Tài liệu Ứng dụng thông tin kế toán quản trị trong quản trị sản xuất tại Xí nghiệp may Đại Đồng – Công ty cổ phần Nam Sông Cầu: I. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết
Các doanh nghiệp muốn tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thì giải pháp tốt nhất là doanh nghiệp tiết kiệm tối đa chi phí cho phục vụ cho các hoạt động của mình. Đối với những doanh nghiệp sản xuất thì việc chi phí cho khâu sản xuất, dịch vụ luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng chi phí của một doanh nghiệp. Do đó QTSX và dịch vụ có tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động của một doanh nghiệp sản xuất. Nếu công tác quản trị có hiệu quả, ứng dụng được các phư... Ebook Ứng dụng thông tin kế toán quản trị trong quản trị sản xuất tại Xí nghiệp may Đại Đồng – Công ty cổ phần Nam Sông Cầu
85 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1539 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Ứng dụng thông tin kế toán quản trị trong quản trị sản xuất tại Xí nghiệp may Đại Đồng – Công ty cổ phần Nam Sông Cầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơng pháp quản trị khoa học thì sẽ tiết kiệm được lượng chi phí khá lớn cho các doanh nghiệp, ngược lại nếu công tác quản trị không tốt có thể sẽ làm cho doanh nghiệp thua lỗ, thậm chí có thể bị phá sản
Mặt khác, bất kể doanh nghiệp nào khi tiến hành SX kinh doanh đều phải có đầy đủ các yếu tố, đó là sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động, các yếu tố này kết hợp với nhau trong quá trình SX kinh doanh để tạo ra sản phẩm, dịch vụ vì vậy QTSX không những có nhiệm vụ tiết kiệm tối đa chi phí sản xuất mà còn có nhiệm vụ phối hợp các yếu tố đó một cách hợp lí để nâng cao hiệu quả của quá trình SX kinh doanh.
Để thực hiện được những nhiệm vụ trên NQT doanh nghiệp cần phát huy tối đa tiềm năng của bản thân doanh nghiệp thông qua phân tích, đánh giá thông tin, đặc biệt là nguồn thông tin trong nội bộ doanh nghiệp. Nguồn thông tin này cung cấp tài liệu phục vụ việc lập kế hoạch kiểm soát và ra các quyết định giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu đã đề ra. Nguồn thông tin hữu ích cho NQT phải là nguồn thông tin cụ thể, chính xác và kịp thời về các hoạt động trong thực tế. Tuy nhiên nguồn thông tin từ bộ phận KTTC thường mang tính chậm do vậy NQT sản xuất cần có nguồn thông tin từ bộ phận KTQT thông qua hệ thống báo cáo KTQT làm tài liệu phục vụ cho NQT doanh nghiệp trong việc ra quyết định.
Xí nghiệp may Đại Đồng – Công ty cổ phần Nam Sông Cầu là đơn vị chuyên tiến hành may gia công các sản phẩm may mặc cho khách hàng nước ngoài, việc quản lý điều hành sản xuất như thế nào, quyết định sản xuất bao nhiêu là một vấn đề mà Xí nghiêp đang quan tâm. Quản trị sản xuất tại Xí nghiệp không những là cơ sở ra quyết định chấp nhận đơn đặt hàng hay không mà còn góp phần tạo nên tính giá trị của các hợp đồng gia công tại Xí nghiệp. Vì vậy QTSX tại Xí nghiệp luôn yêu cầu nguồn thông tin chính xác, kịp thời, những báo cáo nhanh làm công cụ cho việc ra quyết định và tổ chức thực hiện các đơn hàng từ bộ phận KTQT.
Tuy nhiên bộ máy KTQT tại Xí nghiệp mới được hình thành do vậy việc cung cấp các thông tin KTQT phục vụ cho NQT còn nhiều vấn đề phải hoàn thiện như việc hoạch định năng lực của MMTB, cân đối nguồn nhân lực và tổ chức cung ứng nguồn nguyên vật liệu như thế nào để đảm bảo sản xuất các đơn hàng đạt hiệu quả cao? Chính vì những lí do trên, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Ứng dụng thông tin kế toán quản trị trong quản trị sản xuất tại Xí nghiệp may Đại Đồng – Công ty cổ phần Nam Sông Cầu ”
1.2 Mục tiêu
1.2.1 Mục tiêu chung
Tìm hiểu QTSX dưới góc độ sử dụng thông tin KTQT qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác QTSX tại Xí nghiệp may Đại Đồng – Công ty cổ phần Nam Sông Cầu.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
Hệ thống các vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến QTSX và thông tin KTQT.
Tìm hiểu thực trạng ứng dụng thông tin KTQT trong QTSX tại Xí nghiệp may Đại Đồng – Công ty cổ phần Nam Sông Cầu.
Đánh giá thực trạng QTSX với việc ứng dụng thông tin KTQT tại Xí nghiệp may Đại Đồng – Công ty cổ phần Nam Sông Cầu.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng thông tin KTQT cho QTSX tại Xí nghiệp may Đại Đồng – Công ty cổ phần Nam Sông Cầu.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Tổ chức nguồn thông tin KTQT và ứng dụng nguồn thông tin KTQT trong QTSX các đơn hàng tại Xí nghiệp may Đại Đồng – Công ty cổ phần Nam Sông Cầu.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1 Phạm vi nội dung
Nội dung đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề thu thập và xây dựng thông tin của bộ phận KTQT và ứng dụng thông tin đó vào QTSX tại xí nghiệp.
1.3.2.2 Phạm vi thời gian
Nội dung nghiên cứu được tiến hành tìm hiểu từ tháng 1 năm 2009 tới tháng 5 năm 2009.
Số liệu sử dụng từ năm 2006 – 2009.
1.3.2.3 Phạm vi không gian
Nộidung nghiên cứu được thực hiện tại các phòng: phòng kế toán, phòng hành chính, phòng vật tư, phòng kĩ thuật và chế tác mẫu, một số phân xưởng cắt và may của Xí nghiệp may Đại Đồng – Công ty cổ phần Nam Sông Cầu.
II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1 Tổng quan tài liệu
2.1.1 Cơ sở lí thuyết
2.1.1.1 Những vấn đề cơ bản về sản xuất và quản trị
Những vấn đề cơ bản về sản xuất
Theo TS. Đồng Thị Thanh Phương (2007): Sản xuất được hiểu là một quá trình tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ.
TS. Hoàng Văn Hoan (2008) cho rằng: Sản xuất là quá trình chế tạo sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp nhằm biến những yếu tố đầu vào thành sản phẩm đầu ra để cung cấp cho xã hội.
Như vậy sản xuất là quá trình sử dụng các yếu tố đầu vào (nguyên vật liệu thô, con ngưòi, máy móc, nhà xưởng, kỹ thuật công nghệ, tiền mặt và một số tài nguyên khác) để chuyển đổi chúng thành sản phẩm dịch vụ. Sự chuyển đổi này là hoạt động trọng tâm và phổ biến của hệ thống sản xuất. Mối quan tâm hàng đầu của các NQT là hệ thống sản xuất, là các hoạt động chuyển hóa của sản xuất.
Đầu vào
Đầu ra
Chuyển hoá
Nguồn nhân lực
- Nguyên liệu
- Công nghệ
- Máy móc
- Tiền vốn
- Khoa học và nghệ thuật quản trị
- Hàng hoá
- Dịch vụ
Làm biến đổi
Tăng thêm giá trị
Sơ đồ 2.1 Quá trình sản xuất
Sản xuất bao hàm bất kì hoạt động nào nhằm thoả mãn nhu cầu của con người. Sản xuất được phân thành sản xuất bậc 1, sản xuất bậc 2 và sản xuất bậc 3.
- Sản xuất bậc 1 (sản xuất sơ chế): Là hình thức sản xuất dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên hoặc là những hoạt động sử dụng nguồn tài nguyên sẵn có, còn ở dạng tự nhiên như khai thác quặng mỏ, khai thác lâm sản, đánh bắt hải sản, trồng trọt.
- Sản xuất bậc 2 (Công nghiệp chế biến): Là hình thức sản xuất, chế tạo, chế biến các loại nguyên thiên nhiên biến thành hàng hoá như gỗ chế biến thành bàn, ghế… Sản xuất bậc 2 bao gồm cả việc chế tạo các bộ phận cấu thành được dùng để lắp ráp thành sản phẩm tiêu dùng và sản phẩm công nghiệp.
- Sản xuất bậc 3 (Công nghiệp dịch vụ): Cung cấp hệ thống các dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu đa dạng của con người. Trong nền sản xuất bậc 3, dịch vụ được sản xuất ra nhiều hơn các hàng hoá hữu hình.
Loại hình sản xuất là đặc tính tổ chức kĩ thuật tổng hợp nhất của sản xuất được quy định chủ yếu bởi trình độ chuyên môn hoá của nơi làm việc, số chủng loại và tính ổn định của đối tượng chế biến trên nơi làm việc.
Loại hình sản xuất là căn cứ rất quan trọng trong công tác quản trị hệ thống sản xuất hiệu quả. Hiện nay có thể chia thành loại hình sản xuất thành các loại như sản xuất khối lượng lớn, sản xuất hàng loạt, sản xuất đơn chiếc và sản xuất dự án.
Những vấn đề cơ bản về quản trị
Quản trị là sự tác động có mục đích của chủ thể quản trị lên đối tượng bị quản trị nhằm đạt được mục tiêu chung của tổ chức.
Quản trị là khoa học, là nghệ thuật, dựa trên cơ sở lí luận của triết học, kinh tế học. Quản trị phát triển và gắn bó chặt chẽ với nhiều môn học kinh tế cụ thể như kế hoạch hoá, kinh tế tổ chức sản xuất, kế toán, tài chính…
Quản trị kinh doanh là tổng hợp các hoạt động kế hoạch hoá, tổ chức và kiểm tra sự kết hợp giữa các yếu tố sản xuất một cách có hiệu quả nhất nhằm xác định và thực hiện mục tiêu cụ thể trong quá trình phát triển doanh nghiệp. Hoặc có thể hiểu quản trị kinh doanh là tổng hợp các hoạt động xác định mục tiêu và thông qua những người khác để thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh thường xuyên biến động.
2.1.1.2 QTSX và vai trò của QTSX trong quản trị doanh nghiệp
Khái niệm QTSX
QTSX còn được gọi là quản trị điều hành hoặc QTSX và tác nghiệp, có tài liệu còn sử dụng thuật ngữ QTSX và dịch vụ. Trước kia thuật ngữ sản xuất chỉ bao hàm việc tạo ra sản phẩm hữu hình. Sau đó được mở rộng và bao hàm cả việc tạo ra các dịch vụ.
QTSX bao gồm tất cả các hoạt động liên quan đến việc quản trị các yếu tố đầu vào, tổ chức phối hợp các yếu tố nhằm chuyển hoá thành các kết quả ở đầu ra là các sản phẩm vật chất hay dịch vụ với hiệu quả cao nhất, đạt được các lợi ích lớn nhất.
QTSX là tổng hợp các hoạt động xây dựng hệ thống sản xuất và quá trình sử dụng các yếu tố đầu vào tạo thành các sản phẩm, dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng nhằm thực hiện các mục tiêu đã xác định trong quá trình phát triển doanh nghiệp.
Sản phẩm, dịch vụ
Các nhân tố
thay đổi
Yếu
tố
đầu vào
Xây dựng
Điều kiển quá trình
Kết hợp
QT
quá trình sản xuất
Sơ đồ 2.2 Quản trị sản xuất
Nói cách khác QTSX là quá trình thiết kế, hoạch định, tổ chức điều hành và kiểm soát hệ thống sản xuất nhằm thực hiện các mục tiêu sản xuất đã đề ra.
Vị trí, vai trò và mục tiêu của QTSX trong quản trị doanh nghiệp
- Vị trí của QTSX
QTSX là một trong ba vấn đề cơ bản của quản trị doanh nghiệp đó là QTSX, quản trị marketing và quản trị tài chính. Ba vấn đề này quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Trong các doanh nghiệp chức năng sản xuất thường sử dụng nhiều nhất các nguồn lực và các tài sản có khả năng kiểm soát của doanh nghiệp. Hiệu quả của hoạt động sản xuất có ý nghĩa quyết định đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trên phạm vi nền kinh tế QTSX của các doanh nghiệp đóng vai trò quyết định trong việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ phong phú để nâng cao mức sống toàn xã hội.
QTSX được thực hiện bởi một nhóm người trong doanh nghiệp chịu trách nhiệm tạo ra hàng hoá hoặc dịch vụ cung cấp cho xã hội.
Quản trị marketing được thực hiện bởi một nhóm người chịu trách nhiệm khám phá và phát triển nhu cầu về hàng hoá hay dịch vụ của doanh nghiệp. Đây là vấn đề rất quan trọng vì doanh nghiệp không thể tồn tại nếu không có thị trường cho sản phẩm hay dịch vụ của họ. Ngoài ra, nó còn có tác dụng định hướng đối với hệ thống SX của doanh nghiệp.
Quản trị tài chính gồm các việc khai thác các nguồn vốn. tổ chức sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này. Với chức năng tài chính, các quá trình sản xuất kinh doanh được vận động liên tục.
Các chức năng quản trị trong doanh nghiệp phụ thuộc lẫn nhau, nếu thiếu một trong số các chức năng trên doanh nghiệp không thể thành công.
- Vai trò của QTSX
QTSX là hoạt động cốt lõi của mọi tổ chức kinh doanh, bất kể họ kinh doanh cái gì. Các hoạt động của QTSX như dịch vụ khách hàng, đảm bảo chất lượng, hoạch định và kiểm soát hệ thống sản xuất, điều độ, quản trị tồn kho... Hơn nữa sản xuất không phải là chức năng cô lập trong tổ chức, các quyết định sản xuất thường ảnh hưởng đến việc thực hiện các chức năng khác.
QTSX quyết định khả năng cung cấp sản phẩm về chất lượng, số lượng, thời gian giao hàng ảnh hưởng đến khả năng phục vụ khách hàng và cạnh tranh với đối thủ cạnh tranh của bộ phận marketing. Quản trị marketing cũng thu thập những thông tin phản hồi về chất lượng sản phẩm. Còn quản trị tài chính thì giúp nhà QTSX trong trường hợp phải quyết định về thiết bị, nên mua hay thuê, hoặc chọn máy nào trong hai máy bằng công cụ phân tích tài chính. Tài chính cung cấp vốn cho sản xuất nhưng các kế hoạch sản xuất lại là cơ sở cho quản trị viên tài chính dự toán nhu cầu vốn, dự toán chi phí sản xuất kinh doanh và lãi lỗ của doanh nghiệp.
- Mục tiêu của quản trị và điều hành sản xuất
Mục tiêu tổng quát của hệ thống sản xuất là đảm bảo thoã mãn tối đa nhu cầu của khách hàng trên cơ sở sử dụng hiệu quả nhất các yếu tố sản xuất. Dựa vào chiến lược mà doanh nghiệp đã lựa chọn mục tiêu tổng quát được triển khai thành các mục tiêu cụ thể:
+ Đảm bảo chất lượng sản phẩm theo đúng yêu cầu của khách hàng.
+ Giảm chi phí sản xuất tới mức thấp nhất để tạo ra đơn vị đầu ra.
+ Rút ngắn thời gian cung cấp sản phẩm dịch vụ
+ Hệ thống sản xuất có tính linh hoạt cao (đáp ứng nhanh nhu cầu sản phẩm mới hoặc thay đổi quy mô sản xuất).
Vai trò của người quản trị trong chức năng sản xuất
Các kĩ năng cần thiết ở nhà QTSX
Quản trị viên sản xuất là nhưng người có vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp, là những người hoạch định đúng các công việc và giám sát công việc. Họ hoạt động trong các chức năng hoạch định, kiểm soát chất lượng, hoạch định kiểm soát sản xuất. Để đáp ứng được vai trò to lớn đó nhà quản trị sản xuất cần có những kĩ năng cơ bản như sau :
Khi một quản trị ra quyết định về nhiệm vụ sản xuất để người khác thực hiện họ cần hhiểu biết trên hai khía cạnh chủ yếu là hiểu biết cơ bản về quy trình công nghệ và hiểu biết đầy đủ công việc phải quản trị.
Một vấn đề đặc biệt quan trọng là người QTSX không những chỉ lập ra những kế hoạch mà còn phải tổ chức thực hiện chúng. Vì vậy kĩ năng cần thiết của NQT sản xuất là khả năng làm việc với con người. Công việc chỉ có thể đạt được kết quả cao nếu NQT kết hợp tốt các yếu tố nguồn lực trong đó có yếu tố nguồn lực con người.
Vai trò của người QTSX
Với bất kì một doanh nghiệp nào thì ba vấn đề: Cung cấp sản phẩm phù hợp với năng lực công ty và nhu cầu của thị trường; Cung cấp sản phẩm với mức chất lượng phù hợp với mong muốn của khách hàng; Cung cấp sản phẩm với chi phí cho phép có được lợi nhuận và giá cả hợp lý. Đây là ba vấn đề cốt lõi đánh giá khả năng, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Với lí do đó khi hoạch định các mục tiêu của doanh nghiệp, các NQT cấp cao phải đảm bảo rằng mục tiêu này phù hợp với khả năng, sức mạnh thích hợp được phát hiện trong hệ thống sản xuất. NQT sản xuất phải căn cứ trên ba vấn đề cơ bản cho thành công của doanh nghiệp để có những tác động hợp lí. Vì vậy hoạt NQT trong chức năng sản xuất thực hiện các hoạt động chủ yếu và ra các quyết định cơ bản như sau:
Trong chức năng hoạch định:
Quyết định về tập hợp sản phẩm và dịch vụ.
Xây dựng kế hoạch tiến độ, kế hoạch năng lực sản xuất.
Lập kế hoạch bố trí nhà xưởng, máy móc thiết bị.
Thiết lập các dự án cải tiến và các dự án khác.
Quyết định phương pháp sản xuất cho mỗi mặt hàng.
Tổ chức thay đổi các quá trình sản xuất.
Lập kế hoạch trang bị máy móc thiết bị.
Trong chức năng tổ chức
Ra quyết định của cơ cấu tổ chức của hệ thống sản xuất: tập trung hay phân tán, tổ chức theo sản phẩm, theo chức năng hoặc hỗn hợp.
Thiết kế nơi làm việc.
Phân công trách nhiệm cho mỗi hoạt động.
Sắp xếp người cung ứng và nhận thầu.
Thiết lập các chính sách để đảm bảo sự hoạt động bình thường của MMTB.
Trong chức năng kiểm soát
Thực hiện sự kích thích nhiệt tình trong việc thực hiện các mục tiêu.
So sánh chi phí với ngân sách.
So sánh việc thực hiện định mức lao động.
Kiểm tra chất lượng..
So sánh quá trình sản xuất với tiến độ.
So sánh tồn kho với mức hợp lí.
Trong chức năng lãnh đạo
Thiết lập các điều khoản hợp đồng thống nhất.
Thiết lập các chính sách nhân sự.
Thiết lập các hợp đồng lao động.
Thiết lập các chỉ dẫn và phân công công việc.
Chỉ ra các công việc cấn làm gấp.
Trong chức năng phối hợp
Thực hiện phối hợp qua các kế hoạch thống nhất.
Phối hợp qua các cơ sở dữ liệu được tiêu chuẩn hoá.
Theo dõi các công việc hiện tại và giới thiệu các công việc cần thiết.
Báo cáo, cung cấp tài liệu và truyền thông.
Phối hợp các hoạt động mua sắm, giao hàng, thay đổi thiết kế
Chịu trách nhiệm với khách hàng về tình trạng đơn hàng.
2.1.1.3 Nội dung cơ bản của QTSX
Theo quan niệm của Ngô Thị Thu Hồng (2007) cho rằng yếu tố đầu vào của doanh nghiệp bao gồm: Tài sản cố định (thuộc tài sản dài hạn) và tài sản ngắn hạn như nguyên vật liệu , hàng hoá, vật tư, tiền vốn) và các loại dịch vụ cùng với sức lao động. Các yếu tố này được kết hợp với nhau trong việc thực hiện nhiệm vụ kinh doanh của doanh nghiệp nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng, có sức cạnh tranh cao với chi phí hợp lý.
Quản trị các yếu tố đầu vào là quá trình tổng hợp các hoạt động kế hoạch hoá, tổ chức, kiểm tra, giám sát các yếu tố đầu vào, kết hợp các yếu tố này một cách khoa học nhất nhằm đạt kết quả kinh tế cao nhất. Điều đó có nghĩa là:
Đối với các yếu tố đầu vào là tài sản cố định cần có kế hoạch trang bị hợp lý, bảo quản tốt và sử dụng có hiệu quả. Đồng thời phải luôn luôn chú ý tới vấn đề đổi mới công nghệ, trang bị tài sản cố định hiện đại, phù hợp với tiến bộ khoa học kĩ thuật trong từng giai đoạn.
Đối với các yếu tố đầu vào là tài sản ngắn hạn như nguyên vật liệu, hàng hoá, vật tư, tiền vốn phải đảm bảo đầy đủ về số lượng, hợp lý về kết cấu và chất lượng tốt, đáp ứng kịp thời cho sản xuất kinh doanh, sử dụng tiết kiệm và nâng cao hiệu quả.
Đối với yếu tố đầu vào là sức lao động cần phải đảm bảo trình độ năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, bố trí sử dụng hợp lý, hiệu quả và nâng cao tinh thần trách nhiệm, chủ động sáng tạo trong sản xuất kinh doanh.
Quản trị các yếu tố đầu ra của doanh nghiệp bao gồm quản trị doanh thu và thu nhập khác. Các yếu tố này thể hiện chất lượng quản trị các yếu tố đầu vào và quá trình tổng hợp, phân tích các nhân tố ảnh hưởng từ bên ngoài đến hoạt động của doanh nghiệp.
Nội dung cơ bản của QTSX là hoạch định và kiểm soát hệ thống sản xuất. Các hoạt động của QTSX liên quan đến hai loại quyết định cơ bản là quyết định về thiết kế hệ thống sản xuất liên quan đến công suất, vị trí của doanh nghiệp, bố trí mặt bằng sản xuất, lựa chọn sản phẩm và công nghệ và các quyết định tác nghiệp của hệ thống liên quan đến nhân sự, tồn kho, điều độ sản xuất, quản lý dự án và kiểm soát chất lượng.
Dự báo nhu cầu sản phẩm
QTSX đặc biệt quan tâm đế việc sử dụng kết hợp các nguồn lực sẵn có của tổ chức để tạo ra sản phẩm dịch vụ. Dự báo nhu cầu về sản phẩm hay đưa ra những quyết định về sản phẩm dịch vụ nhằm định hướng cho hoạt động sản xuất trong tương lai. Việc dự báo nhu cầu sản phẩm không chỉ đưa ra mức sản lượng đối với hoạt động sản xuất trong tương lai mà hoạt động dự báo sản xuất bao gồm các nội dung liên quan đến các vấn đề lựa chọn sản phẩm dịch vụ, phát triển, đổi mới sản phẩm dịch vụ cho phù hợp với xu hướng phát triển chung của nền kinh tế cũng như xu hướng phát triển của doanh nghiệp. Mặt khác dự báo nhu cầu sản phẩm còn bao hàm cả việc thiết kế các sản phẩm như thế nào cho phù hợp với thị trường, tạo được lợi thế cạnh tranh so với đối tác. Do vậy công tác lập dự báo nhu cầu sản phẩm của đơn vị là một khâu rất quan trọng trong sản xuất kinh doanh là giai đoạn đầu tiên trong nhiệm vụ của nhà QTSX.
Quyết định về công suất, công nghệ và thiết bị
- Quyết định về công suất
Công suất là lượng sản phẩm tối đa do công nghệ mang lại trong một thời đoạn do đó quyết định về công suất là việc xác định năng lực của công nghệ vì vậy công tác đo lường năng suất đóng vai trò quan trọng giúp nhận biết hiệu quả tác nghiệp của tổ chức.
Năng suất được tính bằng tổng giá trị đầu ra (sản phẩm hoặc dịch vụ) được tạo ra từ quá trình đem chia cho tổng giá trị đầu vào (nguyên vật liệu, thiết bị, lao động).
- Quyết định về công nghệ
Công nghệ là tất cả những phương thức, những quá trình được sử dụng để chuyển hoá các nguồn lực thành sản phẩm, dịch vụ.
TS. Nguyễn Thành Độ (2004) cho rằng quản trị công nghệ trong doanh nghiệp là tổng hợp các hoạt động nghiên cứu và vận dụng các quy luật khoa học vào việc xác định và tổ chức thực hiện các mục tiêu và biện pháp kỹ thuật nhằm thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ, áp dụng công nghệ mới, đảm bảo quá trình sản xuất tiến hành với hiệu quả kinh doanh cao.
Quản trị công nghệ là một bộ phận quan trọng của công tác quản trị doanh nghiệp, là cơ sở của quản trị chiến lược và kế hoạch, sản xuất, lao động, vật tư và tài chính. Đặc điểm công nghệ, trình độ và trang thiết bị kỹ thuật SX là căn cứ để xây dựng hệ thống sản xuất, tiến hành chiến lược và kế hoạch hoá, tổ chức sản xuất, tổ chức lao động. Quản trị công nghệ tốt là cơ sở để thực hiện tốt các công tác định mức kinh tế - kỹ thuật, điều hành sản xuất cũng như thực hiện các hoạt động quản trị khác. Chỉ trên cơ sở quản trị công nghệ tốt mới có thể phát triển, sáng tạo và áp dụng công nghệ mới vào hoạt động sản xuất và quản trị. Chất lượng của công tác quản trị công nghệ ảnh hưởng trực tiếp tới việc bảo đảm và nâng cao chất lượng, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Quyết định về thiết bị
Quyết định về thiết bị là việc quyết định sử dụng những MMTB nào vào trong sản xuất. Việc lựa chọn MMTB luôn được tiến hành đồng thời với việc lựa chọn về công nghệ và công suất trên các tiêu chí lựa chọn là phù hợp với công nghệ, công suất đã lựa chọn, đảm bảo chất lượng sản phẩm theo yêu cầu và phải phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế chung, càng tiến bộ càng tốt.
Quyết định về vị trí xí nghiệp, bố trí mặt bằng
Khi thành lập doanh nghiệp mới cũng như trong quá trình sản xuất kinh doanh người ta luôn phải giải quyết vấn đề lựa chọn địa điểm xây dựng sao cho hợp lý, kinh tế. Địa điểm nói ở đây có thể là vị trí của các nhà máy, xí nghiệp, các kho tàng, phẩm xưởng, nhà xưởng, bến bãi.
Bố trí hệ thống sản xuất gồm hai vấn đề lớn là tìm vị trí xí nghiệp và bố trí hợp lý nội bộ xí nghiệp.
Bố trí nội bộ xí nghiệp là xây dựng vị trí hợp lý các bộ phận sản xuất, các quy trình chế biến, nơi làm việc, MMTB nhằm mục đích tránh tắc nghẽn sản xuất, giảm chi phí vận chuyển, nâng cao hiệu quả sử dụng không gian sản xuất, an toàn công nhân và các quá trình sản xuất.
Bố trí sản xuất có tầm quan trọng đặc biệt với công tác quản trị kinh doanh, trực tiếp ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động cũng như năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Phương án bố trí máy móc, thiết bị và lực lượng lao động như nào cho khoa học sẽ cho phép xây dựng dây truyền hợp lý, tận dụng mọi năng lực sản xuất, thích ứng nhanh chóng những thay đổi của môi trường. Điều đó tất yếu dẫn đến kết quả sản xuất trên một đơn vị thời gian tăng lên tối đa với chi phí thấp nhất.
Hoạch định tổng hợp
* Khái niệm
Theo TS. Trần Đắc Lộc (2008): Hoạch định tổng hợp là sự kết hợp mọi nguồn lực vào quá trình sản xuất kinh doanh một cách hợp lý nhằm cực tiểu hoá chi phí, đồng thời giảm tới mức thấp nhất sự biến động công việc và lượng tồn kho trong từng giai đoạn gia công sản phẩm. Để hoạch định tổng hợp NQT không những phải tiếp cận với những kết quả dự báo của bộ phận nghiên cứu thị trường mà NQT còn cần phải nắm vững mọi dữ liệu về các mặt tài chính, nhân sự, nguồn nguyên vật liệu... phục vụ cho quá trình gia công sản phẩm.
Hoạch định tổng hợp là phát triển các kế hoạch sản xuất trung hạn nhằm biến đổi mức sản xuất phù hợp với nhu cầu sản xuất và đạt hiệu quả kinh tế cao.
Đối tượng của hoạch định tổng hợp là sự biến đổi khả năng sản xuất, đó chính là khả năng của một hệ thống sản xuất cung cấp các sản phẩm hoạch dịch vụ cho thị trường. Nói chung, khả năng sản xuất của hệ thống sản xuất phụ thuộc vào các yếu tố:
- Khả năng sản xuất của nhà xưởng và MMTB.
- Khả năng sản xuất của lực lượng lao động.
- Khả năng làm thêm giờ.
- Khả năng hợp đồng gia công với bên ngoài.
- Khả năng sẵn sàng của nguyên vật liệu...
* Mục tiêu của hoạch định tổng hợp
Mục tiêu của hoạch định tổng hợp là phát triển các kế hoạch hiện thực và tối ưu. Tính hiện thực của kế hoạch tổng hợp là nhằm vào phục vụ các nhu cầu mà doanh nghiệp muốn phục vụ và phải có thể phục vụ được. Tính tối ưu là có thể sử dụng tốt nhất các nguồn lực. Thách thức quan trọng đối với hoạch định tổng hợp là nhu cầu luôn biến đổi dưới ảnh hưởng của nhiều yếu tố tác động.
Mối quan hệ giữa hoạch định tổng hợp với các yếu tố khác được thể hiện theo sơ đồ 2.3:
Sơ đồ 2.3 Hoạch định tổng hợp các yếu tố
Nguồn nhân lực
Tồn kho hiện có
Hoạch định tổng hợp
Năng lực MMTB
Nguồn nvl có thể cung cấp
* Yêu cầu của hoạch định tổng hợp
Để đáp ứng các nhu cầu biến đổi có thể sử dụng các chiến lược cơ bản:
- Chiến lược hấp thụ các dao động của nhu cầu bằng cách sử dụng các công cụ chủ yếu như hàng tồn kho, đặt hàng chậm, dịch chuyển cầu.
- Chiến lược biến đổi mức sản xuất với các công cụ làm thêm giờ, hợp đồng thuê ngoài, quyết định mua hay tự sản xuất.
- Chiến lược biến đổi lực lượng lao động làm giảm lao động bằng cách thuê thêm hay cho thôi việc phù hợp với mức sản xuất mong muốn.
* Cách tiếp cận của hoạch định tổng hợp
Một kế hoạch tổng hợp chính là việc phối trí việc sản xuất các sản phẩm, dịch vụ khác nhau trên cơ sở cùng sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp.
Có hai cách tiếp cận cơ bản để tổng hợp nhu cầu về mức SX của các mặt hàng, dịch vụ đó là cách tiếp cận kiểu quy nạp còn gọi là tiếp cận từ dưới lên (Bottom – up) và cách tiếp cận kiểu diễn giải còn gọi là tiếp cận từ trên xuống (Top – down).
Quản trị vật liệu
Quản trị vật liệu là một nhiệm vụ rất quan trọng nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất của doanh nghiệp thông suốt và hiệu quả. Dòng dịch chuyển vật liệu có thể chia làm ba giai đoạn:
- Giai đoạn đầu vào với các hoạt động cơ bản: đặt hàng, mua sắm, vận chuyển, tiếp nhận.
- Giai đoạn kiểm soát sản xuất với hoạt động tổ chức vận chuyển nội bộ, kiểm soát quá trình cung xem có phù hợp với tiến độ sản xuất không?
- Giai đoạn đầu ra bao gồm gửi hàng, tổ chức, xếp dỡ, vận chuyển, tiếp nhận hàng hoá, kiểm soát sản xuất, quản lí tồn kho, gửi hàng
Mục tiêu của các NQT là giữ lượng tồn kho thấp nhất mà vẫn đảm bảo cho hoạt động sản xuất liên tục và hiệu quả. Tuy nhiên một chính sách tồn kho tốt cũng trở nên vô nghĩa nếu như NQT không thể nắm được số lượng và từng loại hàng tồn kho hiện có của doanh nghiệp. Do đó sự chính xác trong ghi chép báo cáo là một yêu cầu quan trọng, nghiêm ngặt trong hệ thống sản xuất và tồn kho. Thực hiện tốt yêu cầu này sẽ giúp NQT thoát khỏi tình trạng hiểu biết một cách chung chung, mơ hồ về mọi hàng hóa tồn kho. Chỉ khi nào xác định một cách chính xác những gì mình có trong tay thì mới có những quyết định chính xác về đơn hàng, lịch tiến độ sản xuất và vận chuyển. Thực hiện kiểm soát các báo cáo về nguồn nhập và xuất hàng tồn kho đảm bảo việc lưu trữ tốt các báo cáo xuất nhập, thực hiện việc hình thành và bảo quản các kho dữ liệu về hàng tồn kho
Lập tiến độ và kiểm soát các hoạt động sản xuất
Kế hoạch tiến độ là các kế hoạch ngắn hạn mang tính chất tác nghiệp nhằm xác định cụ thể nhiệm vụ cho toàn xí nghiệp, cho từng bộ phận sản xuất trên cơ sở khai thác hiệu quả các nguồn lực của hệ thống sản xuất đáp ứng nhu cầu.
Kiểm soát sản xuất chính là việc kiểm tra, theo dõi thường xuyên hoạt động sản xuất so sánh với kế hoạch tìm ra các lệch lạc để kịp thời điều chỉnh bằng các biện pháp thích hợp.
Lập kế hoạch tiến độ và kiểm soát là làm cho các nguồn lực được sử dụng vào các hoạt động sản xuất phù hợp với kế hoạch hiện tại.
Có hai hướng kiểm soát là kiểm soát tiến trình sản xuất theo đơn đặt hàng và khả năng đáp ứng đơn hàng và kiểm soát theo quá trình sản xuất là kiểm soát việc kết hợp các yếu tố sản xuất trên từng nơi làm việc, từng bộ phận sản xuất và sự phối hợp giữa chúng tên cơ sở kế hoạch đặt ra.
- Lập kế hoạch tiến độ và kiểm soát sản xuất đối với sản xuất sản phẩm đơn chiếc.
Lập kế hoạch sản xuất và kiểm soát sản xuất trong sản xuất đơn chiếc phải căn cứ chủ yếu vào các đơn hàng. Song việc nhận các đơn hàng này lại phụ thuộc vào quá trình cạnh tranh, quá trình này có thể diễn ra trực tiếp trong giao dịch với khách hàng trước khi ký hợp đồng.
Doanh nghiệp cần thoả mãn cho khách hàng không chỉ bằng việc đáp ứng các nhu cầu sản phẩm trên phương diện quy cách mà còn bằng giá cả và bằng thời hạn. Mà tất cả điều này lại phải trả lời trên cơ sở hiểu biết về khả năng sản xuất hiện thời, các đơn hàng dở dang đang tiến hành. Phần lớn kế hoạch của sản xuất đơn chiếc phải được tiến hành trước khi doanh nghiệp biết chắc chắn là nó có giành được hợp đồng hay không. Nếu doanh nghiệp bỏ sót nhiều yếu tố trong tiến trình dự toán thì có thể có các hậu quả nghiêm trọng như dự toán không đúng các chi tiết, vật liệu và công việc theo yêu cầu của khách hàng thì giá sẽ thấp và dù doanh nghiệp nhận được hợp đồng cũng dễ bị lỗ hoặc khi hoạch định trước hợp đồng doanh nghiệp có thể bỏ sót những cơ hội áp dụng những phương pháp làm việc hiệu quả, dự toán cao hơn mức cần thiết và doanh nghiệp không nhận hợp đồng, bỏ lỡ cơ hội kinh doanh.
Đối với loại hình sản xuất sản phẩm đơn chiếc, doanh nghiệp thường sản xuất theo đơn đặt hàng và cạnh tranh trên cơ sở chi phí dự toán, thời hạn giao hàng và mức độ chất lượng để có thể nhận được các đơn hàng. Việc tính chính xác chi phí của một đơn hàng là cơ sở cho việc thương lượng giá cả với khách hàng. Quá trình dự toán trước khi ký hợp đồng được thể hiện theo sơ đồ 2.4
Sơ đồ 2.4 Dự toán trước hợp đồng
Yêu cầu kĩ thuật của đơn hàng
Quyết định mua hay tự SX
Giá cả và thời gian đặt hàng
Xác định các NVL và công việc cần thiết
Chi phí
Tổng cp chế biến và NVL
Xác định các chi tiết bộ phận cần thiết SX
Thời hạn để NVL và năng lực SX sẵn sàng
Dự đoán số giờ lao động cần thiết để chế biến các bộ phận, chi tiết
Thời hạn giao hàng
Thực hiện kế hoạch tiến độ
- Kiểm soát hoạt động sản xuất đối với sản xuất lặp lại
Hệ thống sản xuất lặp lại bao gồm loại hình sản xuất khối lượng lớn và sản xuất hàng loạt với những đặc điểm cơ bản có thể ảnh hưởng đến công tác lập kế hoạch tiến độ đó là sản xuất những sản phẩm tiêu chuẩn với khối lượng lớn. Đặc điểm này dẫn đến việc lập kế hoạch tiến độ đối với loại hình này không tập trung vào kiểm soát các đơn hàng mà tập trung vào kiểm soát quá trình sản xuất. Cụ thể nó tập trung vào việc xác định khối lượng sản xuất tại mỗi công đoạn sản xuất.
Quản trị doanh thu cần đảm bảo tốt về việc cung cấp đầy đủ số lượng, chất lượng, và kết cấu sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ thoả mãn nhu cầu thị hiếu về mẫu mã, quy cách phù hợp với tập quán tiêu dùng từng thời kỳ khác nhau trên các thị trường khác nhau.
Trong quá trình sản xuất, NQT phải xác định được chỉ tiêu quản trị cơ bản từ việc tổ chức lập kế hoạch, dự toán, kiểm tra, kiểm soát tình hình thực hiện các kế hoạch, dự toán đã đề ra nhằm đảm bảo mục tiêu cho quá trình sản xuất.
2.1.1.4 Thông tin KTQT với QTSX trong doanh nghiệp
Những vấn đề cơ bản về KTQT
Khái niệm:
Kế toán là một công cụ quản lý kinh tế tài chính nói chung và đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp. Việc thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về thu nhập, chi phí của doanh nghiệp là một yêu cầu của bộ phận kế toán tài chính. Tuy nhiên trong nền kinh tế trị trường hiện nay thì việc sống còn của các doanh nghiệp luôn đòi hỏi các doanh nghiệp phải quản lý các nguồn lực tốt hơn, giảm chi phí mà vẫn đảm bảo tốt hoạt động SX của doanh nghiệp. Để có thể tiết kiệm được chi phí thì yêu cầu quản lý phải ngày càng hoàn thiện và sâu sắc. Vì vậy các doanh nghiệp phải tổ chức hệ thống KTQT để xây dựng các dự toán, kiểm tra quá trình thực hiện để có biện pháp quản lý tốt hơn đồng thời đưa ra những nguồn thông ti._.n thích hợp giúp NQT có những quyết định sáng suốt.
Xuất phát điểm của KTQT là kế toán chi phí, nghiên cứu chủ yếu về quá trình tính toán giá phí sản phẩm như giá phí tiếp liệu, giá phí sản xuất nhằm đề ra các quyết định cho phù hợp, xác định giá trị hàng tồn kho và kết quả kinh doanh theo từng hoạt động. Dần dần cùng với sự phát triển của khoa học quản lý nói chung, khoa học kế toán cũng có những bước phát triển mạnh mẽ, đặc biệt từ năm 1957 trở lại đây, nhiều quốc gia có nền kinh tế phát triển thế giới đã đi sâu nghiên cứu, áp dụng và sử dụng những thông tin kế toán phục vụ cho yêu cầu quản lý. Sự phát triển mạnh mẽ của kế toán đã đặt ra hướng nghiên cứu các công cụ kiểm soát và lập kế hoạch, thu nhận và xử lý thông tin phục vụ cho việc ra quyết định gọi là KTQT.
Hiện nay tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau về KTQT:
Theo hiệp hội kế toán Hoa Kì năm 1982: KTQT là quy trình định dạng đo lường, tổng hợp, phân tích, lập báo biểu, giải trình, và thông đạt các số liệu tài chính và phi tài chính cho ban giám đốc để lập kế hoạch đánh giá, theo dõi việc thực hiện trong phạm vi nội bộ doanh nghiệp và để đảm bảo việc sử dụng có hiệu quả các tài sản và quản lý chặt chẽ các tài sản này.
Luật kế toán Việt Nam thì cho rằng: KTQT là việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán.
Với các quan điểm như trên có thể hiểu KTQT là khoa học thu thập, xử lí và cung cấp những thông tin định lượng về hoạt động của đơn vị một cách cụ thể, giúp các nhà quản lý trong quá trình ra các quyết định liên quan đến việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra, kiểm soát và đánh giá tình hình thực hiện các hoạt động của đơn vị.
Bản chất của KTQT:
KTQT là hệ thống kế toán thu thập, xử lý, phân tích thông tin phục vụ cho việc ra quyết định và vậy bản chất của KTQT:
+ KTQT không chỉ thu thập, xử lý, cung cấp thông tin về các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đã hoàn thành, đã ghi chép và hệ thống hoá trên các sổ sách kế toán mà còn cung cấp những thông tin để ra quyết định trong tương lai. Để có thông tin này KTQT phải có những phương pháp riêng và biểu diễn thông tin một cách dễ hiểu, phù hợp với yêu cầu của nhà quản lý.
+ KTQT cung cấp những thông tin về hoạt động kinh tế tài chính trong phạm vi quản trị nội bộ doanh nghiệp. Những thông tin này chỉ có ý nghĩa đối với những người, những bộ phận, những NQT doanh nghiệp.
+ KTQT là một bộ phận của công tác kế toán nói chung và là một công cụ quan trọng trong quản lý nội bộ doanh nghiệp.
Mục đích của KTQT:
KTQT là công cụ đắc lực phục vụ cho các nhà quản lý, là nguồn cung cấp các thông tin hữu ích liên quan đến việc ra quyết định sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy mục tiêu của KTQT là cung cấp thông tin cho việc ra quyết định sử dụng hợp lý, có hiệu quả các nguồn lực đầu vào của doanh nghiệp đồng thời tìm cách tối ưu hoá mối quan hệ giữa chi phí (đầu vào) với khối lượng, doanh thu (đầu ra) do chi phí đó tạo ra.
Nội dung của KTQT trong doanh nghiệp
Xuất phát từ những đặc thù về việc cung cấp thông tin của hệ thống KTQT vì vậy nó bao hàm rất nhiều nội dung. Để phản ánh nội dung KTQT sẽ xem xét trên hai phương diện:
- Về phương diện là một bộ phận kế toán:
+ KTQT cũng có đầy đủ các nội dung như kế toán tài chính tức là đối tượng của KTQT là tài sản, nguồn vốn và sự vận động của tài sản, nguồn vốn. Đặc biệt KTQT quan tâm sâu sắc mối quan hệ giữa chi phí, thu nhập và lợi nhuận để cung cấp thông tin cho việc đưa ra các quyết định kinh doanh.
+ KTQT cũng tuân thủ các phương pháp chung của kế toán trong đó quan tâm đặc biệt tới phương pháp phân bổ chi phí như thế nào cho hợp lí nhất, đồng thời tuân theo một số nguyên tắc có thể linh hoạt trong tính toán.
- Về phương diện cung cấp thông tin cho quản lý kinh doanh
Nội dung của KTQT là quá trình định lượng các thông tin kinh tế nhằm cung cấp thông tin hữu ích theo nhu cầu của từng nhà QT để ra quyết định kinh doanh. Quá trình định lượng chính là việc dùng các kỹ thuật tính toán để nghiên cứu các hoạt động, xây dựng mô hình và phân tích định lượng. Cơ sở chung của quá trình phân tích định lượng các thông tin kinh tế từ các thông tin kế toán. Với KTQT nội dung này bao gồm :
+ Phân tích chi phí một cách chi tiết cho từng hoạt động cụ thể, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, kiểm soát chi phí và tìm biện pháp quản lý chi phí có hiệu quả.
+ Kế toán kết quả và thu nhập cho từng hoạt động, từng địa điểm và gắn với trách nhiệm quản lý của từng bộ phận trong nội bộ doanh nghiệp.
+ Cung cấp các thông tin cho việc lập kế hoạch, dự toán theo yêu cầu của nhà quản lý.
Hệ thống báo cáo KTQT
Để phản ánh được những vấn đề trong thực tế SX kinh doanh cũng như cung cấp nguồn thông tin cho việc ra quyết định thì hệ thống BCQT có một vai trò vô cùng quan trọng. Báo cáo KTQT là một trong những công cụ đắc lực để cung cấp thông tin có tính chất định hướng để NQT có được các quyết định hiệu quả vì thông qua báo cáo KTQT sẽ phản ánh tình hình sản xuất và kết quả sản xuất kinh doanh chi tiết các mặt hàng, trên cơ sở những thông tin này NQT sẽ thấy được phương hướng điều chỉnh kết cấu mặt hàng kinh doanh tức là xác định được chỉ tiêu sản lượng kinh doanh của từng mặt hàng trong thời kì tiếp theo.
Chức năng chính của báo cáo KTQT là cung cấp thông tin hữu ích cho NQT trong công tác quản trị doanh nghiệp. Với chức năng hoạch định đòi hỏi các NQT phải xác định được mục đích, mục tiêu cần đạt được trong một khoảng thời gian xác định, ra quyết định lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu, xây dựng hệ thống kế hoạch định mức, dự toán theo phương án đã lựa chọn. Các quyết định ngắn hạn đều phải có thông tin thích đáng, tin cậy về kết quả kinh doanh được chi tiết theo nhiều hướng khác nhau. Nhu cầu thông tin cho NQT trong việc ra quyết định ngắn hạn là một trong những tiền đề cho việc hình thành báo cáo KTQT của các doanh nghiệp. Thực hiện chức năng kiểm soát thực chất là NQT đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra trong kế hoạch của từng bộ phận, từng cá nhân. Mục đích của công tác kiểm soát là tìm nguyên nhân chủ quan khách quan làm phát sinh chênh lệch giữa thực tế so với kế hoạch, dự toán, tiêu chuẩn từ đó NQT có các quyết định điều chỉnh kịp thời. Để thực hiện chức năng kiểm soát, NQT phải có hai loại tài liệu cơ bản đó là hệ thống số liệu dự toán, khách hàng, tiêu chuẩn và số liệu phản ánh tình hình thực hiện các chỉ tiêu của từng bộ phận cá nhân và toàn doanh nghiệp.
Như vậy nhu cầu thông tin của NQT trong việc thực hiện chức năng kiểm soát đòi hỏi phải có công cụ thu thập, xử lý, tổng hợp tình hình thực hiện các chỉ tiêu thuộc đối tượng kiểm soát và lượng hoá các nhân tố ảnh hưởng tới tình hình thực hiện các chỉ tiêu. Đây cũng là nguyên nhân dẫn tới sự ra đời báo cáo KTQT.
Thông tin KTQT và QTSX trong doanh nghiệp
Bất kì doanh nghiệp nào khi tiến hành SX kinh doanh để đạt được hiệu quả kinh doanh cao đều cần phải có một nguồn thông tin hữu ích được cung cấp từ hệ thống KTQT trong doanh nghiệp.
Sự ra đời của KTQT đã đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ trong việc nghiên cứu sử dụng hệ thống thông tin kế toán cho công tác quản trị kinh doanh nói chung và QTSX nói riêng.
Kế toán là khoa học thu nhận, xử lý, cung cấp thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách chi tiết, cụ thể phục vụ cho NQT doanh nghiệp trong việc lập dự toán, tổ chức thực hiện dự toán. KTQT không chỉ thu nhận, xử lý, cung cấp thông tin về nghiệp vụ kinh tế phát sinh đã thực sự hoàn thành mà còn có thông tin phục vụ việc lập dự toán nội bộ doanh nghiệp. Do đó KTQT là một bộ phận có vai trò quan trọng trong quản trị doanh nghiệp. Tại điểm 3, điều 4 Luật kế toán đã nêu rõ “KTQT là việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán”.
Vai trò KTQT đối với quản trị doanh nghiệp
Vai trò KTQT đối với quản trị doanh nghiệp thể hiện trên một số vấn đề cụ thể:
- Tổ chức thu thập thông tin quá khứ, phân tích và cung cấp thông tin này phục vụ cho việc lập dự toán. Thông tin quá khứ giúp NQT doanh nghiệp đánh giá hiệu quả kinh doanh của việc thực hiện các quyết định, đánh giá trình độ thực hiện dự toán, các chỉ tiêu trong quản trị hoạt động của doanh nghiệp. Từ các sự kiện, và các hoạt động kinh tế KTQT thu thập, phân tích ảnh hưởng, phân loại theo từng loại thông tin và tổng hợp để báo cáo theo yêu cầu quản lý. Quá trình này giúp NQT nắm bắt được những vấn đề còn tồn tại nhằm thiết lập các dự toán mới phù hợp hơn.
Tổ chức thu thập thông tin hiện tại. Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh của từng bộ phận của doanh nghiệp được thể hiện trên các chứng từ kế toán hợp lệ là cơ sở ghi chép trên các tài khoản kế toán và báo cáo tài chính. KTQT sử dụng các phương pháp khoa học để chi tiết hoá, cụ thể hoá, tính toán, phân bổ các chi phí theo tiêu thức thích hợp nhằm cung cấp thông tin theo yêu cầu quản lý một cách cụ thể bằng các báo cáo KTQT. Từ các số liệu thực tế thu nhận được, tiến hành so sánh giữa thực tế với dự toán để xác định mức độ thực hiện, xem xét nguyên nhân tồn tại và đưa ra biện pháp quản lý tốt hơn.
Tổ chức thu thập thông tin tương lai. Thông tin tương lai có ý nghĩa quan trọng trong tổ chức điều hành của NQT doanh nghiệp. Đó là những dự đoán trên cơ sở phân tích khoa học các thông tin trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, những nhân tố ảnh hưởng của thị trường và của bản thân doanh nghiệp để dự đoán những chỉ tiêu cần thiết theo yêu cầu QT doanh nghiệp.
Xử lý, phân tích, cung cấp thông tin giúp NQT ra quyết định tối ưu đồng thời có cơ sở để điều chỉnh cách thức quản lý phù hợp với mục tiêu đề ra trên cơ sở thông tin thu nhận bởi hệ thống phương pháp KTQT.
Chức năng của các NQT là lập kế hoạch, tổ chức điều hành, kiểm tra đánh giá và ra quyết định. Thông tin hữu ích rất cần thiết và không thể thiếu trong điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động quản trị của doanh nghiệp. Trong nội bộ doanh nghiệp thông tin kế toán hữu ích là những thông tin đáp ứng các yêu cầu của các NQT trong việc lập kế hoạch kiểm soát và ra các quyết định giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu đã đề ra. Thông tin hữu ích cho NQT phải do KTQT cung cấp thông qua hệ thống báo cáo KTQT. NQT chỉ có thể điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả khi có đầy đủ thông tin kế toán hữu ích được phản hồi từ hoạt động của doanh nghiệp.
Vai trò và ý nghĩa của thông tin KTQT đối với QTSX
Cung cấp thông tin cho quá trình xây dựng kế hoạch
Lập kế hoạch là xây dựng các mục tiêu phải đạt và vạch ra các bước thực hiện để đạt được các mục tiêu đó. Các kế hoạch này có thể là kế hoạch dài hạn hoặc kế hoạch ngắn hạn. Kế hoạch mà NQT phải lập thường dưới hình thức dự toán. Dự toán là sự liên kết các mục tiêu lại với nhau và chỉ rõ cách huy động và xây dựng những nguồn lực sẵn có về mặt tài chính để đạt được mục tiêu đó. Để chức năng lập kế hoạch và dự toán của quản lý được thực hiện tốt, có tính hiệu lực, hiệu quả và khả thi cao thì chúng phải dựa trên những thông tin hợp lý và cơ sở, những thông tin này chủ yếu do KTQT cung cấp.
Cung cấp thông tin cho quá trình tổ chức thực hiện
Với chức năng tổ chức thực hiện NQT phải biết cách liên kết tốt nhất giữa tổ chức con người với các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp lại với nhau để đạt mục tiêu đã đề ra sẽ được thực hiện với kết quả cao nhất. Để làm tốt chức năng này, NQT cũng có nhu cầu về thông tin KTQT, KTQT sẽ cung cấp thông tin cho các tình huống khác nhau của các phương án khác nhau để NQT có thể xem xét để ra quyết định đúng đắn trong quá trình tổ chức, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp với mục tiêu chung.
Cung cấp thông tin cho quá trình kiểm tra, đánh giá
NQT sau khi đã triển khai thực hiện kế hoạch thì bước tiếp theo là phải kiểm tra đánh giá quá trình thực hiện đó. Phương pháp kiểm tra và đánh giá thường là phương pháp so sánh. Theo phương pháp này tất cả số liệu thực hiện được so sánh với kế hoạch hoặc dự toán để từ đó phát hiện những sai lệch giữa kết quả đạt được với mục tiêu đã đề ra. Để làm được điều này NQT cần được kế toán cung cấp các báo cáo thực hiện để đánh giá, có tác dụng như bước phản hồi giúp NQT nhận diện ra những vấn đề còn tồn tại cần có tác động của quản lý.
KTQT sử dụng các báo cáo đó để kiểm tra đánh giá trong các lĩnh vực trách nhiệm của mình để có thể điều chỉnh kịp thời nhằm đạt các mục tiêu đề ra. Kiểm tra và đánh giá là hai chức năng liên quan chặt chẽ với nhau. Các NQT thường đánh giá từng phần trong phần trong phạm vi họ được phân quyền kiểm soát. NQT cấp cao hơn không trực tiếp tham gia vào quá trình hoạt động hàng ngày, mà đánh giá dựa vào các kết quả báo cáo thực hiện của từng bộ phận do KTQT cung cấp.
Cung cấp thông tin cho quá trình ra quyết định
Với chức năng quyết định đòi hỏi NQT phải có sự lựa chọn hợp lý trong nhiều phương án đặt ra. Ra quyết định tự thân nó không phải là một chức năng riêng biệt mà là sự kết hợp cả trong ba chức năng lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra và đánh giá, tất cả đều phải có quy định được đề ra. Do đó phần lớn thông tin do KTQT cung cấp phục vụ chức năng ra quyết định. Đó là một chức năng quan trọng, xuyên suốt quá trình quản trị doanh nghiệp, từ khâu lập kế hoạch, tổ chức thực hiện cho đến khâu kiểm tra và đánh giá. Chức năng ra quyết định được thực thi trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp. KTQT cung cấp thông tin theo nhu cầu QT theo hướng cung cấp thông tin cho các chức năng quản lý.
Phương pháp lập dự toán sản xuất kinh doanh nhằm cung cấp thông tin để lập kế hoạch, bao gồm dự toán vốn ngắn hạn và dự toán vốn dài hạn.
Phương pháp xác định chi phí và kiểm soát chi phí sản xuất nhằm cung cấp thông cho quá trình kiểm tra và đánh giá biến động chi phí sản phẩm.
Phương pháp tổ chức, kiểm tra và đánh giá thực hiện quản lý bộ phận, bao gồm đánh giá trách nhiệm của bộ phận quản trị các cấp khác nhau và phân tích đánh giá báo cáo bộ phận của doanh nghiệp nhằm lựa chọn và ra các phương án tối ưu để đưa ra các quyết định kinh doanh.
2.1.2 Tổng hợp và đánh giá các nghiên cứu có liên quan trước đây
2.2 Phương pháp nghiên cứu
2.2.1 Phương pháp thu thập số liệu và tài liệu
Trong báo cáo phần tài liệu chủ yếu được thu thập trên sách, báo tại thư viện Khoa Kinh tế và Phát triển Nông thôn, Thư viện mở Trường ĐH Nông nghiệp và Thư viện Quốc gia Hà Nội. Ngoài ra còn tham khảo trên một số thông tin trên internet.
Thông tin về Xí nghiệp may Đại Đồng chủ yếu là do quan sát và trao đổi với một số cán bộ, công nhân viên tại Xí nghiệp chủ yếu là nhân viên phòng kế toán và giám đốc sản xuất.
Phần số liệu chủ yếu được thu thập từ tài liệu tại các phòng như phòng tổ chức hành chính và phòng kế toán, bộ phận kho của Xí nghiệp..
3.2.2 Phương pháp xử lí số liệu
Số liệu khi thu thập chủ yếu là số liệu sơ cấp và rời rạc vì vậy trong luận văn đã sử dụng các phương pháp thống kê và sắp xếp số liệu theo dãy số thời gian để thấy xu hướng phát triển trong tương lai. Cụ thể số liệu được sắp xếp từ năm 2006 – 2008.
Số liệu chủ yếu được được tính toán và so sánh trên phần mềm Excel.
3.2.3 Phương pháp phân tích
- Phương pháp so sánh: Đây là phương pháp được sử dụng để so sánh các chỉ tiêu có cùng nội dung, chủ yếu là so sách về thời gian qua các năm để thấy sự biến động của số liệu. Trong luận văn phương pháp được sử dụng để so sánh biến động về lao động, về tài sản và nguồn vốn
Công thức tổng quát của phương pháp so sánh đã sử dụng:
X = Xn – Xn-1
Trong đó X là giá trị so sánh giữa năm n so với năm n-1
Xn : giá trị năm n
Xn-1 : giá trị năm n-1
- Phương pháp chọn mẫu: Trong một khoảng thời gian có thể có rất nhiều các hoạt động phát sinh. Cụ thể tại xí nghiệp may Đại Đồng – Công ty cổ phần Nam Sông Cầu trong một khoảng thời gian không chỉ SX một mã hàng mà tiến hành SX một số tại cùng một thời điểm tuy nhiên trong báo cáo chỉ tiến hành chọn mẫu trong một thời gian với một mã hàng cụ thể.
- Phương pháp phân tích tài chính: Để đánh giá kết quả kinh doanh tại xí nghiệp may Đại Đồng – Công ty cổ phần Nam Sông Cầu đã được phân tích theo một số chỉ tiêu tài chính để thấy được hiện trạng tại xí nghiệp là như thế nào. Các chỉ tiêu phân tích được dùng
+ Tỷ suất lợi nhuận (LN) so với doanh thu (DT)
Chỉ tiêu này cho biết với một đồng doanh thu thu được thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận
Công thức tính
Tỷ suất lợi nhuận so với doanh thu =
LNT: Lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
DTT: Doanh thu thuần từ hoạt động kinh doanh
+ Tỷ suất lợi nhuận so với vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này phản ánh khi bỏ ra một đồng vốn chủ sở hữu sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận
Công thức tính:
Tỷ suất lợi nhuận so với vốn chủ sở hữu =
VCSH: Vốn chủ sở hữu
+ Lợi nhuận trước thuế so với doanh thu thuần
Công thức tính
Lợi nhuận trước thuế so với doanh thu thuần =
LLtt: Lợi nhuận trước thuế
LLtt = Lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh + Lợi nhuận từ hoạt động tài chính
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1 Giới thiệu chung về xí nghiệp may Đại Đồng
3.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Ngày 02 tháng 4 năm 2002 Công ty Cổ phần Nam Sông Cầu chính thức được thành lập lại theo Quyết định số 1403/QĐ của UBND tỉnh Bắc Ninh cấp ngày 07/12/2001. Tiền thân của công ty cổ phần Nam sông Cầu là Xí nghiệp Cơ khí Đáp Cầu được thành lập từ năm 1978. Cùng với xu thế phát triển của nền kinh tế đã tiến hành cổ phần hoá và đổi tên thành Công ty Cổ phần Nam Sông Cầu.
Công ty Cổ phần Nam Sông Cầu có giấy phép đăng kí kinh doanh số 2103000015 do Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bắc Ninh cấp ngày 2 tháng 04 năm 2002. Mã số thuế của đơn vị là : 2300224967.
Hiện tại Công ty cổ phần Nam sông Cầu có trụ sở tại Đường Bà Chúa Kho- Cổ Mễ - Vũ Ninh - Thành phố Bắc Ninh - Tỉnh Bắc Ninh. Điện thoại: 0241821265, fax: 0241871137. Yếu tố vị trí này đã tạo ra những lợi thế nhất định cho Công ty trong việc giao lưu hợp tác với các đơn vị kinh tế trong và ngoài tỉnh.
Tháng 4 năm 2003 Công ty chính thức kí hợp đồng với hãng DOONG và chính thức thành lập Xí nghiệp may Đại Đồng chuyên gia công các sản phẩm may mặc cho khách hàng nước ngoài.
Tháng 6 năm 2003, Xí nghiệp đã giao chuyến hàng đầu tiên đảm bảo chất lượng, đúng thời gian như đã kí kết với hãng DOONG và từ đây Xí nghiệp đã từng bước có được niềm tin trên thị trường gia công may mặc. Xí nghiệp đã và đang hoàn thành rất nhiều hợp đồng gia công các mặt hàng may mặc như áo jacket, áo thun, áo sơ mi... giải quyết việc làm cho hàng trăm công nhân trong Xí nghiệp.
3.1.2 Đặc điểm sản xuất kinh doanh
Xí nghiệp may Đại Đồng chuyên tiến hành gia công theo các hợp đồng gia công quần áo may sẵn cho các bạn hàng nước ngoài và cung cấp dịch vụ tổng hợp xuất khẩu các lô hàng đó cho các bạn hàng.
Hoạt động gia công tại Xí nghiệp đặt ra những yêu cầu trong sản xuất phải đảm bảo yếu tố chất lượng và thời gian hoàn thành đơn hàng như thỏa thuận. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường hiện nay, trước những yêu cầu khe khắt về mẫu mã và chất lượng sản phẩm ngày càng cao đã đòi hỏi nhà quản lý trong Xí nghiệp phải luôn đưa ra những quyết định kịp thời tránh được những tổn thất do việc không thực hiện đúng hợp đồng gây ra. Những quyết định này chỉ có thể thực hiện tốt nếu được cung cấp những nguồn thông tin cụ thể, chính xác của bộ phận kế toán đặc biệt là nguồn thông tin từ bộ phận KTQT trong xí nghiệp.
3.1.3 Tổ chức bộ máy quản lý
Bộ máy quản lý là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của bất kì một đơn vị SX kinh doanh nào. Vì vậy việc tổ chức được một bộ máy quản lý vừa gọn nhẹ vừa hiệu quả là mục tiêu của các doanh nghiệp. Cũng với mục tiêu như vậy, Xí nghiệp may Đại Đồng – Công ty Cổ phần Nam Sông Cầu được tổ chức như sau theo sơ đồ 3.1 (Trang 28).
- Giám đốc công ty là người quản lý cao nhất của Công ty, điều hành mọi hoạt động SX kinh doanh và là đại diện pháp nhân,chịu mọi trách nhiệm của Công ty Cổ phần Nam Sông Cầu với nhà nước.
- Giám đốc xí nghiệp là người có quyền cao nhất trong quản lý và điều hành toàn bộ hoạt động SX kinh doanh chịu trách nhiệm về kết quả SX kinh doanh của Xí nghiệp may Đại Đồng. Giám đốc xí nghiệp đồng thời là giám đốc sản xuất của Xí nghiệp.
- Phòng hành chính là phòng thực hiện chức năng tham mưu giúp giám đốc trong công tác tổ chức bộ máy, công tác nhân sự, quản lý cán bộ và người lao động, giải quyết các chế độ chính sách và quyền lợi, công tác đời sống cho người lao động theo quy định của nhà nước.
- Phòng kế toán có chức năng quản lý tài chính và giám sát mọi hoạt động linh tế tài chính trong Xí nghiệp, tổ chức, chỉ đạo thực hiện toàn bộ công tác kế toán tại Xí nghiệp.
- Phòng kĩ thuật là bộ phận có nhiệm vụ triển khai giác mẫu theo mẫu của khách hàng, kiểm tra chủng loại, màu sắc, chất liệu vải, phụ liệu khác kèm theo mỗi khi có kế hoạch SX của các hợp đồng gia công.
- Phòng kinh doanh có nhiệm vụ tìm kiếm mở rộng thị trường, giải quyết toàn bộ các vấn đề liên quan đến hợp đồng với khách hàng, thực hiện chọn lọc các thông tin về khách hàng, cách thức mua hàng và nhập khẩu, phương thức thanh toán, giao hàng xuất khẩu. Đồng thời phòng kinh doanh có nhiệm vụ nghiên cứu, tìm hiểu về những mẫu mã, sản phẩm mới, khai thác thị trường.
- Phòng KCS có nhiệm vụ kiểm tra chất lượng từ khâu nhập nguyên, phụ liệu đầu vào cho đến khi sản phẩm hoàn thành, đóng gói, nhập kho và giao cho khách hàng.
- Các phân xưởng có nhiệm vụ đảm bảo hoạt động SX thông suốt, liên tục đáp ứng được thời gian giao hàng theo hợp đồng đã kí kết
Hội đồng quản trị
Giám đốc Công ty
Giám đốc Xí nghiệp
Phân xưởng II
Phân xưởng I
Phòng KCS
Phòng tổ chức hành chính
Phòng kế toán
Phòng kinh doanh
Phòng kĩ thuật
Sơ đồ 3.1 Tổ chức bộ máy quản lí tại Công ty
3.1.4 Tổ chức bộ máy kế toán
Bộ máy kế toán của Xí nghiệp được tổ chức theo sơ đồ 3.2 (Trang 29)
Kế toán trưởng
Thủ quỹ
Kế toán tiền
Kế toán giá thành
Kế toán vật tư
Kế toán lương
Kế toán XNK
Sơ đồ 3.2 Tổ chức bộ máy kế toán
Bộ máy kế toán trong Xí nghiệp được tổ chức theo mô hình kết hợp giữa KTQT và KTTC. KTTC sử dụng các tài khoản kế toán tổng hợp, hệ thống báo cáo tài chính theo quy định của Bộ tài chính. KTQT đi sâu vào tài khoản chi tiết, sử dụng báo cáo KTQT cung cấp thông tin theo từng bộ phận, từng tình huống ra quyết định và được linh hoạt theo yêu cầu quản lý. Cụ thể KTQT thực hiện việc xây dựng kế hoạch tổ chức chỉ đạo tìm kiếm và đảm bảo được yếu tố đầu vào theo phân cấp của công ty kịp thời và hiệu quả cao. KTQT có nhiệm vụ tổng hợp những thông tin về từng mã hàng, số lượng, ngày giao hàng, yêu cầu về chất lượng để có kế hoạch chi tiết cho các bộ phận liên quan, xem xét giá thành sản phẩm theo từng mã hàng của các đơn hàng, xây dựng chiến lược kinh doanh và nhập khẩu phù hợp với định hướng phát triển sản xuất kinh doanh. KTQT căn cứ vào điều kiện cụ thể và khả năng thực có để có nhiệm vụ xây dựng các kế hoạch dài hạn, phê duyệt kế hoạch xuất khẩu sản phẩm và nhập khẩu các yếu tố sản xuất phù hợp với kế hoạch sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp. Nguồn thông tin do KTQT thu thập và đánh giá sẽ làm căn cứ để Xí nghiệp tổ chức sản xuất và kí kết hợp đồng.
Tại Xí nghiệp, toàn bộ công tác kế toán được tập trung ở phòng kế toán. Tại các phân xưởng sảm xuất kế toán không trực tiếp theo dõi mà chỉ có các nhân viên thống kê theo dõi tình hình sản xuất và báo cáo trực tiếp cho các kế toán phụ trách các phần hành. Các nhân viên kế toán này sẽ có nhiệm vụ tổng hợp tình hình sản xuất cụ thể cho từng mã hàng, cho từng đơn hàng.
Các nhân viên kế toán trong phòng kế toán có các nhiệm vụ như sau:
- Kế toán trưởng : Là người có trách nhiệm cao nhất về mọi hoạt động tài chính, kinh tế tại Xí nghiệp và là người điều hành bộ máy kế toán ở Công ty. Kế toán trưởng có nhiệm vụ kiểm tra một cách tổng hợp tài liệu mà kế toán phần hành chuyển lên đồng thời lập báo cáo tài chính theo quy định của Bộ tài chính. Kế toán trưởng là người căn cứ vào tình hình cụ thể của xí nghiệp thông qua các báo cáo KTQT để kết hợp với phòng kinh doanh cũng như nhà quản lý về kế hoạch kinh doanh của đơn vị. Vì vậy kế toán trưởng tại Xí nghiệp không chỉ có nhiệm vụ lập BCTC theo mẫu biểu của nhà nước mà còn căn cứ vào tình hình cụ thể tham mưu cho giám đốc đưa ra những quyết định đúng đắn trong sản xuất kinh doanh của đơn vị.
- Thủ quỹ: Phụ trách tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và theo dõi công nợ với ngân hàng, phụ trách quản lý các khoản chi tiêu trong công ty cũng như các khoản thanh toán, các khoản tạm ứng của các cán bộ công nhân viên trong Xí nghiệp và toàn Công ty.
- Kế toán vật tư, giá thành: Đảm nhận vai trò lập dự toán đơn giá nguyên phụ liệu trên cơ sở thông tin kĩ thuật từ phòng chế tác mẫu, xác định chi phí về nguyên vật liệu, chi phí sản xuất chung trước khi sản phẩm đưa vào sản xuất, tổng hợp giá thành sản phẩm khi sản phẩm hoàn thành.
- Kế toán lao động tiền lương: Phụ trách xác định đơn giá tiền công cho từng khâu công việc của từng sản phẩm, lập dự toán chi phí về nhân công và theo dõi tình hình thực tế về nhân sự tại xí nghiệp. Mặt khác có nhiệm vụ tổng hợp số liệu, lập bảng thanh toán lương toàn xí nghiệp.
3.1.5 Tình hình cơ bản của xí nghiệp may Đại Đồng
3.1.5.1 Tình hình lao động tại Xí nghiệp
Ở bất kì ngành kinh tế nào, đặc biệt là trong ngành công nghiệp may mặc thì nhân tố con người có vai trò quyết định trong suốt quá trình phát triển, là nguồn lực không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy việc phân bổ và sử dụng nguồn nhân lực một cách đầy đủ và hợp lý là một nguyên tắc cơ bản trong kinh doanh. Xuất phát từ vai trò này Xí nghiệp muốn đạt hiệu quả trong sản xuất kinh doanh thì đòi hỏi đội ngũ cán bộ công nhân viên phải có kiến thức, trình độ chuyên môn và có tinh thần trách nhiệm. Điều này đặt ra yêu cầu cao đối với người lãnh đạo phải tổ chức, bố trí nguồn nhân lực sao cho có hiệu quả nhất. Tình hình lao động của Xí nghiệp được thể hiện qua Bảng 3.1 (Trang 33)
Qua bảng 3.1 cho thấy tỷ lệ lao động tăng trong năm 2007 so với tổng số lao động có trong năm 2006 là 13,49%. Năm 2008 tăng so với năm 2007 là 17,62%. Nhưng nếu lấy gốc là lượng lao động năm 2006 ta thấy tốc độ tăng lao động năm 2008 thấp hơn so với năm 2007. Điều này được thể hiện qua biểu đồ sau
Qua đó ta thấy rằng tổng số lao động tại Xí nghiệp có xu hướng tăng qua ba năm, tuy nhiên tốc độ tăng của lao động là không đáng kể. Trong cơ cấu tăng của lao động thì chủ yếu là lao động kĩ thuật trực tiếp tham gia vào quá trình SX, lao động gián tiếp tăng không nhiều. Năm 2008 so với năm 2007 bộ phận lao động này không có sự biến đổi lớn, chỉ tăng lên 2 người. Điều này là do sự ổn định trong bộ máy quản lý tại Xí nghiệp, hơn nữa trong ba năm nghiên cứu lượng đơn đặt hàng với khách luôn giữ ở mức ổn định.
Bảng 3.1 Tình hình lao động của Xí nghiệp qua 3 năm
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
So sánh
Năm 2006
Cơ cấu
Số lượng
Cơ cấu
Số lượng
Cơ cấu
2007/2006
2008/2007
Đơn vị tính
Người
%
Người
%
Người
%
Số tuyệt đối
(%)
Số tuyệt đối
(%)
Tổng số lao động
215
100
244
100
287
100
29
113,49
43
117,62
1. Theo tính chất công việc
- Lao động trực tiếp
197
91,63
221
90,57
262
91,29
24
112,18
41
118,55
- Lao động gián tiếp
18
8,37
23
9,43
25
8,71
5
127,78
2
108,70
2. Theo trình độ
- Đại học
5
2,33
6
2,46
6
2,09
1
120,00
0
100,00
- Cao đẳng
7
3,26
8
3,28
10
3,48
1
114,29
2
125,00
- Trung cấp
4
1,86
7
2,87
7
2,44
3
175,00
0
100,00
- Kỹ thuật
199
92,55
223
91,39
264
91,99
24
112,06
41
118,39
(Nguồn: phòng Tổ chức hành chính)
Với sự ổn định trong bộ máy quản lý đã góp phần tiết kiệm chi phí giúp Xí nghiệp tăng khả năng cạnh tranh trong quá trình hoạt động. Tuy nhiên để hoạt động kinh doanh có thể mở rộng thêm thì Xí nghiệp cần tiếp tục tăng cường đầu tư thêm nguồn lực con người, không chỉ tăng về số lượng mà còn nâng cao chất lượng của cán bộ công nhân viên thông qua việc tổ chức những khoá đào tạo để nâng cao tay nghề của người lao động đồng thời tăng hiệu quả trong sản xuất.
3.1.5.2 Tình hình tài sản và nguồn vốn tại Xí nghiệp.
Vốn và tài sản là nguồn sống của một doanh nghiệp. Do đó việc quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn, mở rộng nguồn vốn là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Xí nghiệp.
Với đặc điểm sản xuất là gia công các sản phẩm may mặc cho bạn hàng nước ngoài, toàn bộ nguyên vật liệu chính tham gia vào quá trình sản xuất nên nguồn vốn phục vụ cho việc mua sắm nguyên vật liệu của Xí nghiệp hầu như không có. Vốn tại Xí nghiệp chủ yếu đầu tư vào trang thiết bị máy móc và đầu tư vào nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Tình hình tài sản nguồn vốn của Xí nghiệp được thể hiện qua Bảng 3.2 (Trang 35).
Qua bảng 3.2 ta thấy tổng giá trị tài sản của Xí nghiệp tăng lên đáng kể qua 3 năm. Từ năm 2006 tới năm 2007 tổng tài sản tăng 423.453.140 đồng tương ứng với tăng 10.18 %. Trong đó tài sản ngắn hạn tăng từ 1.667.130.100 lên 2.195.431.840 đồng tức là tăng lên 528.301.740 tương ứng với 31.69 %, tuy nhiên giá trị tài sản cố định năm 2007 tại Xí nghiệp giảm đi 104.848.600 đồng. Tổng tài sản năm 2008 tăng 1.024.075.400 tương ứng với 22.34 % so với năm 2007. Điều này thể hiện quy mô về tài sản của xí nghiệp đang ngày càng mở rộng và phát triển phát triển. Theo số liệu trong bảng ta thấy tài sản ngắn hạn ngày càng tăng lên một cách đáng kể, năm 2007 so với năm 2006 là 31.69 %, năm 2008 tăng 904.577.664 đồng tương ứng với 41,2 %. Với việc tăng cường giá trị tài sản ngắn hạn như trên là do Xí nghiệp đang tăng cường khả năng thanh toán ngay và các hoạt động cho vay ngắn hạn.
Bảng 3.2 Tình hình tài sản và nguồn vốn của xí nghiệp Đại Đồng qua 3 năm
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
So sánh ( %)
Giá trị
Cơ cấu
Giá trị
Cơ cấu
Giá trị
Cơ cấu
2007/2006
2008/2007
Đơn vị tính
Đồng
%
Đồng
%
Đồng
%
Số tuyệt đối
( %)
Số tuyệt đối
(%)
Tài sản
4.160.531.944
100,00
4.583.985.084
100,00
5.608.060.484
100,00
423.453.140
110,18
1.024.075.400
122,34
Tài sản ngắn hạn
1.667.130.100
40,07
2.195.431.840
47,89
3.100.009._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BCTN.doc