. Xuất phát điểm của vấn đề này là do lương của đội ngũ chuyên gia này quá lớn, đồng thời đây là những cán bộ kỹ thuật quan trọng của công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng, vì vậy việc xây dựng đội ngũ cán bộ thay thế là người Việt Nam là thực sự cần thiết, nó không những tạo hiệu quả cho hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn tạo cho bên Việt Nam tập hợp được một đội ngũ cán bộ ký thuật đông đảo, có đủ khả năng làm chủ công ty tạo đối trọng với Bên Nước ngoài. Đội ngũ lao động Việt Nam cần được đào tạo có bài bản, có kế hoạch rõ ràng để thực hiện được mục tiêu thay thế đội ngũ chuyên gia nước ngoài này. Đồng thời, công ty cần phải có kế hoạch đưa đội ngũ cán bộ Việt Nam sang tập huấn tại nước ngoài về loại hình kinh doanh này, có như thế thì mới có thể đảm nhiệm tốt phần việc của chuyên gia nước ngoài. Chính nhờ xây dựng một đội ngũ nhân viên kỹ thuật này mà vai trò của Bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng được nâng cao rõ rệt, đồng thời tạo sự hể trọng của Bên Nước ngoài dành cho Việt Nam. đây là một trong những giải pháp hữu ích nhằm phát huy vai trò của Bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng, đồng thời nó cũng tạo hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh của công ty. b. Bên cạnh việc tuyển chọn và đào tạo đội ngũ nhân viên kỹ thuật đủ mạnh để thay thế chuyên gia nước ngoài, Bên Việt Nam phải luôn chú ý xây dựng đội ngũ đại diện cho Bên Việt Nam trong Hội đồng quản trị và Ban giám đốc có năng lực, trình độ, hiểu biết về pháp luật, thông lệ quốc tế và đặc biệt là phải có đạo đức kinh doanh. Đối với bất kỳ một doanh nghiệp liên doanh nào, trình độ và năng lực của cán bộ chủ chốt trong Hội đồng quản trị , Ban giám đốc là cực kỳ quan trọng. Đặc biệt là đối với loại hình kinh doanh mang tính đặc thù như Casino, việc yêu cầu trình độ và năng lực cao của đội ngũ cán bộ là rất quan trọng. Đây là một yêu cầu hoàn toàn khách quan, đòi hỏi các cấp có thẩm quyền phải công minh, lựa chọn đúng đắn những cán bộ chủ chốt đồng thời đòi hỏi lực lượng cán bộ này không ngừng học tập, tiếp thu kinh nghiệm quản lý của nước ngoài để nâng cao trình độ và năng lực của chính mình cũng như vai trò của bên Việt Nam được nâng cao từng bước. Nhờ có những cán bộ có trình độ, hiểu biết pháp luật mà hoạt động hợp tác bên nước ngoài mới được thuận lợi, Bên Nước ngoài thực sự coi trọng Bên Việt Nam, nhờ đó vai trò của Bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng mới được nâng cao. Đây chính là chìa khoá cho vấn đề nâng cao vai trò của Bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng. c. Bên Việt Nam cần phải tận dụng tốt lợi thế mà nhà nước sở tại dành cho đối tác sở tại. Khi nghiên cứu về các nguồn luật trên thế giới, các luật gia nhận thấy một điều rằng luật pháp nước sở tại luôn luôn có những điều khoản có lợi cho đói tác nước sở tại. Mặt khác, nhà nước ta một mặt luôn luôn khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài đồng thời nhà nước ta luôn có những quy định nhằm bảo vệ vai trò của Bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh, ví dụ như các vấn đề bổ nhiệm, bãi nhiệm Ban giám đốc, xây dựng được kinh doanh thì phải tuân theo nguyên tắc nhất trí,… Điều này có nghĩa là Bên Việt Nam phải tận dụng tốt ưu thế về pháp luật, điều kiện kinh tế,… có như vậy thì mói có hiệu quả công việc cao hơn Bên Nước ngoài, như vậy là từng bước vai trò của Bên Việt Nam được nâng cao. Tuy nhiên, một mặt chúng ta cần tận dụng tốt ưu thế của nước chủ nhà nhưng mặt khác không vì thế mà Bên Việt Nam có quyền lấn lướt trước Bên Nước ngoài, gây thiện cảm không tốt. Đây là một giải pháp hoàn toàn đúng đắn, song không phải Bên Việt Nam nào cũng có thể tận dụng tốt giải pháp này. Tuỳ vào từng hoàn cảnh cụ thể với con người cụ thể, Bên Việt Nam mới có thể tận dụng tốt cơ hội này. Việc tận dụng tốt cơ hội này sẽ nâng cao hơn nữa vai trò của Bên Việt Nam tại công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng. d. Các bên phải luôn luôn hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau trong công ty liên doanh. Đối với bất kỳ một hoạt động hợp tác kinh doanh nào, việc 2 bên hiểu biết tôn trọng lẫn nhau là rất cần thiết. Thực tiễn đã chứng minh rằng, có rất nhiều doanh nghiệp liên doanh ngừng hoạt độngtrước thời hạn do sự mâu thuẫn gay gắt giữa hai bên đối tác. Như vậy tại công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng, việc các bên luôn hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau là rất cần thiết. Việc các bên hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau này đòi hỏi yếu tố con người trong các bên đối tác: phải có năng lực, trình độ, tinh thần hợp tác, đạo đức kinh doanh, có như vậy thì sự hợp tác giữa hai bên mới trở nên hoàn hảo, hoạt động kinh doanh mới được thuận lợi. Trong giải pháp này, đòi hỏi các bên phải phối hợp tốt với nhau trong mọi hoạt động của công ty, các bên phải tích cực tìm hiểu nhau, như vậy sự hợp tác giữa hai bên mới được chặt chẽ. Đặc biệt là trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng , đối tác là người Ma cao gốc Trung Quốc, do vậy sự hợp tác giữa hai bên càng phải chặt chẽ hơn, hiểu nhau hơn. Có được như vậy, vai trò của Bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng mới được nâng cao một cách rõ nét và có hiệu quả. e.Việc xây dựng đội ngũ người lao động có trình độ, có kỹ năng làm việc tốt cũng là một trong những yếu tố để nâng cao vai trò Bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng. Đứng về khía cạnh lý luận mà nói thì đội ngũ người lao động có trình độ, có ky năng làm việc tốt là một điều kiện cần cho sự phát triển của công ty, đặc biệt là ở loại hình kinh doanh Casino ở công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng . Về mặt thực tế,trong thời gian trước, đội ngũ lao động ở công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng có kỷ luật kém, xảy ra nhiều hiện tượng xấu như thông đồng với khách ,… do vậy đội ngũ lãnh đạo và nhất là Bên Nước ngoài thiếu tin tưởng vào đội ngũ lao động, do đó mất lòng tin vào Bên Việt Nam, uy tín Bên Việt Nam cũng bị sứt mẻ. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, nhờ sự cố gắng của tổ chức công đoàn cũng như Bên Việt Nam mà đội ngũ lao động có kỹ luật tốt, trình độ được nâng cao,..do vậy tạo lòng tin trong Bên Nước ngoài. Tổ chức công đoàn công ty, chi bộ đảngvà bên Việt Nam không ngừng giáo dục, khuyến khích, nâng cao hơn nữa trình độ người lao động. Tổ chức công đoàn công ty cũng đã tổ chức buổi họp nhằm động viên người lao động, bên Việt Nam cũng tổ chức các buổi họp chuyên môn. Song, diều nàyhoàn toàn là chưa đủ, việc nâng cao trình độ, kỹ năng đội ngũ người lao động còn đòi hỏi có sự phối hợp hành động cả từ phía Việt Nam và phía người nước ngoài, có nghĩa là Hội đồng quản trị của công ty phải xây dựng chiến lược dài hạn nhằm nâng cao trình độ người lao động”. Chính nhờ trình độ tay nghề của đội ngũ người lao động được nâng cao rõ rệt mà vai trò của Bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng được nâng cao, dưới con mắt của Bên Nước ngoài thì vai trò của Bên Việt Nam rất được coi trọng trong hoạt động của công ty. Đối với bất kỳ một doanh nghiệp liên doanh nào, đây là việc xây dựng đội ngũ lao động có trình độ, kỷ luật tốt là một yếu tố không thể thiếu trong việc nâng cao vao trò của Bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh đó. f. Để bảo đảm vai trò của Bên Việt Nam ở công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng thì việc hình thành và phát triển của tổ chức Đảng, công đoàn là rất cần thiết. Ngay từ khi chính phủ cho phép đầu tư theo hình thức doanh nghiệp liên doanh, chính phủ đã chỉ đạo thống nhất rằng: nhất thiết phải có tổ chức đoàn, chi bộ đảng trong doanh nghiệp liên doanh. Thực tế hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp liên doanh đã xây dựng tổ chức đoàn, đảng trong công ty và tổ chức này cũng gópphần không nhỏ bảo đảm vai trò của bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh. Thực tế tại công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng cho thấy rằng, tổ chức Đảng và công đoàn đóng vai trò rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của công ty. Tổ chức Đảng và công đoàn ở công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng vừa thực hiện chức năng bảo vệ lợi ích cho người lao động, vừa tuyên truyền pháp luật cho ban lãnh đạo, là cầu nối cần thiết giữa người lao động và ban lãnh đạo. Tuy nhiên, việc phát huy hơn nữa vai trò của tổ chức công đoàn, chi bộ Đảng công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng nói riêng và trong công ty liên doanh nói chung là thực sự cần thiết. Việc xây dựng các tổ chức kinh tế xã hội này đòi hỏi có sự phối hợp của doanh nghiệp với các cấp các ngành Trung Ương. Việc xây dựng các tổ chức kinh tế xã hội này đòi hỏi phải tránh việc làn ăn hời hợt, thiếu trách nhiệm mà phải xây các tổ chức này với quy chế hoạt động rõ ràng và có thời gian biểu cụ thể, có như vậy thì hoạt động của các tổ chức này mới đạt hiệu quả cao, nhờ đó mà vai trò của Bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng mới được nâng cao và hoạt động có hiệu quả. Trên đây là những giải pháp về mặt chủ quan đối với Bên Việt Nam ở công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng, việc thực hiện tốt những giải pháp này sẽ góp phần nâng cao vai trò của Bên Việt Nam ở công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng. Tuy nhiên, những giải pháp mang tính chủ quan này vẫn là chưa đủ, dưới đây chúng ta đi nghiên cứu những kiến nghị về mặt Nhà nước. 2.2. Những kiến nghị đối với công tác quản lý Nhà nước nhằm nâng cao vai trò của bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng Trong quá trình hoạt động của mình, công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng gặp nhiều khó khăn từ phía cơ quan quản lý Nhà nước, điều này gây cản trở việc nâng cao vai trò của Bên Việt Nam ở công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng. Nhằm khắc phục nhược điểm này, dưới đây chúng ta đề xuất những kiến nghị với công tác quản lý Nhà nước, qua đó nâng cao được vai trò của Bên Việt Nam ở công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng. a. Chính phủ Việt Nam và Bộ kế hoạch và đầu tư cần ban hành văn bản qui định rõ vai trò của Bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh, đồng thời phải tiến hành khắc phục những bất lợi mà pháp luật hiện hành tác động tới vai trò của Bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh. Đứng về mặt lý luận mà nói, bất kỳ một văn bản pháp lý nào cũng có nhiều điều chưa phù hợp bởi có sự khác nhau giữa lợi ích Nhà nước và lợi ích doanh nghiệp-đây là một thực tế mà không dễ gì bỏ được. Thực tế hiện nay, tình trạng vai trò của Bên Việt Nam bị ảnh hưởng tiêu cực từ những văn bản qui phạm pháp luật của Chính phủ, các Bộ là không ít, tiêu biểu như Bên Việt Nam bất lợi so với Bên nước ngoài về vấn đề con dấu trong hoạt động công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng. Do Chính phủ không qui định gì về vấn đề con dấu trong luật đầu tư nước ngoài, cho nên giữa Bên Việt Nam và Bên Nước ngoài nảy sinh mâu thuẫn về vấn đề này và việc Hội đồng quản trị (7/9 thành viên là người nước ngoài) ra quyết định thông qua bản qui chế con dấu công ty liên doanh-bản qui chế này gây rất nhiều bất lợi cho Bên Việt Nam trong công ty liên doanh-đã cụ thể hoá những mâu thuẫn của hai bên đối tác. ở đây, Bên Việt Nam cần phải kiến nghị Chính phủ, Bộ kế hoạch đầu tư ban hành khẩn cấp và kịp thời những văn bản pháp qui có liên quan đến vấn đề trên, đồng thời Bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh cũng phải đóng vai trò tham mưu cho Chính phủ, các Bộ nhằm hoàn thiện các văn bản pháp luật này. Hy vọng rằng, trong một tương lai không xa thì những văn bản này trở thành hiện thực và lúc đó vai trò của Bên Việt Nam trong công ty liên doan nói chung và công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng nói riêng được khẳng định và phát huy một cách rõ nét nhất. b.Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng, Bộ tài chính và tổng cục thuế cần áp dụng mức thuế phù hợp, tỷ lệ hoa hồng phù hợp và các quy định về tài chính hợp lý. Trên thực tế hiện nay, do không bao quát hết được mọi công ty nên Bộ tài chính và các Cục thuế đã áp dụng những loại thuế và những qui định liên quan tới tài chính chưa đúng đắn, ví dụ như tại công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng thì phương pháp tính thuế trong thời gian trước là không phù hợp, gây ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của công ty.Về mức thuế, Bộ tài chính và tổng cục thuế đã có công văn thay đổi cách tính thuế, do đó tăng lợi nhuận cho công ty, song về tỷ lệ hoa hồng thì chưa có trả lời. Theo quy định của Bộ tài chính, tỷ lệ hoa hồng phù hợp tối đa là 5% doanh thu, nhưng đối với ngành kinh doanh đặc biệt như Casino, tỷ lệ hoa hồng cao hơn, có như vậy thì hoạt động kinh doanh Casino mới có triển vọng. Thực tế hiện nay ở Casino thì cần tỷ lệ hoa hồng thường là 7% doanh thu ở đây, vai trò của Bên Việt Nam cần được thể hiện, có nghĩa là Bên Việt Nam phải trực tiếp liên hệ với Bộ tài chính và tổng cục thuế, từ đó có 1 giải pháp phù hợp cho tỷ lệ hoa hồng này. Tuy nhiên, Bên Việt Nam trong công ty liên doanh cũng cần kiến nghị đối với Bộ tài chính, Cục thuế về các vấn đề không phù hợp với tình hình nội tại của công ty, có như vậy thì sự giải quyết mới đúng lúc đúng chỗ và hơpk lý. Nòi tóm lại, Bộ tài chính và Cục thuế phải có những qui định phù hợp với hoạt động của công ty liên doanh, đặc biệt là đối với ngành kinh doanh đặc thù như hoạt động Casino ở công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng, có như vậy thì vai trò của Bên Việt Nam ở công ty liên doanh nói chung và trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng nói riêng mới được nâng cao. c.Tăng cường liên hệ giữa chính quyền sở tại (các Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố) với công ty để đánh giá đúng tình hình, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho công ty trong quá trìng hoạt động. Hiện nay hoạt động của các công ty liên doanh gặp không ít khó khăn mà cần sự giải quyết tháo gỡ từ các cấp có thẩm quyền như Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố. Đối với công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng cũng vậy, công ty gặp không ít khó khăn trong mối quan hệ với các sở ban ngành như Sở điện lực, ….; đòi hỏi Uỷ ban nhân dân thành phố Hải phòng phải hỗ trợ giải quyết. Trong thời gian qua, Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng đã luôn nhận được thông tin từ phía công ty ví dụ như việc khó khăn trong đường điện, do đó Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng đã tích cực chỉ đạo Sở điện lực Hải Phòng lắp riêng cho công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng một trạm điện, khắc phục tình trạng bất ổn về điện. Để việc tăng cường liên hệ giữa chính quyền sở tại và công ty liên doanh được tốt hơn, Bên Việt Nam cần đóng vai trò cầu nối trong mối liên hệ này, một mặt Bên Việt Nam cần cung cấp đầy đủ thông tin về công ty liên doanh cho chính quyền sở tại, mặt khác Bên Việt Nam cần phải kiến nghị những khó khăn của doanh nghiệp liên doanh cho chính quyền sở tại. Đây là một yêu cầu rất khó khăn, đòi hỏi năng lực rất lơn của đội ngũ cán bộ Bên Việt Nam. Trên cơ sở mối quan hệ giữa chính quyền sở tại và doanh nghiệp liên doanh được phát huy, vai trò của Bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh cũng được nâng cao một cách rõ nét, Bên Việt Nam nhận được sự tín nhiệm của Bên Nước ngoài trong công ty liên doanh. Đặc biệt là đối với hoạt động kinh doanh đặc thù Casino ở công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng, mối quan hệ này cần phải được củng cố hơn nữa, có như vậy thì việc nâng cao vai trò của Bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng mới có thể trở thành hiện thực. Trên đây là toàn bộ những kiến nghị đối với cơ quan quản lý Nhà nước của công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng, cùng với những giải pháp về phía Việt Nam, những kiến nghị này sẽ góp phần xây dựng một tập thể người Việt Nam, đủ mạnh trong hoạt động của công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng, nhờ đó chúng ta mới có thể nâng cao hơn nữa vai trò của Bên Việt Nam trong công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng, tiến tới là một đối trọng đối với Bên Nước ngoài trong hoạt động kinh doanh của công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng . kết luận Cùng với sự phát triển của các nước nói chung và Hải Phòng nói riêng, việc hình thành và phát triển công ty Liên doanh du lịch Quốc tế Hải Phòng cũng đem lại nhiều sinh khí mới cho thành phố cảng. Công ty đã thu hút lượng khách du lịch lớn vào Việt Nam (tới năm 2000 là khoảng 50 vạn lượt khách), nộp thuế cho ngân sách Nhà nước lên tới vài tỉ, giải quyết công ăn việc làm cho hơn 500 lao động, … Do vậy, một lần nữa chúng ta khẳng định sự cần thiết phải có công ty Liên doanh du lịch Quốc tế Hải Phòng. Với tình hình kinh doanh này, chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào sự phát triển của công ty, hy vọng công ty làm ăn ngày càng có lãi. Trên cơ sở đó, việc nghiên cứu chuyên đề này có giá trị lý luận và giá trị thực tiễn rất lớn. Giá trị lý luận được thể hiện ở chỗ chuyên đề đã đánh giá một cách đúng nhất vai trò của Bên Việt Nam ở công ty Liên doanh thông qua ví dụ Bên Việt Nam tại công ty Liên doanh du lịch Quốc tế Hải Phòng. Mặt khác, giá trị thực tiễn của chuyên đề là chuyên đề chỉ ra những điểm mạnh , yếu của Bên Việt Nam và đề ra một số biện phát để thúc đẩy vai trò Bên Việt Nam trong công ty Liên doanh du lịch Quốc tế Hải Phòng nói riêng trong doanh nghiệp Liên doanh nói chung. Qua sự góp sức nhỏ bé của chuyên đề này, chúng ta hoàn toàn có thể hy vọng một vị thế xứng đáng hơn của Bên Việt Nam trong công ty Liên doanh - đây cũng là ý nguyện của em gửi gắm trong chuyên đề này. Hà Nội 6 - 2001 Mục lục Lời cảm ơn Được sự chỉ đạo và giúp đỡ của TS. Nguyễn Thị Hường, cử nhân Nguyễn Thanh Hà và quý công ty Liên doanh du lịch Quốc tế Hải Phòng, em đã thực tập thành công tại công ty Liên doanh du lịch Quốc tế Hải Phòng. Em xin gửi lời cám ơn chân thành và sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Hường cùng cử nhân nguyễn Thanh Hà đã đi cùng em trong quá trình thực tập này. Em cũng xin được gửi lời cảm ơn tới công ty Liên doanh du lịch Quốc tế Hải Phòng, đặc biệt là Ban Giám đốc công ty đã tạo thuận lợi cho em được thực tập. Tuy nhiên, do thời gian và kiến thức còn nhiều hạn chế chuyên đề của em không tránh khỏi những thiếu sót, mong cô giáo tận tình chỉ giúp. Em xin chân thành cảm ơn. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình quản trị dự án và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài- khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế ĐHKTQD- Nhà xuất bản Thống kê năm 1998 Điều lệ công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng Hợp đồng liên doanh của công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng Các biên bản họp hội đồng quản trị công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng Luận chứng kinh tế kỹ thuật công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng Các quyết định của uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng, Chính phủ, các bộ ban ngành đối với công ty liên doanh du lịch quốc tế Hải Phòng Bộ luật lao động nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 Nghị định 24/CP của Chính phủ về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam Thông tư số 12 của bộ kế hoạch và đầu tư về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0046.doc