LỜI NÓI ĐẦU
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Trong đó các chứng khoán được chào bán lần đầu trên thị trường chứng khoán sơ cấp và được giao dịch qua lại giữa các nhà đầu tư trên thị trường thứ cấp. Thị trường chứng khoán với vai trò là kênh dẫn vốn của nền kinh tế, tạo tính thanh khoản cho các tài sản, tập trung và phân phối lại nguồn vốn, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển chung của nền kinh tế. Xu thế phát triển mạnh mẽ của nề
60 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2587 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Ước lượng hệ số rủi ro bêta của danh mục đầu tư trên Thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n kinh tế thế giới cùng với thị trường chứng khoán của các nước phát triển càng khẳng định lại vai trò của nó và sự phát triển của thị trường chứng khoán là tất yếu.
Thị trường chứng khoán ngày càng thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư, sự đầu tư này tuy là rất hấp dẫn song cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Do vậy, việc tìm hiểu, phân tích nhằm giảm thiểu rủi ro đầu tư là rất cần thiết. Trên thế giới đặc biệt là ở các thị trường tài chính hiệu quả có những vấn đề mà các nhà đầu tư tìm hiểu rất kĩ trước khi tham gia đầu tư. Người ta thường đặt câu hỏi “ một cổ phiếu có rủi ro không?” hay “hệ số beta của cổ phiếu là bao nhiêu?”. Rất nhiều người đều biết rằng beta là một thước đo khả năng biến động của một cổ phiếu ( hay một danh mục) trong mối quan hệ với phần còn lại của thị trường. Tuy nhiên, làm thế nào để lượng hoá rủi ro, tại sao lại dùng beta để đo lường rủi ro, ý nghĩa của hệ số beta như thế nào và các ứng dụng của nó trên thị trường chứng khoán thì chưa thật nhiều người biết đến.
Từ lí do đó em xin lựa chọn đề tài nghiên cứu là: “Ước lượng hệ số rủi ro bêta của danh mục đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam” để qua đó đóng góp một phần nhỏ làm rõ thêm về vấn đề này.
Trong chuyên đề sẽ không tránh khỏi những thiếu sót do thời gian tìm hiểu về đề tài có hạn nên em rất mong được sự giúp đỡ chỉ bảo của các thầy cô và các bạn.
CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
I. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1. Khái niệm và bản chất thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại. Là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, thị trường chứng khoán được hiểu một cách chung nhất, là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán – các hàng hoá và dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia thị trường. Việc trao đổi mua bán này được thực hiện theo các quy tắc ấn định trước.
Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp (Primary Market) hay thị trường thứ cấp (Secondary Market), tại Sở giao dịch chứng khoán (Stock Exchange) hay thị trường chứng khoán phi tập trung (Over the Counter Market), ở thị trường giao ngay (Spot Market) hay thị trường kỳ hạn (Future Market). Các quan hệ mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu chứng khoán, và như vậy, thực chất đấy chính là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
Thị trường chứng khoán không giống với các thị trường hàng hoá thông thường khác vì hàng hoá của thị trường chứng khoán là một loại hàng hoá đặc biệt, là quyền sở hữu về tư bản. Như vậy, bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó, giá trị của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Với những đặc điểm đó, thị trường chứng khoán đã trở thành một kênh huy động vốn quan trọng và hiệu quả, một thực thể không thể thiếu được đối với nền kinh tế hiện đại.
2. Chức năng của thị trường chứng khoán
2.1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua thị trường chứng khoán, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
2.2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
Thị trường chứng khoán cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình.
2.3. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
Nhờ có thị trường chứng khoán các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao.
2.4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
2.5. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô
Các chỉ báo của thị trường chứng khoán phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, thị trường chứng khoán được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua thị trường chứng khoán, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
3. Các chủ thể trên thị trường chứng khoán
3.1. Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán- hàng hoá của thị trường chứng khoán:
- Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu chính phủ và trái phiếu địa phương.
- Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
- Các tổ chức tài chính là nhà phát hành và các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng ... phục vụ cho hoạt động của họ.
3.2. Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là người kinh doanh chứng khoán thông qua các công ty môi giới chứng khoán mua bán chứng khoán. Nhà đầu tư có thể chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
- Nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích kiếm lời.
- Các nhà đầu tư có tổ chức hay còn gọi là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn. Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp chính là các công ty đầu tư, các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu lương và các quỹ bảo hiểm xã hội khác. Điểm nổi bật của các tổ chức này là nó có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm.
Các nhà đầu tư tham gia với mục đích lớn nhất là kiếm lời nhưng hiếm khi thấy các nhà đầu tư tập trung toàn bộ của cải vào một loại chứng khoán. Thay vì làm như vậy họ thường đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau. Lý do là tất cả các nhà đầu tư đều thích đạt được lợi nhuận cao từ đầu tư chứng khoán nhưng hầu hết không thích các rủi ro lớn thường đi kèm với chứng khoán có lợi nhuận kỳ vọng cao. Hay nói cách khác: Hầu hết các nhà đầu tư đều e ngại rủi ro.
Ta có thể phân chia thành 3 dạng nhà đầu tư. Nhà đầu tư e ngại rủi ro là nhà đầu tư mà cùng một mức lợi nhuận kỳ vọng họ sẽ chọn danh mục có mức độ rủi ro nhỏ hơn. Nhà đầu tư thờ ơ với rủi ro là không quan tâm đến rủi ro. Nhà đầu tư thích rủi ro là nhà đầu tư thích chọn một danh mục có rủi ro cao hơn để kì vọng vào tỉ suất lợi nhuận lớn hơn có thể đạt được.
Đứng trên quan điểm là người phân tích và tư vấn chứng khoán, việc xác định thái độ đối với rủi ro của nhà đầu tư là rất quan trọng, từ đó để xây dựng và tư vấn cho nhà đầu tư chọn lựa một danh mục tốt nhất. Mặt khác, môi trường kinh tế là bất định, luôn có sự biến động về giá trị của các tài sản trên thị trường, do vậy các nhà đầu tư luôn phải điều chỉnh danh mục đầu tư của mình, không những giảm thiểu rủi ro cho mình mà còn có thể tận dụng được các cơ hội xuất hiện trên thị trường.
3.3. Các tổ chức tài chính trung gian
Tổ chức tài chính trung gian là cầu nối giữa người mua và bán chứng khoán. Các tổ chức tài chính trung gian hoạt động trên thị trường chứng khoán bao gồm:
- Tổ chức bảo lãnh phát hành: Có chức năng thay mặt cho các tổ chức phát hành chào bán chứng khoán ra công chúng. Các tổ chức bảo lãnh phát hành thường là các công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư.
- Tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán: Thực hiện vai trò làm trung gian giữa người mua và người bán chứng khoán để hưởng phí môi giới hay tư vấn cho khách hàng về đầu tư chứng khoán hoặc kinh doanh chứng khoán cho bản thân công ty, tư vấn tài chính, định giá tài sản, lập hồ sơ đăng kỳ chào bán hoặc đăng ký niêm yết trên SGDCK... Các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán là công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ...
- Tổ chức định mức tín nhiệm: Thực hiện việc đánh giá và xếp hạng tín nhiệm của một tổ chức phát hành chứng khoán về khả năng thanh toán nợ vay hoặc là đánh giá mức độ rủi ro gắn liền với các loại đầu tư khác nhau.
3.4. Sở Giao dịch chứng khoán, thị trường phi tập trung (OTC) và Trung tâm lưu ký
Sở giao dịch chứng khoán và thị trường phi tập trung là những tổ chức cung cấp phương tiện, hệ thống máy tính, địa điểm cho các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán là thị trường giao dịch tập trung, là nơi cung cấp, duy trì và bảo đảm việc giao dịch chứng khoán niêm yết theo nguyên tắc trung gian, đấu giá và công khai. Thị trường phi tập trung (OTC) là loại thị trường không có địa điểm giao dịch tập trung như SGDCK, các giao dịch được tiến hành thông qua hệ thống giao dịch của các công ty chứng khoán, điện thoại, internet...
Trung tâm lưu ký chứng khoán có chức năng tổ chức, quản lý và giám sát hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán, cung cấp dịch vụ hỗ trợ việc giao dịch mua, bán chứng khoán.
3.5. Cơ quan quản lý thị trường chứng khoán
Cơ quan quản lý thị trường chứng khoán có chức năng xây dựng kế hoạch và chính sách phát triển thị trường chứng khoán, quản lý và giám sát hoạt động của thị trường, hoạt động của các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường bảo đảm cho hoạt động của thị trường hoạt động an toàn, công bằng và công khai; cấp, gia hạn, đình chỉ, thu hồi các loại giấy phép liên quan đến hoạt động về chứng khoán và thị trường chứng khoán; thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Hầu hết các nước thành lập cơ quan quản lý thị trường có tên gọi chung là Ủy ban Chứng khoán, cơ quan này có thể là một cơ quan độc lập trực thuộc Chính phủ, Quốc hội hay trực thuộc một Bộ hoặc là một cơ quan quản lý đa ngành. Ở Việt Nam cơ quan quản lý thị trường là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, trực thuộc Bộ tài chính, chịu tránh nhiệm quản lý, giám sát đối với toàn bộ hoạt động thị trường chứng khoán.
4. Hàng hoá trên thị trường chứng khoán
Chứng khoán là hàng hoá của thị trường chứng khoán. Theo Markowitz: tài sản tài chính là các chứng từ thể hiện quyền của người sở hữu các tài sản đó đối với các nguồn thu nhập tương lai của chủ thể phát sinh. Như vậy chứng khoán được coi là một tài sản tài chính.
Trong quá trình phát triển của thị trường, hàng hoá ngày càng đa dạng, phong phú, và người ta chia chứng khoán thành 4 loại chính: cổ phiếu, trái phiếu, các công cụ chuyển đổi và các công cụ phái sinh.
Cổ phiếu là một chứng khoán vốn xác nhận các quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của một cổ đông đối với một công ty cổ phần. Cổ phiếu là công cụ tài chính có thời hạn thanh toán vô hạn. Có thể chia thành các loại cổ phiếu sau:
- Cổ phiếu thường: Cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường có quyền tham gia kiểm soát, theo dõi, quản lý công việc của công ty thông qua cơ chế đại diện và biểu quyết.
- Cổ phiếu ưu đãi: Cổ đông nắm giữ không được tham gia vào bán bầu cử, ứng cử vào ban kiểm soát công ty, cổ đông thường nhận mức cổ tức cố định, được hưởng những ưu đãi về tài chính, có quyền nhận lãi trước cổ phiếu thường, được ưu tiên phân chia tài sản còn lại của công ty trong trường hợp công ty thanh lý hoặc giải thể.
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn.
Có nhiều cách phân loại trái phiếu: theo lãi suất thì có trái phiếu discount bonds, trái phiếu coupon bonds; theo tổ chức phát hành có trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ, trái phiếu công trình.
Chứng khoán chuyển đổi là loại chứng khoán tùy theo những điều kiện cụ thể mà cho phép người nắm giữ nó đổi lấy một chứng khoán khác. Thông thường là cổ phiếu ưu đãi được chuyển thành cổ phiếu thường và trái phiếu được chuyển thành cổ phiếu thường.
Các nhà đầu tư có kinh nghiệm có thể sử dụng những chứng khoán chuyển đổi để làm rào chắn rủi ro trước những dao động của giá thị trường
Chứng khoán phái sinh là một loại chứng khoán được phát hành trên cơ sở các loại chứng khoán đã có như cổ phiếu, trái phiếu nhằm mục đích giảm thiểu rủi ro, bảo toàn nguồn vốn đầu tư và thu lợi nhuận. Có 4 loại chứng khoán phái sinh cơ bản là hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn và hợp đồng hoán đổi.
II. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
1. Lịch sử hình thành
Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán là mục tiêu được Đảng và chính phủ Việt Nam định hướng từ những năm đầu của thập kỉ 90 (thế kỉ 20) nhằm xác lập một kênh huy động vốn cho việc đầu tư phát triển kinh tế.
Vào những năm 1995-1996, sau gần một thập niên đổi mới, kinh tế Việt Nam có những bước chuyển biến rõ rệt. Tuy nhiên, mô hình doanh nghiệp nhà nước bộc lộ nhiều bất cập, nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng thua lỗ cần phải sắp xếp đổi mới. Ỏ thời điểm này còn nhiều quan điểm không đồng ý tư nhân hóa và cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước- thành phần chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhưng trước yêu cầu đổi mới do phát triển kinh tế, chiến lược công nghiệp hóa, chủ trương cổ phần hóa đã được đưa ra với văn bản pháp quy đầu tiên là nghị định 28/CP ngày 7/5/96 của chính phủ về chuyển đổi một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Sau hơn 2 năm thực hiện chỉ có hơn 10 doanh nghiệp được cổ phần. Để thúc đẩy quá trình này, ngày 29/6/98 chính phủ ban hành nghị định 44/1998/NĐ-CP thay thế NĐ 28/CP với mục tiêu từ 5-10 năm cổ phần hóa phần lớn các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong những ngành nghề không phải ngành kinh tế trọng điểm. Cùng chung với nỗ lực này, ý tưởng hình thành thị trường chứng khoán để tạo ra môi trường thuận lợi giúp cho quá trình cổ phần hóa nhanh hơn.
Mặt khác, giai đoạn này nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam rất lớn. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế là 7-7.5% hằng năm. Cùng thời điểm này, hệ thống ngân hàng vừa trải qua cú sốc năm 1989 và bắt đầu chuyển sang kinh tế thị trường nên chưa phát huy được vai trò. Tín dụng cung cho nền kinh tế chỉ chiếm trên 10%. Trước yêu cầu huy động vốn cho đầu tư phát triển cần phát triển một kênh huy động vốn mới cho nền kinh tế.
Và thị trường chứng khoán ra đời giải quyết được hai yêu cầu trên: Vừa thúc đẩy cổ phần hóa, vừa tạo một kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế.
Trước yêu cầu đó, ngày 28/11/96 chính phủ ban hành nghị định 75/CP về thành lập UBCK. Ngày 4/7/1998 chính phủ ban hành nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán...Và ngày 20/07/2000 trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đi vào hoạt động đánh dấu sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế Việt Nam.
2. Thị trường chứng khoán Việt Nam
Sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam có thể được đánh dấu bằng 2 mốc quan trọng: Đó là sự ra đời của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh ngày 28/7/2000; và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội ngày 8/3/2005. Tuy mới hình thành và đi vào hoạt động trong một thời gian ngắn nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ, đóng vai trò quan trọng trong việc huy động vốn và luôn chuyển vốn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ngày 20/07/2000, TTGDCK Tp.HCM đã chính thức khai trương đi vào vận hành, và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000 với 02 loại cổ phiếu niêm yết.
Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày11/07/1998 của Thủ tướng Chính phủ và chính thức đi vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên ngày 28/7/2000 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng trong đời sống kinh tế- xã hội của đất nước.
Qua 7 năm với sự tăng trưởng của thị trường và hội nhập với TTCK thế giới, Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.HCM đã chính thức được Chính phủ ký Quyết định số:599/QĐ-TTg ngày 11/05/2007 chuyển đổi thành Sở giao dịch Chứng khoán Tp.HCM. Ngày 08/08/2007, SGDCK TP.HCM đã chính thức được khai trương. Cho đến nay, SGDCK TP.HCM đã đạt những thành quả rất đáng khích lệ. Tính đến ngày 31/12/2007, toàn thị trường đã có 507 loại chứng khoán được niêm yết, trong đó có 138 cổ phiếu với tổng giá trị vốn hóa đạt 365 ngàn tỷ đồng, đặc biệt có 6 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia niêm yết; 03 chứng chỉ quỹ đầu tư với khối lượng 171,4 triệu đơn vị và 366 trái phiếu các loại.
Dự kiến thời gian tới, số lượng cổ phiếu niêm yết tại SGDCK TP.HCM sẽ tăng lên rất nhiều do Chính phủ đã có chủ trương đưa cổ phiếu của một số tổng công ty lớn, các ngân hàng thương mại quốc doanh cổ phần hoá vào niêm yết trên thị trường Trước sự tăng trưởng của TTCK, số lượng công ty chứng khoán thành viên của SGDCK TP.HCM cũng không ngừng tăng về số lượng, quy mô và chất lượng dịch vụ. Tính đến hết ngày 31/12/2007, toàn thị trường đã có 62 công ty chứng khoán đăng ký làm thành viên của Sở với tổng số vốn đăng ký là 9.960 tỷ đồng. Các thành viên hầu hết được cấp giấy phép hoạt động kinh doanh với các nghiệp vụ gồm: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành và tư vấn đầu tư.
Sự gia tăng nhanh chóng lượng cổ phiếu niêm yết trên thị trường đã thu hút được thêm nhiều nhà đầu tư, trong cũng như ngoài nước, cá nhân cũng như có tổ chức. Nếu cuối năm 2006, số lượng tài khoản của nhà đầu tư mở tại các công ty chứng khoán thành viên lên tới trên 106 ngàn tài khoản, thì cho đến hết năm 2007 số lượng tài khoản của nhà đầu tư mở tại các CTCK đã lên tới gần 298 ngàn tài khoản trong đó có trên 7 ngàn tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài. Đối với hoạt động giao dịch, SGDCK Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện giao dịch khớp lệnh liên tục từ ngày 30/07/2007 và từng bước triển khai giao dịch nhập lệnh từ xa để đáp ứng với tình hình thị trường đang phát triển. Tính đến ngày 31/12/2007, SGDCK Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện được 1699 phiên giao dịch với khối lượng khoảng 4.225 triệu chứng khoán và gíá trị khoảng 384.452 tỷ đồng. Riêng trong năm 2007, khối lượng giao dịch đạt khoảng gần 2.390 triệu chứng khoán với tổng giá trị giao dịch là 245.651 tỷ đồng.
Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội
Tháng 6/2004, Bộ tài chính ra Thông báo số 136/TB/BTC nêu kết luận của Lãnh đạo Bộ về mô hình tổ chức và xây dựng thị trường giao dịch chứng khoán Việt Nam. Trong đó, định hướng xây dựng Trung tâm GDCK Hà Nội thành một thị trường giao dịch phi tập trung (OTC) đơn giản, gọn nhẹ. Ngày 8/3/2005 TTGDCK Hà Nội chính thức khai trương hoạt động, đánh dấu một bước phát triển mới của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Chức năng của trung tâm là :
Tổ chức đấu giá cổ phần cho các doanh nghiệp.
Tổ chức đấu thầu trái phiếu.
Tổ chức giao dịch theo cơ chế đăng kí giao dịch.
Hiện nay trên sàn Hà Nội đang áp dụng phương thức giao dịch sau :
Giao dịch báo giá trung tâm.
Giao dịch thỏa thuận: là phương thức giao dịch trong đó các thành viên tự thỏa thuận với nhau về các điều kiện giao dịch. Việc giao dịch cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư với khối lượng lớn, trái phiếu được thực hiện theo phương pháp thỏa thuận.
3. Quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán
Ủy ban Chứng khoán nhà nước có các chức năng và thẩm quyền xây dựng kế hoạch và chính sách phát triển thị trường chứng khoán; tổ chức, quản lý và giám sát trực tiếp hoạt động của thị trường chứng khoán có tổ chức; quản lý, giám sát các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán; cấp, gia hạn, đình chỉ, thu hồi các loại giấy phép, giấy chứng nhận liên quan đến các hoạt động về chứng khoán và thị trường chứng khoán; giám sát việc tuân thủ các điều kiện, quy định đối với các tổ chức, cá nhân được cấp phép; chấp nhận các tổ chức kiểm toán độc lập thực hiện kiểm toán trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán; thực hiện thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý các vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán.
Hầu hết các nước trên thế giới có thị trường chứng khoán đã thành lập cơ quan quản lý thị trường với tên gọi phổ biến là Ủy ban chứng khoán, có tính độc lập tương đối cao, ít nhất là trong hoạt động quản lý và giám sát thị trường chứng khoán. Cơ quan quản lý thị trường ở các nước có thể là một cơ quan độc lập trực thuộc chính phủ, quốc hội hoặc trực thuộc một bộ hoặc là một cơ quan quản lý đa năng: ở Mĩ là Ủy ban Giao dịch và Chứng khoán, ở Nhật cơ quan dịch vụ tài chính, Ở Trung Quốc là Ủy ban Giám quản chứng khoán...Về chức năng và thẩm quyền, cơ quan quản lý thị trường ở một số nước có thể không có chức năng hoạch định chính sách nhưng tất cả đều có chức năng cơ bản là quản lý, giám sát hoạt động của thị trường, thanh tra kiểm tra và xử lý vi phạm về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Về mô hình tổ chức quản lý thị trường chứng khoán, tất cả các nước đều tổ chức dưới dạng hội đồng (không phải cơ quan hành chính): tham gia hội đồng là các thành viên đại diện cho bộ, ngành tổng hợp; bên dưới là các cơ quan quản lý hàng ngày. Theo kinh nghiệm quốc tế, hầu hết các cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán đều có tính độc lập tương đối cao, có thẩm quyền quản lý được quy định trong luật. Ở Việt Nam Bộ tài chính là cơ quản lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực của Chính phủ, có chức năng, quyền hạn rất rộng liên quan đến lĩnh vực kinh tế, tài chính. Nhưng với tính đặc thù của lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, Bộ tài chính cần có một cơ quan chuyên trách trực tiếp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán – là Ủy ban chứng khoán nhà nước. Dù Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là một cơ quan trực thuộc bộ tài chính như hiện nay nhưng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ủy ban có tính độc lập tương đối, khác với các quan khác trong Bộ - điều này thể hiện tính đặc thù của quản lý lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán và cũng phù hợp với các kiến nghị có tính chất nguyên tắc của IOSCO (Tổ chức quốc tế các Ủy ban chứng khoán), chẳng hạn như: trách nhiệm của cơ quan quản lý cần được quy định rõ ràng và khách quan, cơ quan quản lý cần được được độc lập trong hoạt động và chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các chức năng và thẩm quyền của mình, cần có đủ thẩm quyền, nguồn lực phù hợp và khả năng thực hiện chức năng và quyền lực của mình, cơ quan quản lý cần có thẩm quyền đầy đủ trong việc thi hành giám sát, kiểm tra, thanh tra và trong hoạt động cưỡng chế thực thi.
Thanh tra Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trong chức năng, thẩm quyền của mình có thể xử phạt hành chính các vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán tùy theo tính chất, mức độ vi phạm. Các vi phạm này nếu cấu thành tội phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy để duy trì một thị trường phát triển lành mạnh, ổn định, hiệu quả, bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư, các nước trên thế giới trong quá trình xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán đều rất chú trọng đến công tác giám sát, thanh tra xử lý vi phạm thị trường chứng khoán. Các cơ quan quản lý thường được giao thẩm quyền khá lớn trong việc cưỡng chế thực thi, thanh tra các hành vi trái pháp luật, được tiếp cận các hồ sơ, tài liệu, yêu cầu các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường thuộc đối tượng thanh tra phải cung cấp đầy đủ sổ sách, báo cáo, tài liệu, được xử phạt tiền và ở một số nước (Thái Lan, Đài Loan) trong luật chứng khoán có quy định các tổ chức, cá nhân vi phạm ngoài việc bị phạt tiền ra còn có thể bị phạt tù hoặc cả hai hình thức trên. Nói chung ở một số nước có thị trường phát triển, các biện phát thanh tra xử lý vi phạm, cưỡng chế thực thi luôn được thực hiện chặt chẽ nhằm ngăn chặn các hành vi giao dịch không công bằng, tăng cường hiệu quả của công việc quản lý nhà nước đối với thị trường, giúp thị trường phát triển ổn định và hiệu quả.
CHƯƠNG II: HỆ SỐ BETA CỦA DANH MỤC ĐẦU TƯ
VÀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH
I. HỆ SỐ BETA CỦA DANH MỤC ĐẦU TƯ
Khi nhà đầu tư thiết lập một danh mục đa dạng hoá đầu tư, rủi ro phi hệ thống là loại đầu tư không được thị trường trả giá. Nói cách khác, thị trường chỉ chấp nhận mang lại thu nhập cao hơn cho tài sản có mức rủi ro thị trường lớn hơn chứ không phải mức tổng rủi ro lớn hơn. Do đó, vấn đề đặt ra là để xác định mức thu nhập mong đợi của đầu tư vào một tài sản người ta cần phải đo lường “ mức rủi ro thị trường” của tài sản đó ( mức mà thị trường trả giá cho nó). Hệ số bêta là hệ số đo lường mức rủi ro thị trường này của từng tài sản cũng như của từng danh mục.
Các chuyên gia tài chính cho rằng các tài sản khác nhau mang theo mình những rủi ro không đa dạng hoá được khác nhau phụ thuộc vào sự biến động của chúng so với sự biến động của toàn thể thị trường. Hệ số bêta là hệ số đo lường sự biến động trong lợi suất của lợi suất toàn thể thị trường trong từng thời kỳ.
Theo định nghĩa trong từ điển tài chính Collins thì : hệ số bêta là một đại lượng đo lường sự phản ứng của lợi suất kỳ vọng của một chứng khoán tài chính riêng biệt, có liên quan tới những biến động trong lợi suất kỳ vọng trung bình của các chứng khoán còn lại trong thị trường. Hệ số bêta được coi như một thước đo rủi ro thị trường của một cổ phiếu. Hệ số bêta liên kết lợi suất của cổ phiếu với lợi suất của cổ phiếu với lợi suất trung bình của thị trường. Rủi ro thị trường bình quân của tất cả các cổ phiếu trên thị trường bằng 1, đó là, việc tăng 10% trong lợi nhuận thị trường được phản ánh như 10% tăng thêm trong lợi nhuận một chứng khoán A. Nếu lợi suất của một chứng khoán B, là 20%, nhưng chỉ có 10% tăng thêm trong lợi suất thị trường, thì chứng khoán này có β =2 chỉ ra một rủi ro lớn hơn của thị trường. Nếu một chứng khoán C có β =0.5, điều đó nói lên chứng khoán này ít rủi ro hơn thị trường chung”.
Hệ số beta cũng được xem như là một yếu tố “ đòn bẩy” đối với lợi nhuận của tài sản tài chính. Khi phần bù rủi ro thị trường (Rm-Rf) thay đổi 1% thì lợi nhuận kỳ vọng của tài sản tài chính thay đổi β %.
Trên thị trường đầu tư, hệ số bêta được tính toán và sử dụng rất rộng rãi trong việc tạo ra các quyết định đầu tư và đánh giá hoạt động của các nhà quản lý đầu tư, trong phân tích cũng như hoạch định chiến lược đầu tư.
Do hệ số bêta là hệ số đo lường mức độ rủi ro, khi xác định được hệ số đo lường mức độ rủi ro, khi xác định được hệ số bêta của công ty mình, các nhà quản lý đồng thời ước lượng được rủi ro mà công ty mình đang gánh chịu, trên cơ sở đó họ có thể đưa ra những đối sách hợp lý trong chiến lược phát triển của công ty.
Trên một thị trường tài chính chuyên nghiệp, nơi mà việc đầu tư vào các tài sản tài chính được thực hiện theo các danh mục và được quản lý bởi các nhà quản lý đầu tư, hệ số bêta sẽ là một trong những cơ sở quan trọng để các nhà quản lý lựa chọn tài sản vào danh mục của mình. Hơn thế dựa vào thước đo này các nhà quản lý sẽ cho người đầu tư của mình biết mức rủi ro thị trường (rủi ro hệ thống) mà họ gánh chịu theo mục tiêu họ đặt ra. Với hệ số bêta, thước đo về mức độ thành công trong hoạt động đầu tưu và quản lý được đo lường và thể hiện rõ ràng hơn.
Như vậy, chúng ta có thể thấy hệ số bêta có vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá cổ phiếu, tài sản tài chính của các công ty trên thị trường cũng như trong các hoạt động đầu tư. Một thị trường phát triển cần phải có những danh mục công bố bêta của các tài sản trên thị trường.
Có rất nhiều phưong pháp để ước lượng hệ số rủi ro bêta cho các cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Việc sử dụng phương pháp nào tuỳ thuộc vào sự phù hợp của phương pháp đó với thị trường đang xét, tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của người đánh giá, cũng như phụ thuộc vào hiệu quả mà phương pháp đó mang lại. Các phương pháp thường được sử dụng là:
+ Ước lượng bêta thông qua các phương pháp đơn giản bằng đồ thị.
+ Ước lượng bêta bằng mô hình chỉ số đơn.
+ Ước lượng bêta bằng mô hình CAPM dựa trên số liệu lịch sử
Trong đó ước lượng beta qua mô hình CAPM là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất.
1. Khái niệm về hệ số beta trong mô hình CAPM
- Hệ số beta của một chứng khoán theo mô hình CAPM :
E(ri) = rf + * (13)
Trong đó:
E(ri) : Là lợi suất kỳ vọng của cổ phiếu i.
Rf : Là lợi suất phi rủi ro trên thị trường.
E(rm): Là lợi suất kỳ vọng của thị trường.
: Là thước đo về mức độ rủi ro của tài sản.
=
Hệ số bêta của một chứng khoán xác định theo mô hình CAPM là thước đo rủi ro của chứng khoán, nó xác định số phần trăm thay đổi lợi suất kì vọng của một chứng khoán khi có 1 % thay đổi trong lợi suất của danh mục thị trường. Hay nói cách khác nó là thước đo mức độ biến động của lợi suất chứng khoán so với danh mục thị trường.
- Danh mục đầu tư là việc một nhà đầu tư thực hiện đầu tư bằng cách lựa chọn các vị thế của các tài sản và tập hợp chúng gọi là danh mục đầu tư.
- Hệ số bêta của một danh mục đầu tư : Là thước đo mức độ biến động của một danh mục đầu tư so với danh mục thị trường. Nó được xác đinh dựa trên tỉ trọng của các tài sản trong danh mục cùng với các hệ số bêta tương ứng. Hệ số bêta._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5940.doc