Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

Lời mở đầu Bước vào thời kì quá độ lên CNXH nền kinh tế nước ta còn ở trình độ thấp kém phát triển, LLSX tồn tại ở nhiều thang bậc khác nhau. Vì vậy chế độ sở hữu về TLSX sẽ rất đa dạng điều này có nghĩa nền kinh tế phảI có nhiều thành phần. Sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta không chỉ là một tất yếu khách quan mà nó còn có vai trò hết sức to lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế cũng như xã hội của đất nước. Mỗi thành phần kinh tế có vai trò tác động riêng đến sự nghiệp p

doc16 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1682 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hát triển kinh tế xã hội. Trong đó thể hiện vai trò chủ đạo và có chức năng của một công cụ quản lí vĩ mô của nhà nước là thành phần kinh tế nhà nước. Đây là thành phần kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các hệ thống tài chính, quỹ dự trữ quốc gia, quỹ bảo hiểm nhà nước, hệ thống dịch vụ và là lực lượng lao động cho lợi ích kinh doanh bảo vệ quyền lợi nhân dân. Kinh tế nhà nước có vai trò hết sức to lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Thông qua sự lớn mạnh của nó mà giữ vững định hướng XHCN đồng thời cảI tổ nền kinh tế trên cơ sở tiềm lực nhà nước vững chắc. Trong đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng cộng sản đã đề ra quan điểm " Thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với các thành phần kinh tế hợp tác dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân". Do đó việc nghiên cứu vai trò của thành phần kinh tế nhà nước (một bộ phận trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam) cũng có những ‎ý nghĩa‎‎ to lớn góp phần phát triển hơn nữa thành phần kinh tế nhà nước. Chính vì những lí do trên mà em đã quyết định chọn đề tài này cho đề án của mình. Nội dung I. Lí luận chung về kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 1. Sự xuất hiện của kinh tế nhà nước Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Đảng ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có sự quản lí của nhà nước. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. 2. Quan niệm về kinh tế nhà nước và đặc điểm kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam Có quan niệm cho rằng: "Kinh tế nhà nước là thuật ngữ dùng để chỉ phần tài sản thuộc sở hữu nhà nước, tài nguyên khoáng sản, đất đai là tài sản quốc gia do nhà nước đại diện toàn dân làm chủ sở hữu. Hệ thống các quỹ bảo hiểm do nhà nước đảm nhận và quỹ dự trữ quốc gia, ngân hàng nhà nước, kho bạc nhà nước, tài chính nhà nước, các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước ở tất cả các ngành, lĩnh vực, phần vốn nhà nước đầu tư vào các thành phần kinh tế dưới dạng công ty cổ phần". Nhưng quan điểm này có nhược điểm là tiếp cận vấn đề nặng nề về yếu tố sở hữu mà đáng lẽ phảI tiếp cận dưới giác độ quản lí. Vì thế kinh tế nhà nước được hiểu: Kinh tế nhà nước là một bộ phận hợp thành của nền kinh tê quốc dân thống nhất do nhà nước trực tiếp quản lí bao gồm tài nguyên khoáng sản, đất đai là tài sản quốc gia do nhà nước đại diện toàn dân làm chủ sở hữu. Hệ thống các quỹ bảo hiểm do nhà nước đảm nhận và quỹ dự trữ quốc gia, ngân hàng nhà nước, kho bạc nhà nước, tài chính nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước bao gồm doanh nghiệp nhà nước sở hữu 100% vốn và doanh nghiệp nhà nước chỉ giữ cổ phần chi phối và có cổ phần đặc biệt. Cơ sở để xem xét một thành phần kinh tế với tư cách là QHSX trong đó quan hệ sở hữu có vai trò quyết định. "Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về TLSX do toàn dân sở hữu và sở hữu nhà nước". Thành phần kinh tê nhà nước có quan hệ phân phối chủ yếu là hình thức phân phối theo lao động. 3. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam Kinh tế nhà nước có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, điều này chứng tỏ kinh tế nhà nước phảI mạnh và có khả năng chi phối nền kinh tế. Là công cụ hữu hiệu để đảm bảo sự ổn định xã hội và ổn định kinh tế. Là lực lượng vật chất để tạo môI trường hoạt động thuận lợi cho các thành phần kinh tế khác. Nói đến vai trò chủ đạo là nói đến tầm quan trọng của nó và tính chất quyết định của nó đối với một chế độ xã hội nào đó. Bộ phận kinh tế chủ đạo phảI chi phối và dẫn dắt các bộ phận kinh tế khác. 3.1 Lí do kinh tế nhà nước có vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước được đánh giá là có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế vì nó đại diện cho QHSX mới. Nhìn chung những người lao động không có TLSX riêng mà chỉ đồng sở hữu các TLSX - sở hữu toàn dân đã giao cho nhà nước quản lí. Vì thế khu vực kinh tế nhà nước ngày càng phát triển và có vai trò quan trọng nhất trong nền kinh tế. Khu vực này có phát triển thì mới có nguồn lực để chủ động giảI quyết tốt các vấn đề xã hội. Kinh tế nhà nước giữ vai trò định hướng XHCN về QHSX trong thời kì quá độ. Kinh tế nhà nước dựa trên LLSX ở trình độ phát triển cao hình thức tổ chức quản lí và pháp luật của thành phần kinh tế này sẽ tạo ra những điều kiện để đạt được những mục tiêu của CNXH. 3.2 Nội dung vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước Kinh tế nhà nước phảI nắm giữ những ngành, lĩnh vực kinh tế và công nghiệp then chốt: điện, than, sản xuất vật liệu xây dựng, hoá chất, dầu khí…, nắm giữ những doanh nghiệp trọng yếu đảm đương những hoạt động mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện đầu tư kinh doanh. Hệ thống doanh nghiệp nhà nước đã tạo ra một lực lượng rất cần thiết cho việc tác động chi phối và hợp tác trong thực hiện các cân đối chủ yếu của nền kinh tế ngày càng khẳng định vai trò nòng cốt dẫn dắt lôI cuốn hỗ trợ các thành phần kinh tế khác hoạt động hướng vào mục tiêu chung do nhà nước đề ra. Trong quá trình tồn tại và hoạt động kinh tế nhà nước phảI nêu gương về năng suất chất lượng và hiệu quả, phảI liên kết với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác để mở đường dẫn dắt các thành phần định hướng sự phát triển cho các thành phần theo một quỹ đạo chung thông qua việc cung cấp điều kiện gắn với đầu vào hoặc đầu ra của sản xuất thuộc các thành phần kinh tế khác mà kinh tế nhà nước hỗ trợ các thành phần kinh tế này hoạt động theo mục tiêu XHCN. Kinh tế nhà nước thông qua vai trò gương mẫu của mình trong việc chấp hành các chính sách và luật pháp từ đó nêu một tấm gương để hướng các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế làm theo. Kinh tế nhà nước phảI xây dựng được tiềm lực về vật chất cho nhà nước làm chỗ dựa về kinh tế để thông qua đó nhà nước thực hiện vai trò quản lí và điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Kinh tế nhà nước có khả năng, điều kiện về mọi mặt để đáp ứng tốt nhất việc thực hiện các quy hoạch kế hoạch đầu tư xây dựng cảI tạo nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội như giao thông, điện, công trình công cộng… phục vụ cho sản xuất và đời sống trong suốt quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo mục tiêu XHCN. Kinh tế nhà nước có điều kiện đI đầu trong việc tập trung nghiên cứu và phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn sản xuất hàng hoá mà trong nước có lợi thế, có khả năng cạnh tranh, thị trường có nhu cầu và thu hút nhiều lao động tạo đà cho kinh tế phát triển. Qua đó kinh tế nhà nước đã giảI quyết được phần nào việc làm cho những người dân đang thất nghiệp. Kinh tế nhà nước đI đầu trong cách mạng khoa học kĩ thuật về nghiên cứu đào tạo và ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất. Nó không những nêu gương về năng suất chất lượng mà còn nêu gương về hiệu quả của công tác quản lí. Kinh tế nhà nước là tấm gương tiến bộ cho các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế đất nước thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về mọi lĩnh vực đặc biệt giảI quyết việc làm thực hiện luật lao động xoá đói giảm nghèo đóng góp lớn vào ngân sách nhà nước. Kinh tế nhà nước phát triển sẽ tạo điều kiện để các thành phần kinh tế khác tăng trưởng theo. Kinh tế nhà nước không ngừng đổi mới kĩ thuật công nghệ dựa trên quy mô vừa và lớn do đó có điều kiện để kinh doanh có lãI mà vẫn chấp hành đúng việc nộp thuế vào ngân sách nhà nước đồng thời định hướng cho các thành phần kinh tế khác trên 3 phương diện: nộp đủ thuế, đúng thời hạn, hiệu quả kinh tế cao coi trọng đổi mới thị trường công nghệ. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: " Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế tạo môI trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển". II. Thực trạng kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 1.Khảo sát tiến trình phát triển của kinh tế nhà nước 1.1 Thời kì trước đổi mới Nền kinh tế nước ta ở thời kì này còn lạc hậu nghèo nàn, kinh tế nhà nước chưa phát triển. Không có những sự thay đổi về thành phần kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước là thành phần quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. 1.2 Thời kì đổi mới Nền kinh tế nước ta đã có những sự chuyển biến về nhiều mặt và thành phần kinh tế cũng có những sự thay đổi. Tuy vậy vai trò của thành phần kinh tế này vẫn không ngừng được củng cố và nâng cao. ở thời kì này mô hình tổng quát của nền kinh tế đã thay đổi từ nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Về mặt chế độ sở hữu và thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo vẫn là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể nhưng vẫn có sự thay đổi là từ chỉ đồng nhất kinh tế quốc doanh với doanh nghiệp quốc doanh đến việc tách riêng kháI niệm sở hữu nhà nước và khẳng định vai trò chủ đạo của nó trong khi các doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế nhà nước. Về cơ chế vận hành có sự thay đổi nhận thức về nội dung của quản lí nhà nước đối với nền kinh tế đã từng bước được làm rõ. Trong thời kì này đã khẳng định vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là trung tâm quyết định xu hướng vận động phát triển đối với toàn bộ nền kinh tế trong thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đất nước trong từng giai đoạn của thời kì quá độ cũng như đảm bảo định hướng XHCN. Quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam kinh tế nhà nước từ chỗ là khu vực kinh tế gần như độc nhất trong nền kinh tế đã dần chuyển sang giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần. 2.Đánh giá chung về thực trạng kinh tế nhà nước ở Việt Nam 2.1 Thành tựu Sau một thời gian dài đổi mới nền kinh tế nhà nước đã phát triển và dành được những thành tựu đáng kể. Năm 2005 kinh tế nhà nước chiếm tỉ trọng 38,4% đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế đóng góp lớn vào ngân sách nhà nước góp phần giảI quyết việc làm và thu nhập cho người lao động bước đầu tạo dựng được nền tảng vật chất quan trọng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. Là chỗ dựa kinh tế cho nhà nước để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô. Trong nền kinh tế nhà nước thì doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt có vai trò cực kì quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp nhà nước đã có được nhiều thành tựu lớn. Nó chi phối các ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu nền kinh tế góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo ổn định và phát triển kinh tế xã hội tăng thế và lực của đất nước. Doanh nghiệp nhà nước chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản phẩm trong nước trong tổng thu nhập ngân sách, kim ngạch xuất khẩu và công trình hợp tác đầu tư với nước ngoài là lực lượng quan trọng trong thực hiện chính sách xẫ hội. Năm 2003 khu vực kinh tế nhà nước có 5175 doanh nghiệp chiếm 56,5% tổng số vốn đầu tư và đóng góp 38% GDP. Doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo thậm chí độc quyền trong nhiều ngành kinh tế nhất là những ngành có vị trí then chốt: điện, dầu khí… Khu vực này sản xuaat 39,5% giá trị sản lượng công nghiệp, trên 50% kim ngạch xuất khẩu, 23% tổng thu nhập ngân sách nhà nước. Năng suất lao động và hiệu quả phát triển kinh tế khá ổn định. 2.2 Những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại đó Bên cạnh những thành tựu đã đạt được kinh tế nhà nước vẫn còn có những tồn tại chưa giảI quyết được đó là tình trạng kinh doanh kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước. Số doanh nghiệp kinh doanh thực sự có lãI chỉ chiếm 40%, số doanh nghiệp lỗ chiếm 20%. Nhiều doanh nghiệp nợ chồng chéo cả về ngành nghề kinh doanh lẫn quản lí. Quy mô của các doanh nghiệp nhỏ. Tình trạng nợ, thiếu vốn của các doanh nghiệp còn phổ biến. Nợ của các doanh nghiệp nhà nước chiếm 1/2 vốn vay ngân hàng nhiều khoản nợ xấu không có khả năng thanh toán. Tư tưởng bao cấp còn nặng nề, tình trạng công nợ dây dưa chiếm dụng vốn lẫn nhau diễn ra phổ biến. Hiệu quả sử dụng vốn, tài sản cố định còn thấp. Thêm vào đó cơ cấu quy mô còn nhiều bất hợp lí chưa thật tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt. Nhìn chung trình độ công nghệ còn lạc hậu, quản lí còn yếu kém chưa thực sự tự chủ tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh. Kết quả sản xuất chưa tương xứng với các nguồn lực đã có và sự hỗ trợ đầu tư của nhà nước. Sức cạnh tranh thấp, lao động thiếu việc làm và dôI dư còn lớn. Hiện nay doanh nghiệp nhà nước đang đứng trước thách thức gay gắt của yêu cầu đổi mới phát triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Nguyên nhân của những tồn tại đó là: Xét về mặt khách quan: luật và chính sách nhà nước dành nhiều ưu đãI cho các doanh nghiệp nhà nước dẫn đến tình trạng dựa dẫm ỷ lại của các doanh nghiệp nhà nước. Chính sách lựa chọn cán bộ thu hút nhân tài chưa công tâm. Cơ chê giám sát kiểm tra kém trung thực: nhiều doanh nghiêp được đánh giá là lãI nhưng khi bàn giao giám đốc tổ chức lại thì vỡ ra là thua lỗ lớn. Xét về mặt chủ quan: các doanh nghiệp nhà nước phần lớn là mới thành lập chủ yếu là thành lập sau 1975, các tổng công ty thì thành lập sau 1995. Số đông cán bộ được đào tạo trong cơ chế bao cấp nặng tư tưởng ỷ lại, ít được cập nhật kiến thức mới. Đội ngũ lao động về hình thức là chủ nhưng nhiều doanh nghiệp trên thực tế không khác người làm thuê. Vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng trong doanh nghiệp nhà nước còn chịu sự tác động vừa chồng chéo vừa phân tán. Chưa gắn nhiệm vụ của tổ chức Đảng cấp trên với tổ chức Đảng tại doanh nghiệp. ở tổng công ty mối quan hệ giữa chủ tịch hội đồng quản trị - tổng giám đốc - bí thư đảng uỷ còn chưa rõ ràng. III. Một số biện pháp cơ bản nhằm tăng cường vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Theo chủ trương của Đại hội Đảng VIII đối với kinh tế nhà nước là phảI tăng cường việc chăm lo đổi mới và phát triển kinh tế thực sự có hiệu quả để có thể làm tốt vai trò chủ đạo của nó, phảI thực hiện một số biện pháp sau: 1. Tổ chức lại thành phần kinh tế nhà nước theo hướng tập trung vào những nganh, lĩnh vực then chốt Tập trung nguồn lực phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành, lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng, kinh tế xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm cho những cơ sở sản xuất thương mại dịch vụ quan trọng trong một số doanh nghiệp liên quan đến quốc phòng an ninh. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước có sự tham gia của các thành phần kinh tế. CảI thiện tình hinh tài chính và lao động của các doanh nghiệp nhà nước. Củng cố và hiện đại hoá các tổng công ty khác thực hiện chủ trương cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu đối với doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100%. Giao, bán, khoán hoặc cho thuê những doanh nghiệp loại nhỏ mà nhà nước không cần nắm giữ. Sát nhập giảI thể cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên. 2.Cải cách các doanh nghiệp nhà nước Xây dựng những tập đoàn kinh tế mạnh làm xương sống cho nền kinh tế quốc dân thể hiện mô hình tổ chức và vận hành các tổng công ty cần có mô hình tổ chức thích hợp cho các doanh nghiệp nhà nước, nâng cao vị trí và vai trò của hội đồng quản trị đặc biệt trong các doanh nghiệp lớn. Đổi mới cơ cấu sở hữu doanh nghiệp nhà nước nhằm tạo động lực quản lí và huy động vốn xã hội, điều chỉnh hợp lí cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Có 2 hướng đổi mới các doanh nghiệp nhà nước. Hướng thứ nhất: Sát nhập và được chia làm 2 giai đoạn Giai đoạn 1: Đầu những năm 90 đến trước hội nghị trung ương III thành lập các công ty (tổng công ty 90 thuộc bộ, tỉnh, thành phố, tổng công ty 91 thuộc chính phủ) trên cơ sở sát nhập những doanh nghiệp nhà nước trong một ngành thành doanh nghiệp thành viên thuộc tổng công ty. Tuy nhiên theo mô hình này tổng công ty chỉ là cơ quan quản lí không trực tiếp kinh doanh. Quan hệ giữa tổng công ty với các doanh nghiệp thành viên vẫn là mệnh lệnh và cơ chế "xin - cho". Vì vậy năng suất chất lượng hiệu quả hoạt động kinh doanh và năng lực cạnh tranh của các tổng công ty vẫn còn thấp. Trong khi đó các tổng công ty lại được nhà nước ưu đãI tập trung đầu tư và các điều kiện thuận lợi về vốn, đất đai… Giai đoạn 2: Nhà nước đang có chủ trương khuyến khích các tổng công ty và các doanh nghiệp thành viên tổ chức lại theo mô hình mẹ - con. Hướng thứ hai: Về cổ phần hoá. Thực hiện cổ phần hoá đổi mới cơ cấu sở hữu thực hiện xã hội hoá về sở hữu. Đa dạng hoá kênh huy động vốn, mở rộng quy mô vốn nhà nước, tăng hiệu quả của việc hoạt động phân phối và sở hữu vốn trong tất cả các thành phần kinh tế. Những doanh nghiệp nằm trong diện cổ phần hoá là những doanh nghiệp nhà nước đang trên đà phát triển không có vướng mắc về đồng nợ đội ngũ cán bộ quản lí có năng lực, không nằm trong diện nhà nước dứt khoát phảI nắm giữ. Các hình thức cổ phần hoá: có 5 hình thức Cổ phần hoá nội bộ: Doanh nghiệp bán cổ phiếu cho cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp. Cổ phần hoá mở rộng: Doanh nghiệp bán cổ phiếu cho cả người ở trong và ngoài doanh nghiệp ( hình thức này phổ biến hơn). Doanh nghiệp nhà nước thành lập dưới dạng công ty cổ phần, cách phát hành cổ phiếu hay tráI phiếu ngay từ đầu tách một phần vốn của doanh nghiệp nhà nước ra để tạo lập doanh nghiệp mới. Tình trạng cổ phần hoá ở nước ta từ 1992 đến nay. Tính đến 31/5/2005 cả nước ta có 2384 doanh nghiệp nhà nước cổ phẩn hoá với tổng số vốn 19200 tỉ đồng bước đầu mang lại những kết quả tương đối khả quan. Tuy nhiên tiến hành cổ phần hoá vẫn còn chậm và nhiều vướng mắc như: chưa giảI quyết được dứt công nợ, sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước với công ty cổ phần doanh nghiệp ngoài quốc doanh, khâu tổ chức cán bộ ban giám đốc, người lao động ở một số doanh nghiệp không nhiệt tình hưởng ứng. Chủ trương cổ phần hoá tâm lí người Việt không thích sự xáo động. Việc đánh giá doanh nghiệp còn nhiều bất cập. 3.Đổi mới quản lí nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước Đổi mới quản lí nhà nước về kinh tế phảI phân định rạch ròi quyền chủ sở hữu của nhà nước và quyền kinh doanh của doanh nghiệp.PhảI xác lập quyền tự chủ tài chính cho các doanh nghiệp tạo môI trường kinh doanh bình đảng cho các doanh nghiệp không phân biệt các thành phần kinh tế. Thực hiện chế độ quản lý công ty đối với các doanh nghiệp kinh doanh dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn mà chủ sở hữu là nhà nước và công ty cổ phần có vốn nhà nước giao cho hội đồng quản trị doanh nghiệp quyền đại diện trực tiếp chủ sở hữu gắn với quyền tự chủ trong kinh doanh. Quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lí nhà nước đối với doanh nghiệp. Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng xoá bỏ triệt để bao cấp doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp có cơ chế phù hợp về kiểm soát kiểm tra thanh tra của nhà nước với doanh nghiệp. Bổ sung, hoàn thiện hệ thống luật cho doanh nghiệp. Việc đổi mới cơ chế quản lí tạo điều kiện cho doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng theo luật định tách mục tiêu phi thương mại ra khỏi doanh nghiệp, xoá bỏ dần lợi thế độc quyền và sự phân biệt giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Nhà nước không trực tiếp quản lí doanh nghiệp mà thông qua đại diện của mình trong bộ máy quản lí để điều hành doanh nghiệp theo pháp luật. 4. Phát triển các mối quan hệ liên kết giữa các doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác Sự hợp tác giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác để cùng kinh doanh một loại sản phẩm hàng hoá nhất định xuyên suốt các công đoạn của quá trình sản xuất. Sự hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn nước ngoài cũng là một mô hình hợp tác giữa các thành phần kinh tế có hiệu quả. Nhờ đó các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước có điều kiện mở rộng đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong sản xuất và quản lí nâng cao sức cạnh tranh thị trường trong nước vươn ra quốc tế. Quan hệ hợp tác kinh doanh giữa các doanh nghiệp nhà nước thuộc ngành tài chính, ngân hàng, bưu chính viễn thông, điện lực, giao thông vận tảI với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác cũng được thay đổi một cách cơ bản. Nó được xác định là quan hệ đối tác bạn hàng cùng có lợi. Mức độ độc quyền vẫn còn nhưng đã giảm so với thời kì bao cấp. Các doanh nghiệp qua hợp tác mà đổi mới cung cách làm ăn, đổi mới quản lí kinh doanh có hiệu quả, có điều kiện đầu tư phát triển sản xuất theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Động lực để thúc đẩy sự hợp tác chính là lợi ích, sự tồn vong và thành bại của bản thân doanh nghiệp. Để nâng cao tiến trình hợp tác cần thực hiện một số biện pháp sau: đổi mới lí luận tư duy về chính sách kinh tế nhiều thành phần, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lí nhà nước về kinh tế, tạo điều kiện hỗ trợ doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nâng cao năng lực cạnh tranh, sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước làm doanh nghiệp nhà nứơc trở thành trụ cột vững chắc của sự hợp tác giữa các thành phần kinh tế. Kết luận Hiện nay nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phát triển theo định hướng XHCN, có sự quản lí của nhà nước. Trong việc xây dựng hình tháI kinh tế - xã hội mới không phảI mọi thành phần kinh tế đều có vai trò như nhau mà thành phần kinh tế nhà nước nắm giữ một vị trí quan trọng và được chú ý vì nó là hạt nhân của quan hệ sản xuất mới đồng thời là một lực lượng kinh tế, một công cụ có sức mạnh vật chất để nhà nước điều tiết, hướng dẫn nền kinh tế nhiều thành phần phát triển đúng hướng. Nói như vậy không có nghĩa là xem nhẹ các thành phần kinh tế khác mà một mặt chúng ta phảI tạo điều kiện để thành phần kinh tế nhà nước vươn lên nắm giữ vai trò chủ đạo, mặt khác phảI đảm bảo tính bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Việc đề ra quan điểm:" Thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân" là một trong những thành tựu to lớn của Đảng, nó đánh dấu một sự chuyển biến trong nhận thức của Đảng và nhà nước về con đường đI lên CNXH cũng như các yếu tố cấu thành nền kinh tế đó. Vì vậy có thể khẳng định vấn đề "Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước" có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, giúp chúng ta nhận thức rõ vai trò của kinh tế nhà nước nói riêng và tầm quan trọng của việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nói chung. Thực tế trảI qua hơn 15 năm đổi mới và phát triển việc thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN có sự quản lí của nhà nước mà trong đó kinh tế nhà nước có vai trò chủ đạo đã giúp nền kinh tế đất nước bước đầu đạt được những kết quả to lớn. Hi vọng rằng trong tương lai chúng ta phát huy hơn nữa những thành quả đã đạt được và hạn chế đến mức thấp nhất những thiếu sót có thể mắc phảI để nền kinh tế nước ta có thể phát triển. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin, NXB Chính trị Quốc gia – HN 2006 2. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin tập II, NXB giáo dục 1998 3. Phân tích kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam lý luận và thực tiễn 4. Tạp chí Cộng Sản số 19 tháng 10 năm 2006 5. Các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, X 6. Vũ Hữu Ngoạn, Ngô Văn Dụ, Phạm Hữu Tiến – Tìm hiểu một số khái niệm trong văn kiện Đại hội IX của Đảng, NXB Chính trị Quốc gia – HN 2007 Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35924.doc
Tài liệu liên quan