Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 59
ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP NHIỆT HUỲNH QUANG
TRONG TÍNH TUỔI KHẢO CỔ
ThS. Dương Văn Danh
Trưởng khoa Khoa học Cơ bản, trường Đại học Xây dựng Miền Trung
Tóm tắt: Cho đến nay, trong số những phương pháp khoa học tự nhiên dùng xác định niên
đại đồ gốm và đồ đất nung, đáng chú ý là phương pháp đo tuổi nhiệt huỳnh quang
(Thermolumenescence Dating). Trên thế giới, ở các nước có trình độ khoa học công nghệ
tiên tiến như: Mỹ, Pháp, Anh, Italia, Au
5 trang |
Chia sẻ: huongnhu95 | Lượt xem: 511 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Ứng dụng phương pháp nhiệt huỳnh quang trong tính tuổi khảo cổ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
stralia, Trung Quốc, Nhật Bản phương pháp này
rất được chú trọng. Các nhà khảo cổ học rất quan tâm ứng dụng và hoàn thiện phương pháp
này và coi đây là một trong những phương pháp mới có khả năng xác định niên đại cổ vật
hữu hiệu với độ tin cậy cao.
Cũng như ở nhiều nước trên thế giới,
ở Việt Nam, việc nghiên cứu áp dụng các
phương pháp mới – đặc biệt là phương pháp
xác định niên đại mẫu gốm bằng kĩ thuật
nhiệt huỳnh quang là một trong những vấn
đề đang được chú ý ứng dụng.
1. Phương pháp tính tuổi nhiệt huỳnh quang
1.1 Cơ sở vật lý của phương pháp tính tuổi
Chúng ta biết rằng tất cả mọi vật trên
trái đất đều bị chiếu xạ bởi các tia ion hóa phát
ra từ các nguyên tố phóng xạ và các tia vũ trụ.
Các khoáng vật tự nhiên như thạch anh,
felfspar, đất sétlà những thành phần cấu tạo
phổ biến trong các mẫu khảo cổ, cũng liên tục
bị chiếu xạ bởi các hạt nhân phóng xạ, chủ yếu
thuộc dãy uranium, thorium và đồng vị K-40.
Cùng với thời gian, các tia alpha, beta và
gamma luôn chiếu vào các khoáng vật và ion
hóa các nguyên tử [1],[3].
Các điện tử được giải phóng khỏi các
nguyên tử rồi sau đó bị bắt bởi các khuyết tật
của tinh thể, nằm lại ở các bẫy đó chừng nào
chưa nhận một nguồn năng lượng bổ sung để
giải phóng chúng.
Các bẫy điện tử này ngày càng được lấp
đầy bởi các điện tử đã được giải phóng liên tục
bởi các nguồn phóng xạ tự nhiên. Đồng thời
với quá trình đó là sự hình thành các lỗ trống
điện tử. Chúng được định xứ ở những tạp điện
âm trong tinh thể. Các lỗ trống này ra đời và
hoạt động theo một cơ chế động học hoàn toàn
đối xứng với các điện tử nói trên. Khi được
cung cấp một nguồn năng lượng bổ sung nào
đó (ở đây là nhiệt năng), các điện tử được giải
phóng khỏi bẫy và một phần của chúng sẽ tái
hợp với các lỗ trống. Một phần trong số các
tâm tái hợp đó chính là các tâm huỳnh quang sẽ
được sử dụng trong bài toán tính tuổi.
Như vậy, tín hiệu NHQ tự nhiên
(TLN) là kết quả của một quá trình mẫu bị
chiếu xạ tự nhiên bởi các tạp chất phóng xạ
trong bản thân mẫu và môi trường, (là kết
quả của quá trình hấp thụ năng lượng từ các
bức xạ tự nhiên). NHQ tích luỹ từ trước thời
điểm «xoá về không» đã bị xoá sạch do nhiệt
độ cao (Hình 1).
Hình 1: Nguyên lý tính tuổi phát quang
(TL-OSL)[6]
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 60
Phương trình tuổi NHQ cơ bản:
Tuổi NHQ (T) = TLN/ Liều chiếu năm (D) x
độ nhạy NHQ ()
= độ nhạy huỳnh quang của mẫu=huỳnh
quang của mẫu trên liều đơn vị chiếu xạ.
Phương trình tính tuổi NHQ thường biểu
diễn như sau:
TLNT
D
(1.1)
Thực tế phương trình tuổi NHQ được xây
dựng như sau0:
a. Trường hợp đơn giản (giả định chỉ có
một dạng bức xạ I = hoặc hoặc ):
Xuất phát từ cách xác định tuổi bằng phương
pháp liều chiếu bổ sung kết hợp với hiệu
chỉnh trên tuyến tính, ta có phương trình tính
tuổi của mẫu (tính bằng đơn vị năm):
i
i
i
PT
D
với Pi = Qi + + Ii (1.2)
trong đó:
- Pi = liều bức xạ tích lũy hiệu dụng cho hiệu
ứng huỳnh quang trong mẫu sau Ti năm (còn
gọi là liều khảo cổ).
- Di = liều bức xạ tích lũy hiệu dụng cho hiệu
ứng huỳnh quang trong một năm.
- Qi = liều bức xạ tích lũy hiệu dụng cho hiệu
ứng huỳnh quang quan sát được (còn gọi là
liều tương đương).
- Ii = liều bức xạ tích lũy hiệu dụng cho phần
“tiền huỳnh quang” liên quan đến các tâm
không đóng góp cho huỳnh quang và gây ra
đặc tính trên phi tuyến tính của nhiều mẫu
khảo cổ ở vùng liều chiếu xạ thấp. Hiệu ứng
phi tuyến này xảy ra cho bức xạ và , còn
đối với bức xạ nó bằng không (do mật độ
ion hóa của rất cao) (tất cả các bẫy có sẵn-
cả bẫy liên quan lẫn bẫy không liên quan đến
huỳnh quang đều được điền đầy).
Hiệu ứng trên phi tuyến xảy ra ở liều
chiếu xạ thấp cỡ 1Gy. Khi liều đủ cao (20 –
40 Gy đối với gốm) thì xảy ra hiện tượng
dưới phi tuyến do bão hòa.
Ta có thể viết lại (1.2) như sau:
, ,i TL i nonTL iT T T (1.3)
với: , ,;
i i
TL i nonTL i
i i
Q IT T
D D
b.Trường hợp thực tế có cả 3 nguồn bức xạ
, , (gộp cả tia vũ trụ).
Dùng bức xạ i phòng thí nghiệm để xác định
Qi và Ii..
Tổng quát, ta có cho phần TTL,i :
TLi(0) = D0TTL, + D0TTL, +
D0TTL, iQi iDi TTL,i (1.4)
Với:
TL, TL, TL,
0 0 0
TL,
D T D T D T
'
Ti i
D
(1.5)
Như vậy: ,
i
TL i
i
QT
D
(1.6)
Hay:
,
, ,,
0 0 0,1 ,1 ,1
i
TL i
TL TLTL
i TL i TL i TL
QT
T TT D D D
T T T
0 0 0
i
i i i
Q
k D k D k D
(1.7)
với:
, ,,
, , ,; ;
TL TLTL
i i ii TL i i TL i i TL i
T TTk k k
T T T
Từ đó ta có:
,
i i
TL i
i
Q QT
D D D D
(1.8)
Với: Di = D+ D+D ; D = ki.D0 ;
D= ki.D0 ; +D = ki.D0 (trong đó gộp cả
Dc của tia vũ trụ).
Trong thực tế, ta có: k= k = k = k =1
và k = k k< 1
Điều này có thể giải thích như sau:
các hạt có năng lượng lớn từ 4 đến
9 MeV. Ngoài ra, do kích thước và khối
lượng lớn nên năng lượng tiêu tán trên một
đơn vị độ dài quỹ đạo cực kỳ lớn, dễ dẫn tới
hiệu ứng bão hòa của cường độ nhiệt huỳnh
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 61
quang, tức là độ nhạy nhiệt huỳnh quang của
hạt sẽ thấp hơn nhiều so với hạt và .
Các hạt và đâm xuyên sâu hơn nhiều,
hơn nữa năng lượng của chúng lại nhỏ nên
không xuất hiện trường bão hòa và độ nhạy
nhiệt huỳnh quang của chúng bằng nhau và
lớn hơn hạt .
Tương tự ta thu được:
,
i
nonTL i
i
IT
D
(1.9)
Như vậy ta có:
, ,
i
i TL i nonTL i
i
PT T T
D
(1.10)
với: i i iP Q I và i i i iD D D D
trong đó:
0 0. ; 1 ;i ii iD k D D D D k
0 ( 1)
i
iD D D k
Nghĩa là trong thực tế (bỏ chỉ số i và 0):
P Q IT
D D
(1.11)
và: D = kD+ D+D (1.12)
Ta thu được:
.
Q IT
K D D D
(1.13)
1.2 Phương pháp kiểm tra plateau
Ngoài fading do nhiệt như đã nói, còn có
thể xuất hiện sự “thất thoát điện tử trong
bẫy” không do nhiệt độ, (một cách giải thích
là thất thoát xảy ra ngay ở nhiệt độ thấp do
hiệu ứng đường hầm), gọi chung là các
fading dị thường. Vấn đề đặt ra là làm cách
nào để xác định vùng bền NHQ trong dải đo.
Một phương pháp thực hiện được điều này
gọi là kiểm tra plateau (hình 2) [5].
Thực chất của phương pháp này là so
sánh dạng của các đường NHQ tự nhiên với
đường NHQ chiếu liều cộng thêm nhằm tìm
ra các đỉnh có độ ổn định cao để ứng dụng
trong tính tuổi khảo cổ.
2. Kỹ thuật thực nghiệm tính tuổi nhiệt
huỳnh quang
Trong thực tế, có hai kỹ thuật thực
nghiệm trong tính tuổi bằng phương pháp
NHQ [3][5][7]:
Kỹ thuật bao thể thạch anh
Kỹ thuật hạt mịn
2.1 Kỹ thuật tính tuổi với bao thể thạch anh
Các bao thể thạch anh (có hoạt độ
phóng xạ rất bé) có đường kính lớn hơn
100m được tách từ mẫu đã nghiền mịn. Sau
đó các bao thể được xử lý bóc bỏ lớp ngoài.
Nhiệt huỳnh quang chỉ đo trên phần lõi còn
lại: Như vậy phần đóng góp vào nhiệt huỳnh
quang chỉ tính cho bức xạ và . Vai trò của
bức xạ được loại bỏ. Việc bóc bỏ lớp
ngoài cùng cũng làm mất đi một phần
(khoảng 10%) liều đóng góp của bức xạ .
Phương trình tính tuổi cho kỹ thuật này là:
0,9 C
PT
D D D
(1.14)
Sau khi chuẩn bị mẫu xong, người ta
chia các hạt thạch anh thành các phần giống
nhau, mỗi phần cỡ 5mg và tiến hành các
bước xác định các đại lượng hoàn toàn tương
tự như kỹ thuật hạt mịn. Thực tế quy trình
xác định tuổi ở trên chung cho cả hai kỹ
thuật. Chỉ khác một ít về công thức và khâu
chuẩn bị mẫu.
Trong phương pháp này, ta không cần
nguồn và không cần đo liều D.
2.2 Kỹ thuật hạt mịn
Cách chuẩn bị mẫu cho phương pháp
này như sau:
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 62
Kích thước hạt mịn dùng đo NHQ
được chọn lọc trên cơ sở thời gian lắng của
chúng trong aceton. Bột mịn (khoảng
200mg) lấy từ mẫu bằng cách khoan với tốc
độ chậm (200-300 rpm), loại bỏ phần bột ở
lớp ngoài khoảng 2cm, cho vào cốc thuỷ tinh
đựng aceton (6cm) lắc đều và để lắng trong
2 phút. Những hạt có đường kính nhỏ hơn
10m vẫn còn lơ lửng trong dung môi. Phần
này sẽ được rót sang một cốc khác và tiếp
tục cho lắng. Sau 20 phút những hạt nhỏ hơn
1m chưa lắng sẽ được đổ đi. Aceton được
thêm vào cốc khoảng 40 ml, sau đó được
chiết sang các ống nghiệm nhỏ (2ml mỗi
ống) dưới đáy có một đĩa nhôm (đường kính
10mm, dày ½ mm). Các hạt có kích thước
mong muốn (1-10 m) sẽ lắng dần trên các
đĩa nhôm, aceton bay hơi để lại khoảng 1-2
mg mẫu trên mỗi đĩa. Cho các ống nghiệm
vào tủ sấy ở nhiệt độ 50oC để làm bay hơi
aceton. Hình 3 là sơ đồ dùng kỹ thuật hạt
mịn tính TLN của mẫu.
Hình 3: Sơ đồ dùng kỹ thuật hạt mịn tính
TLN của mẫu
Công thức tính tuổi bằng phương
pháp hạt mịn theo (1.13) là:
.
Q IT
K D D D
Như vậy, so với phương pháp bao thể
thạch anh, phương pháp này cần phải có
nguồn để tính K, D.
Thường cần chuẩn bị khoảng 16 đến
20 đĩa sao cho thật đồng đều, độ phân tán
từng đĩa không được quá 5%. Mẫu bám khá
chắc trên mặt đĩa, thuận tiện thao tác đo
NHQ cho mẫu ngay trên đĩa.
Quá trình chuẩn bị mẫu thường dùng
bể siêu âm hỗ trợ, tránh sự dính các hạt nhỏ
vào hạt lớn và quá trình chiết mẫu vào các
ống nghiệm được đồng đều.
Tất cả thao tác chuẩn bị mẫu phải làm
trong điều kiện chiếu sáng yếu (ánh sáng đèn
đỏ) tránh hiện tượng fading do chiếu sáng.
Ưu điểm:
- Chuẩn bị mẫu đơn giản
- Lượng mẫu ít
- Giảm tỉ lệ sai số đóng góp do các yếu tố
bức xạ môi trường (gamma) do đã tính cả
đóng góp của bức xạ alpha.
- Dễ tạo lớp mỏng phù hợp khi chiếu xạ
bằng nguồn alpha
Nhược điểm:
- Việc loại bỏ các bao thể lớn vốn là thành phần
nhạy NHQ làm giảm đáng kể tín hiệu NHQ
- Tỉ số diện tích bề mặt/ thể tích lớn làm tăng
tín hiệu NHQ giả do hiện tượng bề mặt.
- Các thành phần khoáng vật không xác
định, trong đó có thể có cả các thành phần
không thuận lợi trên góc độ NHQ (như
fading dị thường).
2.3 Đánh giá liều tương đương P
Liều tương đương P, về nguyên tắc có
thể tính trực tiếp một cách đơn giản bằng
cách đo NHQ tự nhiên của mẫu (TLN), so
sánh với NHQ cũng của mẫu đó sau khi
chiếu xạ nhân tạo (bêta, gamma với liều biết
trước). Tuy nhiên kết quả tính kiểu này
không có độ tin cậy cao do có thể xảy sự
thay đổi độ nhạy sau lần đo đầu tiên (hiện
tượng pre-dose effect). Thực tế liều khảo cổ
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 63
P thường được tính bằng phương pháp chiếu
liều cộng thêm [1]:
Hình 4: Minh họa phương pháp chiếu bồi
Mẫu được chia thành nhiều phần nhỏ
(cỡ 5mg). Một số phần để đo TLN, một số
phần được chiếu liều cộng thêm và đo NHQ
(bao gồm TLN và chiếu xạ nhân tạo).
Các thông số trên hình 4:
- N là tín hiệu NHQ tự nhiên đo được của mẫu.
- N+, N +2 là tín hiệu NHQ đo được khi
mẫu được chiếu liều cộng thêm 1 (ví dụ
5Gy), 2 (10Gy).bằng bức xạ bêta (hay
gamma).
- Đồ thị được thiết lập bằng phương pháp
hồi quy tuyến tính.
- Liều tương đương Q được tính bằng ngoại
suy đến điểm cắt trục hoành của đồ thị.
Ví dụ (hình 4)[1]
Từ phương trình hồi quy: y = ax+b =
0,73x +4,16, cho y = 0 ta tính được: x = -b/a
= -5,7. Do đó Q = 5,7Gy.
Nếu tính đến hiện tượng phi tuyến
trong đáp ứng liều ở vùng liều thấp, người ta
phải cộng thêm một lượng hiệu chỉnh dưới
tuyến tính I, nghĩa là P=Q+I.
Kết luận:
- Phương pháp đo tuổi nhiệt huỳnh quang là
một trong những phương pháp mới có khả
năng xác định niên đại cổ vật hữu hiệu với
độ tin cậy cao.
- Để tính được tuổi cổ vật, ta phải trải qua
nhiều bước như tính liều chiếu năm D; tính
độ nhạy nhiệt huỳnh quang và liều khảo cổ
P. Tính liều khảo cổ P là khâu then chốt
trong tính tuổi NHQ do đó phải trải qua
những bước nghiêm ngặt về mặt kỹ thuật. Ở
Việt Nam, việc nghiên cứu áp dụng các
phương pháp mới – đặc biệt là phương pháp
xác định niên đại mẫu gốm bằng kĩ thuật
nhiệt huỳnh quang là một trong những vấn
đề đang được chú ý ứng dụng và bước đầu
đã đạt được những kết quả quan trọng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Trọng Thành - Vũ Xuân Quang- Phan Tiến Dũng, Ứng dụng phương pháp nhiệt
huỳnh quang trong tính tuổi khảo cổ khu đền tháp Mỹ Sơn, Việt Nam – The fourth
International Workshop on Geo-and Material-Science on Mineral Resources of Vietnam 2008
[2]. Trần Ngọc, Luận án Tiến sĩ Quang học- Hà Nội (2005).
[3]. Trương Quang Nghĩa, Nhiệt phát quang và ứng dụng- Nhà XB ĐHQG- TP Hồ Chí Minh (2008).
[4]. Vũ Xuân Quang, Bài giảng Nhiệt phát quang - Nha Trang 2008.
[5]. Aitken, M.J, Thermoluminescence Dating Academic Press, (1985).
[6]. Aitken, M.J, Archaeological dating using physical phenomena (Rep.Pro.Phys.62 (1999).
[7]. Zimmerman, D.W. Thermoluminescence dating using fine grains from potteries.
Achaeeometry, Vol13,I 29_52), (1971).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ung_dung_phuong_phap_nhiet_huynh_quang_trong_tinh_tuoi_khao.pdf