BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHẠM THỊ HỮU KIỀU
ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP PCR (POLYMERASE
CHAIN REACTION) VÀ PHƯƠNG PHÁP NUÔI CẤY ĐỂ
KHẢO SÁT SỰ NHIỄM VI SINH VẬT GÂY BỆNH
TRONG THỰC PHẨM ĐƯỜNG PHỐ
Chuyên ngành : Vi sinh vật học
Mã số : 60 42 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN LINH THƯỚC
Thành Phố Hồ Chí Minh - 2007
LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng và chân thành, em xin cảm ơn:
Quý Thầy, Cô Khoa Sinh
84 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2618 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Ứng dụng phương pháp PCR (Polymerase chain reaction) và phương pháp nuôi cấy để khảo sát sự nhiễm vi sinh vật gây bệnh trong thực phẩm đường phố, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường Đại Học Sư Phạm TP. HCM đã cung
cấp cho em những kiến thức quý báu trong cả khóa học, dặc biệt là TS. Trần
Thanh Thủy và TS. Trần Thị Thanh đã tận tình giúp đỡ, chỉ dẫn, động viên em
trong suốt quá trình học tập.
Em xin chân thành cảm ơn Thầy PGS.TS. Trần Linh Thước đã luôn tận
tâm hướng dẫn và tạo mọi điều kiện để em hoàn thành tốt luận văn này.
Xin cảm ơn các bạn Nhân, Linh, Vân, Dung, Na, Ánh và tất cả các thành
viên của Lab A, đặc biệt là Ths. Nguyễn Thị Bạch Huệ, đang công tác tại Phòng
Thí Nghiệm Công Nghệ Sinh học Phân tử, Trung tâm Khoa học và Công nghệ
Sinh họcTrường ĐHKHTN, ĐHQG TP. HCM, đã hết lòng giúp đỡ tôi trong
suốt thời gian thực nghiệm.
Xin cảm ơn các bạn lớp cao học K.15 - VSV và các thành viên Cao học
khóa 15 đã cùng gắn bó với tôi.
Cảm ơn Anh! Người đã luôn sát cánh và ở cạnh tôi.
Lời cảm ơn cuối cùng, con xin gởi đến tất cả “Ba Mẹ” và đại gia đình thân
yêu của con đã luôn yêu thương, đùm bọc con, là điểm tựa vững chắc và niềm
tin của con trong suốt cuộc đời.
TP. HCM, nam 2007
Phạm Thị Hữu Kiều
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AC : Relative Accuracy (Độ chính xác tương đối)
AOAC : Association of Official Analytical Chemists
ATP : Adenosine triphosphat
bp : base pair (cặp base)
BPW : Buffer Pepton Water (đệm pepton)
cAMP : cyclic Adenosine Monophosphate
cGMP : cyclic Guanosine Monophosphate
DNA : Deoxyribose nucleic acid
dNTP : deoxynucleotide triphosphate
EDTA : Ethylene Diamine Tetra Acetic acid
ELISA : Enzyme - Linked Immuno Sorbent Assay
(Phương pháp hấp thụ miễn dịch gắn enzyme)
FN : False Negative (âm tính giả)
NC : nuôi cấy
FP : False Positive (dương tính giả)
HUS : Haemolytic-Uraemic Syndrome (hội chứng tan huyết)
LDC : Lysine Decarboxylase
MMC : Microbiological Methods Committee
MR : Methyl Red
MYP : Mannitol - Egg York - Polymycin
NordVal : Nordic System for Validation of Alternative
PCR : Polymerase Chain Reaction
SE : Relative Sensitivity (Độ nhạy tương đối)
SP : Relative Specificity (Độ đặc hiệu tương đối)
TAE : Tris-Acetate-EDTA
TE : Tris-Acetate-EDTA
TSB : Tryptone Soya Broth
TSI : Triple Sugar Iron Agar
VP : Voges - Proskauer
WHO : World Health Organization
XLD : Xylose Lysine Desoxycholate
ISO : International Standards Organization
EDTA : Ethylene Diamine Tetraacetic Acid
DANH MUÏC CAÙC BAÛNG
Bảng 1.1. Triệu chứng của ngộ độc thực phẩm do một số vi khuẩn ...........8
Bảng 1.2. Tình hình ngộ độc thực phẩm tại Việt Nam năm 2005 và năm 2006
........................................................................................................9
Bảng 1.3. Nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm tại Việt Nam năm 2005 và
năm 2006 .....................................................................................10
Bảng 1.4. Thống kê tình hình ngộ độc thực phẩm tại TP. HCM từ
năm 2001 đến 2006.......................................................................11
Bảng 1.5. Tiêu chuẩn của Bộ Y tế đối với các loại nước giải khát ..............14
Bảng 1.6. Tiêu chuẩn của Bộ Y tế đối với nhóm thực phẩm chế biến từ sữa
......................................................................................................14
Bảng 1.7. Tiêu chuẩn của Bộ Y tế đối với nhóm sữa chua..........................15
Bảng 1.8. Tiêu của Bộ Y tế đối với nhóm kem, nước đá.............................15
Bảng 1.9. Bảng phân loại độc tố của C. perfringens ....................................22
Bảng 2.1. Chỉ tiêu phân tích vi sinh của Bộ Y tế đối với nhóm sữa.............44
Bảng 2.2. Chỉ tiêu phân tích vi sinh của Bộ Y tế đối với các loại
nước giải khát ..............................................................................44
Bảng 2.3. Chỉ tiêu phân tích vi sinh của Bộ Y tế đối với nhóm kem ...........44
Bảng 2.4. Kích thước vạch khuếch đại của các vi khuẩn nghiên cứu ..........49
Bảng 2.5. Trình tự các mồi được sử dụng trong phản ứng PCR...................50
Bảng 3.1. Kết quả khảo sát tình hình nhiễm vi sinh vật trên nhóm sữa tại TP.
HCM theo phương pháp PCR và nuôi cấy ..................................63
Bảng 3.2. Thống kê kết quả kiểm tra trên mẫu sữa tại TP. HCM bằng phương
pháp PCR và nuôi cấy ................................................................66
Bảng 3.3. Kết quả khảo sát tình hình nhiễm vi sinh vật trên nước giải khát tại
TP. HCM theo phương pháp PCR và nuôi cấy ...........................68
Bảng 3.4. Thống kê kết quả kiểm tra trên nhóm nước giải khát tại
TP. HCM theo phương pháp PCR và nuôi cấy ...........................70
Bảng 3.5. Kết quả khảo sát tình hình nhiễm vi sinh vật trên nhóm kem
tại TP. HCM theo phương pháp PCR và nuôi cấy .....................72
Bảng 3.6. Thống kê kết quả kiểm tra trên nhóm kem tại TP. HCM
theo phương pháp PCR và nuôi cấy ............................................73
Bảng 3.7. Tính tương đồng của phương pháp PCR so với phương pháp
nuôi cấy đối với chỉ tiêu Salmonella, E. coli và S. aureus ...........77
Bảng 3.8. Tính tương đồng của phương pháp PCR so với phương
pháp nuôi cấy đối với chỉ tiêu B. cereus và C. perfringens77
DANH MUÏC CAÙC HÌNH
Trang
Hình 2.1. Thang DNA 100bp ...........................................................37
Hình 2.2. Các bước của phản ứng PCR ..................................................... 38
Hình 2.3. Số bản sao DNA tăng theo từng chu kỳ trong phản ứng PCR .. .39
Hình 2.4. Đưa mẫu vào máy PCR ............................................................. 48
Hình 3.1. Thử nghiệm sinh hóa khẳng định Salmonella ............................ 58
Hình 3.2. Thử nghiệm sinh hóa khẳng định E. coli.................................... 58
Hình 3.3. Thử nghiệm sinh hóa khẳng định S. aureus ............................... 59
Hình 3.4. Thử nghiệm sinh hóa khẳng định B. cereus ............................... 59
Hình 3.5. Thử nghiệm sinh hóa khẳng định C. perfringens ....................... 59
Hình 3.6. Kết quả phát hiện E. coli, Salmonella, B. cereus, S. aureus
và C. perfringens bằng kỹ thuật PCR......................................... 59
Hình 3.7. Khuẩn lạc B. cereus ................................................................... 60
Hình 3.8. Thử nghiệm sinh hóa khẳng định B. cereus ............................... 60
Hình 3.9. Thử nghiệm sinh hóa khẳng định C. perfringens ...................... 60
Hình 3.10. Khuẩn lạc C. perfringens ........................................................... 61
Hình 3.11. Kết quả phát hiện E. coli, Salmonella, B. cereus, S. aureus và C.
perfringens bằng kỹ thuật PCR .................................................. 62
DANH MUÏC CAÙC BIEÅU ÑOÀ
Trang
Biểu đồ 3.1. Tình hình nhiễm vi sinh vật trong mẫu sữa trên địa bàn
TP. HCM ..................................................................................63
Biểu đồ 3.2. Tình hình nhiễm vi sinh vật trên nước giải khát tại địa bàn
TP. HCM .................................................................................66
Biểu đồ 3.3. Tình hình nhiễm vi sinh vật trên nhóm kem tại địa bàn TP. HCM
...................................................................................................68
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo báo cáo của tổ chức Y tế thế giới (WHO, 2001), hàng năm có tới 30%
dân số ở các nước phát triển bị bệnh do thực phẩm, chủ yếu là ngộ độc thực phẩm
(NĐTP), ở các nước đang phát triển các trường hợp ngộ độc thực phẩm lại cao hơn
nhiều [25].
Ngộ độc thực phẩm trong những năm gần đây được ghi nhận khá thường
xuyên và đã trở thành mối quan tâm của toàn xã hội. Ở các nước phát triển, tình hình
ngộ độc thực phẩm luôn là vấn đề được quan tâm vì những tổn thất lớn về kinh tế và
con người do ngộ độc thực phẩm gây ra. Tại Mỹ, theo thống kê của trung tâm Kiểm
soát và Phòng chống bệnh (CDC), hàng năm có khoảng 76 triệu ca ngộ độc thực
phẩm và 5.000 trường hợp tử vong. Thiệt hại do các trường hợp ngộ độc thực phẩm
ước tính khoảng từ 5 đến 17 tỉ USD [34]. Cũng như nhiều quốc gia khác, tại Việt
Nam vấn đề ngộ độc thực phẩm ngày càng gia tăng, đặc biệt trong hai năm gần đây
hiện tượng này càng phổ biến hơn. Mỗi năm, nước ta có 250 - 500 vụ ngộ độc thực
phẩm với 7.000 - 10.000 nạn nhân và 100 - 200 ca tử vong. Nhà nước cũng phải chi
trên 3 tỉ đồng cho việc điều trị, xét nghiệm và truy tìm nguyên nhân [50]. Theo thống
kê chưa đầy đủ của cục Vệ sinh an toàn thực phẩm từ năm 2000 đến năm 2006, cả
nước đã xảy ra 988 vụ ngộ độc thực phẩm với 23.190 người bị ngộ độc và 263 người
chết [44]. Trong đó, có 155 vụ ngộ độc tại bếp ăn tập thể với 14.653 người bị ngộ độc
bao gồm: 97 vụ NĐTP tại các khu công nghiệp, khu chế xuất với 9.989 người bị ngộ
độc; 58 vụ NĐTP trong các trường học với 3.790 cháu bị ngộ độc và 2 cháu tử vong.
Riêng tại TP. HCM có 113 vụ NĐTP với 7.688 người bị ngộ độc và 7 người tử vong.
Tại Hà Nội xảy ra 37 vụ NĐTP với 370 người ngộ độc và 2 người tử vong [49].
Trong tổng số 988 vụ ngộ độc thực phẩm của cả nước (từ năm 2000 đến năm
2006), có 161 vụ NĐTP do thức ăn đường phố (thực phẩm chế biến sẵn bán trên vỉa
hè trước các chợ, công viên, trường học) với 3.759 người bị ngộ độc và 7 người tử
vong. Thực trạng vấn đề ngộ độc do thức ăn đường phố hiện nay ở nước ta ngày càng
gia tăng, hiện tượng vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với nhóm
thực phẩm đường phố phổ biến. Trong khi đó, tình hình kiểm tra, giám sát của cơ
quan chức năng đối với nhóm thực phẩm này gặp nhiều khó khăn và chưa đạt hiệu
quả [48].
Có nhiều nguyên nhân khác nhau có thể gây ra các vụ ngộ độc thực phẩm như
nhiễm vi sinh, nhiễm các hóa chất độc hại hoặc dư lượng thuốc trừ sâu và thuốc bảo
vệ thực vật trong thực phẩm quá mức cho phép, nhưng phần lớn các trường hợp có
nguồn từ vi sinh vật, do sự hiện diện của vi sinh vật gây bệnh hay sự hiện diện của
độc tố tiết ra bởi các vi sinh vật gây bệnh [46].
Ngày nay, yêu cầu an toàn vệ sinh thực phẩm nhất là về phương diện vi sinh
trở thành một trong những tiêu chuẩn không thể thiếu đối với chất lượng thực phẩm.
Việc phân tích, phát hiện vi sinh vật gây bệnh trong thực phẩm và thực hiện các biện
pháp đảm bảo đạt tiêu chuẩn về an toàn vi sinh trong sản xuất chế biến thực phẩm,
đặc biệt là nhóm thực phẩm đường phố ngày càng được quan tâm [43].
Chính vì những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Ứng dụng phương pháp PCR
(Polymerase Chain Reaction) và phương pháp nuôi cấy để khảo sát sự nhiễm vi sinh
vật gây bệnh trong thực phẩm đường phố”
2. Sơ lược vấn đề nghiên cứu
Tại Việt Nam, việc phát hiện các vi sinh vật gây bệnh chủ yếu dựa vào phương
pháp nuôi cấy truyền thống, tốn nhiều thời gian, thao tác phức tạp và độ nhạy chưa
cao. Trong khi đó, nhiều phương pháp mới như: phương pháp ELISA, phương pháp
PCR, phương pháp sử dụng mẫu dò, phương pháp phát hiện vi sinh vật dựa trên kỹ
thuật phát quang sinh học,… có nhiều ưu điểm về thời gian, độ nhạy và độ chính xác
cao đang được phát triển rộng rãi trên thế giới và đang dần thay thế cho phương pháp
truyền thống. Cũng như các nước, nhu cầu thực tế tại Việt Nam hiện nay là cần ứng
dụng những kỹ thuật mới này vào việc kiểm tra, giám sát tình hình nhiễm vi sinh vật
trong thực phẩm để nhanh chóng phát hiện các nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm
và ngăn ngừa một cách có hiệu quả các tác hại từ ngộ độc thực phẩm do vi sinh vật
gây ra.
Với nhu cầu thực tiễn như trên, Phòng thí nghiệm Công nghệ Sinh học phân tử
Trường Đại học Khoa học tự nhiên, ĐHQG TP. HCM đã tiến hành xây dựng các quy
trình và bộ kit PCR phát hiện nhanh các vi sinh vật gây ngộ độc trên thực phẩm như:
Escherichia coli, Salmonella, Staphylococcus aureus, Bacillus cereus và Clostridium
perfringens. Để được công nhận như một phương pháp chuẩn và được phép lưu hành
rộng rãi tại các phòng thí nghiệm phân tích vi sinh trong cả nước, các quy trình này
đã được tiến hành đánh giá hiệu lực bằng việc phân tích và so sánh kết quả thu nhận
được giữa phương pháp nuôi cấy và phương pháp PCR tại các phòng thí nghiệm
trọng điểm phía Nam. Đồng thời, để có thể sử dụng vào thực tế, các quy trình này đã
được ứng dụng để khảo sát tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm trên các mẫu thực tế
và so sánh với kết quả theo phương pháp nuôi cấy truyền thống. Tuy nhiên, trong
thực phẩm đường phố chưa được nghiên cứu và khảo sát để đưa ra kết luận cụ thể về
mức độ nhiễm vi sinh ở nhóm thực phẩm này. Vì thế, đề tài luận văn này phần nào
đáp ứng được nhu cầu thực tế về kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm đường phố hiện
nay ở nước ta.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn này là ứng dụng các quy trình và bộ
kit PCR nói trên để phát hiện E. coli, S. aureus, Salmonella, B. cereus và C.
perfringens trong thực phẩm đường phố tại TP. HCM, đồng thời so sánh với kết quả
theo phương pháp nuôi cấy. Từ đó, khảo sát được tình hình nhiễm vi sinh vật gây
bệnh trong thực phẩm đường phố trên địa bàn TP. HCM so với chỉ tiêu cho phép của
nhà nước.
Nội dung của luận văn này là một phần thuộc đề tài khoa học và công nghệ
trọng điểm cấp Nhà nước của Bộ Khoa học và Công nghệ “Nghiên cứu ứng dụng kỹ
thuật sinh học phân tử vào việc kiểm tra, giám sát an toàn vệ sinh thực phẩm” mã số
KC. 04. 30 do Trường Đại học Khoa học tự nhiên, ĐHQG, TP. HCM chủ trì và PGS.
TS. Trần Linh Thước chủ nhiệm đề tài.
4. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu sự hiện diện của E. coli, Salmonella, S. aureus, B. cereus và C.
perfringens trong nhóm thực phẩm đường phố (thực phẩm được chế biến sẵn bán trên
vỉa hè trước các chợ, trường học, công viên,…), bao gồm: nhóm sữa như sữa tươi,
sữa đậu nành, sữa đậu xanh và sữa chua; nước sâm, nước mía và nước rau má thuộc
nhóm nước giải khát và các loại kem: kem tươi, kem ký, kem ly, kem cây, kem chiên
và kem marino.
5. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu trên thực phẩm đường phố thuộc nhóm sữa, nước giải khát và kem
tại các Quận: 3, 5, 8, 10 và quận Tân Bình thuộc địa bàn TP. HCM.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích các chỉ tiêu vi sinh vật gây bệnh trong các mẫu thực phẩm đường
phố bằng phương pháp PCR và phương pháp nuôi cấy truyền thống.
- Đánh giá tình hình nhiễm vi sinh vật gây bệnh trong nhóm thực phẩm đường
phố trên so với chỉ tiêu cho phép của Bộ Y tế.
- So sánh, đánh giá kết quả phân tích của phương pháp PCR so với phương
pháp nuôi cấy truyền thống.
- Rút ra kết luận của đề tài
- Đề nghị và hướng phát triển của đề tài
7. Phương pháp nghiên cứu
- Các phương pháp phân tích chỉ tiêu vi sinh: phương pháp PCR, phương pháp
nuôi cấy, phân lập, các phương pháp thử nghiệm hóa sinh
- Xử lí kết quả bằng phương pháp thống kê toán học đơn giản
8. Dự kiến cấu trúc luận văn
Luận văn gồm các phần:
Mở đầu
Chương 1: Tổng quan tài liệu
Chương 2: Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả và biện luận
Kết luận và đề nghị
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Thực trạng vấn đề ngộ độc thực
1.1.1. Khái niệm ngộ độc thực phẩm
Ngộ độc thực phẩm là khái niệm chung để chỉ các triệu chứng gây ra do sử
dụng thực phẩm bị nhiễm vi sinh vật gây bệnh, các chất độc từ môi trường hoặc chất
độc tự nhiên có trong bản thân thực phẩm [27]. Theo Bộ Y tế, ngộ độc thực phẩm là
hội chứng cấp tính xảy ra do ăn, uống phải thức ăn có chứa chất độc, biểu hiện bằng
những triệu chứng dạ dày - ruột, thần kinh hoặc những triệu chứng khác tuỳ theo tác
nhân gây ngộ độc [73].
1.1.2. Nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm
Ngộ độc thực phẩm gây ra bởi hai nguyên nhân chính
1.1.2.1. Ngộ độc do hóa chất
Là những trường hợp ăn phải thức ăn có chứa hóa chất độc như: chất phụ gia,
kim loại nặng hoặc dư lượng thuốc trừ sâu, phân bón hóa học còn sót lại trên thực
phẩm [45].
Ước tính có khoảng 11 - 27% vụ ngộ độc thực phẩm (so với tổng số các vụ
NĐTP) có nguyên nhân là do thực phẩm bị nhiễm các loại hóa chất chẳng hạn: CN,
As, Hg, Pb, hóa chất bảo quản thực phẩm, hóa chất bảo vệ thực vật [50].
1.1.2.2. Ngộ độc do vi sinh vật
Là ngộ độc do ăn phải thức ăn có chứa vi sinh vật gây bệnh hoặc độc tố của
chúng [45], bao gồm các trường hợp sau:
- Ngộ độc thực phẩm do thực phẩm bị nhiễm vi sinh vật (chiếm 33 - 49% so
với tổng số các vụ NĐTP), chủ yếu do các chủng Salmonella, E. coli, Clostridium
perfringens, Listeria monocytogenes [50]. Ngộ độc do ăn phải thức ăn có chứa vi sinh
vật thường xảy ra khoảng 16 - 30 giờ sau khi ăn thức ăn nhiễm khuẩn. Các vi khuẩn
được nhân lên trong cơ thể và gây bệnh thông qua quá trình xâm nhiễm hoặc do nội
độc tố được tạo ra trong tế bào vi khuẩn và được phóng thích ra ngoài môi trường khi
tế bào vi sinh vật bị phân hủy.
- NĐTP do thực phẩm bị nhiễm độc tố của vi khuẩn (chiếm 20 - 30% tổng số
các vụ NĐTP) là nguyên nhân của các vụ ngộ độc thực phẩm tập thể. Trong số này,
vi khuẩn Staphylococcus aureus hiện diện trong các món ăn làm bằng tay (bánh
ngọt), Clostridium perfringens hay phát sinh trong các món được nấu nướng và hâm
nóng [20]. Ngộ độc do ăn phải thức ăn chứa độc tố là do một số vi khuẩn có khả năng
tạo độc tố và tiết ra ngoài môi trường gọi là ngoại độc tố. Ngoại độc tố rất độc và gây
ra những rối loạn điển hình, ngộ độc thực phẩm do độc tố thường xảy ra sau 1 - 6 giờ
tùy thuộc vào lượng độc tố có trong cơ thể. Các vi sinh vật sinh độc tố điển hình là:
C. botulinum, C. perfringens và S. aureus [50].
Ngoài ra, các vụ ngộ độc còn do thực phẩm vốn hàm chứa các chất độc tự
nhiên (6 - 17,5% so với tổng số các vụ NĐTP) [45].
1.1.3. Triệu chứng của ngộ độc thực phẩm
Ngộ độc thực phẩm thường xảy ra ở nhiều người, có những triệu chứng giống
nhau sau khi tiêu thụ thực phẩm. Tuy nhiên, mức độ tác động sẽ khác nhau tùy thuộc
vào khả năng đáp ứng với độc tố và thể trạng của từng người. Các triệu chứng thường
gặp của ngộ độc thực phẩm là: tiêu chảy, chóng mặt, nôn mửa, đau nhức người, sốt
và đau đầu. Những triệu chứng này có thể thay đổi tùy thuộc vào tác nhân gây ngộ
độc là tế bào hay độc tố của vi khuẩn [28].
Triệu chứng ngộ độc thực phẩm do một số vi khuẩn cũng như các loại thực
phẩm thường chứa các vi khuẩn này được trình bày tóm tắt ở Bảng 1.1.
Bảng 1.1. Triệu chứng của ngộ độc thực phẩm do một số vi khuẩn
Tác nhân Nguồn gây bệnh Triệu chứng
Salmonella Trứng, thịt gia cầm nấu chưa chín Sốt,tiêu chảy, đau
bụng, nôn
V. cholerae
(phẩy khuẩn tả)
Dùng nước ô nhiễm làm kem, đá, tưới rửa
rau quả, ăn sống cá, nhuyễn thể
Tiêu chảy, nôn, đau
bụng
Clostridium
perfringens
Thực phẩm đóng hộp bị ô nhiễm trong quá
trình chế biến: cá, thịt, các loại rau
Giảm trương lực cơ
(mắt mờ, khó thở)
Escherichia Coli
Thịt, cá, rau, sữa tươi, nước bị ô nhiễm
phân người
Tiêu chảy (lỵ)
phân có máu
Staphylococcus
aureus (tụ cầu)
Sản phẩm từ sữa, thịt gia cầm nấu chưa
chín. Nhiễm trùng từ mũi, tay và da lây
Buồn nôn, tiêu
chảy, đau bụng,
sang thức ăn chín mất nước nặng
Shigella (lỵ) Sữa và thực phẩm bị ẩm ướt, nhiễm phân Tiêu chảy, phân có
máu, sốt
Bacillus cereus Ngũ cốc, rau, sữa, thịt quay hoặc rán Đau bụng, tiêu
chảy, buồn nôn
Nguồn [69]
1.1.4. Thực trạng vấn đề ngộ độc thực phẩm
1.1.4.1. Thực trạng vấn đề ngộ độc thực phẩm trên thế giới
Các cuộc khảo sát gần đây cho thấy, các bệnh do ngộ độc thực phẩm xảy ra có
thể nhiều hơn 300 đến 350 lần số trường hợp được báo cáo. Ước tính hàng năm có
khoảng 1,5 tỉ lượt trẻ em dưới 5 tuổi mắc bệnh tiêu chảy do thực phẩm và hơn 3 triệu
trẻ em chết vì bệnh này, hầu hết các trường hợp trên là ở các nước đang phát triển
[33].
Theo thống kê của FOODHACCP, năm 2005, trên thế giới có 940 vụ ngộ độc
thực phẩm lớn, trong đó có 381 vụ ngộ độc do vi sinh vật, đứng đầu vẫn là do: E.
coli, S. aureus, Salmonella và L. monocytogenes [35]. Vi khuẩn Salmonella là nguyên
nhân của 70% vụ ngộ độc, vi khuẩn này có trong nhiều loại thực phẩm (đồ nguội, thịt
nguội, nghêu, sò, gà, chế phẩm từ sữa sống, nhất là các món ăn chế biến từ trứng tươi
hoặc còn hơi tươi sống) [45].
Chỉ riêng những tháng đầu năm 2006, đã có hai trận dịch lớn xảy ra tại Angola
và Nam Sudan làm 49.627 người mắc bệnh và 1.814 người tử vong. Nguyên nhân
được xác định là do nguồn nước nhiễm V. cholerae [26].
Tại Thái Lan, ngày 17/03/2006 cũng đã xảy ra một vụ ngộ độc thực phẩm làm
152 người bị ngộ độc với các triệu chứng: khó nuốt, khó cử động, đau bụng và nhũn
cơ. Trong số 100 người nhập viện, có 40 người nhập viện với tình trạng khó thở, suy
hô hấp nặng. Nguyên nhân được xác định là do Clostridium botulinum trong măng
tây đóng hộp [32].
1.1.4.2. Thực trạng vấn đề ngộ độc thực phẩm tại Việt Nam
a. Tình hình ngộ độc thực phẩm tại Việt Nam
Thống kê từ trung tâm chống độc Bệnh viện Bạch Mai, tại khu vực phía Bắc,
số người bị ngộ độc thực phẩm năm 2005 là gần 4.000 người, trong đó có 50 trường
hợp tử vong. So với năm 2004, tỉ lệ tử vong ở các trường hợp bị ngộ độc thực phẩm
tăng gần 90% [52].
Theo thống kê của cục An toàn vệ sinh thực phẩm, tình hình ngộ độc thực
phẩm trong hai năm 2005 và 2006 như sau:
Bảng 1.2. Tình hình ngộ độc thực phẩm tại Việt Nam năm 2005 và 2006
Thống kê 2005 2006
Số vụ ngộ độc 127 139
Số người bị ngộ độc 3.410 5.564
Số người tử vong 21 49
Nguồn: [30]
Năm 2005 được xem là đỉnh điểm của những vụ ngộ độc thực phẩm so với
những năm trước đó, nhưng qua bảng thống kê trên cho thấy năm 2006 tình trạng
NĐTP còn cao hơn cả về số vụ, số người mắc và tử vong.
Trong “Tháng hành động vì vệ sinh an toàn thực phẩm” năm 2007 (từ ngày
15/04 - 15/05/2007), cả nước đã xảy ra 19 vụ ngộ độc thực phẩm, với 534 người mắc,
8 người tử vong, số vụ ngộ độc thực phẩm quy mô trên 50 người là 3 vụ với tổng số
269 người mắc; trong “Tháng hành động vì vệ sinh an toàn thực phẩm”, năm 2006
(từ ngày 15/04 - 15/05/2006) xảy ra 17 vụ NĐTP, có 278 người mắc, 4 người tử vong
[53]. So với năm 2006, tình hình ngộ độc thực phẩm xảy ra trong “Tháng hành động
vì vệ sinh an toàn thực phẩm” năm 2007 tăng cao hơn nhiều cả về số vụ lẫn số người
bị ngộ độc, đáng chú ý là số người tử vong tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm 2006
(năm 2006 có 4 người tử vong, năm 2007 là 8 người) [52].
Trong các nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm năm 2005 và 2006, nguyên
nhân do nhiễm vi sinh vật chiếm tỉ lệ cao nhất (năm 2005 là 50,4%, năm 2006 là
31,8%); sau đó là do thực phẩm chứa chất độc tự nhiên (28,3% năm 2005, năm 2006
là 23,7%) còn lại là do hóa chất và không xác định được rõ nguyên nhân [48].
Nguyên nhân gây NĐTP trong năm 2005 và 2006 được thống kê ở Bảng 1.3.
Bảng 1.3. Nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm tại Việt Nam năm 2005
và 2006
Nguyên nhân 2005 2006
Do vi sinh vật 64 vụ (50,4%) 53 vụ (38,1%)
Thực phẩm độc 36 vụ (28,3%) 33 vụ (23,7%)
Do hóa chất 10 vụ (7,9%) 16 vụ (11,5%)
Không xác định 17 vụ (13,4%) 37 vụ (26,7%)
Nguồn: [48]
b. Tình hình ngộ độc thực phẩm trên địa bàn TP. HCM
Trong nhiều năm qua, TP. HCM được xem là một trong những địa phương có
số vụ NĐTP cao nhất cả nước, vì đây là nơi tập trung đông dân cư, số dân nhập cư,
hộ nghèo còn nhiều, do vậy mà việc quản lý vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm gặp
nhiều khó khăn và chưa thật hiệu quả.
Ở TP. HCM, theo trung tâm y tế dự phòng ghi nhận, tình hình ngộ độc thực
phẩm từ năm 2001 đến 2006 được thống kê như sau:
Bảng 1.4. Thống kê tình hình ngộ độc thực phẩm tại TP. HCM từ năm
2001 đến 2006
Thống kê Tình hình ngộ độc thực phẩm tại TP. HCM
Năm thống kê 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Số vụ ngộ độc thực phẩm 9 29 22 26 27 39
Số người ngộ độc 796 930 1158 964 1536 1564
Ngộ độc do vi sinh (%) 83,9 75,7 67,7 64,1 39,1 38,1
Số người tử vong 0 2 0 0 3 5
Nguồn: [47]
Trong vài năm gần đây, số vụ ngộ độc thực phẩm tại TP. HCM từ năm 2001
đến 2006 được ghi nhận ngày càng gia tăng cả về số vụ lẫn số người mắc. Cao điểm
là năm 2006 tại TP. HCM có 39 vụ ngộ độc với 1.564 người bị ngộ độc, chiếm một
tỉ lệ cao về NĐTP của cả nước (chiếm 35,64% so với cả nước), so với năm 2001,
năm 2006 số vụ NĐTP tăng hơn 4 lần, số người ngộ độc tăng gấp đôi, đặc biệt số
người tử vong tăng 5 lần, nguyên nhân ngộ độc do vi sinh vật vẫn chiếm một tỉ lệ
đáng kể (năm 2001 là 83,9%, năm 2006 là 38,1%) [58]. Nguyên nhân của sự gia tăng
số vụ NĐTP này là do tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm nói chung không được
bảo đảm chẳng hạn: tình hình kinh doanh những mặt hàng nguyên liệu thực phẩm
kém chất lượng, không đảm bảo vệ sinh hoặc sử dụng những phụ gia độc hại; tình
trạng chế biến bảo quản thực phẩm không an toàn; cơ sở vật chất, dụng cụ không đạt
yêu cầu; vệ sinh cá nhân và ý thức nhân viên chế biến chưa tốt [52].
1.1.4.3. Tình hình ngộ độc do thức ăn đường phố
Đến nay, các cơ quan chức năng vẫn phải thừa nhận việc đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm đường phố đang là vấn đề cần được quan tâm [42].
Hiện tượng vi phạm quy định vệ sinh an toàn thực phẩm ở các dịch vụ thức ăn
đường phố ngày càng cao, kết quả trong tháng 8 năm 2005 có 11 ca ngộ độc do thức
ăn đường phố với hơn 600 người mắc, trong đó có 3 người tử vong [45]. Cuộc khảo
sát của Bộ Y tế, năm 2005 kết luận: ở Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh có 88% số
cơ sở thức ăn đường phố kém chất lượng. Theo đánh giá của đoàn thanh tra Bộ Y tế
sau một tuần hành động thanh tra, kiểm tra thức ăn đường phố tại Thành Phố Hồ Chí
Minh (từ ngày 23 - 27/08/05) đã kết luận: “nhiều cơ sở chế biến thực phẩm đường
phố còn sử dụng phẩm màu trong chế biến thức ăn, nguồn nước sử dụng chưa đảm
bảo vệ sinh, đáng chú trọng hơn là hàm lượng vi sinh cao hơn tiêu chuẩn cho phép
trong thực phẩm theo quy định của Bộ Y tế (4/1998)” [55].
Đặc biệt là tình trạng thực phẩm đã chế biến sẵn bán tại các công viên, chợ,
trường học rất phổ biến; trong khi đó, điều kiện vệ sinh cơ sở, vệ sinh dụng cụ chế
biến và vệ sinh cá nhân người trực tiếp chế biến các loại thực phẩm này vẫn chưa bảo
đảm, tình trạng sử dụng phụ gia thực phẩm ngoài danh mục cho phép vẫn còn [29].
Loạt bài: “Thực phẩm đường phố, 1.001 kiểu... mất vệ sinh” của Báo Thanh
Niên [33] và cuộc hội thảo về vấn đề này tại TP. HCM vào cuối tuần tháng 8 năm
2006 [41], đã cho thấy thực trạng thức ăn đường phố ở nước ta vượt quá ngưỡng báo
động, ngoài tầm kiểm soát của cơ quan chức năng. Hiện tượng thực phẩm đường phố
không đảm bảo vệ sinh trong khi chế biến, nguồn nước còn nhiễm bẩn, việc vệ sinh
các dụng cụ đựng thức ăn chưa đạt yêu cầu,…vẫn đang diễn ra ở hầu hết các cơ sở
bán thức ăn đường phố trong cả nước [54].
Phần lớn ý kiến của các nhà chuyên môn, các nhà quản lý đều cho rằng hiện
các văn bản pháp quy về vệ sinh an toàn thực phẩm đường phố còn thiếu, hình thức
xử phạt chưa đủ mạnh để răn đe. Đặc biệt, để đáp ứng nhu cầu ăn uống ngày càng gia
tăng nên số lượng cơ sở chế biến kinh doanh thực phẩm quy mô nhỏ, không đảm bảo
vệ sinh ngày một nhiều, là nguyên nhân dẫn đến tình trạng ngộ độc thực phẩm đường
phố, hơn nữa, việc quản lý những người bán thức ăn đường phố là rất khó, do số
đông họ là những người nhập cư, là thành phần nghèo, khó khăn, điểm bán thường
lưu động, khó xử lý, vì vậy mà việc giám sát vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đường
phố hiện đang gặp rất nhiều khó khăn và cần sự phối hợp đồng bộ của toàn xã hội để
giám sát tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm đường phố hiện nay ở nước ta [48].
Chính vì những lí do trên mà hiện nay, việc khảo sát để đưa ra kết luận về tình
hình nhiễm vi sinh vật gây bệnh trong thực phẩm đường phố so với tiêu chuẩn cho
phép của nhà nước là điều cần thiết và đang được quan tâm.
1.1.5. Các quy định hiện hành và tiêu chuẩn nhà nước về việc đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm
1.1.5.1. Tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm đối với các loại nước giải khát
Tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của Bộ Y tế đối với các loại nước giải
khát hiện nay ở nước ta rất đa dạng.Trong phần này, chúng tôi chỉ chọn một số quy
định về chỉ tiêu vi sinh đối với một vài nhóm nước giải khát thuộc phạm vi nghiên
cứu của đề tài. Các tiêu chuẩn này được trình bày ở Bảng 1.5.
Bảng 1.5. Tiêu chuẩn của Bộ Y tế đối với các loại nước giải khát
Chỉ tiêu thử nghiệm Nước khoáng đóng chai
Nước không
có cồn
Nước
có cồn
Tổng vi khuẩn hiếu khí/g GMP/250ml 102 5.104
Coliforms/g 0/250ml 10 102
E. coli/g KQĐ 0 0
S. aureus/g KQĐ 0 10
Clostridium
perfringens/g
0/250ml 0 10
Salmonella/25g KQĐ KQĐ 0
Nấm men, mốc/g KQĐ 10 KQĐ
Nguồn: [2]
1.1.5.2. Tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm đối với nhóm sữa
Có rất nhiều loại sữa khác nhau hiện đang bán trên thị trường, tuy nhiên, chúng
tôi chỉ đề cập đến chỉ tiêu vi sinh của Bộ Y tế đối với các sản phẩm được chế biến từ
sữa và nhóm sữa chua. Các chỉ tiêu này được trình bày ở Bảng 1.6 và Bảng 1.7.
Bảng 1.6. Tiêu chuẩn của Bộ Y tế đối với nhóm các sản phẩm chế biến từ sữa
Chỉ tiêu thử nghiệm Bơ, phomát Sữa tươi
tuyệt trùng
Sữa hoàn nguyên
tuyệt trùng
Vi khuẩn hiếu khí/g 104 5.104 10
Coliforms/g 10 10 0
E. coli/g 0 3 0
S. aureus/g 0 KQĐ 0
Salmonella/25g 0 0 0
C. perfringens/g KQĐ KQĐ 0
Nguồn: [2]
Bảng 1.7. Tiêu chuẩn của Bộ Y tế đối với nhóm sữa chua
Chỉ tiêu thử nghiệm Sữa chua (Yoghurt)
không xử lí nhiệt
Sữa chua (Yoghurt) có
xử lí nhiệt
Vi khuẩn hiếu khí/g 104 10
Coliforms/g 10 0
E. coli/g 0 0
S. aureus/g 0 0
Salmonella/25g 0 0
Nấm men, mốc/g 10 10
Nguồn: [2]
1.1.5.3. Tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm đối với kem, nước đá
Các chỉ tiêu vi sinh hiện diện ở nhóm kem, nước đá theo quy định của Bộ Y tế
được trình bày ở Bảng 1.8.
Bảng 1.8. Tiêu của Bộ Y tế đối với nhóm kem, nước đá
Chỉ tiêu thử nghiệm Kem, nước đá
Tổng vi khuẩn hiếu khí/g 5.104
Coliforms/g 102
E. coli/g 0
S. aureus/g 10
Clostridium perfringens/g 10
Salmonella/25g 0
Nguồn: [2]
1.2. Các vi khuẩn gây ngộ độc thực phẩm thường gặp
1.2.1. Escherichia coli
E. coli là trực khuẩn Gram âm, ngắn, di động, tạo vỏ capsule polysac- charide.
Loài E. coli gồm nhiều chủng khác nha._.u. Một số hoàn toàn là sinh vật hội sinh. Một
số có thể kết hợp với yếu tố gây độc làm cho chúng có khả năng hoạt động như
những vi khuẩn gây bệnh đặc hiệu ở đường ruột, ngoài đường tiêu hoá và đặc biệt là
đường tiết niệu [31].
E. coli có thể gây viêm đường ruột cấp ở người, đặc biệt là ở trẻ sơ sinh với tỷ
lệ tử vong cao. Một số chủng có thể gây bệnh kiết lỵ và xuất huyết kết tràng. Các
chủng E. coli gây bệnh được chia thành 5 nhóm với cơ chế gây bệnh khác nhau như
sau [18]:
+ Enterotoxigenic E. coli (ETEC): Gây bệnh bằng cách bám vào bề mặt niêm
mạc màng nhầy của tế bào biểu mô ở ruột non và tạo các độc tố gắn kết với tế bào
biểu mô và gây tiêu chảy [18]. Độc tố ETEC tạo ra bao gồm độc tố đường ruột không
bền nhiệt (LT) và độc tố đường ruột bền nhiệt (ST). Bệnh tiêu chảy do ETEC gây ra
không có triệu chứng viêm và không gây sốt [37].
+ Enteropathogenic E. coli (EPEC): gây viêm ruột ở trẻ sơ sinh, đặc biệt là ở
những nước nhiệt đới và có thể gây tỷ lệ tử vong cao. EPEC cũng gây tiêu chảy
tương tự như ETEC nhưng cơ chế hoàn toàn khác. Hầu hết các chủng EPEC không
tạo độc tố LT, ST hay VT (vero cytotoxin) nhưng một số chủng có khả năng tạo độc
tố Shiga, một loại độc tố mạnh ảnh hưởng đến thần kinh. EPEC gây bệnh bằng cách
tạo ra một protein bám dính ở ngoài màng – intimin – tham gia vào quá trình bám
dính vào thành ruột và tác động vào việc truyền tín hiệu trong tế bào. Nhiều chủng có
khả năng kết bám mạnh vào tế bào biểu mô ruột, thường là ruột kết, dẫn đến sự phá
hủy lớp nhung mao gây tiêu chảy. Bệnh gây ra do EPEC thường đi kèm với phản ứng
viêm và một số triệu chứng khác do sự xâm nhiễm của vi khuẩn này vào tế bào chủ.
Đại diện của nhóm này là Enteroadherent E. coli, đây là một tác nhân thường xuyên
gây tiêu chảy tại Mexico và Nam Mỹ [18].
+ Enteroinvasive E. coli (EIEC): các chủng EIEC gây ra khoảng 5% các ca
tiêu chảy ở những vùng có điều kiện vệ sinh kém. Các yếu tố gây độc ở EIEC giống
với Shigella, được kiểm soát bởi các gen nằm trên plasmide và trên nhiễm sắc thể, mã
hóa cho các protein màng ngoài cần thiết cho sự xâm nhiễm. Trong quá trình xâm
nhiễm, EIEC xâm nhập qua lớp niêm mạc, gắn lên bề mặt tế bào và cảm ứng quá
trình thực bào. Các gen trên plasmide giúp cho vi khuẩn thoát khỏi thực bào và lan
nhiễm sang các tế bào kế cận dẫn đến việc các mô bị phân hủy và gây hiện tượng
viêm. Đây là nguyên nhân cơ bản các triệu chứng của bệnh kiết lỵ do EIEC gây ra
[45].
+ Enteroaggregative E. coli (EAEC): là tác nhân gây tiêu chảy kéo dài và liên
tục ở trẻ em. Đặc điểm nổi bật của EAEC là khả năng tấn công tế bào biểu mô do sự
kết bám của chúng với màng nhầy ruột và gây tiêu chảy. EAEC có khả năng tạo
hemolysin và một độc tố kém bền với nhiệt có tên là EAST (Entero Aggregative ST).
EAEC thường gây tiêu chảy liên tục ở trẻ em, không gây viêm và sốt [38].
+ Enterohemorrhagic E. coli (EHEC): còn gọi là Verocytotoxigenic E. coli
(VTEC): gây xuất huyết hàng loạt nhưng không gây sốt. Độc tố do EHEC tiết ra ảnh
hưởng đến thận, gây xuất huyết kết tràng và hội chứng HUS (haemolyticuraemic
syndrome). EHEC có khả năng tạo độc tố đường ruột verotoxin (VT), rất giống với
độc tố Shiga do S. dysenteriae nhóm 1 tạo ra gây ảnh hưởng mạnh đến hệ thần kinh
[42]. Chúng có khả năng xâm nhiễm vào tế bào chủ gây tiêu chảy, viêm ruột và có
thể dẫn đến hiện tượng xuất huyết gây tử vong. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em do nhiễm
EHEC rất cao vì thường dẫn đến hội chứng HUS và gây tử vong. Trong đó, đại diện
của nhóm này là E. coli O157:H7, đây là tác nhân gây nhiều trận dịch lớn trên thế
giới [36].
1.2.2. Staphylococcus aureus
S.aureus là vi khuẩn Gram dương, thuộc họ vi khuẩn Staphylococc- aceae,
giống Staphylococcus và loài là aureus, có khả năng phát triển trong điều kiện thiếu
oxi, nhưng phát triển tốt nhất trong điều kiện hiếu khí.
S. aureus không di động, không tạo bào tử, phát triển được trong môi trường có
nồng độ muối lên tới hơn 15% [36]. Nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển là từ 10 -
45oC, nhưng nhiệt độ tối ưu là ở 30 - 37oC, pH thích hợp là 4,2 - 9,3, tối ưu trong
khoảng 7- 7,5. Tất cả các dòng S. aureus đều mẫn cảm với novobiocine và dễ bị ức
chế bởi các chất sát khuẩn như: hexachlorophere 3%, tím gelatian [39], [61]
S. aureus có thể tạo nhiều loại độc tố bao gồm độc tố phá màng, độc tố đường
ruột, độc tố tróc vảy, độc tố gây sốc [38].
- Độc tố gây sốc (TSST-1): có hoạt tính superantigen và gây ra hội chứng sốc
độc tố. Chúng có thể gây sốc ở gan, thận, tim và trong một số trường hợp có thể dẫn
đến tử vong
- Độc tố tróc vảy (exfoliative toxin-ET): gồm hai loại là ETA và ETB gây ra
triệu chứng da kết vảy hoặc nứt nẻ ở da
-Độc tố phá màng: bao gồm α-toxin, β-toxin, δ-toxin, γ-toxin và leucocidin.
Chúng có khả năng phá hủy màng và đóng vai trò quan trọng trong quá trình xâm
nhập vào cơ thể
- Độc tố đường ruột (Staphylococal enterotoxins-SE): là nguyên nhân chính
gây ngộ độc thực phẩm, các độc tố này được phân loại dựa vào các kiểu kháng
nguyên và được chia thành các kiểu độc tố đường ruột như: SE-A, SE-B, SE-C, SE-
D, SE-E, SE-G, SE-H, SE-J,…Các độc tố này có hoạt tính siêu kháng nguyên
(superantigen), khi được phóng thích vào máu thì gây ra các triệu chứng sốt, tiêu
chảy, nôn mửa. Đây cũng là triệu chứng chính của các vụ ngộ độc do S. aureus [63].
S. aureus cũng là nguyên nhân của nhiều bệnh, phổ biến nhất là bệnh về da.
Đặc điểm chung của ngộ độc do S. aureus là buồn nôn, ói mửa, đau dầu, đau dạ dày,
đôi khi bị tiêu chảy. Bệnh nhân nhiễm S. aureus thường có triệu chứng sốc, sốt cao,
phát ban. Nguy hiểm hơn, S. aureus còn gây nhiễm trùng, viêm tủy xương, viêm
phổi, viêm nội mạc tim và gây tử vong. Tuy nhiên, bệnh do S. aureus thường nhẹ và
sẽ tự khỏi trong 1 - 2 ngày
1.2.3. Salmonella
Salmonella là vi khuẩn Gram âm, hình que, đa số đều có khả năng di động nhờ
lông mao (trừ S. gallinarum, S. pullorum), không sinh bào tử, là sinh vật kỵ khí tùy ý,
nhưng chúng phát triển tốt trong điều kiện hiếu khí. Salmonella phát triển tốt trong
khoảng nhiệt độ từ 5 - 47oC và pH là 4,5 - 9. Phát triển tốt nhất ở 37oC và pH khoảng
6,5 - 7,5
Giống Salmonella được chia thành hai loài: S. enterica và S. bongori, và được
chia thành các loài phụ:
+ Loài S. enterica gồm 5 loài phụ: S. enterica I (S. enterica subspecies
enterica), S. enterica II (S. enterica subspecies salamae), S. enterica IIIa (S. enterica
subspecies arizonae), S. enterica IIIb (S. enterica subspecies diarizonae), S. enterica
IV (S. enterica subspecies houtenae), S. enterica VI (S. enterica subspecies indica).
+ Loài S. bongori hay còn gọi là Salmonella subspecies V.
Salmonella enterica I đa số được tìm thấy ở người và động vật máu nóng. Các
nhóm S. enterica II đến VI và S. bongori hầu như chỉ tìm thấy ở các động vật máu
lạnh và trong tự nhiên.
Salmonella tạo ra hai loại độc tố chính là:
- Độc tố đường ruột (enterotoxin): có tác động lên dạ dày, ruột, gây viêm loét,
độc tố này thấm vào máu gây nhiễm độc huyết. Có hai loại độc tố đường ruột [1], [4]:
* Độc tố LT (Labile temperature): không bền với nhiệt, có tác dụng hoạt hóa
men adenyl cylase kích thích tiết Cl- và bicarbonate ra khỏi tế bào, ức chế Na+ đi vào
trong tế bào gây tiêu chảy, mất nước.
* Độc tố ST (Stabile temperature): bền với nhiệt, cơ chế tác động tương tự LT,
có tác dụng hoạt hóa men guanyl cylase làm tăng c-GMP trong tế bào dẫn đến hiện
tượng tiêu chảy.
Salmonella gây ra ba loại bệnh chính là: thương hàn (S. typhi và S. paratyphi);
viêm dạ dày, viêm ruột (S. typhimurium) và nhiễm trùng máu (S. cholerasuis, S.
typhimurium).
Khả năng gây độc của Salmonella phụ thuộc vào độc lực của từng dòng
Salmonella xâm nhiễm và phụ thuộc vào trạng thái sức khỏe của mỗi người. Thông
thường, một số Salmonella vẫn tồn tại trong ruột người, động vật nhưng không gây
bệnh. Khi cơ thể bị suy nhược hay bị stress liên tục làm giảm sức đề kháng thì vi
khuẩn này sẽ phát triển, xâm nhập vào hạch bạch huyết và các tổ chức khác của cơ
thể gây sốt thương hàn hoặc phát tán theo hệ thống tuần hoàn đến khắp cơ thể gây
nhiễm trùng máu. Phần lớn các bệnh nhân nhiễm Salmonella có thể tự hồi phục
nhưng vi khuẩn thương hàn còn tồn tại lâu trong cơ thể. Bệnh nhân có thể trở thành
người lành mang bệnh, từng đợt vi khuẩn theo phân ra ngoài và có thể trở thành
nguồn lây bệnh nguy hiểm cho cộng đồng [9], [10].
1.2.4. Bacillus cereus
B. cereus là vi khuẩn Gram dương, hình que, hiếu - kỵ khí tùy ý, di động, tạo
nội bào tử và phân bố rộng rãi trong môi trường. Ngưỡng nhiệt phát triển của B.
cereus là 5 - 50oC, tối ưu ở 28 - 40oC. Bào tử của B. cereus chịu được nhiệt độ cao
trên 100oC. Khả năng chịu nhiệt được gia tăng trong các thực phẩm có dầu và hàm
lượng chất béo cao [8], [9].
B. cereus có 13 kiểu kháng nguyên màng, 42 kiểu kháng nguyên lông (kháng
nguyên H) [56]. B. cereus có khả năng tạo nhiều loại độc tố, nguy hiểm nhất là độc tố
gây nôn mửa vì gây ra các bệnh về gan. Đây là nội độc tố duy nhất kháng được
trypsin, pepsin, chịu được pH cực đoan (pH: 2 - 11) và nhiệt độ cao (121oC trong 90
phút). Độc tố này có thể gắn vào dây thần kinh phế vị gây nôn mửa hoặc gây cản trở
các hoạt động biến dưỡng xảy ra trong
cơ thể [16], [52].
B. cereus là vi khuẩn gây bệnh cơ hội, gây tiêu chảy, nôn mửa và một số bệnh
hoại thư. Độc tố gây tiêu chảy được tạo thành bởi phức hợp các nội độc tố tạo ra
trong quá trình tăng trưởng của các tế bào sinh dưỡng sống trong ruột non. Thời gian
ủ bệnh thường từ 10 - 13 giờ sau khi ăn phải thức ăn bị nhiễm. Bệnh thường nhẹ, kèm
theo đau bụng, tiêu chảy nhiều, co thắt trực tràng và có cảm giác buồn nôn nhưng
không nôn mửa. Các triệu chứng trên kéo dài trong 24 giờ. Ngộ độc thực phẩm gây ra
bởi B. cereus thường nhẹ và sẽ tự khỏi [6], [22]. [56].
1.2.5. Clostridium perfringens
C. perfringens là trực khuẩn Gram dương, sinh bào tử và không di động. C.
perfringens phát triển tối ưu ở nhiệt độ 37 - 45oC. Ở 45oC, vi khuẩn có thể phát triển
rất nhanh, từ 7 đến 9 phút cho một thế hệ. Vì vậy, C. perfringens được xem là vi
khuẩn có tốc độ sinh trưởng cao nhất trong các loài vi sinh vật. C. perfringens không
đòi hỏi điều kiện kỵ khí nghiêm ngặt như các loài Clostridium khác. Do đó, một số
chủng C. perfringens vẫn có khả năng phát triển trong môi trường có một ít oxi [21].
Tuy nhiên, C. perfringens thường không thể phát triển trong môi trường có nồng độ
muối từ 6 - 8% hoặc nhiệt độ nuôi cấy nhỏ hơn 12oC, pH thích hợp đối với chủng này
thường ở khoảng 6,0 - 7,5 [60].
C. perfringens có khả năng tiết khoảng 20 độc tố, trong đó có bốn độc tố chính
là alpha, beta, epsilon và iota. Dựa vào các loại độc tố chính được tạo ra, người ta xếp
C. perfringens thành 5 nhóm là: A, B, C, D, và E. Trong đó, tất cả các nhóm này đều
tạo ra độc tố alpha. Độc tố của C. perfringens được trình bày tóm tắc ở Bảng 1.9.
Bảng 1.9. Bảng phân loại độc tố của C. perfringens
Độc tố chính
Nhóm
Alpha Beta Epsilon Iota
A + - - -
B + + + -
C + + - -
D + - + -
E + - - +
Nguồn: [47]
Các trường hợp ngộ độc do C. perfringens ở người đều do 2 chủng C.
perfringens nhóm A và C gây ra. Ngộ độc thực phẩm nhóm A xảy ra phổ biến với tác
nhân chính là độc tố đường ruột, tác động lên các tế bào ở màng ruột, làm tăng tính
thấm của màng gây tiêu chảy. Các triệu chứng do C. perfringens nhóm A gây ra
thường là tiêu chảy, đau thắt ở bụng trong vòng 8 đến 24 giờ sau khi ăn phải thực
phẩm bị nhiễm khuẩn. Ít có trường hợp bị sốt, buồn nôn hay ói mửa. Bệnh thường
chấm dứt sau 2 - 3 ngày và không gây tử vong [5]. Tác nhân gây độc do C.
perfringens nhóm C hiếm xảy ra nhưng thường gây tử vong. Tác nhân gây độc trong
trường hợp này là độc tố beta có khả năng phá hủy các mô nhầy ở thành ruột và gây
viêm nhiễm ruột non. Các triệu chứng của bệnh bao gồm: nôn mửa, đau bụng và tiêu
chảy ra máu. Bệnh thường dẫn tới tử vong do viêm ruột và nhiễm trùng máu [6], [20].
1.2.6. Shigella
Shigella thuộc họ vi khuẩn đường ruột Enterobateriaceae, là vi khuẩn Gram
âm, hình bầu dục, không có lông, không di động, không sinh bào tử. Shigella có
ngưỡng nhiệt phát triển là từ 7 - 46oC, pH: 5,5 - 9, tối ưu ở 37oC và pH 7,8. Riêng S.
sonnei có thể sinh trưởng ở 0oC, do đó có thể tồn tại qua bảo quản lạnh.
Chúng là nguyên nhân gây ra nhiều vụ ngộ độc thực phẩm trên toàn thế giới
[30]. Shigella có hai loại độc tố:
- Độc tố đường ruột: bao gồm hai loại độc tố là ShET1 và ShET2, bền vững ở
1000C, tác động lên đường ruột gây tiêu chảy và thường dẫn đến lỵ.
- Độc tố thần kinh: được gọi là Shigatoxin, là một độc tố rất mạnh chỉ thấy ở S.
dysenteriae 1, tương tự như verotoxin của E. coli O157:H7, tác động đặc hiệu vào hệ
thần kinh. Ngoài ra, Shigatoxin còn được coi là tác nhân gây thương tổn ở niêm mạc
sau khi xâm nhiễm vào tế bào ruột, kích thích sự phá hủy tế bào màng nhầy ruột [59].
Shigella có khả năng gây bệnh với sự có mặt một lượng nhỏ từ 10 đến 200 tế
bào. Sự lan truyền từ người qua người có thể dễ dàng xảy ra qua đường phân hoặc lan
truyền qua đường nước và thức ăn. Đặc tính nổi bật của Shigella là khả năng xâm
nhiễm vào tế bào chủ và phá hủy các mô tế bào. Bệnh do Shigella khởi phát đột ngột
với triệu chứng tiêu chảy liên tục trong ngày kèm theo đau quặn bụng, sốt, nôn mửa,
các biểu hiện của lỵ và nhiễm trùng cấp tính như sốt cao li bì và có thể dẫn đến hôn
mê. Một số biến chứng của bệnh do Shigella như nhiễm trùng máu, các biến chứng
thần kinh và hội chứng tan huyết, có thể dẫn đến tử vong [15].
1.2.7. Vibrio cholerae
V. cholerae là vi khuẩn Gram âm, hình que, hai đầu không bằng nhau tạo thành
hình dấu phảy nên còn được gọi là phảy khuẩn, di động rất nhanh trong môi trường
nước, sống kỵ khí tùy nghi, có tiêm mao ở một cực. Vi khuẩn này phát triển tốt ở 30 -
40oC, chịu được pH kiềm, phát triển tốt ở pH: 8,5 - 9,5, có khả năng chịu mặn. Do đó,
môi trường tăng sinh ban đầu thường được dùng là nước peptone kiềm và thạch kiềm
[8].
V. cholerae có thể gây bệnh do độc tố tả CT (cholerae toxin). Ngoài ra, còn có
LT1 và Stn là những độc tố gây bệnh có nhiều đặc điểm tương tự CT nhưng độc tính
yếu hơn. Độc tố CT là một protein nhạy cảm với nhiệt độ, có trọng lượng phân tử là
8,4 kDa. Sự có mặt của độc tố CT trong cơ thể sẽ gây nên một chuỗi các rối loạn
chuyển hóa bên trong tế bào, đáng kể nhất là hoạt hoá adenylate cyclase, làm tăng
cAMP, gây bài tiết nước, Cl- và ức chế sự hấp thu Na+. Nếu khối lượng nước bị tiết ra
quá lớn, vượt xa khả năng tái hấp thu của ruột sẽ gây tiêu chảy ồ ạt, nhanh chóng mất
nước và điện giải (có thể lên đến 200 lít/ngày) và dẫn đến tử vong [5].
Sự lan truyền bệnh tả chủ yếu do nguồn nước bị nhiễm khuẩn từ phân người
bệnh. Ngoài ra, thức ăn cũng là một nguyên nhân truyền bệnh quan trọng. Nguồn lây
bệnh qua thực phẩm chủ yếu là từ hải sản. Thời kỳ ủ bệnh do nhiễm V. cholerae kéo
dài từ 24 - 48 giờ. Các triệu chứng lâm sàng ban đầu là đầy hơi, chướng bụng sau đó
chuyển dần sang các biểu hiện điển hình của bệnh tả là khởi phát đột ngột với các dấu
hiệu là tiêu chảy xối xả phân lỏng, mất nước và chất điện giải nhanh chóng. Kế đến là
ói mửa dẫn đến tình trạng trụy tim mạch và gây tử vong. Phần lớn bệnh nhân không
bị sốt. Tỷ lệ tử vong của bệnh tả này là hơn 60% nếu không được cấp cứu kịp thời
[3], [64], [65].
1.2.8. Listeria monocytogenes
Listeria monocytogenes là trực khuẩn Gram dương, kích thước nhỏ, đôi lúc xếp
thành chuỗi ngắn, không tạo bào tử, chuyển động xoay tròn trong tiêu bản giọt treo
khi nuôi cấy ở 20 - 25oC. L. monocytogenes có ngưỡng nhiệt phát triển từ: - 4oC -
37oC. Do đó, chúng thường là tác nhân gây ngộ độc thực phẩm trong các loại thức ăn
được bảo quản lạnh [1], [8].
L. monocytogenes có khả năng xâm nhiễm cao và sinh sản nhanh chóng không
chỉ ngoại bào mà ngay cả nội bào thậm chí trong các đại thực bào. Bệnh do L.
monocytogenes gây ra ở người thường là viêm màng não, nhiễm khuẩn máu và đôi
khi có thể gây áp xe não. Tỷ lệ tử vong do L. monocytogenes khá cao từ 20 - 25%.
Một khi đã chuyển sang các biến chứng như viêm màng não hoặc nhiễm trùng máu
thì tỉ lệ tử vong lên đến 50 - 70%. Ở phụ nữ mang thai, đặc biệt là phụ nữ mang thai
đến tháng thứ ba, L. monocytogenes có thể vào bào thai gây ra hậu quả nghiêm trọng
có thể dẫn tới xảy thai hoặc chết non [40], [57].
1.2.9. Vibrio parahaemolyticus
V. parahaemolyticus là vi khuẩn Gram âm, không sinh bào tử, hình que, di
động, là loại vi khuẩn hiếu khí tùy ý. Đây là loại vi khuẩn ưa mặn, có thể sinh trưởng
ở nồng độ NaCl từ 0,5 - 10%, tối ưu ở nồng độ NaCl 3%, thích hợp với nhiệt độ từ 5
- 43oC, tối ưu là 37oC, chịu được pH từ 4,8 - 11 và tối ưu ở pH từ 7,8 - 8,6. V.
parahaemolyticus sinh sản nhanh, ở điều kiện thuận lợi, thời gian cho một thế hệ của
chúng là 9 - 10 phút. Chúng hiện diện phổ biến trong nước biển và có thể tồn tại
trong thủy hải sản, chúng cũng có thể sống sót trong điều kiện đông lạnh. Do vậy cần
lưu ý khi bảo quản thực phẩm, nhất là thực phẩm đông lạnh [19], [66].
Các chủng V. parahaemolyticus có phản ứng Kanagawa dương tính, thường
tiết ra độc tố TDH. Các độc tố này có cấu tạo và cơ chế gây bệnh tương tự như độc tố
tả cholerae ở V. cholerae, có vai trò hoạt hóa adenyl cyclase làm tăng quá trình tổng
hợp cAMP dẫn đến việc tiết ion Cl- quá mức vào ruột. Hậu quả là NaCl được tích lũy
cao ở bên trong lòng ruột nên nước bị kéo vào trong lòng ruột một cách thụ động, gây
nên tiêu chảy. Tiêu chảy làm mất đi một lượng lớn nước cùng với ion K+ và
bicarbonate. Bệnh tiêu chảy do V. parahaemolyticus gây ra có các triệu chứng như ớn
lạnh, buồn nôn, đau thắt vùng bụng và sốt. Thường những triệu chứng này xuất hiện
trong vòng 24 giờ sau khi nhiễm khuẩn. Bệnh thường kéo dài từ 1 đến 7 ngày, đôi khi
dài hơn, trung bình khoảng 2,5 ngày [21].
1.2.10. Clostridium botulinum
C. botulinum thuộc vi khuẩn Gram dương, hình que, kỵ khí bắt buộc, có khả
năng tạo bào tử . Bào tử của C. botulinum có thể chịu được nhiệt độ 105oC trong 1 - 2
giờ và bị tiêu diệt ở 120oC sau 20 - 30 phút. Một vài chủng bào tử có thể chịu đựng
được nhiệt độ cao: 120oC trong vài giờ. C. botulinum chỉ tăng trưởng được ở nhiệt độ
thích hợp là 34 - 35oC, với pH nằm trong khoảng 7,4 - 7,6.
C. botulinum gây bệnh chủ yếu là do độc tố thần kinh botulin, độc tố này được
xem là độc tố có độc tính mạnh nhất trong tự nhiên, độc tính của nó có thể gấp
100.000 lần so với độc tố của rắn chuông. Chỉ cần 0,1μg độc tố này cũng có thể gây
chết người. Đây là một ngoại độc tố có bản chất protein, kém bền với nhiệt, bao gồm
7 loại độc tố được ký hiệu lần lượt là: A, B, C, D, E. F và G [20], [14].
Trong các nhóm độc tố của C. botulinum được phân loại như trên, chỉ có nhóm
A, B, E và F có khả năng gây độc cho người. Các triệu chứng gây độc thường xuất
hiện sau 18 - 36 giờ kể từ khi bệnh nhân ăn phải thực phẩm bị nhiễm độc tố. Triệu
chứng ban đầu thường là buồn nôn, ói mửa và đau bụng. Bệnh nhân có thể bị tiêu
chảy hoặc táo bón nhưng không sốt. Sau đó là các triệu chứng có liên quan đến thần
kinh như khó nuốt, khó phát âm, sa mí mắt, các cơ bị mỏi hay yếu đi. Bệnh nhân
không thể nhận thức minh bạch, nhức đầu, choáng váng. Trong giai đoạn cuối, nếu
không được điều trị kịp thời, bệnh nhân khó thở, thở nhanh và gấp, cuối cùng chết do
nghẹt thở [33].
Danh mục các vi sinh vật gây bệnh trong thực phẩm đường phố được chúng tôi
chọn để làm chỉ tiêu phân tích trong luận văn này bao gồm: Escherichia coli,
Salmonella spp, Clostridium perfringens, Bacillus cereus và Staphylococus aureus.
1.3. Các phương pháp phát hiện vi sinh vật trong thực phẩm
1.3.1. Phương pháp truyền thống
Phương pháp nuôi cấy có lịch sử phát triển và ứng dụng lâu dài từ những năm
80 của thế kỷ XIX, nên đã được các cơ quan có thẩm quyền công nhận ở mức quốc
gia cũng như quốc tế. Hiện nay, các phương pháp nuôi cấy đang được sử dụng rộng
rãi và được công nhận là phương pháp chuẩn trong xét nghiệm vi sinh vật gây bệnh
[7], [8], [9]. Quy trình phát hiện vi sinh vật theo phương pháp truyền thống gồm các
bước cơ bản sau:
- Tăng sinh: là quá trình làm tăng số lượng vi sinh vật mục tiêu trên môi trường
nuôi cấy, đồng thời hạn chế quá trình phát triển của các vi sinh vật khác. Quá trình
tăng sinh có thể gồm hai giai đoạn: Giai đoạn tăng sinh và giai đoạn tăng sinh chọn
lọc trên môi trường đặc trưng.
- Phân lập: là quá trình tách vi sinh vật mục tiêu ra khỏi quần thể vi sinh vật
ban đầu dựa trên một số tính đặc trưng của vi sinh vật đích.
- Khẳng định sinh hóa: là dùng các thử nghiệm sinh hóa, thử nghiệm miễn dịch
để định danh vi sinh vật [8].
Nhược điểm của đa số các phương pháp truyền thống là tốn nhiều thời gian,
chậm thu kết quả, mất nhiều công sức, tốn kém. Để khắc phục những nhược điểm
này, nhiều phương pháp nhanh và tự động đã được phát triển và thương mại hóa. Các
phương pháp này có thể được gọi chung là các phương pháp không truyền thống, các
phương pháp không hiện đại có đặc điểm chung là cho kết quả nhanh hơn các
phương pháp truyền thống.
1.3.2. Các phương pháp hiện đại
1.3.2.1. Phương pháp phát quang sinh học ATP
Đây là phương pháp định lượng tổng số vi sinh vật hiếu khí dựa trên nguyên
tắc định lượng ATP. Phân tử adenosine triphosphate (ATP) được tìm thấy trong tất cả
các tế bào sống, nên sự phát hiện ATP là dấu hiệu để nhận biết vật thể sống đang tồn
tại. ATP được phát hiện một cách nhanh chóng bởi lượng ánh sáng phát ra thông qua
sự kết hợp với enzyme luciferase nhờ một máy đo ánh sáng. Kỹ thuật này có độ nhạy
cao, có thể phát hiện 1pg ATP tương ứng với 103 tế bào vi khuẩn. Tuy nhiên, phương
pháp phát quang dựa trên ATP không thể phát hiện các vi sinh vật chuyên biệt [8].
Ngày nay, sự phát quang sinh học đã được sử dụng khá rộng rãi để đánh giá
chất lượng vệ sinh bề mặt thiết bị trong quá trình sản xuất, chế biến, đánh giá chất
lượng thực phẩm, mỹ phẩm. Quy trình thực hiện rất đơn giản, cho kết quả nhanh
chóng trong vài phút và có thể dễ dàng tự động hóa. Nguyên tắc chung của quy trình
này là: mẫu được thu bằng cách dùng que bông vô trùng quẹt một diện tích nhất định
trên bề mặt dụng cụ, thiết bị. Sau đó que bông được cho vào dung dịch ly trích ATP,
xử lý với ATPase và cho phản ứng ánh sáng [8].
1.3.2.2. Phương pháp ELISA (Enzyme-Linked Immuno Sorbent Assay)
Nguyên tắc của phương pháp miễn dịch này là phản ứng kết hợp giữa một
kháng nguyên với một kháng thể đặc hiệu. Tín hiệu của phản ứng miễn dịch có thể
nhận biết thông qua sự ngưng tủa hay kết dính của kháng nguyên-kháng thể hoặc
bằng cách sử dụng những kháng thể đã được đánh dấu bằng chất nhuộm phát huỳnh
quang, đồng vị phóng xạ hay enzyme [3]. Cụ thể là ta sử dụng kháng thể phủ bên
ngoài những đĩa giếng (microplate). Kháng nguyên (nếu có) trong mẫu sẽ được giữ
lại trên bề mặt giếng. Các kháng nguyên này sẽ được phát hiện bằng cách sử dụng
kháng thể thứ cấp có gắn với enzyme như: horseradish peroxidase hoặc alkaline
phosphatase [9]. Khi bổ sung một cơ chất đặc hiệu của enzyme vào giếng, enzyme sẽ
xúc tác phản ứng thủy phân cơ chất để tạo ra sản phẩm có màu hoặc phát sáng [8].
Theo dõi sự thay đổi màu có thể phát hiện và định lượng được lượng kháng nguyên
trong mẫu [4].
Phương pháp hấp phụ miễn dịch dùng enzyme (ELISA) được quan tâm nhiều
do tính đơn giản và hiệu quả cao.
1.3.2.3. Phương pháp lai phân tử (Hybridization)
Từ những năm 1980, nhiều nghiên cứu được tiến hành nhằm ứng dụng các
thành tựu kỹ thuật di truyền, sinh học phân tử vào lĩnh vực thực phẩm [8].
Đây là phương pháp sử dụng mẫu dò để phát hiện vi sinh vật trong thực phẩm
dựa trên sự phát hiện một đoạn gen đặc trưng của vi sinh vật qua quá trình lai. Cơ sở
của sự lai phân tử là sự tách rời hai mạch đơn của chuỗi xoắn kép DNA khi nhiệt độ
môi trường vượt quá nhiệt độ nóng chảy (Tm ) và sự tái bắt cặp trở lại giữa hai mạch
khi nhiệt độ được giảm từ từ. Một trong hai mạch DNA bổ sung (thường là DNA
mục tiêu) được cố định trên một giá thể rắn hoặc nằm ngay trên tế bào hay mô. Sự tái
bắt cặp chỉ xảy ra giữa hai trình tự hoàn toàn bổ sung. Các trình tự bổ sung có thể là
DNA hay RNA, dẫn đến sự hình thành các phân tử lai DNA-DNA hay DNA-RNA
[10].
Quá trình lai phân tử chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi các yếu tố: nồng độ DNA
trong môi trường, nhiệt độ và thời gian phản ứng, kích thước các trình tự lai và lực
ion của môi trường.
1.3.2.4. Phương pháp PCR (Polymerase Chain Reaction)
Phương pháp PCR là một phương pháp in vitro để tổng hợp DNA dựa trên
khuôn là một trình tự đích DNA ban đầu, khuếch đại, nhân số lượng bản sao của
khuôn này thành hàng triệu bản sao nhờ hoạt động của enzyme DNA polymerase và
một cặp mồi (primer) đặc hiệu cho đoạn DNA đó [8], [11]. Kỹ thuật này do Karl
Mullis và cộng sự (Mỹ) phát minh vào năm 1985. Hiện nay, kỹ thuật PCR được sử
dụng rộng rãi để phát hiện, chuẩn đoán bệnh, phát hiện các vi sinh vật có trong thực
phẩm.
Phương pháp này dựa trên nguyên tắc là: tất cả các DNA polymerase đều cần
những mồi chuyên biệt để tổng hợp một mạch DNA mới từ khuôn. Mạch khuôn
thường là một trình tự DNA của gen (gọi là trình tự DNA mục tiêu) đặc trưng cho
loài vi sinh vật mục tiêu hoặc là gen quy định việc tổng hợp một loại độc tố chuyên
biệt của vi sinh vật này. Mồi là những đoạn DNA ngắn, có khả năng bắt cặp bổ sung
với một đầu của mạch khuôn. Nhờ hoạt động của DNA polymerase đoạn mồi này
được nối dài để hình thành mạch mới có trình tự bổ sung ngược chiều với mạch
khuôn. Nếu có hai mồi chuyên biệt bắt cặp bổ sung ở hai đầu của một trình tự DNA,
ở điều kiện đảm bảo hoạt động của DNA polymerase trong phản ứng PCR, số lượng
bản sao của đoạn DNA nằm giữa hai mồi sẽ được nhân lên (khuếch đại) đến mức có
thể thấy được vạch của DNA sau khi nhuộm bằng Ethidium bromide [3], [7], [8].
Để khuếch đại một trình tự DNA xác định, cần phải có những thông tin tối
thiểu về trình tự của DNA, đặc biệt là trình tự base ở hai đầu đoạn DNA đủ để tạo
được cặp mồi chuyên biệt. Cặp mồi này gồm một mồi xuôi (sense primer) và một
mồi ngược (antisense primer) so với chiều phiên mã của gen.
Ngoài các phương pháp không truyền thống trên, hiện nay còn sử dụng một số
phương pháp thử nhanh khác như:
+ Kỹ thuật phân tách và tăng mật độ: nhằm tách các tế bào vi sinh vật mục tiêu
với các tế bào vi sinh vật khác, bằng cách sử dụng những hạt có từ tính cao được bao
bọc bên ngoài bởi những kháng thể của vi sinh vật mục tiêu [8], [17]. Các hạt này
giúp hấp phụ chọn lọc các vi sinh vật mục tiêu và giữ chúng lại trênbờ mặt các hạt từ
và tách chúng ra khỏi các quần thể vi sinh vật khác [8], [12].
+ Kỹ thuật màng Petri (Petrifilm): kỹ thuật này đã được dùng trong các ứng
dụng kiểm tra tổng vi khuẩn hiếu khí, số coliform, nấm mốc, nấm men. Ưu điểm của
kỹ thuật này là dễ thao tác, tiết kiệm không gian ủ và bảo quản, thời hạn sử dụng lâu
và không cần hấp khử trùng môi trường [8].
+ Kỹ thuật độ dẫn điện, trở kháng (Conductance/ impedance): kỹ thuật này
nhằm phát hiện và định lượng nhanh vi sinh vật dựa trên sự tăng độ dẫn điện của môi
trường do sản phẩm trao đổi chất có tính ion được tiết vào môi trường bởi vi sinh vật.
Môi trường nuôi cấy chọn lọc có tác dụng như dung dịch điện phân. Sự thay đổi về
độ dẫn điện được ghi nhận bởi các thiết bị đo, nhờ vậy giúp phát hiện các vi sinh vật
trong môi trường nuôi cấy [8], [24].
1.3.3. Ưu điểm và nhược điểm của các phương pháp
- Phương pháp truyền thống để phát hiện vi sinh vật gây bệnh được xem là
phương pháp chuẩn và đang được sử dụng phổ biến trong các phòng thí nghiệm và
các trung tâm phân tích. Tuy nhiên, việc phát hiện bằng phương pháp này tốn nhiều
thời gian (5 - 7 ngày), tốn kém và mất nhiều công sức [8].
- Phương pháp ELISA có ưu điểm và độ nhạy cao, nhưng độ đặc hiệu lại thấp,
do có thể hình thành các phản ứng chéo không đặc hiệu giữa các chủng khác nhau,
phương pháp này đòi hỏi độ tinh sạch của mẫu cao nhằm tránh sự ức chế bởi các
protein trong thực phẩm. Mặt khác, mẫu cần nguyên vẹn, không bị biến tính để tránh
trường hợp cho kết quả âm tính giả [58].
- Phương pháp lai phân tử và phương pháp PCR đang được ứng dụng nhiều
nhất hiện nay. Phương pháp lai dùng mẫu dò không đánh dấu bằng phóng xạ (được
khuyến cáo sử dụng) chỉ phát hiện được vi sinh vật ở mức 106 - 108 tế bào/g mẫu.
Trong khi đó, thông thường độ nhạy của phản ứng PCR có thể là 1 - 10 tế bào/g mẫu
[23], [68].
Nhìn chung, so với các phương pháp hiện đại đã đề cập trên, phương pháp
PCR có một số ưu điểm sau:
+ Thời gian cho kết quả nhanh: phương pháp PCR có thể phát hiện vi sinh vật
trong mẫu thực phẩm trong khoảng 1 - 2 ngày, trong khi đó, phương pháp nuôi cấy
truyền thống là 5 - 7 ngày [8].
+ Thao tác đơn giản, có thể phân tích những vi sinh vật khó nuôi cấy, việc nuôi
cấy tăng sinh đơn giản không cần qua giai đoạn tăng sinh chọn lọc.
+ Hoá chất cần cho phản ứng PCR dễ tìm, dễ bảo quản. Không sử dụng nhiều
môi trường nuôi cấy phức tạp như phương pháp nuôi cấy [4].
+ Độ nhạy và độ đặc hiệu của phương pháp PCR cao do nguyên tắc phát hiện
dựa trên kiểu gen chuyên biệt của từng vi sinh vật đích [7].
Hiện nay, phòng thí nghiệm sinh học phân tử Trường Đại học Khoa học tự
nhiên ĐHQG TP. HCM đã chuyển giao các quy trình và bộ kit PCR xét nghiệm các
vi sinh vật gây bệnh trong thực phẩm với giá 30.000 VND, với giá thành này có thể
cạnh tranh với các phương pháp khác [57].
Chính vì những ưu điểm trên mà phương pháp PCR đang ngày càng được sử
dụng rộng rãi trong các xét nghiệm vi sinh.
1.4. Tình hình ứng dụng kỹ thuật PCR vào việc kiểm tra các vi sinh vật gây bệnh
trong thực phẩm trên thế giới và tại Việt Nam
1.4.1. Lịch sử ra đời kỹ thuật PCR
Phương pháp PCR được Kary Mullis người Mỹ phát minh vào năm 1985 và
được thừa nhận chính thức từ năm 1993, ._.ậy dễ dàng nhiễm các vi khuẩn E. coli, B. cereus, C. perfringens, Salmonella từ
đất và S. aureus từ tay người.
3.1.2.3. Nhận xét về tính tương đồng kết quả phân tích của 2 phương pháp
PCR và nuôi cấy
Trong 26 mẫu nước giải khát được kiểm tra bao gồm các loại: nước sâm, nước
mía và nước rau má. Tính tương đồng về kết quả của phương pháp PCR so với
phương pháp nuôi cấy truyền thống được thống kê, phân tích và tổng hợp ở Bảng 3.4
Bảng 3.4. Thống kê kết quả kiểm tra trên nhóm nước giải khát tại TP. HCM theo
phương pháp PCR và nuôi cấy
E. coli S. aureus C. perfringens Thống kê
PCR(+) PCR(-) PCR(+) PCR(-) PCR(+) PCR(-)
NC (+) 17 2 0 0 5 0
NC (-) 0 7 0 26 1 20
Độ chính xác tương
đối (AC%) 92,31% 100% 96,15%
Độ khác biệt giữa hai
phương pháp ( 2 ) 0.5 0 0
Qua bảng thống kê cho thấy:
a. Đối với chỉ tiêu S. aureus
Kết quả giữa phương pháp PCR và phương pháp truyền thống hoàn toàn khớp
với nhau. Tỉ lệ tương đồng giữa hai phương pháp đạt 100%.
b. Đối với chỉ tiêu E. coli
+ Kết quả tương đồng (+) của hai phương pháp: 17/26 mẫu, chiếm tỉ lệ 65,38%
+ Kết quả tương đồng (-): 7/26 mẫu, chiếm tỉ lệ 26,92%
+ Kết quả PCR (-) và NC (+): 2/26 mẫu, chiếm tỉ lệ 7,69%
Như vậy, bộ kit E. coli cho kết quả tương đồng giữa hai phương pháp PCR và
NC là 92,31%, kết quả không tương đồng giữa PCR và NC là 7,69%. Nhưng độ khác
biệt giữa hai phương pháp là 0,5 vẫn nhỏ hơn 3,84, chứng tỏ không có sự khác biệt về
kết quả giữa phương pháp PCR và nuôi cấy.
c. Đối với chỉ tiêu C. perfringens
+ Kết quả tương đồng (+) của hai phương pháp: 5/26 mẫu, chiếm tỉ lệ 19,23%
+ Kết quả tương đồng (-): 20/26 mẫu, chiếm tỉ lệ 76,92%
+ Kết quả PCR (+) và NC (-): 1/26 mẫu, chiếm tỉ lệ 3,85%
Bộ kit C. perfringens cho kết quả tương đồng giữa hai phương pháp PCR và
NC là 96,15%, kết quả không tương đồng PCR (+) và NC (-) là 3,85%. Độ khác biệt
giữa hai phương pháp là 0 nhỏ hơn 3,84. Chứng tỏ độ tin cậy về kết quả giữa phương
pháp PCR và nuôi cấy là tương đương.
3.1.3. Kết quả phân tích nhóm mẫu kem
3.1.3.1. Thống kê kết quả phân tích bằng hai phương pháp
Phân tích 30 mẫu kem (kem ly, kem ký, kem tươi, kem chiên, kem marino và
kem cây) theo phương pháp PCR và nuôi cấy, kết quả được thống kê ở phần phụ lục.
3.1.3.2. Nhận xét về tình hình vệ sinh thực phẩm trên nhóm kem
Trong khi lấy mẫu và khảo sát thực tế tại các điểm bán kem trên địa bàn một số
quận của TP. HCM đã ghi nhận:
- Dùng nước máy để pha chế các nguyên liệu, sử dụng dụng cụ đã cũ, không
sạch sẽ và dùng tay để trộn các nguyên liệu rất mất vệ sinh.
- Tủ đựng kem còn chứa các thực phẩm tươi sống khác như: rau, thịt, cá, hải
sản,… nên các vi sinh vật gây bệnh từ các loại thực phẩm này dễ dàng nhiễm sang
kem. Chính vì vậy mà qua khảo sát sự nhiễm vi sinh vật gây bệnh trong mẫu kem tại
TP. HCM cho kết quả như sau:
Kết quả đánh giá tình hình nhiễm vi sinh vật trong 30 mẫu kem trên địa bàn
TP. HCM theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế được ghi nhận ở Bảng 3.5.
Bảng 3.5. Kết quả khảo sát tình hình nhiễm vi sinh vật trên nhóm kem tại TP.
HCM theo phương pháp PCR và nuôi cấy
Salmonella E. coli S. aureus C. perfingens
Thống kê
PCR NC PCR NC PCR NC PCR NC
Số mẫu không đạt
(N = 30)
0 0 25 21 7 9 0 0
Tỉ lệ mẫu không
đạt (%) 0 0 83,33 70 23,33 30 0 0
NC: phương pháp nuôi cấy; PCR: phương pháp PCR
Kết quả khảo sát tình hình nhiễm vi sinh vật trên nhóm kem tại TP. HCM bằng cả
hai phương pháp được thể hiện ở Biểu đồ 3.3
65.38
73.1
0 0
23.08
19.23
0
10
20
30
40
50
60
70
80
E. coli S. aureus C.perfringens
PCR
NC
Biểu đồ 3.3. Tình hình nhiễm vi sinh vật trên nhóm kem tại TP. HCM
* Kết quả kiểm tra 30 mẫu kem theo phương pháp nuôi cấy
- Số mẫu không đạt tiêu chuẩn là: 21 mẫu nhiễm E. coli chiếm 70%, 9 mẫu nhiễm S.
aureus chiếm 30%, số mẫu không đạt chung là 20 mẫu chiếm tỷ lệ 70% và nhiễm chủ
yếu là E. coli (70% ), sau đó là do S. aureus (30%).
* Kết quả kiểm tra 30 mẫu kem theo phương pháp PCR
- Số mẫu không đạt tiêu chuẩn là: 25 mẫu nhiễm E. coli chiếm 83,33%, 7 mẫu
nhiễm S. aureus chiếm 23,33%, số mẫu không đạt chung là 20 mẫu chiếm tỉ lệ 70%
và chủ yếu cũng do nhiễm E. coli (83,33%), sau đó là do nhiễm S. aureus (23,33%).
Như vậy, mẫu kem không đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm do nhiễm
E. coli là chủ yếu (PCR: 83,33%, nuôi cấy: 70%), sau đó là do nhiễm S. aureus
(PCR: 23,33%, nuôi cấy: 30%).
Như vậy tỉ lệ nhiễm vi sinh vật trên mẫu kem rất cao, cao nhất trong ba nhóm
mẫu được khảo sát, trong đó hiện diện nhiều nhất là E. coli, kế tiếp là do S. aureus,
điều này cho thấy tình trạng không đảm bảo vệ sinh trong khâu chế biến, bảo quản và
sử dụng sản phẩm rất phổ biến. Do vậy, cần đảm bảo vấn đề vệ sinh an toàn thực
phẩm đối với các loại thực phẩm là điều cần thiết và cấp bách hiện nay.
3.1.3.3. Nhận xét về tính tương đồng về kết quả phân tích giữa phương pháp
PCR và nuôi cấy
Kết quả kiểm tra 30 mẫu kem theo phương pháp PCR và nuôi cấy. Tính tương
đồng của hai phương pháp được thể hiện ở Bảng 3.6
Bảng 3.6. Thống kê kết quả kiểm tra trên nhóm kem tại TP. HCM
theo phương pháp PCR và nuôi cấy
Salmonella E. coli S. aureus C. perfringensKý hiệu mẫu
PCR(+) PCR(-) PCR(+) PCR(-) PCR(+) PCR(-) PCR(+) PCR(-)
NC (+) 0 0 21 0 7 2 0 0
NC (-) 0 30 4 5 0 21 0 30
Độ chính xác tương
đối (AC%) 100% 86,67% 93,33% 100%
Độ khác biệt giữa
hai phương pháp
( 2 )
0 2,25 0,5 0
Qua bảng thống kê cho thấy tính tương đồng của phương pháp PCR so vớiu
phương pháp nuôi cấy như sau:
a. Đối với chỉ tiêu Salmonella và C. perfringens
Độ tương đồng giữa hai phương pháp là 100%, cả hai phương pháp đều không
pháp hiện Salmonella và C. perfringens trong các mẫu kem.
b. Đối với chỉ tiêu E. coli
+ Kết quả tương đồng (+) của hai phương pháp: 21/30 mẫu, chiếm 70%
+ Kết quả tương đồng (-): 5/30 mẫu, chiếm tỉ lệ 16,67%
+ Kết quả PCR (+) và NC (-): 4/30 mẫu, chiếm tỉ lệ 13,33%
Như vậy, bộ kit PCR phát hiện E. coli cho kết quả tương đồng giữa hai phương
pháp PCR và NC là 86,67%, kết quả không tương đồng giữa là 13,33%. Nhưng độ
khác biệt giữa hai phương pháp là 2,25 vẫn nhỏ hơn 3,84. Chứng tỏ không có sự khác
biệt về kết quả phân tích giữa phương pháp PCR và nuôi cấy.
c. Đối với chỉ tiêu S. aureus
+ Kết quả tương đồng (+): 7/30 mẫu, chiếm tỉ lệ 23,33%
+ Kết quả tương đồng (-): 21/30 mẫu, chiếm tỉ lệ 70%
+ Kết quả PCR (-) và NC (+): 2/30 mẫu, chiếm tỉ lệ 6,67%
Như vậy, bộ kit PCR phát hiện S. aureus cho kết quả tương đồng giữa hai
phương pháp PCR và NC là 93,33%, kết quả không tương đồng giữa PCR và NC là
6,67%. Tuy nhiên, độ khác biệt giữa hai phương pháp là 0,5 nhỏ hơn 3,84, chứng tỏ
không có sự khác biệt về kết quả giữa phương pháp PCR và nuôi cấy.
Từ các kết quả phân tích trên đã khẳng định: các quy trình, bộ kit PCR phát
hiện E. coli, S. aureus, Salmonella, B. cereus và C. perfringens hiện diện trong thực
phẩm đều cho kết quả tương đương với phương pháp nuôi cấy truyền thống. Vì vậy,
có thể áp dụng quy trình và các bộ kit này để phát hiện sự có mặt của các vi sinh vật
trên trong các mẫu thực phẩm.
3.2. Kết luận chung
3.2.1. Mức độ nhiễm vi sinh vật gây bệnh trong thực phẩm đường phố trên
địa bàn TP. HCM
Chúng tôi đã tiến hành thu thập và kiểm tra tổng cộng 77 mẫu, bao gồm: 21
mẫu sữa (sữa đậu xanh: 6 mẫu, sữa đậu nành: 5 mẫu, sữa chua: 5 mẫu và sữa tươi: 5
mẫu); 26 mẫu nước giải khát (nước sâm: 8 mẫu, nước mía: 8 mẫu và nước rau má: 10
mẫu) và 30 mẫu kem (kem tươi: 10 mẫu, kem ký: 6 mẫu, kem ly: 4 mẫu, kem cây: 8
mẫu, 1 mẫu kem Marino và 1 mẫu kem chiên) tại các địa điểm: Quận 3 (chợ Bùi
Phát, đường Nguyễn Thị Minh Khai, đường Võ Văn Tần và đường Cách Mạng
Tháng Tám); Quận 5 (đường Nguyễn Biểu, đường Hồng Bàng, đường Trần Bình
Trọng và đường Nguyễn Văn Cừ); Quận 8 (chợ Rạch Ông, đường Nguyễn Biểu,
đường Nguyễn Thị Tần, đường Phạm Thế Hiển, đường Dạ Nam và đường Âu Dương
Lân); Quận 10 (đường Nguyễn Tri Phương, đường 3 tháng 2, đường Lê Hồng Phong
và đường Sư Vạn Hạnh) và Quận Tân Bình (đường Cách Mạng Tháng Tám, đường
Bàu Cát và đường Bình Giã). Qua kết quả kiểm tra cho thấy tình hình nhiễm các loại
vi sinh vật gây bệnh trên nhóm thực phẩm đường phố tại địa bàn TP. HCM như sau:
3.2.1.1. Đối với nhóm sữa
Tiến hành thu và phân tích 21 mẫu sữa, kết quả phân tích theo phương pháp
nuôi cấy và PCR cho thấy tình hình nhiễm vi sinh vật gây bệnh trong nhóm sữa
chiếm tỉ lệ 52,4% so với quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với mẫu sữa của
Bộ Y tế (867/QĐ-BYT, 04/1998). Trong đó tỉ lệ nhiễm cao nhất là E. coli (47,62%),
sau đó là nhiễm B. cereus (40,48%) và cuối cùng là do nhiễm S. aureus (30,95%),
không phát hiện sự hiện diện của Salmonella.
3.2.1.2. Đối với nhóm nước giải khát
Phân tích 26 mẫu nước giải khát theo hai phương pháp, kết quả cho thấy tình
hình nhiễm vi sinh vật gây bệnh trong nhóm thực phẩm này chiếm 76,9% so với chỉ
tiêu cho phép của Bộ Y tế (867/QĐ-BYT, 04/1998), trong đó nhiễm cao nhất vẫn là
E. coli (69,24%), sau đó là do nhiễm C. perfringens (21,16%), trong nhóm này không
phát hiện sự hiện diện của S. aureus.
3.2.1.3. Đối với nhóm kem
Phân tích 30 mẫu kem, kết quả của hai phương pháp cho thấy, số mẫu không
đạt so với chỉ tiêu cho phép của Bộ Y tế (867/QĐ-BYT, 04/1998) chiếm tỷ lệ 70% ,
trong đó, tỉ lệ nhiễm cao nhất vẫn là E. coli (76,67% ), tiếp đó tới S. aureus (26,67%),
ở nhóm này không phát hiện sự hiện diện của Samonella và C. perfringens.
Như vậy qua khảo sát tình hình nhiễm vi sinh vật gây bệnh trên nhóm thực
phẩm đường phố tại địa bàn TP. HCM cho thấy tình hình nhiễm vi sinh trong nhóm
thực phẩm này rất cao so với quy định của Bộ Y tế. Chính vì thế cần phải có những
giải pháp để khắc phục hiện trạng này, nhằm đảm bảo sức khỏe, tính mạng người dân
và sự phát triển bền vững của đất nước.
3.2.2. Nhận xét chung về độ chính xác tương đối của phương pháp PCR so
với phương pháp nuôi cấy
Kết quả khảo sát tình hình nhiễm vi sinh vật gây bệnh trong ba nhóm thực
phẩm đường phố là sữa, nước giải khát và kem trên địa bàn TP. HCM đều cho thấy
tính tương đồng của phương pháp PCR so với phương pháp nuôi cấy là tương đương
nhau.
Tính tương đồng về kết quả giữa phương pháp PCR và nuôi cấy được thống
kê, phân tích và tổng hợp theo Bảng 3.7 và Bảng 3.8.
Bảng 3.7. Tính tương đồng của phương pháp PCR so với phương
pháp nuôi cấy đối với chỉ tiêu Salmonella, E. coli, S. aureus
Salmonella E. coli S. aureus Chỉ tiêu
PCR(+) PCR(-) PCR(+) PCR(-) PCR(+) PCR(-)
NC (+) 0/51 0/51 48/77 3/77 12/77 3/77
NC (-) 0/51 51/51 4/77 22/77 2/77 60/77
Độ chính xác tương đối AC%) 100 90,91 93,51
Độ khác biệt giữa hai phương
pháp ( 2 ) 0 0 0
Bảng 3.8. Tính tương đồng của phương pháp PCR so với phương pháp nuôi
cấy đối với chỉ tiêu B. cereus C. perfringens
B. cereus C. perfringens
Chỉ tiêu PCR(+) PCR (-) PCR(+) PCR (-)
NC (+) 8/21 0/21 5/56 0/56
NC (-) 1/21 12/21 1/56 50/56
Độ chính xác tương đối (AC%) 95,24 98,21
Độ khác biệt giữa hai
phương pháp ( 2 ) 0 0
Kết quả phân tích tính tương đồng cuả phương pháp PCR và nuôi cấy ở Bảng
3.7 và Bảng 3.8 cho thấy:
a. Trường hợp các chỉ tiêu Salmonella
Bộ kit PCR phát hiện Salmonella trong thực phẩm cho kết quả tương đồng
giữa phương pháp PCR và nuôi cấy là 100%. Độ chính xác tương đối đạt 100%. Độ
khác biệt giữa hai phương pháp là 0. Chứng tỏ độ tin cậy về kết quả giữa phương
pháp PCR và phương pháp nuôi cấy trong phân tích này là tương đương nhau.
b. Trường hợp các chỉ tiêu E. coli
+ Kết quả tương đồng (+) của cả hai phương pháp: 48/77 mẫu, chiếm tỉ lệ
62,34%
+ Kết quả tương đồng (-): 22/77 mẫu, chiếm tỉ lệ 28,57%
+ Kết quả PCR (+) và NC (-): 4/77 mẫu, chiếm tỉ lệ 5,19%
+ Kết quả PCR (-) và NC (+): 3/77 mẫu, chiếm tỉ lệ 3,90%.
Bộ kit PCR phát hiện E. coli trong thực phẩm cho kết quả tương đồng giữa
phương pháp PCR và nuôi cấy là 90,91%, kết quả không tương đồng giữa hai phương
pháp là 9,09%. Độ khác biệt giữa hai phương pháp là 0. Chứng tỏ độ tin cậy về kết
quả giữa phương pháp PCR và nuôi cấy là tương đương.
c. Trường hợp các chỉ tiêu S. aureus
+ Kết quả tương đồng (+) của cả hai phương pháp: 12/77 mẫu, chiếm tỉ lệ
15,58%
+ Kết quả tương đồng (-) : 60/77 mẫu, chiếm tỉ lệ 77,92%
+ Kết quả PCR (+) và NC (-) : 2/77 mẫu, chiếm tỉ lệ 2,60%
+ Kết quả PCR (-) và NC (+) : 3/77 mẫu, chiếm tỉ lệ 3,89%
Bộ kit PCR phát hiện S. aureus trong thực phẩm cho kết quả tương đồng giữa
hai phương pháp PCR và nuôi cấy là 93,51%, kết quả không tương đồng giữa hai
phương pháp là 6,49%. Không có sự khác biệt giữa hai phương pháp. Chứng tỏ độ
tin cậy về kết quả giữa phương pháp PCR và nuôi cấy là tương đương.
d. Trường hợp các chỉ tiêu B. cereus
+ Kết quả tương đồng (+) : 8/21 mẫu, chiếm tỉ lệ 38,1%
+ Kết quả tương đồng (-) : 12/21 mẫu, chiếm tỉ lệ 57,14%
+ Kết quả PCR (+) và NC (-) : 1/21 mẫu, chiếm tỉ lệ 4,76%
+ Kết quả PCR (-) và NC (+) : 0/21 mẫu, chiếm tỉ lệ 0%
Bộ kit PCR phát hiện B. cereus trong thực phẩm cho kết quả tương đồng giữa
hai phương pháp PCR và nuôi cấy là 95,24 %, kết quả không tương đồng giữa hai
phương pháp là 4,76%. Độ khác biệt giữa hai phương pháp là 0. Chứng tỏ độ tin cậy
về kết quả giữa hai phương pháp PCR và nuôi cấy là như nhau.
e. Trường hợp các chỉ tiêu C. perfringens
+ Kết quả tương đồng (+) của cả hai phương pháp: 5/56 mẫu, chiếm tỉ lệ
8,93%
+ Kết quả tương đồng (-) : 50/56 mẫu, chiếm tỉ lệ 89,29%
+ Kết quả PCR (+) và NC (-) : 1/56 mẫu, chiếm tỉ lệ 1,78%
+ Kết quả PCR (-) và NC (+) : 0/65 mẫu, chiếm tỉ lệ 0%
Bộ kit PCR phát hiện C. perfringens trong thực phẩm cho kết quả tương đồng
giữa hai phương pháp PCR và nuôi cấy là 98,21%, kết quả không tương đồng giữa
hai phương pháp là 1,78%. Độ khác biệt giữa hai phương pháp là 0. Chứng tỏ độ tin
cậy về kết quả giữa hai phương pháp PCR và nuôi cấy là tương đương.
Từ các kết quả phân tích các chỉ tiêu vi sinh ở trên, có thể khẳng định: quy
trình và các bộ kit PCR phát hiện sự hiện diện của Salmonella, E. coli, S. aureus, B.
cereus và C. perfringens trong thực phẩm là đáng tin cậy và tương đương với phương
pháp nuôi cấy truyền thống.
3.2.3. Nhận xét về ưu điểm và nhược điểm của phương pháp PCR so với
phương pháp nuôi cấy truyền thống
3.2.3.1. Ưu điểm
- Các kết quả phân tích giữa phương pháp PCR và phương pháp nuôi cấy
truyền thống trên các chỉ tiêu vi sinh: E. coli, Salmonella, S. aureus, B.cereus và C.
perfringens đều cho thấy kết quả của phương pháp PCR là tương đương với phương
pháp nuôi cấy. Trong đó có một số trường hợp sai khác như sau:
+ Trong nhóm sữa
Ở chỉ tiêu S. aureus, kết quả phân tích theo phương pháp PCR có 7/21 mẫu (+),
kết quả phân tích theo phương pháp nuôi cấy có 6/21 mẫu (+). Chỉ tiêu B. cereus, kết
quả theo phương pháp PCR có 9/21 mẫu (+), theo phương pháp nuôi cấy có 8/21 mẫu
(+). Các chỉ tiêu khác đều như nhau.
+ Trong nhóm nước giải khát
Ở chỉ tiêu E. coli, kết quả phân tích theo phương pháp PCR có 17/26 mẫu (+),
kết quả theo phương pháp nuôi cấy có 19/26 mẫu (+).
Chỉ tiêu C. perfringens, kết quả theo PCR có 6/26 mẫu (+), theo nuôi cấy có 5/26
mẫu (+). Các chỉ tiêu khác thì tương đương.
+ Trong nhóm kem
Ở chỉ tiêu E. coli, kết quả phân tích theo phương pháp PCR có 25/30 mẫu (+),
kết quả theo phương pháp nuôi cấy có 21/30 mẫu (+). Chỉ tiêu S. aureus, kết quả theo
phương pháp PCR có 7/30 mẫu (+), theo nuôi cấy có 9/30 mẫu (+). Các chỉ tiêu còn
lại như nhau.
Mặc dù có một vài sai khác về kết quả khi phân tích chỉ tiêu vi sinh trong các
mẫu thực phẩm trên, nhưng độ khác biệt giữa hai phương pháp trong tất cả các
trường hợp đều nhỏ hơn 3,84. Chứng tỏ, hai phương pháp này có độ tin cậy như
nhau. Mặc khác, trong một số trường hợp phương pháp PCR tỏ ra có độ nhạy cao hơn
phương pháp nuôi cấy truyền thống và đây cũng là ưu điểm của phương pháp PCR
đối với mục đích xét nghiệm nhanh truy tìm nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm
hiện nay ở nước ta.
- Ngoài ra, phương pháp PCR còn có ưu điểm là cho kết quả nhanh, trong vòng
24 giờ đối với tất cả các vi sinh vật cần xét nghiệm. Vì thế, phương pháp PCR giúp
tìm ra nguyên nhân gây ngộ độc nhanh hơn so với phương pháp nuôi cấy. Đây là
điểm vượt trội của phương pháp PCR so với phương pháp nuôi cấy trong việc xác
định nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm.
- Hơn nữa, phương pháp PCR có thể xét nghiệm dễ dàng hầu hết các vi sinh
vật gây ngộ độc thực phẩm trong cùng một thời gian, cùng một nguyên tắc và cùng
một thiết bị, do đó ít tốn nhiều nhân lực, thời gian khi tiến hành xét nghiệm.
- Hiện nay, Phòng thí nghiệm Sinh học Phân tử Trường ĐHKHTN, ĐHQG TP.
HCM, đã và đang cung cấp các bộ kit xét nghiệm này cho các cơ quan, xí nghiệp có
nhu cầu với giá khoảng 30.000 VND [51].
3.2.3.2. Nhược điểm
Tuy nhiên, phương pháp PCR cũng có một số hạn chế là giá thành bộ kit phân
tích ở các chỉ tiêu E. coli, S. aureus, B. cereus và C. perfringens vẫn còn cao hơn so
với phương pháp truyền thống. Nhưng, giá thành của các bộ kit này vẫn còn thấp hơn
nhiều lần so với các bộ kit cùng chủng loại được nhập từ nước ngoài mà vẫn đảm bảo
ưu điểm về thời gian cũng như tính chích xác về kết quả của bộ kit. Mặc khác,
phương pháp PCR đòi hỏi phải có các trang thiết bị hiện đại như máy PCR, máy ly
tâm, máy vortex, hệ thống điện di và máy xem kết quả điện di thì mới có thể tiến
hành kỹ thuật PCR.
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Với các kết quả thực nghiệm thu được đã trình bày ở phần trên, chúng tôi có
một số kết luận như sau:
- Kết quả ứng dụng quy trình, bộ kit PCR phát hiện E. coli, Salmonella, S.
aureus, B. cereus và C. perfringens trong thực phẩm để kiểm tra tình hình an toàn vệ
sinh thực phẩm trên nhóm thực phẩm đường phố tại TP. HCM cho thấy đa số các
thực phẩm thuộc nhóm sữa, kem và nước giải khát trên địa bàn TP. HCM đều có chỉ
tiêu vi sinh cao hơn so với tiêu chuẩn cho phép của Bộ Y tế đối với nhóm thực phẩm
này. Cụ thể là:
+ Đối với nhóm sữa (sữa đậu xanh, sữa đậu nành, sữa tươi và sữa chua), tỉ lệ
nhiễm các vi sinh vật gây bệnh cao hơn so với tiêu chuẩn cho phép của Bộ Y tế
(04/1998) là 52,4%, trong đó hiện diện nhiều nhất là E. coli (chiếm 47,62%), sau đó
là nhiễm B. cereus (chiếm 42,86%) và cuối cùng do nhiễm S. aureus (chiếm 33,33%).
+ Đối với nhóm nước giải khát (nước sâm, nước mía và nước rau má) có tỉ lệ
nhiễm vi sinh cao hơn so với chỉ tiêu cho phép của Bộ Y tế là 76,9%, trong đó nhiễm
chủ yếu cũng là E. coli (chiếm 73,1%), sau đó là do sự hiện diện của C. perfringens
(chiếm 23,08%).
+ Đối với nhóm kem (kem tươi, kem ký, kem ly, kem cây, kem Marino và kem
chiên), tình hình nhiễm vi sinh vật cao hơn so với tiêu chuẩn của Bộ Y tế là 70%,
đứng đầu là do nhiễm E. coli (chiếm 83,33%), sau đó là do nhiễm S. aureus (chiếm
30%).
- Từ các kết quả về tính tương đồng và độ tin cậy giữa phương pháp PCR và
phương pháp nuôi cấy như ở trên, có thể kết luận rằng: kết quả phân tích của quy
trình, bộ kit PCR phát hiện E. coli, Salmonella, S. aureus, B. cereus và C. perfringens
bằng phương pháp PCR là hoàn toàn tương đương với phương pháp nuôi cấy. Kết
quả phân tích các chỉ tiêu vi sinh hiện diện trong thực phẩm bằng phương pháp PCR
là đáng tin cậy.
- Ưu điểm của phương pháp PCR so với phương pháp nuôi cấy là độ nhạy và độ
đặc hiệu cao, có thể phát hiện sự hiện diện của các vi sinh vật gây bệnh ở mức 1 -
10CFU/25g mẫu thực phẩm. Thời gian cho kết quả nhanh, trong vòng 24 giờ, ngắn
hơn rất nhiều so với phương pháp nuôi cấy (từ 3 - 7 ngày). Hơn nữa, các thao tác cuả
kỹ thuật PCR đơn giản, dễ thực hiện và có thể xét nghiệm hầu hết các vi sinh vật
trong cùng một thời gian và thiết bị. Với những ưu điểm này, phương pháp PCR có
thể thay thế phương pháp nuôi cấy truyền thống và phổ biến rộng rãi hơn nữa trong
việc xét nghiệm sự hiện diện của các vi sinh vật gây ngộ độc trong thực phẩm. Tuy
nhiên, phương pháp PCR cũng có nhược điểm là giá thành còn cao và đòi hỏi các
trang thiết bị hiện đại.
4.2. Đề nghị
- Cần ứng dụng quy trình, bộ kit PCR xét nghiệm các vi sinh vật gây bệnh
trong thực phẩm ở nhiều lĩnh vực trong việc giám sát tình hình an toàn vệ sinh thực
phẩm trong nước và xuất nhập khẩu hiện nay tại Việt Nam.
- Sử dụng phương pháp PCR để khảo sát sự nhiễm vi sinh vật gây bệnh trong
nhiều nhóm thực phẩm khác thuộc thức ăn đường phố tại nhiều địa phương trong cả
nước, nhằm đưa ra kết luận chung về tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm đường phố
ở nước ta hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bùi Thị Thu Thuận, Phạm Văn Sổ (1975), Kiểm nghiệm lương thực, thực phẩm,
Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
2. Danh mục tiêu chuẩn vệ sinh đối với lương thực thực phẩm (Theo TCVN và
867/1998/QĐ - BYT).
3. Lê Đình Hùng (1998), Đại cương về phương pháp kiểm tra vi sinh vật thực phẩm,
Trung tâm tiêu chuẩn đo lường chất lượng khu vực III, TP. HCM.
4. Lê Huy Chính (2005), Cẩm nang vi sinh vật y học, Nhà xuất bảm Y học, TP.
HCM
5. Lương Đức Phẩm (2000), Vi sinh vật và an toàn vi sinh thực phẩm, Nhà xuất bản
Nông Nghiệp, Hà Nội.
6. Lương Đức Phẩm và một số tác giả (1980), Vi sinh vật trong lương thực, thực
phẩm, tạp chí lương thực, thực phẩm, Nhà xuất bản Hà Nội.
7. Nguyễn Đức Lượng, Nguyễn Chúc, Lê Văn Việt Mẫn (2001), Thực tập vi sinh vật
học thực phẩm, Trường Đại học Kỹ Thuật TP. HCM.
8. Trần Linh Thước (2002), Phương pháp phân tích vi sinh vật trong nước, thực
phẩm và mỹ phẩm, Nhà xuất bản Giáo dục, TP. HCM
9. Trần Thị Nhài (2005), Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm vi khuẩn trong thịt tươi
sống trên thị trường Hà Nội, Viện khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt
Nam, Hà Nội.
Tiếng Anh
10. Adams abd M.O.Moss (2001), Food Microbiology, published by the Royal
society of chemistry, 60 - 81.
11. C. Schultsz et. Al (1994), Detection of enterotoxigenic Escherichia coli in stool
samples by using nonradioactively labeled oligonucleotide DNA probes and
PCR, J Clin Microbiol. 32 (10), 2392 – 2397.
12. Collins, Lyne (1995), Microbiological Methods. 7th ed. Butterworth.
13. Cynthia W. Brasher, Angelo Depaola, Daniel D. Jones, Asim K. Bej (1998),
Detection of Microbial Pathogens in Shellfish with Multiplex PCR, Curren
Microbiology, 37 (2), 101 – 108.
14. E. Augustynowicz, A. Gzyl and J. Slusarczyk. Detection of enterotoxigenic
Clostridium perfringens with a duplex PCR. J. Med. Microbiol. Patrick. Vol.
54.
15. George A. Wistreich (1997), Microbiology Laboratory Fundamentals and
Applications, Prentice-Hall, Inc., USA
16. Hau-Yang Tsen et. Al. (2002), Bacillus cereus group strains, their hemolysin
activity and their detection in foods using a 16S RNA ang hemolysin gene-
targeted multiplex polymerase chain reaction system, Journal of Food
Protection, 63 (11), 1496 – 1502.
17. James M.Jay (1996), Modern food and microbiology.
18. James P. Nataro, James B. Kaper (1998), Diarrheagenic Escherichia coli,
Clinical Microbiology Reviews, 11 (1), 142 – 201.
19. Microbiological analysis. FAO food and nutrient paper. Rome.
20. Patrick Fach and Michel R. Popoff (1997), Detection of enterotoxigenic
Clostridium perfringens in food and fecal samples with a duplex PCR and
the slide latex agglutination test. Applied and Enviromental Microbiology
Journal. Vol. 63. No. 11.
21. W. Andrews (1992), Manual of food quality control 4 Rev. 1. Microbiological
analysis. FAO food and nutrient paper. Rome.
22. Wijnands LM., Dufrenne JB., Leusden FM (2002), Characterization of Bacillus
cereus, 2509 – 12002.
23. William C., Frcezier and Denmis C.Westhoff. Food Mcrobiology, Mc Graw- Hill
Book Company,.
24. Ziemer CJ,Steadham SR (2003), Evaluation of the specifity of Salmonella PCR
primers using intestinal bacterial species, Lett Appl Microbiol. 37 (6), 463 –
469.
Từ Internet
25. vne.xpress.net/Vietnam/suc_khoe/2001/06/3B9B1E63/13K.
26. www.biotechvn.com.vn/
27.
28.
29.
30.
31.
32.
33.
34.
35.
36.
37.
38.
39. poisoning
40.
41.
42.
43.
44.
45.
46. www.kcom.edu/faculty/chamberlain/website/lectures/lecture/G14.htm
47.
48.
49.
50.
51.
52.
53.
54.
55.
56. B cereus FAR.pdf
57. www.moh.gov.vn/homebyt/vn/portal/InfoDetail.jsp?area=222&cat=1909&ID=33
79 - 49k
58. www19.dantri.com.vn/suckhoe/2006/7/127935.vip - 88k
59.
D=2
60.
61.
62.
63.
64. www.moh.gov.vn/tainanthuongtich/details.asp?CatMainID=2&Cat_ID=7&NewsI
D=781 - 44k
65. www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2005/07/26/FoodSafetyBelowStandards_TMi/ -
24k
66.
67.
68.
6
69.
nelID=46
70.
71.
72.
73.
D=2079
74.
PHỤ LỤC
KẾT QUẢ KIỂM MẪU THEO PHƯƠNG PHÁP PCR VÀ NUÔI
CẤY
1. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH MẪU SỮA
Salmonella E. coli S. aureus B. cereus Địa điểm thu
mẫu
Tên
mẫu PCR NC PCR NC PCR NC PCR NC
SX3 KPH < 3 KPH KPH KPH
SC3 KPH < 3 KPH KPH KPH Quận 3
Chợ Bùi
Phát
ST3 KPH ≥ 3 3,0.102 4 KPH
SX5 KPH ≥ 3 2,0.103 KPH 2,4.102
SN5 KPH < 3 KPH KPH 7
SX5 KPH < 3 KPH 1,2.102 1,5.102
SC5 KPH < 3 KPH 4 4
Quận
5
Đường
Nguyễn
Biểu
ST5 KPH ≥ 3 2,7.103 KPH KPH
SX8 KPH < 3 1,0.101 4 KPH
SN8 KPH < 3 KPH 2,6.102 KPH
SC8 KPH < 3 KPH KPH KPH
Quận
8
Chợ
Rạch
Ông
ST8 KPH ≥ 3 1,2.101 KPH KPH
SX10 KPH ≥ 3 2,0.105 KPH 4,3.101
SN10 KPH ≥ 3 2,8.101 KPH 1,5.101
SN10 KPH ≥ 3 1,3.101 KPH 9
SC10 KPH < 3 KPH KPH KPH
Quận
10
Chợ
Nguyễn
Tri
Phương
ST10 KPH ≥ 3 8,0.101 KPH KPH
SXTB KPH ≥ 3 KPH KPH KPH
SNTB KPH < 3 KPH 3,5.102 KPH
SCTB KPH < 3 KPH KPH KPH
Quận
Tân
Bình
Đường
Cách
Mạng
Tháng
Tám STTB KPH ≥ 3 4,5.104 KPH 4
SX: sữa đậu xanh; SN: sữa đậu nành; SC: sữa chua; ST: sữa tươi ; KPH:
không phát hiện
2. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH MẪU NƯỚC GIẢI KHÁT
E. coli S. aureus C.perfringens Địa điểm thu mẫu Tên mẫu Ký hiệu mẫu PCR NC PCR NC PCR NC
Nước
sâm H11 KPH KPH KPH
Nước mía H12 9 KPH KPH
Nước rau
má H13 KPH KPH 2,3.10
1
Nước rau
má H14 KPH KPH KPH
Quận 5 Đường Hồng
Bàng
Nước
sâm H15 KPH KPH KPH
Nước mía H16 1,1.102 KPH KPH
Nước rau
má H17 3 KPH KPH
Nước rau
má H18 KPH KPH KPH
Nước
sâm H19 9 KPH 2
Nước
sâm H20 3 KPH KPH
Nước mía H21 4 KPH KPH
Quận 8
Đường
Nguyễn
Biểu –
Nguyễn
Thị Tần
Nước mía H22 9,3.101 KPH KPH
Nước rau
má H25 9,3.10
1 KPH KPH Quận
10
Đường
3/2 Nước rau
má H26 4 KPH KPH
Nước
sâm H27 3,2.10
3 KPH KPH
Nước
sâm H28 1,1.10
2 KPH KPH
Nước mía H29 3,0.102 KPH KPH
Nước mía H30 9,3.101 KPH KPH
Nước rau
má H31 9,3.10
1 KPH 8,0.102
Quận 3
Đường
Nguyễn
Thị
Minh
Khai –
Võ Văn
Tần
Nước rau
má H32 6,0.10
4 KPH KPH
Nước
sâm H33 1,0.10
3 KPH KPH
Nước
sâm H34 (+) 9,3.10
1 KPH KPH
Nước rau
má H35 KPH KPH 2,0.10
2
Nước rau
má H36 15 KPH 6,0.10
1
Nước mía H37 KPH KPH KPH
Quận
Tân
Bình
Đường
Cách
Mạng
Tháng
Tám
Nước mía H38 1,5.103 KPH KPH
3. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH MẪU KEM
Salmonella E. coli S. aureus C.perfringensĐịa điểm thu mẫu Tên mẫu
Ký
hiệu PCR NC PCR NC PCR NC PCR NC
Kem
tươi H75 KPH 9 KPH KPH
Kem
tươi H76 KPH 1,0.10
1 < 10 2,3.101 KPH
Kem ký H77 KPH 2,0.101 ≥ 10 2,3.101 KPH
Kem ký H78 KPH 2,0.103 ≥ 10 2,3.101 KPH
Kem
cây H79 KPH 4,0.10
1 < 10 2,3.101 KPH
Quận
3
Đường
Cách
mạng
tháng tám
Kem
cây H80 KPH 2,0.10
2 ≥ 10 2,3.101 KPH
Đường
Trần Bình
Trọng
Kem
tươi H81 KPH 1,0.101 KPH KPH
Kem
cây H82 KPH KPH KPH KPH
Quận
5
Đường
Trần Tuấn
Khải Kem cây H83 KPH 6,3.10
2 KPH KPH
Kem
tươi H84 KPH 2,0.10
1 KPH KPH
Kem
tươi H85 KPH 3,0.10
1 KPH KPH
Đường
Nguyễn
Văn Cừ Kem
tươi H86 KPH 9 KPH KPH
Kem
cây H87 KPH KPH KPH 10 KPH
Kem ký H88 KPH 7,0.101 ≥ 10 2,3.101 KPH
Đường
Phạm Thế
Hiển Kem
cây H89 KPH 1,7.10
2 ≥ 10 2,3.101 KPH
Kem
Marino H90 KPH KPH KPH KPH Đường Dạ Nam Kem ký H91 KPH KPH KPH KPH
Quận
8
Đường
Âu
Dương
Lân
Kem
tươi H92 KPH 2,0.101 KPH < 10 KPH
Kem ly H93 KPH 4,2.102 KPH KPH Kem Baby
Lê Hồng
Phong
Kem ly H94 KPH 5.103 ≥ 10 9,3.101 < 10 KPH
Tin A - Sư
Vạn Hạnh
Kem ly H95 KPH KPH KPH < 10 KPH
Đường
Sư Vạn
Hạnh
Kem ly
H96 KPH KPH KPH KPH
Sư Vạn
Hạnh
Kem
chiên H97 KPH KPH KPH KPH
Quận
10
Đường
3/2
Kem
tươi H98 KPH KPH KPH KPH
Kem
tươi H99 KPH 1,0.10
1 KPH KPH Đường
Bàu Cát Kem
tưoi H100 KPH 2,0.10
1 ≥ 10 9,3.101 KPH
Kem
cây H101 KPH 4,0.10
1 KPH KPH Đường
Bình Giã Kem
cây H102 KPH 1,3.10
2 KPH KPH
Kem ký H103 KPH 1,0.103 KPH KPH
Quận
Tân
Bình
Cách
Mạng
Tháng
Tám
Kem ký
H104 KPH KPH <10 KPH KPH
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7350.pdf