Tài liệu Ứng dụng thực tế của UCP 600 & ISBP 681 trong tạo lập & kiểm tra bộ chứng từ thanh toán theo PT tín dụng chứng từ..: LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra cả về chiều rộng và chiều sâu, và thương mại quốc tế tăng trưởng theo cấp số nhân đã đòi hỏi các phương thức thanh toán quốc tế cũng như nguồn luật điều chỉnh các phương thức này ngày một hoàn hảo.
Tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán được sử dụng rộng rãi nhất trong thanh toán quốc tế. Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (UCP) do ICC phát hành được coi là thành công nhất trong lịch sử thương ... Ebook Ứng dụng thực tế của UCP 600 & ISBP 681 trong tạo lập & kiểm tra bộ chứng từ thanh toán theo PT tín dụng chứng từ..
85 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 5209 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Ứng dụng thực tế của UCP 600 & ISBP 681 trong tạo lập & kiểm tra bộ chứng từ thanh toán theo PT tín dụng chứng từ.., để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mại quốc tế từ trước đến nay. Cùng với UCP, ICC cũng ban hành Tập Quán Ngân Hàng Tiêu Chuẩn Quốc Tế (ISBP) để điều chỉnh việc tạo lập và kiểm tra bộ chứng từ thanh toán theo UCP. UCP600 là phiên bản mới nhất được ICC ban hành ngày 1/7/2007 để thay thế cho UCP500.Và cùng với UCP600, ICC cũng ban hành Bộ Tập Quán Ngân Hàng Tiêu Chuẩn Quốc Tế mới ISBP681 để thay thế cho ISBP645.
UCP600 có một số thay đổi cơ bản so với UCP500. Do vậy việc tìm hiểu về UCP600 cũng như Bộ Tập Quán Ngân Hàng Tiêu Chuẩn Quốc Tế (ISBP681) là vô cùng cần thiết cho hoạt động của các ngân hàng thương mại. Lụân văn: “Ứng dụng thực tế của UCP 600 và ISBP 681 trong việc tạo lập và kiểm tra bộ chứng từ thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ tại một số ngân hàng thương mại” với những phân tích, đánh giá những điểm mới của UCP600, tình hình ứng dụng UCP600 và ISBP681 tại một số ngân hàng thương mại sẽ phần nào đáp ứng yêu cầu nói trên.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những lý luận cơ bản về phương thức tín dụng chứng từ và nguồn luật điều chỉnh phương thức này, khoá luận tập trung vào phân tích những thay đổi cơ bản của UCP600 so với UCP500 và thực tiến áp dụng UCP600 và ISBP681 tại một số ngân hàng thương mại, từ đó đề xuất một số giải pháp vi mô và vĩ mô nhằm nâng cao hiệu quả của phương thức tín dụng chứng từ khi áp dụng phiên bản UCP mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Ứng dụng thực tế của UCP 600 và ISBP 681 trong việc tạo lập và kiểm tra bộ chứng từ thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ
- Phạm vi nghiên cứu: Tình hình ứng dụng tại một số ngân hàng thương mại
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu và tổng hợp tài liệu tại bàn
- Phương pháp đối chiếu so sánh
- Phương pháp diễn giải, quy nạp
- Phương pháp phân tích và tổng hợp
5. Kết cấu của khoá luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận đựơc chia làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về phương thức tín dụng chứng từ, UCP600 và ISBP681
Chương 2: Thực tế áp dụng UCP600 và ISBP681 trong việc tạo lập và kiểm tra bộ chứng từ thanh toán tại một số ngân hàng thương mại
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm khắc phục những bất cập và khó khăn khi áp dụng.
Do hạn chế về kiến thức, thời gian thực hiện và kinh nghiệm thực tế, khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự quan tâm góp ý của các thầy giáo, cô giáo và các bạn để khoá luận ngày càng hoàn thiện và có ý nghĩa hơn.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới cô giáo Th.S Phạm Thanh Hà đã tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận cũng như cung cấp cho em những kiến thức cơ bản cũng như những tài liệu cần thiết cho việc nghiên cứu đề tài. Đồng thời em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy giáo, cô giáo trong khoa Kinh Tế & Kinh Doanh Quốc Tế- Trường Đại Học Ngoại Thương Hà Nội, cùng toàn thể các cán bộ phòng thanh toán quốc tế của Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam, NHTM Cổ Phần Kỹ Thương Việt Nam, Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn chi nhánh Láng Hạ, Ngân Hàng HSBC đã giúp em hoàn thành khoá luận.
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ, UCP600 VÀ ISBP681
I. Phương thức tín dụng chứng từ:
1. Khái niệm phương thức tín dụng chứng từ:
Trước hết cần hiểu phương thức tín dụng chứng từ là một phương thức thanh toán. Nói đơn giản hơn đó chính là cách mà người nhập khẩu trả tiền và người xuất khẩu thu tiền về. Trong thương mai quốc tế, hai bên mua bán có thể lựa chọn một trong số các phương thức thanh toán: Chuyển tiền, ghi sổ, nhờ thu. Tuy nhiên trong các phương thức đó vai trò của ngân hàng chưa cao, chưa phát huy được thế mạnh của ngân hàng.
Từ thực tiễn sự phát triển của thương mại quốc tế hiện nay, yêu cầu một phương thức thanh toán mới vừa đảm bảo được quyền lợi của người mua và người bán đồng thời lại phát huy được thế mạnh của ngân hàng- một trung gian tài chính có uy tín và có tiềm lực kinh tế lớn? Phương thức ấy phải đảm bảo rằng người bán chắc chắn sẽ thu được tiền khi đã giao hàng theo đúng quy định trong hợp đồng, đồng thời cũng phải đảm bảo rằng khi người mua trả tiền thì chắc chắn người mua sẽ nhận được hàng đúng theo yêu cầu của hợp đồng mua bán.
Một phương thức thanh toán hữu hiệu nhất, an toàn nhất cho cả người mua, người bán đồng thời lại có thể phát huy được thế mạnh của ngân hàng đã ra đời. Đó chính là phương thức tín dụng chứng từ (documentary credit)
Theo điều 2 UCP600 (Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ) “Tín dụng là bất cứ một sự thoả thuận nào, dù cho được mô tả hoặc đặt tên như thế nào, là không thể huỷ bỏ và theo đó là một sự cam kết chắc chắn của ngân hàng phát hành để thanh toán khi xuất trình phù hợp”
Định nghĩa trên có thể hiểu một cách đơn giản như sau: về bản chất, phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận, trong đó một ngân hàng (ngân hàng phát hành) theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu phát hành thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng. Để có thể thực hiện việc thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ thì trước hết người nhập khẩu (người trả tiền) phải làm đơn yêu cầu ngân hàng phát hành thư tín dụng. Và để ngân hàng phát hành thư tín dụng cho người hưởng lợi hưởng thì thông thường người yêu cầu phát hành thư tín dụng phải ký quỹ một số tiền nhất định mở L/C và cũng phải trả một khoản phí nhất định. Tỷ lệ ký quỹ là bao nhiêu phần trăm trị giá L/C thì tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa người nhập khẩu và ngân hàng. Mức phí mở L/C thì áp dụng theo mức phí của từng ngân hàng cụ thể. Như vậy thư tín dụng đã xác lập phương thức thanh toán theo L/C. Nếu không có phương thức tín dụng thì phương thức thanh toán này cũng không được áp dụng. Các bên tham gia cơ bản trong phương thức tín dụng chứng từ gồm có:
- Người yêu cầu phát hành thư tín dụng: Đó chính là người nhập khẩu: Người nhập khẩu hàng hoá hoặc là người nhập khẩu uỷ thác cho một người khác.
- Ngân hàng phát hành thư tín dụng: Là ngân hàng đại diện cho người nhập khẩu, nó cấp tín dụng cho người nhập khẩu.
- Người hưởng lợi thư tín dụng: Là người xuất khẩu: Người xuất khẩu hay bất cứ người nào mà người hưởng lợi chỉ định.
- Ngân hàng thông báo: Là ngân hàng ở nước người hưởng lợi
Quy trình thanh toán thư tín dụng như sau:
(7)
Ngân hàng
phát hành
Ngân hàng thông báo
Người
nhập khẩu
Người
xuất khẩu
(1)
(3)
(8)
(9)
(6)
(7)
(4)
(5)
(6)
(2)
Các bước cụ thể bao gồm:
Hợp đồng ngoại thương đựơc ký kết giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu
Người nhập khẩu làm đơn xin mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng phát hành yêu cầu mở một thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng.
Thông thường khi làm đơn xin mở thư tín dụng, người nhập khẩu phải cung cấp cho ngân hàng các giấy tờ cần thiết tuỳ theo yêu cầu của ngân hàng phát hành, thông thường gồm những giấy tờ sau: hợp đồng ngoại thương, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép xuất nhập khẩu hàng hoá (nếu là hàng hoá thuộc đối tượng chịu hạn ngạch xuất nhập khẩu)
Trong thực tế, quy trình phát hành thư tín dụng như sau:
SƠ ĐỒ 1: QUY TRÌNH PHÁT HÀNH THƯ TÍN DỤNG
Trách Nhiệm
Tiến Trình Thực Hiện
Chuyên Viên khách Hàng
Tiếp nhận yêu cầu
Kiểm tra và thẩm định
Ktra hồ sơ
Thông báo, mở tài khoản và bán ngoại tệ
kiểm tra, soạn điện và hạch toán
Ktra điện
Phát điện và lưu hồ sơ
N
Y
Y
N
Chuyên Viên Khách Hàng
Trưởng Đơn Vị, Chuyên Gia Phê Duyệt Tín Dụng Các Cấp
Chuyên Viên Khách Hàng, Ban Hỗ Trợ Kinh Doanh
Chuyên Viên Thanh Toán
Cấp Thẩm Quyền
Chuyên Viên Thanh Toán
Nguồn: Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Kỹ Thương Việt Nam Techcombank.
Diễn giải thực hiện:
Tiếp nhận yêu cầu: CVKH tiếp nhận yêu cầu của khách hàng và hướng dẫn khách hàng lập đơn xin yêu cầu phát hành thư tín dụng (theo mẫu sẵn có của các ngân hàng) và chuẩn bị bộ hồ sơ (các giấy tờ cần thiết theo yêu cầu của ngân hàng)
Kiểm tra, thẩm định và phê duyệt hồ sơ mở L/C:
CVKH kiểm tra và xác định rõ tính đầy đủ, rõ ràng của yêu cầu phát hành hoặc điều chỉnh thư tín dụng, so sánh với hợp đồng ngoại thương để kịp thời lưu ý khách hàng khi có mâu thuẫn.
CVKH chịu trách nhiệm thẩm định khách hàng có đủ điều kiện để phát hành, điều chỉnh thư tín dụng hay không theo các hướng dẫn hiện hành của các ngân hàng.
Phê duyệt hồ sơ:
Sau khi CVKH kiểm tra hồ sơ và thẩm định khách hàng, trưởng đơn vị, chuyên gia phê duyệt tín dụng các cấp có trách nhiệm phê duyệt hồ sơ. Nếu đồng ý thì phê duyệt chấp nhận và chuyển xuống cho CVKH, ban hỗ trợ kinh doanh. Nếu không đồng ý thì trả lại cho CVKH để yêu cầu khách hàng sửa đổi cho phù hợp.
Thông báo, ký kết hợp đồng, mở tài khoản và mua ngoại tệ:
Sau khi thông báo cho khách hàng về việc đơn yêu cầu mở thư tín dụng được chấp nhận, hợp đồng dịch vụ giữa người yêu cầu mở L/C và ngân hàng phát hành được ký kết và một tài khoản được mở cho khách hàng. Nếu khách hàng chưa có ngoại tệ thì ngân hàng sẽ bán ngoại tệ cho khách hàng.
Kiểm tra, soạn điện và hạch toán:
CVTT có trách nhiệm kiểm tra yêu cầu mở L/C. Nếu có sai sót thì thông báo cho CVKH liên hệ với khách hàng để điều chỉnh thích hợp. Nếu không có sai sót gì thì tiến hành soạn điện và hạch toán chi phí.
Kiểm tra điện:
Cấp thẩm quyền có trách nhiệm phê duyệt điện. Nếu đồng ý thì chuyển cho CVTT để phát điện và lưu hồ sơ. Nếu có sai sót thì chuyển lại cho CVTT để sửa chữa.
Phát điện và lưu hồ sơ:
Tại trung tâm thanh toán, sau khi soạn điện, đã kiểm soát, đã thực hiện thu phí, ký quỹ và được cấp có thẩm quyền cuối cùng phê duyệt thì tiến hành phát điện vào phiên gần nhất.
Hồ sơ được lưu giữ tại ngân hàng.
Muốn mở L/C người nhập khẩu phải trả một khoản phí và ký quỹ nhỏ hơn hoặc bằng giá trị của L/C (Tuỳ theo hạn mức mà ngân hàng cấp cho người nhập khẩu mà người nhập khẩu có thể được miễn ký quỹ hoặc chỉ phải ký quỹ một phần giá trị của L/C).
Về phía ngân hàng, khi nhận được đơn yêu cầu mở L/C của người nhập khẩu, ngân hàng cần xem xét, tư vấn cho người nhập khẩu về nội dung của L/C như: Số lượng các chứng từ, loại chứng từ, ngày tháng giao hàng… dựa trên hợp đồng mua bán ngoại thương, luật áp dụng và UCP 600.
Như vậy người nhập khẩu đã thực hiện nghĩa vụ của mình và sẽ không thể từ chối nhận hàng hoặc không thanh toán cho người xuất khẩu nếu người xuất khẩu hoàn thành nghĩa vụ giao hàng và cung cấp chứng từ đúng yêu cầu của L/C.
(3) Căn cứ vào đơn xin mở thư tín dụng, ngân hàng phát hành thư tín dụng sẽ lập một thư tín dụng và thông qua ngân hàng phục vụ người xuất khẩu (ngân hàng thông báo) ở nước người xuất khẩu thông báo thư tín dụng và chuyển thư tín dụng đến người xuất khẩu.
Trên thực tế, quy trình thanh toán thư tín dụng có thể sẽ phải sử dụng nhiều hơn một ngân hàng thông báo, bởi vì trong trường hợp ngân hàng thông báo L/C được người yêu cầu đề nghị trong thư tín dụng mà ngân hàng đó lại không có quan hệ đại lý với ngân hàng phát hành L/C thì ngân hàng phát hành phải thông qua một ngân hàng đại lý của mình (nhưng có mối quan hệ với ngân hàng mà người yêu cầu chỉ định làm ngân hàng thông báo) thông báo thư tín dụng. Như vậy trong quy trình sẽ có 2 ngân hàng thông báo: ngân hàng thông báo thứ nhất và ngân hàng thông báo thứ 2.
(4) Khi nhận được thư tín dụng, ngân hàng thông báo báo cho người xuất khẩu về thư tín dụng và khi nhận được bản gốc của thư tín dụng thì chuyển ngay cho người xuất khẩu.
Thực tế có trường hợp thư tín dụng sẽ được thông báo sơ bộ, các chi tiết đầy đủ gửi sau. Trong trường hợp ấy, ngân hàng thông báo khi nhận được thông báo sơ bộ thư tín dụng từ ngân hàng phát hành sẽ thông báo sơ bộ cho người xuất khẩu. Trong thông báo sơ bộ ghi rõ: “các chi tiết đầy đủ gửi sau”. Khi nhận được bản gốc từ phía ngân hàng phát hành thì chuyển ngay cho người xuất khẩu.
(5) Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu không chấp nhận thì đề nghị ngân hàng phát hành L/C sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với hợp đồng.
(6) Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ phù hợp theo yêu cầu của thư tín dụng xuất trình đến ngân hàng phát hành xin thanh toán thông qua ngân hàng phục vụ mình (có thể là ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng khác)
(7) Ngân hàng phát hành kiểm tra bộ chứng từ nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu. Nếu không phù hợp, ngân hàng từ chối thanh toán và gửi trả lại bộ chứng từ cho người xuất khẩu (nếu người nhập khẩu chấp nhận thanh toán thì ngân hàng vẫn thanh toán và trừ phí sai sót của bộ chứng từ)
(8) Ngân hàng phát hành thư tín dụng đòi tiền người nhập khẩu và tiến hành chuyển bộ chứng từ cho người nhập khẩu sau khi người nhập khẩu trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán.
(9) Người nhập khẩu kiểm tra chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán cho ngân hàng phát hành, nếu không phù hợp thì có quyền từ chối trả tiền.
Từ sự phân tích quy trình của phương thức tín dụng chứng từ, chúng ta sẽ rút ra các đặc điểm của phương thức thanh toán này.
2. Đặc điểm của phương thức tín dụng chứng từ:
a. Phương thức tín dụng chứng từ là phương thức có liên quan đến ba quan hệ hợp đồng:
♣ Hợp đồng mua bán giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu:
Hợp đồng mua bán hàng hoá là sự thoả thuận giữa người mua và người bán, trong đó người bán có trách nhiệm giao hàng đúng và đủ còn người mua có trách nhiệm trả tiền. Trong hợp đồng mua bán, các bên tham gia thoả thuận phương thức thanh toán tiền hàng: chuyển tiền, nhờ thu, ghi sổ, tín dụng chứng từ. Khi lựa chọn tín dụng thư làm phương thức thanh toán tiền hàng thì thư tín dụng sẽ được mở. Có thể nói hợp đồng mua bán hàng hoá làm cơ sở cho phương thức tín dụng chứng từ.
Mặc dù thư tín dụng ra đời trên cơ sở hợp đồng mua bán giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu nhưng thư tín dụng lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán. Bất cứ sự dẫn chiếu nào tới điều khoản trong hợp đồng mua bán đều không được coi là một phần cấu thành của tín dụng thư và không được ngân hàng xem xét đến.
♣ Hợp đồng dịch vụ giữa người yêu cầu phát hành thư tín dụng (người nhập khẩu) và ngân hàng phát hành:
Muốn thanh toán bằng phương thức tín dụng thư thì trước hết thư tín dụng phải được mở. Để thư tín dụng được mở thì người nhập khẩu hàng hoá (người trả tiền) phải làm đơn (Đơn yêu cầu phát hành thư tín dụng) gửi đến ngân hàng phát hành xin mở L/C. Căn cứ vào đó, ngân hàng phát hành sẽ phát hành một thư tín dụng cho ngưòi hưởng lợi hưởng, và người nhập khẩu sẽ phải chịu một khoản lệ phí để mở L/C.
Thực chất, đây chính là một hợp đồng dịch vụ giữa ngân hàng và người xin phát hành L/C. Theo đó, ngân hàng dùng uy tín và khả năng tài chính của mình để đảm bảo thanh toán cho người xuất khẩu khi họ xuất trình phù hợp và thu phí từ người nhập khẩu. Và khi đó, ngân hàng sẽ chịu trách nhiệm kiểm tra bộ chứng từ do người xuất khẩu xuất trình trước khi quyết định thanh toán hay từ chối thanh toán.
♣ Thư tín dụng:
Thư tín dụng được ra đời trên cơ sở hợp đồng dịch vụ được ký kết giữa ngân hàng phát hành và người nhập khẩu. Thư tín dụng hình thành trên cơ sở hợp đồng mua bán, nhưng sau khi ra đời lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán. Thậm chí trong trường hợp thư tín dụng có dẫn chiếu đến hợp đồng mua bán thì các ngân hàng cũng không coi hợp đồng mua bán như là một bộ phận cấu thành nên thư tín dụng. Do vậy, các ngân hàng thường khuyên khách hàng của mình không nên dẫn chiếu hợp đồng mua bán vào thư tín dụng. Người nhập khẩu căn cứ vào hợp đồng để làm đơn yêu cầu phát hành thư tín dụng. Người xuất khẩu căn cứ vào các điều kiện của thư tín dụng tiến hành giao hàng và lập chứng từ trên cơ sở yêu cầu của thư tín dụng. Do đó người xuất khẩu khi nhận được thư tín dụng phải kiểm tra kỹ các điều khoản của thư tín dụng, nếu có điều khoản nào chưa phù hợp phải yêu cầu người nhập khẩu tiến hành sửa đổi thư tín dụng cho phù hợp trước khi thực hiện giao hàng. Người xuất khẩu phải lập đầy đủ các chứng từ phù hợp với yêu cầu của thư tín dụng và xuất trình cho ngân hàng trong thời hạn quy định. Sau khi kiểm tra chứng từ, nếu thây hoàn toàn phù hợp với các quy định của thư tín dụng, ngân hàng phát hành thanh toán tiền hàng cho người xuất khẩu.
Như vậy thư tín dụng là cam kết trả tiền của ngân hàng phát hành đối với người xuất khẩu. Nó hoàn toàn độc lập với hợp đồng cơ sở. Điều 4a UCP600 nêu rõ: “Về bản chất, tín dụng là một giao dịch riêng biệt với các hợp đồng mua bán hoặc các hợp đồng khác mà các hợp đồng này có thể làm cơ sở của tín dụng. Các ngân hàng không liên quan đến hoặc bị ràng buộc bởi các hợp đồng như thế, thậm chí ngay cả trong tín dụng có bất cứ sự dẫn chiếu nào đến các hợp đồng như thế. Vì vậy sự cam kết của một ngân hàng để thanh toán, thương lượng thanh toán hoặc thực hiện bất cứ nghĩa vụ nào khác trong tín dụng không phụ thuộc vào các khiếu nại hoặc các biện hộ của người yêu cầu phát sinh từ quan hệ của họ với ngân hàng phát hành hoặc người thụ hưởng.”
b. Trong phương thức tín dụng chứng từ, các bên giao dịch chỉ căn cứ vào chứng từ chứ không căn cứ vào hàng hoá:
Có thể nói trong phương thức tín dụng chứng từ, người nào nắm chứng từ sở hữu hàng hóa thì người đó là người có quyền sở hữu đối với hàng hoá. Vì chỉ cần nắm chứng từ là có thể đi nhận hàng. Trong phương thức tín dụng chứng từ, các bên giao dịch cũng chỉ căn cứ vào chứng từ để xem rằng xuất trình đó đã phù hợp hay chưa? để quyết định việc có thanh toán hay chấp nhận thanh toán không? Chính các chứng từ xuất trình là căn cứ duy nhất để các ngân hàng quyết định trả tiền hay từ chối thanh toán cho người hưởng lợi, đồng thời cũng là căn cứ duy nhất để người nhập khẩu hoàn trả hay từ chối trả tiền cho ngân hàng. Nếu người xuất khẩu xuất trình được các chứng từ thể hiện trên bề mặt của chúng là phù hợp với các quy định của thư tín dụng thì sẽ được ngân hàng trả tiền.
Ngân hàng không có lý do gì để từ chối thanh toán tiền hàng khi người xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ hợp lệ. Bởi vì như đã nói ở trên, phương thức tín dụng chứng từ là cam kết trả tiền của ngân hàng phát hành thư tín dụng đối với người xuất khẩu khi họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp với quy định trong thư tín dụng. Ngân hàng không chịu trách nhiệm về tên hàng, số lượng, trọng lượng, chất lượng, trạng thái, bao bì, việc giao hàng, giá trị hay sự hiện hữu của hàng hoá mà bất cứ chứng từ nào đại diện. Cũng tương tự như vậy, nếu bộ chứng từ ngân hàng xuất trình để đòi tiền người nhập khẩu hợp lệ thì ngưòi nhập khẩu sẽ trả tiền cho ngân hàng, còn nếu không thì người nhập khẩu có quyền từ chối thanh toán. Trong trường hợp đó, rủi ro sẽ hoàn toàn thuộc về ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng cần phải kiểm tra kỹ bộ chứng từ xuất trình trước khi chấp nhận thanh toán cho nhà xuất khẩu.
Như vậy, trong phương thức tín dụng chứng từ, các chứng từ có một tầm quan trọng to lớn, nó tượng trưng cho giá trị hàng hoá mà người xuất khẩu đã giao và là căn cứ cho người xuất khẩu đòi ngân hàng thanh toán tiền hàng, đồng thời nó cũng là căn cứ duy nhất để nhà nhập khẩu dựa vào đó quyết định thanh toán hay từ chối thanh toán đối với ngân hàng phát hành.
3. Các loại thư tín dụng chủ yếu:
Phương thức tín dụng chứng từ có ưu việt hơn hẳn những phương thức thanh toán quốc tế khác. Tuy vậy, hiệu quả của phương thức này sẽ được thể hiện đầy đủ hơn khi ta biết lựa chọn loại thư tín dụng phù hợp với yêu cầu của từng tình huống cụ thể trong mối quan hệ thương mại quốc tế nảy sinh giữa các bên.
Theo quy ước quốc tế, thư tín dụng bao gồm nhiều loại. Có thể phân biệt chúng dưới các góc độ khác nhau dưới đây.
a. Căn cứ vào tính chất:
Thư tín dụng có thể huỷ ngang (revocable L/C): Là loại thư tín dụng mà sau khi L/C được mở thì người nhập khẩu có thể yêu cầu ngân hang sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ bất cứ lúc nào mà không cần có sự đồng ý của người hưởng lợi L/C. Thư tín dụng có thể huỷ ngang hầu như không được sử dụng trong thực tế mà chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết.
Thư tín dụng không thể huỷ ngang (irrevocable L/C): Là loại thư tín dụng mà sau khi được mở thì người yêu cầu phát hành thư tín dụng sẽ không được tự ý sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ những nội dung của nó nếu không được sự đồng ý của người hưởng lợi thư tín dụng. Để đảm bảo được tính chất và tác dụng của thư tín dụng, ngày nay hầu hết thư tín dụng được mở theo hình thức không huỷ ngang.
b. Căn cứ vào thời điểm thanh toán:
- L/C trả ngay (at sight L/C): là L/C mà ngân hàng phải thanh toán ngay cho người hưởng lợi khi họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp với những điều khoản quy định trong thư tín dụng. Trong trường hợp này, người xuất khẩu sẽ ký phát hối phiếu trả ngay để yêu cầu thanh toán.
- L/C trả chậm ( time L/C): là loại L/C mà ngân hàng cam kết sẽ thanh toán cho người hưởng lợi sau một số ngày nhất định quy định trong L/C. Có 2 loại L/C kỳ hạn
+ Acceptable L/C: là loại L/C sử dụng hối phiếu trả chậm để đòi tiền ngân hàng.
+ Deferred L/C: là loại L/C không sử dụng hối phiếu để đòi tiền ngân hàng.
c. Một số loại L/C đặc biệt:
- L/C xác nhận (confirm L/C): là L/C được một ngân hàng khác ngoài ngân hàng phát hành xác nhận, là cam kết trả tiền của đồng thời 2 ngân hàng.
- L/C chuyển nhượng (transferable L/C): là L/C trong đó quy định người hưởng lợi thứ nhất có thể yêu cầu ngân hàng phát hành L/C, hoặc là ngân hàng chỉ định chuyển nhượng toàn bộ hay một phần quyền thực hiện L/C cho một hay nhiều người khác.
- L/C tuần hoàn (revolving L/C): là L/C không thể huỷ ngang mà sau khi thực hiện hết giá trị hoặc đã hết thời hạn hiệu lực thì L/C lại tự động có giá trị như cũ và tiếp tục được sử dụng một cách tuần hoàn trong một thời hạn nhất định cho đến khi tổng giá trị hợp đồng được thực hiện.
- L/C giáp lưng (back to back L/C): là loại L/C mà sau khi người xuất khẩu nhận được L/C người nhập khẩu mở cho mình hưởng lại dùng chính L/C đó thế chấp để mở một L/C khác cho người khác hưởng. L/C đem đi thế chấp là L/C gốc, L/C sau gọi là L/C giáp lưng.
- L/C đối ứng (reciprocal L/C): là loại L/C chỉ bắt đầu có hiêụ lực khi một L/C đối ứng với nó đã được mở.
- L/C điều khoản đỏ (red clause L/C): là L/C có điều khoản (trước đây thường in bằng mực đỏ) cho phép ngân hàng chỉ định ứng trước một phần tiền cho người thụ hưởng để mua nguyên vật liệu phục vụ sản xuất và giao hàng theo L/C đã mở.
- L/C dự phòng (stand by L/C): là loại L/C do ngân hàng của người xuất khẩu phát hành, cam kết hoàn trả tiền đặt cọc, ứng trước và chi phí mở L/C cho người nhập khẩu nếu người xuất khẩu không thực hiện nghĩa vụ của mình.
4. Vai trò của phương thức tín dụng chứng từ trong thương mại quốc tế.
a. Phương thức tín dụng chứng từ đảm bảo quyền lợi cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu.
Ta có thể thấy rằng, một trong những nhược điểm của các phương thức thanh toán: nhờ thu, chuyển tiền, ghi sổ đó là chưa giải quyết được mâu thuẫn về lợi ích giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu. Người nhập khẩu không bao giờ muốn trả tiền trước vì lo ngại trường hợp người xuất khẩu nhận tiền rồi song từ chối giao hàng. Ngược lại, người xuất khẩu không bao giờ muốn giao hàng trước khi nhận tiền vì lo sợ trường hợp người nhập khẩu sẽ nhận hàng nhưng không thanh toán. Phương thức tín dụng chứng từ với đặc điểm là trả tiền khi giao chứng từ đã giải quyết được mâu thuẫn về lợi ích giữa hai bên mua bán. Hay nói cách khác, phương thức tín dụng chứng từ đã đảm bảo lợi ích cho cả người mua và người bán thông qua việc sử dụng dịch vụ của ngân hàng: Ngân hàng c0068ỉ chấp nhận trả tiền nếu chứng từ phù hợp.
♣ Đối với nhà xuất khẩu:
Như trên đã nói, lo ngại lớn nhất đối với nhà xuất khẩu khi thực hiện hợp đồng ngoại thương đó là: Người nhập khẩu sau khi nhận hàng sẽ từ chối thanh toán. Nhưng khi sử dụng phương thức tín dụng chứng từ, một tín dụng đã được mở cho người xuất khẩu hưởng và khi ngân hàng thông báo thông báo thư tín dụng đó cho người xuất khẩu, nếu người xuất khẩu thấy phù hợp thì mới giao hàng, nếu không thì có thể đề nghị người nhập khẩu tu chỉnh L/C cho phù hợp. Sau khi giao hàng xong, người xuất khẩu tiến hành lập bộ chứng từ phù hợp với những quy định của L/C xin thanh toán. Cam kết thanh toán của ngân hàng phát hành đối với người hưởng lợi là không thể huỷ bỏ, vấn đề chỉ nằm ở chỗ người xuất khẩu có xuất trình được bộ chứng từ hợp lệ đúng theo quy định của tín dụng thư hay không.
Mặt khác khi sử dụng phương thức tín dụng chứng từ, nhà xuất khẩu còn tránh được những rủi ro như: rủi ro về ngoại hối, rủi ro do nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán…
Một ưu điểm nữa khi sử dụng phương thức tín dụng chứng từ đối với nhà xuất khẩu đó là: Nhà xuất khẩu hoàn toàn có thể xin ngân hàng chiết khấu bộ chứng từ thanh toán trước thời hạn, từ đó có thể bổ sung nguồn vốn sản xuất kinh doanh.
♣ Đối với nhà nhập khẩu
Trong buôn bán quốc tế, nhà nhập khẩu muốn trả tiền càng muộn càng tốt vì lo sợ nhà xuất khẩu sẽ chiếm dụng vốn trong một thời gian dài, nhận được tiền rồi nhưng lại không giao hàng. Một phương thức có thể đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên mua và bán, bảo đảm rằng nhà nhập khẩu sẽ chắc chắn sẽ nhận được hàng khi trả tiền lại vừa có thể đảm bảo rằng nguồn vốn của nhà nhập khẩu sẽ không bị nhà xuất khẩu chiếm dụng đó chính là phương thức tín dụng chứng từ.
Khi làm đơn yêu cầu mở L/C, người nhập khẩu có thể xin tư vấn từ ngân hàng phát hành để xây dựng một tín dụng chặt chẽ, có lợi nhất cho mình. Nhà nhập khẩu có thể kiểm soát được hàng hoá thông qua việc quy định ngưòi xuất khẩu sẽ phải xuất trình những giấy chứng nhận xuất xứ, giấy kiểm định chất lượng do cơ quan nào ban hành. Khi nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ đến đòi tiền, nếu thấy phù hợp thì mới trả tiền, không thì hoàn toàn có thể từ chối.
Bằng việc sử dụng ngân hàng đứng ra thanh toán, phương thức tín dụng chứng từ đảm bảo rằng người bán sẽ thu được tiền, còn người mua sẽ nhận được hàng đúng theo quy định trong thư tín dụng. Cái lợi ở đây đối với người nhập khẩu không chỉ là chứng từ phù hợp thì mới trả tiền mà còn ở chỗ khi làm đơn yêu cầu mở L/C họ có thể nhận được phần tín dụng mà ngân hàng dành cho họ thông qua việc ngân hàng cho phép ký quỹ số tiền nhỏ hơn trị giá L/C. Do đó họ có thể sử dụng nguồn vốn thêm một thời gian nữa, đáp ứng nhu cầu kinh doanh của mình.
Theo bà Lê Thị Phương Lan, trưởng phòng thanh toán quốc tế NHNo&PTNT chi nhánh Hà Nội: “Sử dụng UCP 600 các doanh nghiệp có nhiều cái lợi. Đối với các nhà nhập khẩu thì có thể đảm bảo thứ nhất về vốn, sử dụng tài trợ thương mại. Thứ hai là đảm bảo về mặt chứng từ, có nghĩa là chứng từ phát hành từ bên thứ 3 hoặc về các hãngt vận tải, bảo hiểm, công ty kiểm định chất lượng thứ ba. Đương nhiên về sử dụng L/C thông qua UCP thì nó cũng có thể hạn chế được những tranh chấp có thể xảy ra giữa người mua và người bán. Tương tự với hàng xuất khẩu cũng vậy. Nhà xuất khẩu đảm bảo được khả năng thanh toán rất cao và cũng có thể nhận được tài trợ xuất khẩu từ phía ngân hàng phục vụ mình.”
Tóm lại, phương thức tín dụng chứng từ mang lại rất nhiều lợi ích cho cả nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu, mà lợi ích lớn nhất là phương pháp này có thể đạt tới sự thoả thuận chấp nhận được giữa những lợi ích đối kháng của nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu thông qua việc làm cho thời gian trả tiền phù hợp với thời hạn giao hàng.
Từ việc có thể đảm bảo hợp lý quyền lợi của hai bên mua- bán, lại thụân tiện dễ sử dụng trong thương mại quốc tế nên phương thức tín dụng chứng từ đã được sử dụng rộng rãi nhất so với các phương thức thanh toán khác. Ngay cả đối với những nhà xuất nhập khẩu còn ít kinh nghiệm trên thương trường thì phương thức này cũng tỏ ra khá hữu hiệu. Bởi vì bằng việc xây dựng một tín dụng thư chặt chẽ (điều này sẽ được các ngân hàng tư vấn thêm) kết hợp với đặc điểm của phương thức thanh toán này đó là chứng từ phù hợp thì mới trả tiền, nhà nhập khẩu sẽ loại bỏ được trường hợp nhà xuất khẩu giao hàng không đúng quy định, chiếm dụng vốn của họ, nhận tiền rồi không giao hàng. Ngược lại nhà xuất khẩu cũng sẽ được đảm bảo rằng khi họ đã tiến hành giao hàng và xuất trình bộ chứng từ hợp lệ đến ngân hàng thì họ chắc chắn được thanh toán. Điều này không phụ thuộc vào thiện chí của nhà nhập khẩu.
Do có thể bảo đảm được quyền lợi của hai bên mua bán, lại thuân tiện, dễ sử dụng, phương thức tín dụng chứng từ đã góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển.
Khi nói về phương thức tín dụng chứng từ, NHTMCP Kỹ Thương Việt Nam Techcombank đã đề cập như sau:
“Thư tín dụng là một công cụ linh hoạt để thực hiện việc thanh toán. Hầu hết mọi giao dịch quốc tế đều được đảm bảo khi sử dụng hình thức này. Các quy định của L/C đều phải tuân thủ UCP qua đó tạo được sự chặt chẽ, nhất quán trong thương mại quốc tế.
Nếu lựa chọn sử dụng đúng, L/C có thể đem lại nhiều lợi ích đặc biệt là sự an toàn cần thiết cho cả 2 bên- đảm bảo là người xuất khẩu phải thực hiện hợp đồng nghiêm túc và người nhập khẩu sẽ phải thanh toán tiền. Tuy nhiên, để có được lợi ích này, cả hai bên nhất định phải thực hiện theo những quy tắc và các quy định.
Các lợi ích đối với người xuất khẩu:
Ngân hàng sẽ thực hiện việc thanh toán theo đúng quy định, bất kể người mua có muốn trả tiền hay không.
Người mua không được từ chối thanh toán vì bất cứ lý do gì.
Chậm trễ trong việc chuyển chứng từ được hạn chế tối đa.
Khi chứng từ được chuyển đến NHPH, việc thanh toán được tiến hành ngay vào một ngày xác định (nếu là L/C trả chậm).
Khách hàng có thể đề nghị chiết khấu L/C để có tiền chuẩn bị cho việc thực hiện hợp đồng.
Các lợi ích đối với người nhập khẩu:
Chỉ khi hàng hoá thực sự được giao thì người nhập khẩu mới phải trả tiền
Người nhập khẩu có thể yên tâm là người xuất khẩu sẽ phải làm tất cả những gì quy định trong L/C để đảm bảo rằng người xuất khẩu sẽ được thanh toán tiền (nếu không người xuất khẩu sẽ mất tiền)”
b. Phương thức tín dụng chứng từ là một hình thức tín dụng mà ngân hàng dành cho các nhà xuất nhập khẩu.
♣ Đối với nhà nhập khẩu:
Khi làm đơn yêu cầu ngân hàng phát hành thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng, người nhập khẩu thường phải ký quỹ một khoản tiền nhỏ hơn hoặ._.c bằng trị giá L/C tại ngân hàng phát hành. Thông thường thì dựa vào mối quan hệ giữa nhà nhập khẩu với ngân hàng phát hành và uy tín của nhà nhập khẩu, ngân hàng thường cho phép nhà nhập khẩu ký quỹ một số tiền nhỏ hơn trị giá L/C. Và đương nhiên trong trường hợp đó, nhà nhập khẩu có thể sử dụng vốn trong một thời gian nữa. Hay nói cách khác đó chính là khoản tín dụng mà ngân hàng cấp cho nhà nhập khẩu.
♣ Đối với nhà xuất khẩu.
Phương thức tín dụng chứng từ là một hình thức tài trợ thương mại rất hữu hiệu cho các nhà xuất khẩu. Thông qua các L/C hàng xuất, các nhà xuất khẩu được ngân hàng tài trợ dưới các hình thức:
- Cho vay thực hiện hàng xuất theo L/C đã mở: Khi nhận được L/C hàng xuất, nhà xuất khẩu có thể dựa vào đó để nhờ ngân hàng phục vụ mình cấp cho một khoản tín dụng để thực hiện xuất hàng theo L/C quy định. Như vậy, trong trường hợp này thư tín dụng không những là công cụ đảm bảo thanh toán mà còn là một công cụ tín dụng.
- Cho vay chiết khấu hoặc ứng trước chứng từ hàng xuất khẩu: Để đáp ứng nhu cầu vốn, nhà xuất khẩu sau khi giao hàng xong có thể thương lượng với ngân hàng, thực hiện chiết khấu bộ chứng từ hoặc ứng trước tiền khi bộ chứng từ được thanh toán. Như vậy, đối với nhà xuất khẩu, L/C không những là công cụ đảm bảo thanh toán mà còn là công cụ đảm bảo tín dụng
Dù được tài trợ dưới hình thức nào thì rõ ràng là thông qua phương thức tín dụng chứng từ, nhà xuất khẩu có thể nhanh chóng thu hồi vốn để tiếp tục tái đầu tư, thực hiện công việc kinh doanh của mình. Đây chính là một vai trò quan trọng của phương thức tín dụng chứng từ trong việc hỗ trợ và thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của các đối tượng tham gia vào nền thương mại quốc tế.
Ngoài ra, phương thức tín dụng chứng từ cũng góp phần nâng cao vai trò của ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực thanh toán. Bằng việc cung cấp dịch vụ tín dụng chứng từ, phát triển các nghiệp vụ liên quan như kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh và các dịch vụ khác, qua đó mở rộng phạm vi và lĩnh vực hoạt động của các ngân hàng trong bối cảnh thương mại quốc tế ngày càng phát triển.
II. UCP 600 và ISBP 681
1. Sự cần thiết phải ra đời UCP 600 và ISBP 681
UCP 600 và ISBP 681 ra đời là kết quả tất yếu xuất phát từ vấn đề lý luận và thực tiễn.
a. Về mặt lý luận:
Không có một bản sửa đổi nào là toàn diện, có khả năng bao quát toàn bộ thực tiễn và giảm thiểu toàn bộ những sai biệt. Lịch sử hơn 70 năm của UCP đã chứng kiến nhiều lần sửa đổi tiến bộ, tuy nhiên UCP chưa thể nhổ tận gốc nhiều vấn đề trong phương thức tín dụng chứng từ. Thương mại quốc tế càng phát triển thì càng đòi hỏi các phương thức thanh toán cũng như các nguồn luật điều chỉnh nó ngày càng hoàn thiện hơn. Chính vì vậy, việc UCP 600 và ISBP 681 ra đời là kết quả tất yếu để giảm thiểu hơn nữa những sai biệt và thúc đẩy thương mại quốc tế ngày càng phát triển.
b. Về mặt thực tiễn:
Mặc dù UCP500 và đi kèm với nó là Bộ Tập Quán Ngân Hàng Tiêu Chuẩn Quốc Tế (ISBP 645) ra đời hết sức tiến bộ, đạt kỷ lục về thời gian tồn tại, bởi vì thông thường cứ khoảng 10 năm UCP lại được sửa đổi một lần trong khi UCP 500 kéo dài vị trí của mình tới 14 năm, thế nhưng tỷ lệ bộ chứng từ có sai biệt trong lần xuất trình đầu tiên vẫn lên tới 60%-80% (Số liệu nghiên cứu của VIBank). Câu hỏi đặt ra là có bao nhiêu sai biệt trong số 60%-80% này là do cách hiểu không thống nhất về UCP?
Xét dưới góc độ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, UCP 500 được xem như một bộ luật tương đối khó hiểu về mặt ngôn ngữ và phức tạp về mặt quy trình. Do không hiểu một cách tường tận về UCP 500, các doanh nghiệp thường hoạt động theo thói quen thương mại của mình là chính. Bộ chứng từ vì vậy cũng thường có sai biệt, mặc dù có thể về thực tế, hàng hoá được giao không khác như yêu cầu của hợp đồng thương mại. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sẽ phải chịu rất nhiều chi phí để sửa chữa các sai biệt này, chỉ đơn cử như việc tín dụng yêu cầu vận tải đơn phải ghi rõ số L/C, điều này không giúp cho nhà nhập khẩu nhận được hàng hóa dễ dàng hơn, nhưng người xuất khẩu vẫn có thể mất tới mấy chục đô la (kết quả nghiên cứu của VIBank) để sửa lại vận đơn sau khi đã được phát hành nếu vận đơn không dẫn chiếu tới số L/C. Ngoài ra, nếu việc sửa chữa sai biệt này mất nhiều thời gian, người xuất khẩu lại gặp phải nguy cơ xuất trình muộn. Chính vì vậy, các doanh nghiệp rất ngại khi gặp phải các vấn đề liên quan đến UCP và thường phó thác hết cho ngân hàng của mình.
Về phía các ngân hàng, khi tư vấn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu về UCP cũng gặp phải không ít khó khăn về sự mơ hồ về các điều khoản của UCP. Đặc biệt khi tạo lập và kiểm tra bộ chứng từ thanh toán theo UCP 500 và ISBP 645 các ngân hàng đã gặp phải không ít khó khăn như thương lượng bộ chứng từ, các vấn đề liên quan đến kiểm tra chứng từ…
Thực tế đó buộc UCP và ISBP phải sửa đổi, nếu không thì nguy cơ phương thức tín dụng chứng từ- từ một phương thức an toàn trong thanh toán quốc tế rất dễ trở thành một công cụ để từ chối thanh toán và thu phí của ngân hàng. Một yêu cầu nữa của thực tiễn là, sự phát triển của hệ thống ngân hàng, bảo hiểm, vận tải kéo theo nhiều vấn đề mới nảy sinh trong thương mại quốc tế, đòi hỏi UCP cũng như ISBP cũng phải có những điều chỉnh thích hợp.
2. Đặc điểm lần sửa đổi thứ 6 của UCP
a. Về mặt hình thức:
- UCP 600 được cấu trúc lại phù hợp với cấu trúc thông thường của các văn bản pháp lý quốc tế, thay vì cấu trúc theo tính chất nghiệp vụ L/C như UCP 500.
+ Kết cấu của UCP500 gồm 7 vấn đề, được đánh thứ tự từ A đến G:
Những quy định chung và định nghĩa.
Hình thức và thông báo tín dụng.
Nghĩa vụ và trách nhiệm.
Chứng từ.
Các điều quy định khác.
Tín dụng chuyển nhượng.
Nhượng tiền thu được.
+ Cấu trúc của UCP600
Phạm vi áp dụng của UCP600
Các định nghĩa.
Giải thích
Các mục khác theo tính chất nghiệp vụ
- UCP 600 giảm thiểu nhiều trùng lắp về mặt ngôn từ không cần thiết trong UCP 500 và lược bỏ lời văn rườm rà. Cấu trúc câu thường là câu trực tiếp, logic và đơn giản. Ngôn ngữ sử dụng trong UCP 600 được coi là thân thiện với người sử dụng hơn hẳn UCP 500.
- UCP được bố cục lại với 39 điều khoản (thay vì 49 điều khoản như UCP500), trong đó bổ sung nhiều định nghĩa và giải thích nhiều thuật ngữ vẫn còn gây tranh cãi trong UCP500. Điều 2 định nghĩa của UCP600 là một dẫn chứng cụ thể. Lần đầu tiên các thuật ngữ như: ngân hàng thông báo (advising bank), người yêu cầu (applicant), xuất trình (presentation)… được định nghĩa một cách cụ thể trong một bản UCP.
b. Về nội dung:
- UCP600 loại bỏ những nội dung không thuộc đối tượng áp dụng của UCP 600, ví dụ những nội dung liên quan đến yêu cầu mở thư tín dụng, các chỉ thị không rõ ràng (điều 12); huỷ bỏ một thư tín dụng (điều 8), tín dụng có thể huỷ bỏ và không thể huỷ bỏ (một phần điều 6); lệnh phát hành, sửa đổi một thư tín dụng (điều 5); chứng từ vận tải do người giao nhận phát hành (điều 30), các chứng từ khác (điều 38).
- UCP600 điều chỉnh cả thư tín dụng dự phòng (standby L/C). Điều này được thể hiện rõ trong Điều 1 UCP600.
- UCP600 đã cập nhật một số điều khoản mới. Có thể kể đến ở đây đó là:
Điều 2: Định nghĩa (definitions)
Điều 3: Giải nghĩa (interpretations)
Điều 9: Thông báo tín dụng và các sửa đổi (Advising of credits and amendments)
Điều 12: Sự chỉ định (nomination)
Điều 15: Xuất trình phù hợp (complying presentation)
Điều 17: Các chứng từ gốc và bản sao (original documents and copies)
- UCP600 giảm thiểu những mâu thuẫn giữa các điều khoản với nhau. Có thể dẫn chiếu đến ở đây như là điều 13(a) và điều 13(c) UCP500
- UCP đã đưa ra khoảng thời gian cụ thể cho việc chấp nhận hoặc từ chối bộ chứng từ không hợp lệ là 5 ngày làm việc ngân hàng (banking day) thay vì 7 ngày làm việc trước đây quy định trong UCP500.
- UCP600 đã loại trừ việc sử dụng những từ, cụm từ mơ hồ, khó hiểu, thường dẫn đến hiểu lầm và xảy ra tranh chấp trong UCP500 như là: Khoảng thời gian hợp lý, sự cần mẫn hợp lý…
III. Ảnh hưởng của UCP 600 và ISBP 681 đến hoạt động thương mại quốc tế:
1. Ảnh hưởng đến thương mại quốc tế nói chung:
- Ngăn ngừa nguy cơ giảm sút vai trò của tín dụng chứng từ trong thương mại quốc tế khi nhiều ngân hàng coi đây là một công cụ thu phí sai biệt và từ chối thanh toán. Nhờ các quy định rõ ràng, tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ linh hoạt hơn, UCP 600 cùng với ISBP 681 đã làm giảm thiểu lượng chứng từ có sai biệt.
- UCP 600 đã tăng cường sử dụng các quy tắc, tập quán quốc tế khác của ICC như URR 525, ISP 98, thông qua đó, những vấn đề mà UCP chưa bao bao quát được sẽ được giải quyết cụ thể trong các tập quán trên.
- UCP 600 đưa ra những quy định cụ thể liên quan đến L/C chuyển nhượng, phù hợp với hoạt động thương mại ba bên đang ngày càng phát triển tại các nước Châu Á.
- UCP 600 có những thay đổi phù hợp với thực tiễn của ngành vận tải và bảo hiểm, không những được những người hoạt động trong lĩnh vực này hoan nghênh mà còn tạo điều kiện cho việc xuất trình bộ chứng từ của nhà xuất khẩu, việc tạo lập và kiểm tra bộ chứng từ thanh toán của các ngân hàng.
- UCP 600 và ISBP 681 cũng đã đưa ra tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ chặt chẽ nhằm chống lại hành động giả mạo bộ chứng từ thanh toán.
2. Ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng thương mại
- UCP 600 có hiệu lực từ ngày 01/07/2007 đòi hỏi các ngân hàng phải có bước chuẩn bị trước đó để có thể tự tin áp dụng UCP600 trong giao dịch L/C thường ngày của mình, trong đó, hoạt động đào tạo đóng một vai trò quan trọng. Vì vậy hầu hết các ngân hàng đều mở những lớp đào tạo và bồi dưỡng cán bộ cập nhật UCP 600 và ISBP 681. Cho đến nay hầu hết các ngân hàng của Việt Nam đều đã áp dụng phiên bản mới của ICC trong hoạt động thanh toán của mình.
-Theo quy định của UCP 600, ngân hàng chỉ có 5 ngày làm việc ngân hàng để kiểm tra bộ chứng từ thanh toán thay vì quy định 7 ngày làm việc trong UCP 500. Điều này cũng tạo ra thách thức cho các ngân hàng, đặc biệt trong trường hợp bất thường (ví dụ như các tình huống nảy sinh liên quan đến bộ chứng từ bất thường, có sai sót ….) Trong những tình huống đó, ngân hàng sẽ chịu áp lực về thời gian để đưa ra các quyết định của mình. Đồng thời để phù hợp với những quy định nói trên của UCP 600, ngân hàng cũng phải thay đổi một số bước trong quy trình thanh toán của mình.
- ISBP 681 ra đời thay thế cho ISBP 645 thực sự cũng đã tạo ra những thay đổi cơ bản trong quy trình nghiệp vụ thanh toán tại các ngân hàng thương mại. Vì ISBP 681 có một số thay đổi so với ISBP 645 như nên để áp dụng được thành công UCP 600 và ISBP 681 đòi hỏi các ngân hàng cần phải thay đổi, bổ sung , hoàn thiện quy trình nghiệp vụ của mình cho phù hợp với quy tắc và thông lệ quốc tế.
- Trách nhiệm của các ngân hàng theo UCP 600 được nâng cao, đặc biệt UCP 600 đặt ra yêu cầu cao hơn với ngân hàng thông báo. Theo UCP 600, ngân hàng thông báo không chỉ có trách nhiệm xác minh tính chân thực của thư tín dụng, mà phải phản ánh chính xác thư tín dụng mà ngân hàng này đã nhận được (Điều 9b UCP600)
- Với những quy định mới về thương lượng bộ chứng từ trả sau họăc chấp nhận, các ngân hàng phát hành và ngân hàng xác nhận phải chịu rủi ro trong trường hợp bộ chứng từ đã được ngân hàng chỉ định thương lượng thanh toán được xác định là giả mạo. Điều này đòi hỏi các ngân hàng cần phải có những biện pháp quản lý rủi ro nhằm bảo vệ chính mình.
3. Ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
a. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu:
- UCP 600 và ISBP 681 giảm thiểu số lượng chứng từ của nhà xuất khẩu bị từ chối thanh toán nhờ: Thứ nhất: UCP 600 đặt ra những tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ rõ ràng tạo cơ sở cho việc tạo lập chứng từ, bên cạnh đó ISBP 681 cũng có những quy định rõ ràng về chứng từ được lập tuân thủ UCP 600 và ISBP 681 từ đó giảm thiểu được những sai sót của bộ chứng từ khi lập theo UCP 500 và ISBP 645. Thứ hai, các ngân hàng cũng kiểm tra chứng từ linh hoạt hơn như quy định về địa chỉ của người hưởng lợi và người yêu cầu, dữ liệu trong chứng từ không cần phải giống hệt như khi đọc lời văn trong tín dụng…
- ISBP 681 có những quy định rõ ràng, cụ thể hơn nhiều so với ISBP 645 về chứng từ xuất trình do đó sẽ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu đòi tiền dễ dàng hơn (bộ chứng từ bị từ chối thanh toán ít hơn)
- Do UCP 600 cung cấp nhiều lựa chọn cho nhà xuất khẩu, nhà xuất khẩu có thể được tái tài trợ đối với L/C trả chậm chứ không phải chỉ đối với L/C chiết khấu nên người xuất khẩu giảm thiểu được rủi ro từ phía nhà nhập khẩu (rủi ro liên quan đến môi trường kinh tế, chính trị, địa lý của nước nhà nhập khẩu…)
- Nhà xuất khẩu nhanh chóng được thanh toán nếu bộ chứng từ xuất trình phù hợp do thời gian dành cho ngân hàng kiểm tra chứng từ rút từ 7 ngày xuống còn 5 ngày làm việc ngân hàng. Nhờ đó, mà dòng tiền của người xuất khẩu được cải thiện, cho phép người xuất khẩu trả tiền cho nhà cung cấp sớm hơn và đảm bảo về giá hàng, đồng thời cho phép nhanh chóng tái sản xuất, mở rộng hoạt động kinh doanh.
b. Đối với doanh nghiệp nhập khẩu:
- Nhà nhập khẩu cũng có thêm lựa chọn trong đơn đề nghị mở L/C khi muốn thay đổi, bổ sung hoặc xoá bỏ một số điều khoản của UCP 600 nhằm phù hợp với đặc điểm giao dịch của mình. Điều này được quy định trong điều 1 UCP 600: các quy tắc của UCP sẽ “ ràng buộc tất cả các bên, trừ khi tín dụng loại trừ hoặc sửa đổi một cách rõ ràng”
- Nhà nhập khẩu cần phải tìm hiểu bạn hàng của mình một cách kỹ càng, do UCP 600 đặt ra yêu cầu cao hơn so với UCP 500 về phía nhà nhập khẩu và ngân hàng phát hành trong trường hợp chứng từ có giả mạo.
CHƯƠNG 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG UCP 600 VÀ ISBP 681 TRONG VIỆC TẠO LẬP VÀ KIỂM TRA BỘ CHỨNG TỪ THANH TOÁN TẠI MỘT SỐ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Thực tiễn áp dụng UCP 600 và ISBP 681 trong việc tạo lập và kiểm tra bộ chứng từ thanh toán tại một số ngân hàng thương mại
1. Khi ngân hàng thương mại là ngân hàng phát hành L/C:
Hiện nay thương mại quốc tế mở rộng theo cấp số nhân đã đòi hỏi sự tham gia của các ngân hàng vào thương mại quốc tế ngày càng nhiều hơn. Các ngân hàng đã đảm nhiệm một khâu vô cùng quan trọng trong việc xuất nhập khẩu của doanh nghiệp đó là thanh toán quốc tế. Thực tế cho thấy kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn trong cán cân thanh toán quốc tế và khi thực hiên giao dịch với các đối tác nước ngoài thì có đến 70% các giao dịch được thực hiện qua phương thức tín dụng chứng từ. Vậy trong quy trình thanh toán bộ chứng từ hàng nhập (ngân hàng thương mại là ngân hàng phát hành) thì quy trình tạo lập và kiểm tra bộ chứng từ đó được thực hiện như thế nào?
Quy trình thực hiện khi là ngân hàng phát hành L/C của mỗi ngân hàng thương mại khác nhau là khác nhau. Tuy nhiên quy trình ấy có một điểm chung là đều tuân thủ UCP 600 và ISBP 681.
Ta có thể tóm tắt bằng sơ đồ quy trình đó như sau:
SƠ ĐỒ 2: QUY TRÌNH THANH TOÁN THƯ TÍN DỤNG HÀNG XUẤT
Trách Nhiệm
Tiến Trình Thực Hiện
Thanh Toán Viên
Kiểm tra
Thông báo bộ chứng từ về
Từ chối bộ chứng từ
kiểm tra
Hoàn tất giao dịch
Theo dõi, nhắc nhở
TT khi KH không có tiền
KH từ chối bộ chứng từ có bất đồng
TT khi khách hàng có tiền
Kiểm Tra
N
N
Y
Thanh Toán Viên
Kiểm Soát Viên
Thanh Toán Viên
Thanh Toán Viên
Thanh Toán Viên
Kiểm Soát Viên
Nguồn: Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam BIDV
Bước 1: Kiểm Tra: Hầu hết các ngân hàng thương mại đều tiến hành kiểm tra chứng từ tuân thủ UCP 600 và ISBP 681.
-♣ Về thời gian kiểm tra chứng từ:
Đối với các ngân hàng thuộc sở hữu của nhà nước:
Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam (BIDV), Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam (NHNo&PTNT) quy định thời gian kiểm tra chứng từ tuân thủ theo quy định của UCP600, đó là 5 ngày làm việc ngân hàng.
Ngân Hàng Công Thương Việt Nam (Vietinbank) chưa áp dụng bản tập quán mới nên vẫn quy định thời gian kiểm tra chứng từ là 7 ngày làm việc như quy định của UCP500.
- Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP):
Ngân Hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank): thời gian kiểm tra BCT là 5 ngày làm việc ngân hàng.
Ngân Hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank): 5 ngày làm việc ngân hàng.
Ngân Hàng TMCP Nhà Hà Nội (Habubank) quy định như sau: Habubank chịu trách nhiệm thanh toán đúng, đủ và kịp thời theo L/C đã mở khi các bên liên quan thực hiện đúng các quy định của L/C trong vòng 5 ngày làm việc sau khi nhận được BCT từ ngân hàng nước ngoài.
Ngân Hàng Dầu Khí Toàn Cầu (GPbank): 5 ngày làm việc ngân hàng.
♣ Về việc phân bố thời gian kiểm tra chứng từ:
Hầu hết các ngân hàng đều quy định thời gian kiểm tra BCT tuân thủ đúng Đ14 UCP600, đó là 5 ngày làm việc ngân hàng. Tuy nhiên khi áp dụng cụ thể vào quy trình của mình thì ngân hàng đã phân bổ thời gian 5 ngày đó theo những cách thức khác nhau.
- Đối với các ngân hàng thuộc sở hữu của nhà nước:
Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam (BIDV): Thanh toán viên (TTV) có tối đa là 2 ngày làm việc kể từ ngày nhận để kiểm tra tính phù hợp của BCT theo L/C, phù hợp với các quy tắc thanh toán quy định trong UCP600 và ISBP681. Thời gian còn lại trình cấp thẩm quyền (kiểm soát viên) để tiến hành kiểm tra lại kết quả kiểm tra của TTV và quyết định tính phù hợp hoặc không phù hợp của bộ chứng từ (BCT).
Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam (NHNo & PTNT): 3 ngày làm việc.
Đối với các ngân hàng TMCP:
Ngân Hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam Techcombank: Thanh toán viên có tối đa 2 ngày làm việc kể từ ngày nhận để kiểm tra tính phù hợp của BCT theo L/C, phù hợp với các quy tắc thanh toán quy định trong UCP600 và ISBP681.
Ngân Hàng TMCP Nhà Hà Nội (Habubank): Quy định ngay sau khi nhận được BCT từ ngân hàng nước ngoài, Habubank sẽ tiến hành kiểm tra bộ chứng từ và thông báo tình trạng BCT cho khách hàng trong vòng 2 ngày làm việc và có thể trả BCT nhanh theo yêu cầu của khách hàng khi ngân hàng nhận được BCT từ ngân hàng nước ngoài.
Như vậy rõ ràng là với thời gian 5 ngày làm việc để kiểm tra chứng từ theo UCP600, các ngân hàng đã phân bố khoảng thời gian ấy tương đối hợp lý (thời gian 5 ngày ấy bằng thời gian dành cho thanh toán viên kiểm tra cộng với thời gian để kiểm soát viên, cấp có thẩm quyền kiểm tra lại). Nhờ quy định một cách chặt chẽ, thời gian phân bổ hợp lý nên đã giúp cho các ngân hàng tránh được những sai sót từ việc kiểm tra BCT thanh toán.
♣ Quy định ngày nhận chứng từ:
Ta có thể thấy rằng một hạn chế của UCP600 đó là mặc dù UCP600 đã quy định thời gian kiểm tra chứng từ là 5 ngày làm việc ngân hàng, tuy nhiên lại không quy định rõ ràng về ngày nhận chứng từ. Thời hạn tối đa dành cho mỗi ngân hàng tiến hành kiểm tra BCT là 5 ngày làm việc ngân hàng, nhưng thời điểm bắt đầu tính từ khi nào? Để tránh trường hợp có sự hiểu lầm và tránh tranh chấp xảy ra liên quan đến thời gian kiểm tra bộ chứng từ, một số ngân hàng cũng đã có những quy định cụ thể về vấn đề này.
- Đối với ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước:
Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn đã quy định: Ngày tiếp nhận chứng từ do cơ quan chuyển phát chứng từ gửi đến chi nhánh được coi là ngày nhận chứng từ.
- Đối với ngân hàng TMCP:
NHTMCP Kỹ Thương Việt Nam Techcombank quy định: Ngày tiếp nhận chứng từ do cơ quan chuyển phát chứng từ gửi đến chi nhánh được coi là ngày nhận chứng từ, trong trường hợp chứng từ được nhận từ hãng chuyển phát sau 14h30 hoặc vào ngày thứ 7 thì ngày nhận chứng từ được tính là ngày làm việc tiếp theo.
Bước 2: TTV kiểm tra bộ chứng từ so với L/C đã phát hành để xác định tình trạng bộ chứng từ. Việc kiểm tra chứng từ tuân thủ Đ16 UCP600. Thực tế sẽ xảy ra hai trường hợp đó là BCT hợp lệ và BCT không hợp lệ.
♣ Bộ chứng từ phù hợp:
- Đối với các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước:
Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam (BIDV): Nếu BCT hợp lệ thì lập thông báo BCT về gửi khách hàng.
Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam (NHNo & PTNT): Trong trường hợp BCT phù hợp, lập thông báo BCT về theo mẫu của NHNo&PTNT gửi khách hàng.
Đối với ngân hàng TMCP: Cũng giống như các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, trong trường hợp BCT là phù hợp, ngân hàng sẽ lập thông báo BCT về gửi khách hàng.
♣ Bộ chứng từ không phù hợp:
Đối với ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước:
Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam (BIDV): Nếu BCT có sai biệt thì lập điện từ chối BCT gửi ngân hàng đã gửi chứng từ và lập thông báo BCT có bất đồng gửi khách hàng.
Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn quy định như sau: khi BCT có sai sót, NHNo&PTNT gửi thông báo về BCT có sai sót đến khách hàng, nếu trong vòng 3 ngày làm việc mà khách hàng chưa chấp nhận sai sót thì NHNo&PTNT điện từ chối chứng từ.
- Đối với ngân hàng TMCP:
Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Kỹ Thương Việt Nam Techcombank quy định như sau: Đối với bộ chứng từ có sai biệt, điện thông báo về sự sai biệt phải được gửi tới ngân hàng đòi tiền/ ngân hàng đại lý của ngân hàng hưởng trong vòng 5 ngày làm việc kể từ sau ngày Techcombank nhận được BCT. Mọi thông báo gửi sau ngày này đều khiến cho Techcombank mất quyền từ chối bộ chứng từ có sai biệt (tuân thủ theo Đ16 UCP 600). Đồng thời Techcombank cũng gửi thông báo đến khách hàng về việc BCT có sai sót và xin chỉ dẫn của khách hàng.
Ngân Hàng TMCP Nhà Hà Nội Habubank: Trong trường hợp BCT có bất đồng trong vòng 2 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Habubank, khách hàng phải có chỉ thị về việc chấp nhận hay không chấp nhận bất đồng của BCT.
Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội (vcbhanoi): Nếu BCT có sai sót, ngân hàng sẽ thông báo sai sót bằng văn bản. Quý khách hàng phải xem xét sai sót đó và trả lời ngân hàng bằng văn bản trong vòng 2 ngày làm việc để ngân hàng có cơ sở trả lời ngân hàng nước ngoài
Ngân Hàng Phương Đông (OCB): Đối với BCT có sai sót, trong vòng 5 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của OCB, khách hàng phải trả lời OCB bằng văn bản. OCB sẽ căn cứ vào công văn chấp nhận hay từ chối BCT của khách hàng để tiến hành thanh toán (đối với L/C trả ngay), cam kết thanh toán vào ngày đáo hạn (Đối với L/C trả chậm), hoặc gởi điện từ chối thanh toán đối với phía nước ngoài.
Ngân Hàng TMCP Dầu Khí Toàn Cầu (GPbank): Khi BCT có sai biệt, GPbank sẽ giao chứng từ cho khách hàng khi khách hàng ký chấp nhận đồng ý bất hợp lệ.
Ta có thể thấy rằng theo quy định trong Điều 16b UCP600: khi một ngân hàng phát hành quyết định việc xuất trình là không phù hợp, thì nó có thể theo cách thức của riêng mình tiếp xúc với người yêu cầu xin bỏ qua sai biệt. UCP chỉ quy định điều đó không thể kéo dài quá thời hạn 5 ngày. Tuy nhiên, các ngân hàng khi ứng dụng UCP đã sửa đổi sao cho phù hợp với thực tiễn hoạt động của ngân hàng mình: Techcombank 5 ngày, NHNo&PTNT 3 ngày, Habubank 2 ngày…
Hết thời hạn nêu trên, nếu nhận được thông báo chấp nhận bỏ qua sai biệt của khách hàng thì ngân hàng tiến hành thanh toán bình thường như trong trường hợp chứng từ không có sai biệt và thu phí lỗi chứng từ theo quy định. Nếu không nhận được sự phản hồi từ phía khách hàng hoặc khách hàng từ chối thanh toán hoặc chỉ thanh toán một phần thì ngân hàng phải điện từ chối thanh toán và ghi rõ là chờ sự định đoạt của ngân hàng gửi chứng từ. Nếu trong thời gian chờ sự định đoạt của ngân hàng gửi chứng từ mà nhận được chỉ thị bỏ qua sai biệt của khách hàng thì ngân hàng phát hành tiến hành thanh toán bộ chứng từ.
Thực tế là các ngân hàng nước ngoài trước khi gửi BCT đòi tiền ngân hàng phát hành đã tiến hành kiểm tra BCT và khi phát hiện có sai sót trong BCT cũng đã phải điện thông báo cho NHPH và xin bỏ qua sai biệt. Vậy nếu BCT sau khi được chuyển đến cho NHPH mà phát hiện thêm những sai biệt mà ngân hàng đòi tiền chưa đề cập đến trong điện xin bỏ qua sai biệt thì NHPH có thanh toán BCT không? Về vấn đề này, UCP thực sự vẫn chưa giải quyết đươc. Tuy nhiên, một số ngân hàng thương mại cũng đã có những quy định cụ thể về vấn đề này.
Theo quy định của Techcombank: “Trường hợp Techcombank đã gửi điện chấp nhận sai sót được thông báo trước đó nhưng khi nhận được BCT và kiểm tra phát hiện thêm các lỗi sai sót khác ngoài các lỗi mà NH nước ngoài đề cập trong điện thì Techcombank vẫn có quyền từ chối thanh toán BCT khi khách hàng không chấp nhận thêm các lỗi sai sót mà Techcombank thông báo thêm sau này”.
NHNo&PTNT quy định như sau: khi nhận chứng từ kiểm tra nếu phát hiện thêm sai sót, TTV phải báo cáo phụ trách phòng và lãnh đạo chi nhánh để từ chối thanh toán và ghi rõ là chờ sự định đoạt của ngân hàng đòi tiền đồng thời thông báo để khách hàng cho ý kiến.
Vậy rõ ràng là khi áp dụng UCP 600 một số ngân hàng đã biết triển khai những quy định trên thành những quy tắc và cẩm nang riêng cho doanh nghiệp mình. Từ đó đã nâng cao được sức cạnh tranh và tránh được những tranh chấp liên quan đến việc kiểm tra BCT thanh toán.
Bước 3: KSV kiểm tra lại kết quả kiểm tra chứng từ của TTV đồng thời kiểm tra hồ sơ và dữ liệu mà TTV đã nhập.
KSV phê duyệt giao dịch nếu chấp nhận kết quả kiểm tra chứng từ và dữ liệu mà TTV đã nhập.
KSV từ chối giao dịch nếu không chấp nhận kết quả kiểm tra chứng từ và/ hoặc dữ liệu mà TTV đã nhập. KSV cần ghi lý do từ chối, gạch chéo và huỷ bản nháp mà TTV đã in (nếu có) và chuyển hồ sơ lại cho TTV để bổ sung, chỉnh sửa.
Bước 4: TTV fax thông báo BCT về tới khách hàng.
Bước 5: TTV nhắc nhở khách hàng chuẩn bị tiền để thanh toán BCT phù hợp
Trong thực tế thường xảy ra 2 tình huống: đó là khách hàng có đủ tiền thanh toán và khách hàng không có đủ tiền thanh toán. Trong trường hợp khách hàng không có đủ tiền thanh toán thì ngân hàng sẽ thực hiện việc cho vay, ghi nợ tài khoản của khách hàng. Việc này hầu hết chỉ xảy ra đối với những khách hàng quen thuộc của ngân hàng. Vì trong trường hợp nếu khách hàng không phải là bạn hàng quen thuộc thì đại đa số các ngân hàng sẽ yêu cầu khách hàng ký quỹ 100% và như vậy sẽ hiếm khi xảy ra trường hợp khách hàng không đủ tiền thanh toán BCT.
2. Khi ngân hàng thương mại là ngân hàng thông báo
Như đã đề cập ở trên, trong quy trình thanh toán quốc tế thường có sự tham gia của ít nhất một ngân hàng đóng vai trò là ngân hàng thông báo thư tín dụng (hay nói cách khác đó là ngân hàng của người hưởng lợi, ngân hàng tại nước người xuất khẩu). Vậy khi đóng vai trò là ngân hàng thông báo L/C, một số ngân hàng tuân thủ UCP 600 và ISBP 681 như thế nào trong quy trình nghiệp vụ của mình?
Quy trình thông báo thư tín dụng hàng xuất được thể hiện như sau:
(1 ) Kiểm tra và thông báo L/C: Hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam đều quy định rằng việc kiểm tra và thông báo L/C phải tuân thủ UCP 600 và ISBP 681. Tuy nhiên chỉ có một số ngân hàng đã nêu và quy định rõ việc kiểm tra như thế nào trong quy trình nghiệp vụ của mình.
♣ Đối với các ngân hàng thuộc sở hữu của nhà nước
Theo quy định của Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam (NHNo&PTNT), Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam (BIDV) thì khi nhận được L/C và thông báo L/C (tu chỉnh L/C), thanh toán viên có trách nhiệm như sau:
- Kiểm tra L/C phải đúng mẫu Swift (nếu gửi bằng Swift), có xác nhận mã khoá đúng (nếu mở bằng Telex).
- L/C phải có dẫn chiếu UCP 600
- Kiểm tra tên, địa chỉ người hưởng lợi, các chỉ dẫn của ngân hàng phát hành về việc thông báo L/C (thông báo trực tiếp hay qua ngân hàng thứ hai...), loại L/C để lựa chọn hình thức thông báo cho phù hợp.
♣ Đối với các ngân hàng TMCP:
Ngân Hàng Đông Nam Á (Seabank): Khi nhận được L/C hoặc sửa đổi L/C từ phía NHPH, Seabank sẽ gửi thông báo theo mẫu của Seabank trong vòng 1 ngày. Khách hàng sẽ được Seabank lưu ý về những điểm quan trọng hoặc những điểm có thể xảy ra sai sót khi lập bộ chứng từ xuất trình trên thông báo của Seabank. Seabank sẽ tư vấn miễn phí cho khách hàng khi lập BCT.
Ngân Hàng TMCP Hàng Hải (Maritime bank): Ngân Hàng Hàng Hải tiếp nhận và thông báo nguyên bản L/C do ngân hàng nước ngoài phát hành cho khách hàng bằng văn bản sau khi kiểm tra tính chân thực của L/C.
Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank): Nhận được L/C hoặc sửa đổi L/C từ phía ngân hàng nước ngoài, Vietcombank kiểm tra tính chân thực của L/C hoặc sửa đổi L/C và thông báo đến khách hàng qua điện thoại. Bản gốc L/C hoặc sửa đổi L/C sẽ được giao trực tiếp khách hàng tại trụ sở Vietcombank hoặc qua dịch vụ bưu điện.
Ta thấy rằng hầu hết các ngân hàng đều tuân theo quy định của UCP 600(Điều 9b) khi tiến hành thông báo thư tín dụng. Đó là phải kiểm tra tính chân thực của tín dụng trước khi thông báo cho khách hàng và trong thông báo thư tín dụng phải phản ánh chính xác các điều khoản hoặc sửa đổi đã nhận.
(2) Thông báo cho ngân hàng phát hành về việc nhận L/C, sửa đổi L/C hoặc ý kiến khách hàng về sửa đổi L/C nếu được yêu cầu.
Khi làm điều này, các ngân hàng đã tuân thủ chặt chẽ những quy định của UCP 600 (Điều 10d, điều 12…).
Thực tế khi tiến hành thông báo L/C, một số ngân hàng cũng đã áp dụng điều 11 UCP600: Tín dụng và sửa đổi được chuyển và sơ báo bằng điện.
Theo quy định của NHNo&PTNT, khi nhận được L/C hoặc sửa đổi L/C có ghi câu “các chi tiết đầy đủ gửi sau” hay một câu có nội dung tương tự, TTV lập thông báo sơ bộ gửi khách hàng theo mẫu quy định. TTV có trách nhiệm theo dõi đến khi nhận được L/C, sửa đổi L/C chính thức, kiểm tra và thông báo, thu phí theo quy định. Nếu L/C quy định thông báo qua ngân hàng thứ 2, sở quản lý hoặc chi nhánh sẽ lập thông báo theo mẫu.
Theo quy định của Techcombank, nếu tín dụng yêu cầu thông báo qua ngân hàng thứ 2 thì Techcombank sẽ căn cứ vào từng trường hợp cụ thể như sau:
- Nếu tín dụng đã chỉ rõ ngân hàng thông báo thứ 2 mà ngân hàng đó lại có quan hệ đại lý với Techcombank thì Techcombank sẽ lập thông báo gửi theo mẫu hiện hành. Nếu ngân hàng đó không có quan hệ đại lý với Techcombank thì Techcombank sẽ thông qua ngân hàng thứ 3 liên hệ với ngân hàng đó.
- Nếu tín dụng chưa chỉ rõ ngân hàng thông báo thứ 2 thì Techcombank sẽ căn cứ vào danh sách ngân hàng đại lý của mình để lựa chọn ngân hàng thông báo thứ 2.
Trong UCP 600 không có điều khoản nào nêu rõ các trường hợp ngân hàng thông báo có thể từ chối thông báo L/C. Chỉ có điều khoản quy định các ngân hàng thông báo có thể từ chối thông báo thư tín dụng. Khi áp dụng UCP 600, NHNo&PTNT đã nêu ra 2 trường hợp từ chối thông báo thư tín dụng:
- NHNo từ chối thông báo những L/C không xác định được tính chân thật bề ngoài hoặc đã tra soát nhưng không xác định được tên, địa chỉ người hưởng lợi, hoặc trường hợp n._.này của ICC.
1. Bất cập đến từ phía bộ tập quán:
Mặc dù so với UCP500, UCP600 đã hạn chế được một số những bất cập nhất định (Quy định cụ thể hơn trách nhiệm của hai bên mua bán, của ngân hàng, tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ rõ ràng hơn…), tuy nhiên UCP600 và cùng với nó là ISBP681 vẫn không phải là hoàn hảo, và vẫn còn một số điểm mà 2 văn bản mới này chưa giải quyết được.
♣ Điều 7 (b) UCP600
Điều 7 (b) UCP600 chỉ ra thời điểm cam kết thanh toán của ngân hàng phát hành có hiệu lực đó là từ thời điểm ngân hàng phát hành tín dụng. Tuy nhiên lại chưa định nghĩa thế nào là phát hành tín dụng và thời điểm nào được coi là tín dụng đã được phát đi. Điều này đặc biệt có ý nghĩa bởi vì đó chính là thời điểm mà ngân hàng phát hành bị ràng buộc bởi cam kết thanh toán cho tín dụng thư.
♣ Điều khoản về tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ:
Khi làm nhiệm vụ kiểm tra chứng từ, các TTV phải tuân theo quy định của UCP600. Quy định càng cụ thể thì việc kiểm tra chứng từ càng nhanh chóng và sẽ hạn chế được những sai sót xảy ra từ việc kiểm tra chứng từ. Thế nhưng trong Điều14(d) UCP600 quy định như sau: “ Dữ liệu trong một chứng từ không nhất thiết phải giống hệt như khi đọc lời văn của tín dụng, của bản thân chứng từ và của tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế, nhưng không được mâu thuẫn với dữ liệu trong chứng từ đó, với bất cứ quy định nào khác hoặc với tín dụng.”
Quy định này thực sự mơ hồ và khó hiểu. Thực sự rất khó để xác định các chứng từ có mâu thuẫn nhau hay không. Và nhiều khi việc quyết định xem các dữ liệu, các thông số có mâu thuẫn với nhau hay không lại phụ thuộc vào sự nhạy cảm của người kiểm tra chứng từ
♣ Trách nhiệm của ngân hàng thông báo.
Điều 9 UCP600 quy định về việc thông báo thư tín dụng và các sửa đổi, theo đó “bằng việc thông báo thư tín dụng hoặc sửa đổi thư tín dụng, ngân hàng thông báo phải thể hiện là nó đã kiểm tra tính chân thực của thư tín dụng hoặc sửa đổi đó và thông báo đó phải phản ánh chính xác các điều khoản của thư tín dụng hoặc sửa đổi mà ngân hàng thông báo đó đã nhận được. Nghĩa vụ của ngân hàng thông báo thứ hai cũng giống như ngân hàng thông báo thứ 1”.Trong trường hợp bình thường, nếu một ngân hàng thông báo trực tiếp cho người hưởng về thư tín dụng, ngân hàng đó chỉ việc làm một tờ thông báo về thư tín dụng (notification of letter of credit) và kèm theo đó là bức điện MT700 (chính là toàn bộ thư tín dụng) mà nó nhận được từ ngân hàng phát hành và gửi cho người hưởng lợi. Như vậy, ngân hàng hoàn toàn có thể thực hiện được các yêu cầu của Điều 9. Tuy nhiên, trong trường hợp ngân hàng không thông báo trực tiếp thư tín dụng cho người hưởng mà thông báo qua ngân hàng thông báo thứ hai thì rất khó có thể thực hiện được quy trình “ phản ánh chính xác các điều khoản”. Trong thực tế ngân hàng phát hành sẽ gửi điện MT700 đến cho ngân hàng thông báo thứ nhất và yêu cầu thông báo qua một ngân hàng thông báo thứ hai. Ngân hàng thông báo thứ nhất sẽ phải lập một điện MT710 (có đầy đủ các trường như của MT700). Tuy nhiên có những điều khoản trong MT700 lại bao gồm những thông tin mà ngân hàng phát hành chỉ gửi cho ngân hàng thông báo thứ nhất, không phải ngân hàng thông báo thứ hai. Trong trường hợp đó, ngân hàng thông báo thứ nhất sẽ cắt bỏ điều khoản đó, không đưa vào nội dung của MT700 gửi cho ngân hàng thông báo thứ hai. Tuy nhiên, nếu làm như vậy sẽ không thực hiện đúng như yêu cầu của Điều 9. Trong trường hợp đó ngân hàng thông báo thứ nhất sẽ phải làm gì? Đây chính là một vấn đề mà UCP 600 vẫn chưa giải quyết được để hỗ trợ cho hoạt động của các ngân hàng.
♣ Chứng từ vận tải đa phương thức: Điều 19 UCP600
Theo tên gọi của loại chứng từ nay: “chứng từ vận tải đa phương thức đối với hành trình ít nhất hai phương thức vận tải khác nhau”. Song trên thực tế hiện nay thì chứng từ vận tải đa phương thức vẫn được áp dụng đối với hành trình chỉ sử dụng phương thức vận chuyển đường bộ. Vậy trong trường hợp đó, nó có thuộc đối tượng điều chỉnh của UCP600 không? Đây thực sự là một bất cập mà UCP600 vẫn chưa giải quyết được cho phù hợp với ngành vận tải và bảo hiểm hiện nay.
♣ Vận đơn của người giao nhận
Ta có thể thấy rằng trong UCP600 không có một điều khoản riêng nào về forwarder B/L. vậy trong trường hợp người xuất khẩu tiến hành gửi hàng cho người giao nhận thì vận đơn của người giao nhận có được ngân hàng chấp nhận không?
2. Bất cập đến từ phía các doanh nghiệp
Khi áp dụng bản UCP600 và bộ tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế mới ISBP 681 vào hoạt động thanh toán của mình, bên cạnh những khó khan đến từ phía bộ tập quán, các ngân hàng còn phải đối mặt với những khó khăn mà chính các khách hàng của họ gây ra: các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Đại đa số các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam uỷ thác hoàn toàn cho ngân hàng thực hiện khâu thanh toán. Điều này thực sự gây ra nhiều khó khăn cho các ngân hàng. Bởi vì muốn thành công thì phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Nếu không uỷ thác hoàn toàn cho ngân hàng thì do sự hiểu biết về tập quán quốc tế,sự hiểu biết về UCP còn hạn chế nên các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia thương mại quốc tế gặp phải không ít thiệt thòi. Thực tế là có đến 80% bộ chứng từ xuất trình thanh toán lần đầu bị từ chối thanh toán do có sai sót (số liệu nghiên cứu của VIBank, uỷ ban quốc tế ngân hàng phối hợp cùng ICC).
Hiện nay UCP600 đã được đa số các ngân hàng áp dụng trong quy trình thanh toán quốc tế. Thế nhưng khi được hỏi về UCP600, đại đa số các doanh nghiệp tỏ ra khó hiểu và thực sự chưa trang bị cho mình tầm hiểu biết nhất định về bộ tập quán quốc tế mới này. Và các doanh nghiệp cũng bày tỏ sự ngần ngại khi các ngân hàng áp dụng UCP600 với lý do là đã quen với UCP500. Điều này gây ra không ít khó khăn cho ngân hàng khi áp dụng bộ tập quán mới của ICC. “khi đã tham gia vào cuộc chơi tức là đã chọn phương thức thức thanh toán bằng chứng từ thì phải hiểu rõ những thông lệ đã được quốc tế ban hành. Từ đó mới có thể vận dụng đúng đắn và linh hoạt (Theo bà Nguyễn Thị Phương Diễm- Giám đốc tài trợ thương mại VIBank). Và trong bối cảnh hiện nay khi UCP600 đã có hiệu lực được gần một năm, khi mà hầu hết các ngân hàng thương mại đã áp dụng nó thì việc các doanh nghiệp hiểu về UCP là vô cùng cần thiết để có thể thành công trong thương mại quốc tế.
3. Bất cập đến từ phía ngân hàng:
- Hiệu quả về đào tạo UCP chưa cao: Mặc dù các ngân hàng đã có sự chuẩn bị khá kỹ lưỡng trước khi chính thức áp dụng bộ tập quán mới: đào tạo nhân lực, tổ chức các buổi hội thảo giới thiệu và giúp các thanh toán viên làm quen với UCP600 và ISBP681 (MB, VIBank…) thế nhưng hiệu quả đào tạo thực sự vẫn chưa cao. Nguyên nhân là do việc đào tạo về UCP mới chỉ tập trung ở trụ sở chính mà chưa triển khai đến toàn bộ các chi nhánh cấp I và cấp II, chất lượng đào tạo cũng chưa sâu do còn bị hạn chế về mặt thời gian, địa điểm, nguồn lực.
- Quy trình nghiệp vụ còn nhiều bất cập:
Như đã nói ở trên, khi áp dụng UCP600 và ISBP681 các ngân hàng đã thay đổi quy trình nghiệp vụ của mình cho phù hợp với bản quy tắc mới này. Tuy nhiên đối với một số loại L/C đặc biệt như là: L/C xác nhận, L/C giáp lưng, L/C chuyển nhượng…thì rất ít ngân hàng đã có một quy trình nghiệp vụ cụ thể tuân theo đúng tinh thần của UCP600 và ISBP681
- Đối với những bất cập đến từ phía UCP600, các ngân hàng cũng chưa có những điều chỉnh và quy định cụ thể. Ví dụ UCP600 không có một điều khoản nào quy định có chấp nhận vận đơn của người giao nhận hay không? Các ngân hàng cũng chỉ dừng lại ở việc tuân thủ UCP600 mà cũng chưa có quy định cụ thể hơn? Vậy nếu người xuất khẩu xuất trình vận đơn của người giao nhận (forwader B/L) thì có thanh toán không? Và khi ấy BCT xuất trình có được coi là hợp lệ không?
- Chưa có quy định cụ thể về việc kiểm tra chứng từ theo ISBP: Mặc dù trong quy trình nghiệp vụ kiểm tra bộ chứng từ, đa số các ngân hàng đều quy định “tuân theo ISBP 681” song lại chưa nêu rõ bước quy trình nghiệp vụ cụ thể cho quá trình kiểm tra. Điều này tạo ra không ít khó khăn cho các thanh toán viên trong quá trình kiểm tra bộ chứng từ thanh toán bởi vì bộ chứng từ thanh toán bao gồm rất nhiều các chứng từ như là vận đơn, hối phiếu, hóa đơn, giấy chứng nhận xuất xứ,… và nếu không có quy định rõ ràng về việc kiểm tra những chứng từ đó thì sẽ mất rất nhiều thời gian để xem xét tính phù hợp của các chứng từ với UCP600 và với ISBP681. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những điểm chưa tương thích giữa 2 văn bản pháp lý trên (điều 14c UCP600 và điều 21 ISBP681), do đó việc có một quy định cụ thể, rõ ràng về tiêu chuẩn kiểm tra càng cần thiết hơn bao giờ hết nhằm tránh những sai sót trong quá trình kiểm tra bộ chứng từ thanh toán
CHƯƠNG III
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG BẤT CẬP VÀ KHÓ KHĂN KHI ÁP DỤNG
I. Xu hướng áp dụng UCP600 và ISBP tại các ngân hàng thương mại:
Như đã nói ở trên, phương thức tín dụng chứng từ là phương thức phổ biến nhất, được sử dụng nhiều nhất trong thương mại quốc tế.
Trong số các phương thức thanh toán quốc tế thì phương thức tín dụng chứng từ chiếm tỷ trọng cao nhất.
Và cũng như đã nói ở trên, khi chấp nhận tham gia vào cuộc chơi, hay nói cách khác là khi đã sử dụng phương thức tín dụng chứng từ, các doanh nghiệp cần phải tuân thủ và hiểu những thông lệ đã được quốc tế ban hành. Và khi UCP600 có hiệu lực, thì không chỉ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam mà cả các ngân hàng Việt Nam cũng phải hiểu và vận dụng nó. UCP600 đã chính thức có hiệu được gần 1 năm. Ban đầu, có rất ít ngân hàng thương mại áp dụng bộ tập quán mới (tính đến tháng 9/2007 mới chỉ có 2 ngân hàng áp dụng đó là Ngân Hàng Quân Đội MB và Ngân Hàng TMCP Quốc Tế VIBank) nhưng cho đến nay hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam đã áp dụng bộ tập quán quốc tế mới.
1. Tuân theo những quy định của UCP600 và ISBP681
- Khi áp dụng bộ tập quán quốc tế mới, hầu hết các ngân hàng đều đã tuân theo tinh thần mới: Thời gian kiểm tra bộ chứng từ là 5 ngày làm việc, khi bộ chứng từ có sai sót thì cần xin bỏ qua sai sót từ người yêu cầu mở thư tín dụng....
- Thay đổi quy trình nghiệp vụ để phù hợp với bộ tập quán mới: quy trình kiểm tra thay đổi để đáp ứng đúng theo yêu cầu về thời gian kiểm tra chứng từ là 5 ngày làm việc. Do UCP600 có một số thay đổi so với UCP500 nên các mẫu dịch vụ của ngân hàng cũng có những điều chỉnh để phù hợp với những thay đổi đó: Đơn đề nghị phát hành L/C, Giấy thông báo bộ chứng từ về….
2. Một số điều chỉnh:
Mặc dù tuân thủ những quy định trong UCP600 và ISBP681 song khi áp dụng vào quy trình nghiệp vụ thanh toán cụ thể các ngân hàng thương mại đã có một số thay đổi, điều chỉnh cần thiết trong khâu nghiệp vụ để việc áp dụng ấy càng rõ ràng, cụ thể hơn, quy trách nhiệm và quyền hạn trong từng phòng ban cụ thể. Ví dụ như cũng trong quy trình kiểm tra bộ chứng từ hàng nhập ấy, UCP600 quy định các ngân hàng có 5 ngày làm việc ngân hàng để kiểm tra bộ chứng từ. Tuy nhiên với khoảng thời gian 5 ngày ấy, Ngân Hàng Đầu Từ Và Phát Triển Việt Nam dành 3 ngày cho TTV, 2 ngày còn lại để KSV và lãnh đạo các cấp kiểm tra lại kết quả kiểm tra của TTV, Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Kỹ Thương Việt Nam Techcombank dành cho TTV 2 ngày…Rõ ràng là với một quy trình và lịch trình cụ thể như vậy, việc kiểm tra sẽ đảm bảo đúng thời gian yêu cầu, kết quả kiểm tra cũng được tra soát lại (sau khi TTV kiểm tra thì KSV sẽ kiểm tra lại) từ đó đảm bảo những sai sót sẽ được hạn chế ở mức tối thiểu.
Theo UCP600, mỗi ngân hàng chỉ có tối đa là 5 ngày làm việc ngân hàng để kiểm tra tính phù hợp của BCT thanh toán, từ đó quyết định xem việc chấp nhận hay từ chối thanh toán cho người xuất khẩu. Song UCP600 lại chưa quy định về ngày tiếp nhận BCT là ngày nào? Vậy thời điểm bắt đầu cho thời hạn 5 ngày của ngân hàng là ngày nào? Một số ngân hàng thương mại đã quy định cụ thể về vấn đề này (NHNo&PTNT, Techcombank)
II. Một số giải pháp nhằm khắc phục những bất cập và khó khăn khi áp dụng:
Như đã đề cập ở trên, UCP600 ra đời hết sức tiến bộ và đã loại trừ được rất nhiều điều khoản mơ hồ, gây tranh cãi khi ứng dụng. Tuy nhiên bên cạnh đó, UCP600 cũng còn một số những khó khăn và bất cập khi ứng dụng. Đó là những bất cập đến từ phía bản thân bộ tập quán, từ phía khách hàng và đến từ phía chính các ngân hàng. Ở đây, khoá luận xin đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những bất cập và khó khăn trên.
1. Một số giải pháp mang tính chất vĩ mô:
1.1. Đối với Uỷ ban ngân hàng thuộc ICC:
UCP 600 đã chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2007 và cho đến nay nó đã được sử dụng khá rộng rãi. Mặc dù UCP600 ra đời hết sức tiến bộ, tuy nhiên nó cũng không tránh khỏi những mặt hạn chế nhất định. Do vậy Uỷ ban ngân hàng thuộc ICC nên thường xuyên trao đổi, lắng nghe ý kiến của những chuyên gia trong các lĩnh vực như: vận tải, bảo hiểm, ngân hàng để có những văn bản hướng dẫn thi hành cụ thể, tránh những sai sót từ sự hiểu không đúng các hướng dẫn từ UCP. Tất nhiên, hiện nay khi UCP600 đã chính thức có hiệu lực thì sự thay đổi các điều khoản của nó là không thể song nếu có những văn bản hướng dẫn thực hành một cách cụ thể, chi tiết rõ ràng thì sẽ hạn chế được một phần rất lớn những sai sót có thể xảy ra. Bên cạnh đó, việc thường xuyên trao đổi, lắng nghe ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực vận tải, giao nhận, ngân hàng sẽ còn giúp cho ICC tiếp thu được những ý kiến để bản UCP sau này (khi mà UCP600 không còn phù hợp với thực tiễn hoạt động của ngành vận tải, bảo hiểm, ngân hàng nữa) sẽ hoàn thiện hơn, theo kịp với xu hướng phát triển chung.
1.2. Đối với các cơ quan chức năng, ngân hàng nhà nước Việt Nam
♣ Các cơ quan chức năng:
Hoạt động thương mại quốc tế có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào định hướng, tư vấn và hướng dẫn của các cấp có thẩm quyền. Ví dụ khi doanh nghiệp muốn xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Mỹ thì việc cung cấp những tài liệu về thị trường Hoa Kỳ, định hướng và lưu ý doanh nghiệp những vấn đề tiêu biểu của thị trường hàng đầu thế giới này tỏ ra thực sự cần thiết, góp phần không nhỏ vào sự thành công của doanh nghiệp trên thị trường đó. Không chỉ có vậy, sự hiểu biết về tập quán quốc tế, những quy định và thông lệ đang được bạn bè thế giới sử dụng cũng góp phần không nhỏ vào thành công ấy.
Trong bối cảnh hiện nay, khi mà UCP600 và ISBP 681 đã có hiệu lực được gần 1 năm thì sự hiểu biết của các doanh nghiệp Việt Nam về hai bản quy tắc mới này còn rất nhiều hạn chế. Điều này sẽ gây ra khá nhiều thiệt thòi cho doanh nghiệp chúng ta khi làm ăn buôn bán với các đối tác nhiều kinh nghiệm, có tiềm lực kinh tế mạnh. Do vậy, việc định hướng, giúp doanh nghiệp tìm hiểu, hiểu đúng và vận dụng đúng tỏ ra vô cùng cần thiết. Bởi vì chỉ khi thực sự hiểu thì mới có thể áp dụng đúng, và chỉ có áp dụng đúng mới có thể tránh đuơc những sai sót, rủi ro trong thương mại quốc tế. Đặc biệt liên quan đến hai bản pháp lý này đó là những sai sót của bộ chứng từ thanh toán dẫn đến việc bị ngân hàng nước ngoài từ chối thanh toán theo tín dụng thư. Do vậy, các cơ quan chức năng đặc biệt là Cục Xúc Tiến Thương Mại, Trung Tâm Hỗ Trợ Doanh Nghiệp, phòng thương mại và công nghiệp nên tổ chức các khoá đào tạo, hướng dẫn về tín dụng chứng từ và UCP600 cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cũng cần thường xuyên tổ chức những buổi hội thảo giới thiệu về bộ tập quán mới, giúp doanh nghiệp hiểu và lưu ý doanh nghiệp về sự khác biệt so với bộ tập quán cũ. Chỉ có như vậy thì các doanh nghiệp của chúng ta mới có thể tự tin khi áp dụng, từ đó sẽ giảm thiểu được những rủi ro bộ chứng từ bị từ chối thanh toán. Và từ đó mới có thể nâng cao được hiệu quả của hoạt động ngoại thương (vì theo ước tính của VIB mỗi lần bộ chứng từ bị từ chối thanh toán, các doanh nghiệp của chúng ta sẽ phải chịu chi phí sửa chữa bộ chứng từ là 50-2500USD)
♣ Ngân hàng nhà nước Việt Nam:
Một trong những chức năng nhiệm vụ của ngân hàng nhà nước đó là chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm soát hoạt động của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên trong quy trình nghiệp vụ thanh toán quốc tế thì ngân hàng nhà nước chưa có một đơn vị chuyên về thanh toán quốc tế để hướng dẫn nghiệp vụ thanh toán quốc tế của doanh nghiệp. Do vậy, ngân hàng nhà nước Việt Nam nên thành lập một ban chuyên về thanh toán quốc tế để chỉ đạo hướng dẫn hoạt động này của các ngân hàng thương mại đồng thời có thể tư vấn cho các ngân hàng thương mại khi có các tranh chấp liên quan đến vấn đề thanh toán quốc tế.
2.Một số giải pháp mang tính chất vi mô:
2.1.Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu:
Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam tham gia thương mại quốc tế ngày càng nhiều. Đặc biệt là từ sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương Mại Quốc Tế (7/11/2006). Khi tham gia thương mại quốc tế, các doanh nghiệp của chúng ta tất nhiên phải chấp nhận các luật chơi quốc tế. Và một điều đương nhiên là khi lựa chọn phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, các doanh nghiệp cũng cần phải hiểu biết về phương thức tín dụng chứng từ cũng như các tập quán đang được sử dụng đối với phương thức đó.Tuy nhiên, về vấn đề này các doanh nghiệp của chúng ta thực sự còn nhiều hạn chế. Trong các doanh nghiệp của chúng ta, số cán bộ sử dụng thành thạo ngoại ngữ và am hiểu quy tắc tín dụng chứng từ chưa nhiều. Đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay khi mà hầu hết các đối tác khi tham gia hoạt động ngoại thương đều sử dụng UCP600 trong phương thức tín dụng chứng từ. Trong khi đó, UCP600 còn là một cái gì đó khá lạ lẫm đối với doanh nghiệp của chúng ta. Điều này sẽ dẫn đến thiệt thòi cho các doanh nghiệp khi tham gia vào thương mại quốc tế. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải chủ động cử cán bộ đi tham gia các khoá đào tạo, hướng dẫn về tín dụng chứng từ và UCP600 do phòng thương mại và công nghiệp cũng như các cơ sở của Việt Nam tổ chức. Bản thân các doanh nghiệp cũng cần phải tự cập nhật kiến thức cơ bản, các quy tắc, luật pháp có liên quan tới lĩnh vực này để có thể tự bảo vệ mình và thành công khi tham gia vào thương mại quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh lừa đảo, gian lận thương mại quốc tế có xu hướng gia tăng. Một điều cần lưu ý các doanh nghiệp là khi tham gia ký kết hợp đồng và lựa chọn phương thức thanh toán, nên hỏi ý kiến tư vấn của ngân hàng. Đặc biệt là khi sử dụng phương thức tín dụng chứng từ tuân theo UCP600.
2.2.Đối với các ngân hàng thương mại:
Như đã nói ở trên, thanh toán bằng tín dụng thư chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại các ngân hàng thương mại (khoảng 60%). Việc có một quy trình thanh toán rõ ràng cụ thể sẽ giúp cho các thanh toán viên tránh được nhiều sai sót liên quan đến việc kiểm tra bộ chứng từ thanh toán. Nhất là trong thời điểm hiện nay khi mà UCP600 đã có hiệu lực và bản thân UCP cũng tồn tại một vài những bất cập. Vậy để có thể tham gia vào hệ thống ngân hàngt quốc tế, để có thể ứng dụng thành công UCP600 cũng như ISBP681 và có thể tư vấn cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu khi cần thiết, các ngân hàng cần làm những gì?
♣ Những giải pháp chung:
Thứ nhất: Cần phải nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ thanh toán viên. Mặc dù trước khi chính thức áp dụng UCP600 và ISBP681 rất nhiều ngân hàng thương mại đã mở lớp đào tạo cán bộ về bộ tập quán mới. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo vẫn thực sự chưa cao và việc đào tạo vẫn chủ yếu diễn ra ở hội sở chính, chưa được triển khai đồng bộ đến các chi nhánh cấp I và cấp II. Các ngân hàng nên tập trung đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho thanh toán viên đồng bộ hơn, triển khai từ hội sở chính đến các chi nhánh.
Ngân hàng nên cử cán bộ đi tham dự các buổi hội thảo do các chuyên gia nước ngoài tổ chức tại Việt Nam. Thông qua các buổi hội thảo đó sẽ giúp các thanh toán viên hiểu biết hơn nữa về bộ tập quán mới, đồng thời ứng dụng quy trình nghiệp vụ thanh toán tiên tiến của các ngân hàng nước ngoài vào quy trình nghiệp vụ thanh toán hàng ngày của mình.
Thứ hai: Trong quy trình nghiệp vụ thanh toán thư tín dụng, ngân hàng nên quy định cụ thể và rõ ràng hơn nữa. Bởi vì quy định càng cụ thể rõ ràng bao nhiêu càng giúp cho cán bộ tránh sai sót bấy nhiêu (ví dụ như về vấn đề kiểm tra L/C theo ISBP681 nên quy định rõ ràng và cụ thể hơn).
Thứ ba: Các ngân hàng thương mại nên thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo hướng dẫn về UCP600, những thay đổi của UCP600 so với UCP500 cho khách hàng của mình. Bởi vì chính những nhà xuất nhập khẩu mới là những đối tượng chính sử dụng phương thức tín dụng chứng từ trong thương mại quốc tế. Họ cần phải nắm vững các quy định điều chỉnh phương thức này để có thể vận dụng nó một cách nhanh chóng, chính xác. Việc các doanh nghiệp có thể vận dụng thành thạo và chính xác UCP600 không chỉ giúp đẩy nhanh việc giao dịch thanh toán của họ mà còn giảm một phần gánh nặng cho các ngân hàng trong việc xử lý các giao dịch chứng từ cũng như hạn chế được rủi ro cho bản thân ngân hàng và khách hàng. Chính vì những lý do đó, công tác tuyên truyền, giới thiệu và hướng dẫn sử dụng UCP600 cho các khách hàng cần nhận được sự quan tâm thoả đáng của các ngân hàng thương mại
♣ Những giải pháp cụ thể:
- Khi là ngân hàng phát hành:
+ Khi nhận được đơn đề nghị phát hành L/C: Cần tìm hiểu kỹ về khách hàng (tiềm lực tài chính, uy tín của khách hàng, hợp đồng ngoại thương) để từ đó đề ra mức ký quỹ thích hợp. Đặc biệt lưu ý trong trường hợp khách hàng là bạn hàng mới, tiềm lực kinh tế kém, uy tín trên thị trường không cao, để tránh rủi ro cho ngân hàng nên yêu cầu ký quỹ 100%.
+ Khi phát hành thư tín dụng: Cần tư vấn cho khách hàng phát hành một thư tín dụng sao cho có lợi nhất cho khách hàng. Đặc biệt cần lưu ý về những vấn đề mà UCP600 vẫn chưa đề cập, ví dụ như vận đơn của người giao nhận có được chấp nhận không? Điều này cần quy định cụ thể và rõ ràng trong thư tín dụng.
+ Cần phải quy định cụ thể về việc thế nào là phát hành tín dụng và thời điểm nào được coi là tín dụng đã được phát đi. Vì điều này ràng buộc cam kết thanh toán của ngân hàng phát hành khi BCT được xuất trình phù hợp.
+ Khi kiểm tra BCT: Tiến hành kiểm tra cẩn thận theo đúng tinh thần của UCP600 và ISBP681 đồng thời đảm bảo đúng thời hạn quy định (5 ngày làm việc). Đối với những BCT có giá trị lớn, phức tạp nên giao cho những thanh toán viên có nhiều kinh nghiệm kiểm tra, hoặc sau khi TTV đã kiểm tra nên giao lại cho KSV kiểm tra lại.
- Khi là ngân hàng thông báo: Trong nhiều trường hợp, ngân hàng phát hành L/C bị đánh giá là có khả năng thanh toán quá thấp hoặc có vị trí địa lý ở vùng cấm vận, chính trị không ổn định. Khi người hưởng lợi xuất trình bộ chứng từ đòi tiền ngân hàng phát hành thì có thể không đòi được tiền hoặc phải mất nhiều công sức mới đòi được tiền từ ngân hàng phát hành. Điều này kéo theo thời gian giao dịch và có thể không hiệu quả.
+ Khi nhận được đơn yêu cầu thông báo thư tín dụng của ngân hàng nước ngoài gửi đến: Tìm hiểu khả năng thanh toán của ngân hàng phát hành trước khi tiến hành thông báo thư tín dụng cho người hưởng lợi. Nếu từ chối thông báo thư tín dụng thì phải gửi thông báo từ chối đến ngân hàng phát hành.
+ Khi tiến hành thông báo thư tín dụng: Tiến hành kiểm tra kỹ các điều khoản của thư tín dụng để kịp thời lưu ý khách hàng về những bất lợi, khách hàng có thể yêu cầu người nhập khẩu sửa lại, tu chỉnh L/C cho phù hợp.
- Khi là ngân hàng xác nhận: Khả năng ngân hàng phát hành không thể thanh toán bộ chứng từ là rất cao (Do vậy người hưởng lợi mới yêu cầu xác nhận thư tín dụng) Do vậy cần lưu ý:
+ Tìm hiểu ngân hàng phát hành trước khi tiến hành xác nhận thư tín dụng
+ Trong trường hợp có nhiều rủi ro thì nên từ chối xác nhận thư tín dụng
- Khi là ngân hàng thương lượng thanh toán: Quá trình kiểm tra bộ chứng từ chiết khấu phải thật chính xác để từ đó đề ra hạn mức và thời hạn chiết khấu thích hợp.
2.3. Đối với các cơ sở đào tạo nghiệp vụ ngân hàng nói chung và thanh toán quốc tế nói riêng
Những học viên của những cơ sở này sẽ là những cán bộ nòng cốt tại các ngân hàng thương mại sau này. Do vậy, các cơ sở đào tạo (Như các trường đại học đào tạo nghiệp vụ ngân hàng) cần phải kết hợp việc giảng dạy lý thuyết với thực hành. Cụ thể hơn, khi giảng dạy về quy trình thanh toán tại ngân hàng nên lấy một quy trình cụ thể tại một ngân hàng cụ thể. Từ đó sẽ giúp học viên khỏi bỡ ngỡ khi áp dụng vào thực tế. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi mà UCP600 và ISBP681 có hiệu lực và đã được các ngân hàng thương mại Việt Nam ứng dụng tương đối rộng rãi, thì các cơ sở đào tạo trong và ngoài trường đại học nên chú trọng việc giảng dạy bộ tập quán mới, kết hợp với việc phân tích những điểm khác biệt giữa UCP600 với UCP500, giữa ISBP681 so với ISBP645. Đồng thời lưu ý sinh viên và cán bộ nghiệp vụ những sai sót có thể xảy ra trong thực tiễn và từ những bất cập và cách hiểu sai khác về bộ tập quán.
Như vậy, để có thể thành công khi ứng dụng UCP600 và ISBP 681 khi thực hiện thanh toán theo tín dụng thư đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ giữa ngân hàng và các doanh nghiệp đó. Để thực hiện được điều đó, ngân hàng cũng như các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu cần sự hỗ trợ tích cực từ phía các cơ quan chức năng cũng như từ phía ngân hàng nhà nước Việt Nam. Bản thân ngân hàng cũng cần phải tự cải tiến, thay đổi quy trình nghiệp vụ cho phù hợp với bộ tập quán mới, doanh nghiệp cũng cần phải cập nhật kiến thức cho mình. Và điều quan trọng hơn cả là doanh nghiệp nên tham khảo ý kiến của ngân hàng mình khi sử dụng phương thức tín dụng chứng từ trong thanh toán xuất nhập khẩu.
KẾT LUẬN
Hoạt động thương mại quốc tế bằng thư tín dụng đang ngày càng phát triển đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc về bản thân thư tín dụng cũng như các quy tắc, tập quán quốc tế đang được áp dụng. Trong bối cảnh thương mại quốc tế phát triển nhờ vào sự hỗ trợ cua khoa học công nghệ và công nghệ thông tin, Bản Quy Tắc và thực hành về tín dụng chứng từ hiện hành UCP 500 và Tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế đê kiểm tra chứng từ theo thư tín dụng ISBP 681 trở nên không còn phù hợp. Trước thực tế đó, ICC đã ban hành bộ tập quán mới: UCP600 thay thế cho UCP500; ISBP 681 thay thế cho ISBP 645 để giúp cho hoạt động thanh toán bằng tín dụng chứng từ kịp thời phù hợp với hoạt động thanh toán quốc tế. Do vậy, việc tìm hiểu những điểm khác biệt giữa UCP500-UCP600; ISBP645-ISBP681 là vô cùng cần thiết. Đặc biệt trong tình hình hiện nay khi mà rất nhiều ngân hàng thương mại đã tuyên bố chính thức áp dụng UCP 600, ISBP 681 vào hoạt động thanh toán quốc tế. Điều đó không chỉ cần thiết đối với ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực thanh toán quốc tế mà còn vô cùng cần thiết đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu để có thể thành công trong thương mại quốc tế.
Thông qua nghiên cứu ứng dụng của bộ tập quán mới này vào hoạt động thanh toán quốc tế tại một số ngân hàng thương mại hiện nay như thế nào, khoá luận đã chỉ ra được một số những hạn chế và bất cập của ngân hàng thương mại khi ứng dụng UCP600 và ISBP 681. Từ đó khoá luận mạnh dạn đề xuất một số giải pháp mang tính chất vĩ mô và vi mô nhằm cải thiện hoạt động thanh toán tại một số ngân hàng thương mại hiện nay, cũng như cải thiện tình hình bị từ chối thanh toán theo phương thức tín dụng thư trong hoạt thương mại quốc tế của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Hy vọng rằng trong khuôn khổ nhất định của luận văn, dù thời gian nghiên cứu và sự hiểu biết còn hạn chế, những đề xuất của mình sẽ góp phần hỗ trợ các cán bộ ngân hàng, các cán bộ làm công tác thanh toán quốc tế có thể áp dụng một cách có hiệu quả UCP600 và ISBP681 trong công việc, qua đó thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế phát triển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài Liệu Tiếng Việt:
Đinh Xuân Trình (2006), giáo trình thanh toán quốc tế, Nhà xuất bản lao động- xã hội , Hà Nội
Đinh Xuân Trình (2007) Bộ tập quán quốc tế về L/C (bản dịch) Nhà xuất bản thống kê.
Quy Trình TTQT- NHTMCP Kỹ Thương Việt Nam
Quy Trình TTQT – NH Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam
Quy Trình TTQT- NHNo & PTNT
Quy Trình TTQT- HSBC Việt Nam
Nguyễn Thị Quy (2006)- Cẩm nang giải quyết tranh chấp trong thanh toán quốc tế bằng L/C ( theo UCP500- ICC 1993; ISBP 645 và e. UCP1.0) Nhà xuất bản lý luận chính trị Hà Nội
Nguyễn Trọng Thuỳ, Hướng dẫn áp dụng điều lệ và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (bản sửa đổi 1993, số xuất bản 500 phòng thương mại quốc tế) Nhà xuất bản thống kê.
Nguyễn Văn Tiến (2007), Giáo trình thanh toán quốc tế- Cập nhật UCP600, Nhà xuất bản thống kê.
Website Ngân Hàng Phương Đông (www.ocb.com.vn)
Website Ngân Hàng TMCP Hàng Hải (www.maritimebank.com.vn)
Website Ngân Hàng Quốc Tế (www.vib.com.vn)
Website Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam
Website Hiệp Hội Ngân Hàng Việt Nam
Website NHNo&PTNT Chi Nhánh Láng Hạ
Tài liệu tiếng Anh:
Beverly wess manne (2007), the new UCP: Changes from UCP 500, (07/08/2007)
Citibank (2007), material for UCP 600 workshop
Commission on banking technique and practice ( 1994), position paper No.1,2,3,4 on UCP 500, Http:///iccwbo.org/id357/index.html (30/8/2007)
Documentary credit world (2005- 2007), Letter of credit survey
International Chamber of Commerce (1997-2003) international standard banking practice for the examination of documents under documentary credits. 2007 Revision for UCP 600, ICC publication No.681
Jia Hao (2007) Comparing UCP500- UCP600, LC views Newsletter No.90, January 2007.
Roberto Bergami (2007), will the UCP600 provide solutions to Letter of Credit Transactions, International Review of business research papers, Vol 3 No2.
International Chamber of Commerce (2007), international standard banking practice for the examination of documents under documentary credits, 2007 revision for UCP 600, ICC publication No.681.
BẢNG CÁC TỪ VIẾT TẮT
TTV : Thanh Toán Viên
KSV : Kiểm Soát Viên
NH : Ngân Hàng
NHTM : Ngân Hàng Thương Mại
NHPPH : Ngân Hàng Phát Hành
NHXN : Ngân Hàng Xác Nhận
BCT : Bộ Chứng Từ
NHNo&PTNT : Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam
BIDV : Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam
OCB : Ngân Hàng Phương Đông.
MB : Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quân Đội
MSB : Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Hàng Hải
Vietcombank : Ngân Hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam
HanoiVCB : Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội
VPbank : Ngân Hàng Ngoài Quốc Doanh.
VIB : Ngân Hàng Quốc Tế
GPbank : Ngân Hàng Dầu Khí Toàn Cầu
Techcombank : Ngân Hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam.
MỤC LỤC
PHỤ LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10308.doc