Ứng dụng Marketing Internet trong chiến lược phân phối và yểm trợ của doanh nghiệp Việt Nam

Mục lục Nội dung Trang lời nói đầu 5 kết luận 88 Tài liệu tham khảo 90 Lời nói đầu Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, hoạt động kinh tế không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia hay một khu vực kinh tế mà đã vươn ra phạm vi toàn cầu. Nhằm hội nhập với xu thế kinh tế mới và khai thác được thị trường rộng lớn toàn cầu, các doanh nghiệp đều cần phải có một chiến lược Marketing đúng đắn và mang lại hiệu quả cao đặc biệt là chiến lược Marketing Internet khi mạng Internet được ứ

doc92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1815 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Ứng dụng Marketing Internet trong chiến lược phân phối và yểm trợ của doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng dụng rộng rãi trên khắp Thế giới với nhiều lợi ích to lớn. Nghiên cứu về Marketing Internet là một vấn đề mang tính chiến lược và cần thiết hiện nay đối với các doanh nghiệp Việt Nam nhằm tiếp cận và thoả mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng ngày càng đổi mới và hoàn thiện. Hơn nữa để có thể đáp ứng tốt hơn các nhu cầu này, doanh nghiệp chỉ có chiến lược sản phẩm tốt với giá cả phải chăng thôi chưa đủ mà còn cần phải có chiến lược phân phối và yểm trợ tốt mới có thể đảm bảo cho sự thành công của doanh nghiệp trong chiến lược Marketing Internet của mình. Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài " ứng dụng Marketing Internet trong chiến lược phân phối và yểm trợ của doanh nghiệp Việt Nam" cho đề tài khoá luận này. Ngoài lời nói đầu và kết luận, khoá luận được trình bày thành 3 chương: Chương I : Tổng quan về chiến lược phân phối và yểm trợ trong Marketing Internet trên Thế giới. Chương II : Tình hình ứng dụng Marketing Internet trong chiến lược phân phối và yểm trợ của doanh nghiệp Việt Nam. Chương III: Định hướng và giải pháp đẩy mạnh ứng dụng Marketing Internet trong chiến lược phân phối và yểm trợ của doanh nghiệp Việt Nam Do hạn chế về thời gian nghiên cứu, tài liệu thu thập và khả năng của người viết, nội dung khoá luận khó tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết, tác giả kính mong nhận được sự chỉ dẫn của các thầy cô và sự góp ý chân thành của đông đảo độc giả. Qua đây, tác giả xin chân thành cảm ơn PGS, TS Nguyễn Trung Vãn, các thầy cô giáo trong trường, các cơ quan, xí nghiệp đã tận tình giúp đỡ để tác giả có thể hoàn thành tốt khoá luận tốt nghiệp này. Chương I Tổng quan về chiến lược phân phối và yểm trợ trong Marketing Internet I. Sự ra đời và phát triển của Marketing Internet 1. Sự ra đời và phát triển mạng Internet 1.1. Mạng Internet là gì? Một cách tổng quát có thể nói rằng Internet là một “ mạng diện rộng” [30]. Cụ thể hơn, “Internet là một hệ thống các mạng máy tính được liên kết với nhau trên phạm vi toàn thế giới” [11]. Internet giúp cho hàng triệu người trên thế giới có thể thông tin liên lạc với nhau. Các học viện đào tạo, các thư viện, các cơ quan chính phủ, các trung tâm nghiên cứu, các dịch vụ trực tuyến và các doanh nghiệp đại diện cho các loại máy tính khác nhau được kết nối trên khắp thế giới để hình thành nên Internet. Sự phát triển nhanh chóng của Internet đã khiến cho nó còn có thêm một khái niệm là “siêu xa lộ thông tin" (Information super highway) [30]. Internet còn là nguồn tài nguyên vô giá cho các nhà nghiên cứu, các nhà giáo dục, các quan chức chính phủ, sinh viên, học sinh…. tra cứu và trao đổi thông tin với nhau. 1.2. Sự ra đời và phát triển của mạng Internet. Internet là một phương pháp ghép nối các mạng máy tính được hình thành, phát triển một cách rộng rãi. Tầm hoạt động của từng hệ thống thành viên là các mạng máy tính nội bộ của các cá nhân, tổ chức, công ty. Nguồn gốc nguyên thuỷ của Internet là hệ thống máy tính thuộc Bộ Quốc Phòng Mỹ, gọi tắt là mạng ARPA (Advanced Research Projects Agency) [30], một mạng thí nghiệm được thiết kế từ năm 1969 để tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác khoa học trong các chương trình nghiên cứu quốc phòng. Đến năm 1983 mạng ARPA đã được thiết kế thành công. Mạng ARPA đã nêu cao triết lý truyền thông bình đẳng (peer to peer), trong đó mỗi máy tính của hệ thống đều có khả năng “nói chuyện” với bất kỳ một máy tính thành viên khác. Bất cứ mạng máy tính nào dựa trên cơ sở thiết kế của mạng ARPA đều được mô tả như một tập hợp các trung tâm điện toán tự quản, mang tính địa phương và tự điều hành. Chúng được liên kết dưới dạng “vô chính phủ nhưng có điều tiết” [30]. Mạng ARPA ban đầu được sử dụng cho mục đích nghiên cứu và giáo dục, theo đó các máy tính đều có thể kết nối với mạng ARPA. Vì vậy nó được đặt tên là Internet (tức là “liên mạng”). Sau giai đoạn này ở Mỹ xuất hiện thêm một số mạng toàn quốc nữa như mạng BITNET (Because it’s time) và NSFNET (National Science Foundation Network) [11]… Các mạng này cũng đều được sử dụng cho nghiên cứu giáo dục và được nối với mạng Internet. Năm 1986 mạng NSFNET nối với hệ thống máy tính cao tốc xuyên quốc gia dẫn tới sự bùng nổ sử dụng Internet; các máy tính ngoài biên giới nước Mỹ cũng bắt đầu kết nối vào. Năm 1997 trên Thế giới đã có hơn 110 quốc gia kết nối vào mạng và cho tới nay đã có khoảng 264 quốc gia kết nối vào hệ thống mạng này. Năm 1994 trên thế giới có khoảng 3 triệu người sử dụng Internet, năm 1996 lên tới 69 triệu người và tính tới đầu năm 2000 có 315 triệu người sử dụng Internet. Theo dự báo của Hãng nghiên cứu Thị trường Thế giới (IDC) có trụ sở ở Mỹ, đến năm 2003, số người sử dụng Internet trên Thế giới sẽ là 700 triệu người, chiếm khoảng 11% dân số Thế giới, năm 2005 sẽ có khoảng 1 tỷ người sử dụng mạng Internet. Bắt đầu từ năm 1995, Internet được chính thức công nhận là mạng toàn cầu, nó là “mạng của các mạng” (the network of networks) [11]. Một máy tính có địa chỉ Internet thoạt tiên được nối vào mạng LAN, tới mạng WAN rồi sau đó vào mạng Internet. Nhờ đó, các mạng và các máy tính có địa chỉ Internet có thể giao tiếp với nhau, truyền gửi cho nhau các thông điệp và các dữ liệu thuộc hàng trăm ứng dụng khác nhau. 2. Sự ra đời và phát triển của Marketing Internet trên thế giới 2.1. Khái niệm Marketing Internet Trong tiến trình phát triển của cuộc cách mạng tin học -viễn thông, cùng với sự ra đời của thương mại điện tử nói chung và thương mại Internet nói riêng, thuật ngữ Marketing Internet cũng xuất hiện và được phổ biến rộng rãi vào cuối thập niên 90 của thế kỷ 20 cho đến nay. Vậy Marketing Internet là gì? Bàn về Marketing Internet, hiện nay các nhà kinh tế học, các nhà hoạt động Marketing ít bàn đến khái niệm Marketing Internet mà thường bàn thẳng vào các nội dung thiết thực của nó như: những hoạt động chủ yếu, nét đặc thù, hoạch định chiến lược và giải pháp phát triển. Tuy nhiên nói về khái niệm Marketing Internet, các tác giả có cách định nghĩa khác nhau nhưng dựa theo tác giả Gosh Shikhar trong cuốn "Making Business Sence of the Internet" và tác giả Toby Bloomburg trong cuốn "Internet Marketing overview", có thể đi đến định nghĩa sau: Marketing Internet là lĩnh vực tiến hành hoạt động kinh doanh gắn liền với dòng vận chuyển sản phẩm từ người sản xuất đến người tiêu dùng, dựa trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin. Định nghĩa trên nhấn mạnh đến lĩnh vực kinh tế- thương mại, trong đó nhấn mạnh tới cách thức vận dụng các tính năng của Internet để giới thiệu, mời chào, cung cấp thông tin về sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của nhà sản xuất đến đông đảo người tiêu dùng nhằm thuyết phục họ trong việc lựa chọn sản phẩm một cách nhanh chóng và hiệu quả. Các nguyên lý cơ bản của Marketing Internet cũng giống như trong môi trường kinh doanh Tiền Internet. Hoạt động Marketing Internet vẫn tập trung vào bốn nội dụng cơ bản là: sản phảm (product), giá cả (price). phân phối (place) và xúc tiến hay yểm trợ (promotion). Trong phạm vi khoá luận này, tác giả xin đề cập tới hai vấn đề cuối cùng trong bốn vấn đề trên, đó là phân phối và yểm trợ hay xúc tiến bán hàng hoặc xúc tiến thương mại. 2.2. Sự ra đời và phát triển của Marketing Internet. Với sự ra đời và phát triển nhanh chóng của mạng Internet, các nhà kinh tế đã sớm nhận ra được ứng dụng to lớn của nó. Internet là một công cụ giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường và hơn nữa đã mở ra một phương thức kinh doanh mới-kinh doanh trên mạng dựa trên nguyên lý hoạt động của Marketing. Sự ra đời và phát triển của Marketing Internet gắn liền với sự phát triển của mạng Internet và ứng dụng vào thương mại điện tử. Marketing Internet được ứng dụng nhanh chóng trong các hoạt động của doanh nghiệp trên thế giới từ năm 1997 cùng với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử. Qua một số năm đầu hoạt động, Marketing Internet đã nhanh chóng tỏ rõ tính ưu việt, bởi lẽ hoạt động Marketing đem lại hiệu quả cao. Với Marketing Internet, các doanh nghiệp có thể thoả mãn tốt nhất những nhu cầu của khách hàng, tạo ra sự hài lòng cho khách hàng nhiều hơn và thị trường được mở rộng không giới hạn về không gian địa lý, ngôn ngữ, văn hoá. Và khi người tiêu dùng hoàn toàn tin tưởng vào sự an toàn hơn của các giao dịch điện tử so với các giao dịch thông thường, thị trường trong Marketing Internet sẽ được mở rộng với một tốc độ nhanh hơn trước đây. Đối với các doanh nghiệp, thu nhập do hoạt động Marketing Internet mang lại ngày càng tăng, từ 18 tỷ đô la Mỹ năm 1997 lên 38 tỷ đô la năm 1998 và 180 tỷ năm 1999, gấp 4.64 lần so với năm 1998 và gấp 10 lần so với năm 1997. Năm 2001, thu nhập do hoạt động này mang lại đạt hơn 400 tỷ đô la Mỹ. Năm 2002, theo dự đoán của tập đoàn Jupiter là 793 tỷ đô la. Tập đoàn eMarketer của Mỹ dự đoán đến năm 2004 thương mại điện tử toàn cầu sẽ tăng lên 2700 tỷ USD. Theo nghiên cứu của tập đoàn Forester Research, tại Mỹ, nơi đã cho ra đời mạng Internet và phương thức kinh doanh mới, thu nhập do hoạt động Marketing Internet mang lại cho thương mại điện tử chiếm giá trị lớn (gần 70%) trong tổng thu nhập của thế giới, năm 1999 đạt trên 150 tỷ đô la, năm 2000 đạt 38,8 tỷ đô la, năm 2001 lên tới 65 tỷ năm 2001 và năm 2005 được dự báo sẽ là 184 tỷ đô la. Nhận thức được tầm quan trọng của Marketing Internet, các doanh nghiệp đã đầu tư rất nhiều vào việc triển khai thực hiện hoạt động này. Tính đến nay, theo tập đoàn David Skyrme Associates, trên thế giới có trên 80% các công ty lớn có website riêng và sử dụng thư điện tử. Chi phí cho hoạt động Marketing Internet ngày càng tăng qua các năm, năm 2000 là năm có tổng kinh phí cho việc thực hiện chiến lược Marketing Internet lên tới 11 tỷ đô la. Mức kinh phí này vẫn tăng mạnh qua các năm, nhiều nhà kinh tế dự báo đến năm 2005 lên đến 63 tỷ đô la. Nếu chỉ tính riêng chi phí dành cho quảng cáo, có thể nói các doanh nghiệp đã giành một phần không nhỏ cho việc thực hiện chiến lược này, năm 2000 chi phí quảng cáo trực tuyến chiếm 16% kinh phí dành cho Marketing Internet và chi phí này được dự báo đến năm 2005 tăng lên 30%. Bên cạnh đó các nhà hoạt động Marketing Internet trên thế giới lại thấy rằng Marketing thương mại điện tử thông qua công cụ là e-mail cũng đem lại hiệu quả không kém nên đã tập trung vào hoạt động này. Năm 1999 các doanh nghiệp đã sử dụng 97 triệu đô la cho việc thực hiện chiến lược Marketing Internet (e-mail). Dự tính đến năm 2004 con số này sẽ tăng lên là 4,8 tỷ đô la. 2.3. Đặc thù của Marketing Internet Marketing Internet được xây dựng trên nền tảng Marketing Tiền Internet (các loại Marketing trước khi Internet ra đời (Pre-Internet Marketing). Tuy nhiên Marketing Internet cũng có những đặc thù riêng như sau: Một là, khách thể đặc thù của Marketing Internet là hàng hoá và dịch vụ “số hoá” (digital goods and service). Đây là một đặc trưng và là sản phẩm của nền kinh tế số hoá hiện nay. Kỹ thuật số (digital technique) trên cơ sở hệ nhị phân dùng hai chữ số 0 và 1 làm đơn vị ngày càng được hoàn thiện dần và được ứng dụng một cách rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực sản xuất- thương mại và dịch vụ với đặc trưng cơ bản là hàng hoá và dịch vụ số hoá. Hoạt động này hiện nay phát triển rất mạnh mẽ tại Mỹ, nơi sản sinh ra chiếc máy tính đầu tiên và cũng là nơi xuất phát của hệ thống mạng toàn cầu Internet. Hai là, Marketing Internet có khả năng làm việc liên tục. Do mạng Internet được khai thác liên tục nên Marketing Internet có thể đươc thực hiện 24h/24h, 365ngày/365 ngày/năm không có khái niệm ngày lễ hay ngày nghỉ. Nhờ thế, Marketing đã khắc phục được mọi trở ngại của yếu tố thời gian và tận dụng được nhiều cơ hội kinh doanh mới. Ba là, Marketing Internet có khả năng thâm nhập tới mọi nơi trên khắp thế giới. Phạm vi ứng dụng Internet là toàn cầu do vậy Marketing Internet vượt qua được mọi vấn đề về không gian, về khoảng cách địa lý và khoảng cách biên giới quốc gia. Như vậy, yếu tố không gian trong Marketing Internet không bị giới hạn, cho phép doanh nghiệp có thể tiếp cận thị trường toàn cầu. Bốn là, Marketing Internet có khả năng thiết lập “cửa hàng ảo” (Virtual Shop) giống hệt như thật. Khách hàng khi truy cập vào siêu thị ảo, phòng tranh ảo, cửa hàng ảo sẽ có cảm giác như đang đứng trong một không gian thật với thiết kế, trình bày đẹp mắt, sống động, hấp dẫn đối với cả doanh nghiệp lẫn khách hàng. Cách bài trí đẹp mắt của các cửa hàng ảo thu hút khách hàng, lôi cuốn họ mua hàng và trung thành với doanh nghiệp. Năm là, Marketing Internet càng phát triển càng tạo ra sự hiện diện toàn cầu của doanh nghiệp và sự lựa chọn toàn cầu cho người tiêu dùng. Doanh nghiệp có thể xây dựng hình ảnh của mình thông qua các ứng dụng mạng Internet trên khắp các châu lục trên Thế giới, từ châu á, châu Âu, châu Mỹ tới châu Phi. Nhờ đó người tiêu dùng trên toàn cầu biết đến thương hiệu của doanh nghiệp và đưa sản phẩm của doanh nghiệp vào sự lựa chọn mua hàng của mình. Sáu là, Marketing Internet giảm bớt được khâu trung gian. Thay vì phải có một mạng lưới phân phối gồm các nhà bán buôn và các nhà bán lẻ rộng khắp, doanh nghiệp chỉ cần chọn qua một số khâu trung gian trong hệ thống phân phối của mình những đại lý nào thực sự hoạt động có hiệu quả. Các đại lý này sẽ làm đầu mối điều hành các hoạt động phân phối của doanh nghiệp trong khu vực hoạt động của mình. Với ứng dụng Marketing Internet, doanh nghiệp và người tiêu dùng có thể giao dịch trực tiếp với nhau dễ dàng và nhanh chóng để thoả thuận đồng thời đơn đặt hàng của khách hàng ở khắp mọi nơi sẽ được hệ thống máy tính trong chiến lược Marketing Internet của doanh nghiệp phân loại chuyển tới đại lý phân phối tại khu vực giao hàng mà khách hàng yêu cầu. Đại lý sau khi nhận được thông báo về thời gian và địa điểm giao hàng sẽ lập kế hoạch đưa hàng tới khách hàng một cách nhanh chóng và hiệu quả. Bảy là, với ứng dụng Marketing Internet, doanh nghiệp có thể tạo được kênh Marketing trực tuyến (Online Marketing) đồng thời có được số liệu thống kê trực tuyến. Từ đó, doanh nghiệp có thể phục vụ và đáp ứng nhu cầu tốt hơn của người tiêu dùng. Với bảy đặc thù của Marketing Internet nói trên, có thể nói, Marketing Internet ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế- thương mại hiện nay trên thế giới. Vì vậy, hoạt động Marketing Internet đang là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia trên thế giới nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. 2.4. Hoạt động chủ yếu của Marketing Internet. Marketing Internet hiện nay đang được đánh giá là một trong những công cụ mạnh quyết định sự thành công của các doanh nghiệp trên Thế giới. Hoạt động Marketing Internet bao gồm nhiều vấn đề trong đó có hoạt động nghiên cứu môi trường, nghiên cứu thị trường, hoạch định chiến lược Marketing Internet... 2.4.1. Nghiên cứu môi trường Điều cốt lõi của Marketing Internet là phải phân tích các yếu tố môi trường, đồng thời đánh giá được các tiêu chuẩn của yếu tố môi trường sao cho hệ thống thông tin về sản phẩm đến được tay người tiêu dùng đem lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp. Các yếu tố môi trường chủ yếu cần được phân tích và nghiên cứu gồm hạ tầng cơ sở thông tin, nguồn nhân lực và hạ tầng cơ sở kinh tế- xã hội- pháp luật. Đối với hạ tầng cơ sở thông tin, hoạt động Marketing Internet phải đảm bảo được hai yêu cầu cơ bản là tính hiện thực (availability) và tính kinh tế (affordability) nhằm đạt được mức chi phí đủ thấp, phù hợp sức mua của đông đảo người tiêu dùng. Nguồn nhân lực luôn là yếu tố hàng đầu mang tính quyết định cho thắng lợi của chiến lược kinh doanh. Do vậy Marketing Internet phải luôn lấy yếu tố chất lượng làm tiêu chuẩn hàng đầu cho việc đào tạo nguồn nhân lực. Đối với hạ tầng cơ sở kinh tế- xã hội- pháp lý, hoạt động Marketing Internet luôn phải phân tích, đánh giá đầy đủ và đồng bộ các yếu tố thuộc môi trường này vì nó là nền tảng, định hướng chung cho mọi hoạt động kinh tế nói chung và sản xuất kinh doanh nói riêng. Ngoài ra, Marketing Internet cũng cần nghiên cứu các yếu tố môi trường khác như môi trường khí hậu, môi trường địa lý, môi trường nhân khẩu học… 2.4.2. Nghiên cứu thị trường Trong Marketing Internet, khái niệm không gian thị trường (market place) được mở ra trên quy mô rộng khắp toàn cầu. Tất nhiên, thị trường trong khái niệm Marketing Internet vẫn được hiểu là tập hợp những người mua hiện tại và tiềm năng. Mạng Internet có quy mô hoạt động rộng khắp trên toàn cầu với lượng người tiêu dùng rất lớn. Hoạt động Marketing Internet cần xác định được quy mô thị trường ảo của doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho sự thành công của hoạt động kinh doanh. Như vậy, doanh nghiệp phải phân tích đầy đủ và đánh giá toàn bộ các nhân tố chi phối quy mô của thị trường. Nội dung cốt lõi của thông tin thị trường được đề cập ở trên gồm: Một là nhu cầu (needs) của thị trường. Theo cách tư duy của Marketing (marketing thinking) điểm xuất phát của doanh nghiệp chính là nhu cầu chứ không phải là sản phẩm mặc dù sản phẩm có ý nghĩa quyết định trong Marketing hỗn hợp. Hai là lượng cầu (demands) của thị trường. Trong Marketing Internet, việc đánh giá lượng cầu hiện tại và dự báo lượng cầu tương lai luôn là nhiệm vụ hàng đầu trong nghiên cứu thị trường đối với mọi sản phẩm. Ba là đối thủ cạnh tranh (competitors) của doanh nghiệp. Trước hết doanh nghiệp cần nắm được các thông tin về đối thủ để làm rõ từng vấn đề cụ thể như: doanh số, thị phần, điểm mạnh, điểm yếu … của đối thủ. Trong Marketing Internet, các công cụ sử dụng cho nghiên cứu thị trường là các website, thư điện tử (e- mail), nhóm tin (newsgroup), danh mục thư tín (mailing- list). Cơ sở dữ liệu trên mạng Internet được cung cấp từ ba nguồn: chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và doanh nghiệp. 2.4.3. Hoạch định chiến lược Marketing- mix Internet 2.4.3.1. Chiến lược sản phẩm Trong Marketing mix, chiến lược sản phẩm gồm: chất lượng, nhãn hiệu, đặc tính kỹ thuật, kiểu dáng, kích cỡ, dịch vụ sau bán hàng. Tuy nhiên khi tiến hành một giao dịch kinh doanh trực tuyến, trang web của doanh nghiệp sẽ thực sự như một cửa hàng ảo trưng bày những sản phẩm. Những sản phẩm được nhấn mạnh trong Marketing mix Internet thường là những sản phẩm mới, sản phẩm cá biệt hoá để phù hợp nhu cầu của từng phân đoạn thị trường, từng khách hàng. Thông thường, Marketing Internet tạo ra sự lựa chọn rộng rãi cho khách hàng về sản phẩm mong muốn. Mô hình cá biệt hoá sản phẩm theo nhu cầu khách hàng luôn được chú trọng, đặc biệt ở các hãng xe hơi của Mỹ. 2.4.3.2. Chiến lược giá cả. Đối với Marketing Internet, giá cả luôn là yếu tố rất năng động, được xác định tuỳ từng loại sản phẩm và điều kiện cụ thể. ở đây, các yếu tố chi phối giá cả bao gồm các phương tiện thanh toán điện tử (thẻ tín dụng, thẻ thanh toán), chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã, chính sách giá ưu đãi cho từng khách hàng. Đây là các yếu tố mà các doanh nghiệp cần quan tâm khi đưa ra chiến lược giá năng động trong từng trường hợp cụ thể. 2.4.3.2. Chiến lược phân phối Trong Marketing Internet, cần chú trọng yếu tố vai trò của các trung gian trong kênh phân phối, từ đó doanh nghiệp xác định một số kênh cần sử dụng một cách tối ưu nhất dựa trên các yếu tố sau: - Tính chất và đặc điểm của từng sản phẩm. - Lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh. - Tập quán, thói quen mua sắm của người tiêu dùng. - Tương quan lực lượng giữa nhà sản xuất và phân phối. Như vậy, bản thân Internet đã làm thay đổi đáng kể vai trò của các trung gian trong các kênh phân phối. Đó chính là điều doanh nghiệp cần cân nhắc trước khi xác định số lượng kênh phân phối trong chiến lược Marketing Internet của mình. 2.4.3.4. Chiến lược yểm trợ (e- promotion) Xúc tiến hay yểm trợ trực tuyến là bước cuối cùng trong các kế hoạch Marketing Internet nhằm lôi kéo khách hàng đến với doanh nghiệp. Yểm trợ trực tuyến có khả năng tạo ra được những phản ứng đáp lại nhanh nhất và hiệu quả nhất. Các hoạt động đó bao gồm: chiết giá, miễn phí dùng thử , thư thông báo … Trên đây là những hoạt động chủ yếu của Marketing Internet trên thế giới, là vấn đề được nhiều người quan tâm khi nhắc tới nền kinh tế số hoá hay thương mại điện tử. Nghiên cứu về các hoạt động của Marketing Internet sẽ giúp doanh nghiệp hoạch định có hiệu quả cho sự thành công trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. II. Chiến lược phân phối trong Marketing Internet. 1. Khái niệm phân phối trong Marketing Internet Phân phối là một bộ phận quan trọng trong chiến lược Marketing. Hoạt động phân phối giải quyết vấn đề hàng hoá và dịch vụ được đưa đến người tiêu dùng như thế nào?. Các quyết định về phân phối thường phức tạp và có ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả các lĩnh vực khác của Marketing. Hiện nay ngày càng có nhiều doanh nghiệp quan tâm đến phân phối như là một biến số Marketing tạo lợi thế cạnh tranh dài hạn cho doanh nghiệp trên thị trường. Theo quan niệm Marketing Tiền Internet, phân phối hàng hoá bao gồm toàn bộ các hoạt động để đưa sản phẩm từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Trong Marketing Internet, phân phối hàng hoá và dịch vụ là việc ứng dụng Internet trong các hoạt động nhằm đưa sản phẩm từ người sản xuất đến người tiêu dùng hoặc người sử dụng. Thông qua Marketing Internet doanh nghiệp có thể rút ngắn kênh phân phối, chuyển thẳng sản phẩm đến người tiêu dùng với chi phí thấp. 2. Vị trí của chiến lược phân phối trong Marketing Internet Đối với một doanh nghịêp, việc nghiên cứu thị trường để đưa ra được một sản phẩm phù hợp với giá hợp lý là chưa đủ mà doanh nghiệp phải xem xét nên đưa sản phẩm đó đến tay người tiêu dùng như thế nào với hình thức ra sao- đó chính là vấn đề của phân phối trong Marketing Internet. Các quyết định về phân phối thường phức tạp và có ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả các lĩnh vực trong Marketing nói chung và Marketing Internet nói riêng. Các quyết định này được đưa ra trên cơ sở kết quả tìm hiểu về bản chất của các kênh phân phối, những vấn đề doanh nghiệp gặp phải khi tổ chức và vận hành như thế nào. Nắm rõ được các vấn đề cơ bản trên sẽ giúp cho doanh nghiệp đưa ra được các quyết định phù hợp, từ đó thoả mãn tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng hoặc người sử dụng. 3. Chức năng của các kênh phân phối trong Marketing Internet Kênh phân phối trong Marketing Internet cũng giống như trong Marketing thông thường là một tập hợp các doanh nghiệp, các cá nhân độc lập và phụ thuộc lẫn nhau cùng tham gia vào quá trình đưa hàng hoá từ người sản xuất đến ngươì tiêu dùng. Nói cách khác đây là một nhóm các tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động làm cho sản phẩm hoặc dịch vụ sẵn sàng cho người tiêu dùng hoặc sử dụng. Nhờ có mạng lưới kênh phân phối mà khắc phục được những khác biệt về thời gian, không gian và quyền sở hữu giữa người sản xuất và người tiêu dùng về các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Tất cả các kênh phân phối phải gắn liền với các chức năng chủ yếu sau đây: - Nghiên cứu thị trường: nhằm thu thập và cung cấp các thông tin về khách hàng, đối thủ cạnh tranh, các nhân tố và nguồn lực từ môi trường Marketing cho nhà sản xuất, cung ứng để lập chiến lược phân phối. - Xúc tiến: cung cấp những thông tin mang tính thuyết phục về sản phẩm, nhãn hiệu, giá cả... nhằm thu hút khách hàng. - Đàm phán: nhằm mục đích phân chia trách nhiệm và quyền lợi trong kênh, nhãn hiệu, giá cả.... nhằm đạt được những thoả thuận cuối cùng về giá và các điều kiện khác sao cho việc chuyển giao quyền sở hữu hay quyền sử dụng được thực hiện. - Cung cấp tài chính: thu thập và phân bổ tài chính cho việc phân phối các danh mục hàng hoá tại các cấp khác nhau của kênh phân phối, thông tin các khoản chi phí trong hoạt động phân phối. Tài trợ tài chính cho các thành viên kênh trong thanh toán. - Phân phối vật chất: bảo tồn, vận chuyển, dự trữ, lưu thông hàng hoá đến tay người tiêu dùng. - Hoàn thiện hàng hoá: thông qua mạng Internet, doanh nghiệp phải đảm bảo cung cấp làm cho hàng hoá đáp ứng được những yêu cầu của người mua. Nói cách khác phân phối trong Marketing Internet thực hiện thêm một phần công việc của người sản xuất, ví dụ như công đoạn bao bì, bao gói sản phẩm... - Thiết lập và củng cố các mối quan hệ: tạo dựng và duy trì mối liên hệ với những người mua hiện tại và tiềm năng của doanh nghiệp. Các chức năng trong phân phối luôn đi kèm chi phí phát sinh trong quá trình thực hiện chúng. Trong Marketing Internet, nhà sản xuất có thể đảm nhiệm được phần lớn các chức năng này do có thể trực tiếp liên hệ với khách hàng qua mạng nhưng chi phí sản xuất sẽ gia tăng do phải bổ sung và hoàn thiện mẫu mã sản phẩm theo nhu cầu của từng khách hàng. Ngoài ra nhà sản xuất phải có lực lượng nhân viên Marketing đông đảo. Như vậy, giá cả hàng hoá sẽ có thể tăng lên. Nhằm thực hiện chiến lược chuyên môn hoá sản xuất và chiến lược phân phối trên phạm vi toàn cầu, các doanh nghiệp cũng phải sử dụng đến các trung gian. Tuy nhiên, để xác định số lượng các trung gian và phân chia chức năng cho các kênh trung gian, doanh nghiệp cần phải xác định rõ: - Sản phẩm doanh nghiệp cung cấp ra thị trường là gì? có đặc điểm như thế nào? - Quy mô, khả năng của doanh nghiệp cụ thể ra sao? - Môi trường kinh doanh tại các thị trường như thế nào? - Mục tiêu của doanh nghiệp trong kênh phân phối như thế nào? Mục tiêu của kênh ra sao? 4. Phương thức phân phối trong Marketing Internet Cũng giống như Marketing Tiền Internet , Marketing Internet cũng có hai kênh phân phối phổ biến là kênh phân phối trực tiếp và kênh phân phối gián tiếp. 4.1. Phương thức phân phối trực tiếp Người tiêu dùng Nhà sản xuất Phương thức phân phối trực tiếp trong Marketing Internet là hoạt động phân phối, theo đó hàng hoá được chuyển thẳng từ người sản xuất đến tận tay người tiêu dùng không qua bất kỳ hệ thống trung gian nào. Khi truy cập vào trang web của doanh nghiệp, khách hàng có thể tham quan cửa hàng ảo, xem các danh mục hàng hoá và tiếp cận các thông tin về doanh nghiệp cũng như về hàng hoá để từ đó cân nhắc đưa ra quyết định mua hàng của mình. Khi quyết định mua hàng, khách hàng chỉ cần nhấn chuột vào lệnh giao hàng, điền các thông tin trong đơn đặt hàng và chỉ trong một thời gian ngắn sau, khách hàng đó sẽ nhận được hàng hoá mà mình đã đặt lệnh mua. Trong phương thức phân phối trực tiếp của Marketing Internet, các doanh nghiệp có thể chủ động trong việc quyết định khối lượng hàng hoá phân phối, kiểm tra, giám sát chặt chẽ các hoạt động phân phối, phản ứng kịp thời với các diễn biến trên thị trường. Với phương thức phân phối trực tiếp, doanh nghiệp không bị phân chia lợi nhuận. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng có thể áp dụng phương thức phân phối này. Để áp dụng phương thức phân phối trực tiếp, doanh nghiệp trước hết phải đầu tư một số lượng vốn lớn vào hoạt động phân phối đồng thời phải có đội ngũ chuyên môn am hiểu về các lĩnh vực để đảm nhiệm tốt các chức năng của các kênh phân phối. Chính vì vậy, các doanh nghiệp có quy mô lớn và lực lượng mạnh thường là các doanh nghiệp áp dụng phương thức phân phối trực tiếp. 4.2. Phương thức phân phối gián tiếp. Phương thức phân phối gián tiếp trong Marketing Internet cũng giống như trong Marketing Tiền Internet là phương thức phân phối thông qua hệ thống các trung gian và được mô tả như trong hình dưới đây: Nhà sản xuất Hệ thống các trung gian Người tiêu dùng Các trung gian trong hệ thống phân phối gián tiếp của doanh nghiệp được tổ chức thành một hệ thống, bao gồm các nhà bán buôn, các nhà bán lẻ và các đại lý khác phục vụ khâu phân phối như dịch vụ bảo hành, dịch vụ chăm sóc khách hàng... Với phương thức phân phối gián tiếp này, doanh nghiệp không phải lo đầu tư vốn vào hoạt động phân phối và giao cho một hệ thống các trung gian gồm các đại lý, các nhà bán buôn và các nhà bán lẻ. Thông qua phương thức này, hàng hoá sẽ được nhà sản xuất chuyển tới các trung gian. Từ đó các trung gian thông qua các cửa hàng ảo hay website của mình bán hàng tới người sử dụng hoặc người tiêu dùng cuối cùng. Phương thức phân phối gián tiếp này rất phù hợp với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Tuy nhiên, thực hiện phương thức phân phối gián tiếp sẽ giảm bớt quyền chủ động của nhà sản xuất. Việc kiểm soát hoạt động phân phối của doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, phản ứng trước biến động của thị trường cũng sẽ chậm hơn và thu nhập sẽ thấp hơn vì phải chia sẻ cho các trung gian. Chính vì vậy, các doanh nghiệp thường sử dụng song song hai phương thức phân phối trực tiếp và gián tiếp nhằm tận dụng được ưu điểm của cả hai phương thức trên đồng thời cũng hạn chế được nhược điểm của mỗi phương thức. 5. Những dòng lưu chuyển trong Marketing Internet Giữa các thành viên trong kênh phân phối được kết nối với nhau qua các dòng lưu chuyển. Các dòng lưu chuyển trong kênh là cách mô tả tốt nhất hoạt động của các kênh phân phối. Các dòng lưu chuyển chủ yếu trong kênh là: dòng lưu chuyển hàng hoá, dòng lưu chuyển quyền sở hữu, dòng lưu chuyển tiền tệ, dòng lưu chuyển thông tin,... Dòng lưu chuyển hàng hoá mô tả việc hàng hoá được chuyển từ thành viên này sang thành viên khác của kênh tới người tiêu dùng. Mỗi hành vi mua xảy ra trong kênh là một lần hàng hoá được chuyển từ người bán sang người mua. Nhà sản xuất Công ty vận tải Trung gian Công ty vận tải Người tiêu dùng Nhà sản xuất Công ty vận tải Người tiêu dùng Dòng lưu chuyển quyền sở hữu hàng hoá mô tả việc quyền sở hữu được chuyển từ người sản xuất qua nhà bán buôn, nhà bán lẻ tới người tiêu dùng thông qua hệ thống phân phối của nhà sản xuất. Nếu hình thức phân phối trực tiếp được áp dụng, quyền sở hữu về hàng hoá sẽ chuyển sang người tiêu dùng sau khi họ đã kết thúc việc mua hàng. Nếu hình thức phân phối gián tiếp được áp dụng thì hàng hoá sẽ phải qua nhiều trung gian mới tới người tiêu dùng. Có bao nhiêu khâu trung gian sẽ có bấy nhiêu lần chuyển nhượng về quyền sở hữu đối với hàng hoá. Dòng lưu chuyển này được mô tả như sau: Nhà sản xuất Nhà bán buôn Nhà bán lẻ Người tiêu dùng Dòng lưu chuyển tiền tệ di chuyển ngược chiều với dòng lưu chuyển quyền sở hữu. Nếu như dòng thông tin di chuyển theo hướng xuất phát từ nhà sản xuất tới người tiêu dùng và sau đó được phản hồi lại từ phía người tiêu dùng tới nhà sản xuất thì dòng lưu chuyển tiền tệ lại đi theo một chiều duy nhất: từ người mua tới người bán. Khi khách hàng kết thúc việc mua hàng, tức là đã thanh toán xong, số tiền thanh toán sẽ được chuyển tới người s._.ản xuất hay người bán hay qua các trung gian tới tay người bán thông qua dịch vụ thanh toán do ngân hàng cung cấp như thẻ tín dụng, dịch vụ chuyển tiền hay thanh toán bằng tiền mặt. Dòng lưu chuyển tiền tệ được mô tả như trong hình dưới đây: Người tiêu dùng Ngân hàng Trung gian Nhà sản xuất Ngân hàng Ngân hàng Dòng thông tin lưu chuyển trong kênh phân phối là luồng thông tin hai chiều từ người sản xuất đến người tiêu dùng và luồng thông tin phản hồi ngược lại. Sự vận động của luồng thông tin trong kênh phân phối rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng như ảnh hưởng đến quyền lợi của ngưởi tiêu dùng. Nhà sản xuất Người tiêu dùng Trung gian III. Chiến lược yểm trợ trong Marketing Internet 1. Khái niệm yểm trợ trong Marketing Internet Hoạt động Marketing hiện đại rất quan tâm đến các chiến lược yểm trợ. Đây là một trong bốn thành phần chủ yếu của Marketing Mix mà doanh nghiệp có thể sử dụng để tác động vào thị trường mục tiêu nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Yểm trợ trong Marketing Internet cũng giống như trong Marketing hiện đại nhưng xét về bản chất, hoạt động yểm trợ trong Marketing Internet chính là ứng dụng của mạng Internet để truyền tin về doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp tới khách hàng nhằm thuyết phục họ mua hàng. 2. Một số công cụ chủ yếu được sử dụng trong chiến lược yểm trợ trực tuyến Những công ty kinh doanh hiện đại thường tổ chức tiến hành một hệ thống yểm trợ trực tuyến phức tạp trong đó các công cụ được sử dụng chủ yếu gồm: giao dịch bằng e-mail, trang web của doanh nghiệp, webpromotion và quảng cáo trên Internet. 2.1. Trang web của doanh nghiệp Trang web của doanh nghiệp là công cụ của xúc tiến thương mại trong Marketing Internet. Trong trang web của doanh nghiệp có đầy đủ các thông tin về sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ và thông tin về doanh nghiệp. Khi truy cập vào trang web của doanh nghiệp, khách hàng sẽ có cảm giác như đang đi trong một cửa hàng trong đó có các sản phẩm được trưng bày với đầy đủ các thông số kỹ thuật, hướng dẫn sử dụng và bảo hành kèm theo. Với đặc trưng là một công cụ mạnh của Marketing trực tuyến, website được thiết kế nhằm làm cho khách hàng tin tưởng và thuyết phục họ sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp và bước tiếp theo là mua hàng trực tuyến và quay trở lại với doanh nghiệp ở lần mua tiếp theo. Website là một công cụ Marketing Internet hiệu quả hơn những công cụ Marketing thông thường được in ra trên giấy trong một cuốn sách mỏng. Trang web có khả năng làm cho khách hàng tiến sâu vào thông tin mà họ quan tâm nhưng không bị tràn ngập vào những thông tin họ không cần biết. Điều này khó có thể thực hiện được trong bất kỳ một cuốn sách mỏng được in trên giấy nào. Một website hấp dẫn cả về nội dung và hình thức sẽ không chỉ nâng cao hình ảnh, uy tín của doanh nghiệp mà còn là công cụ để thu hút và tăng lượng khách hàng tiềm năng cho doanh nghiệp. 2.2. Yểm trợ trang web (webpromotion) Yểm trợ trực tuyến (webpromotion) là bước cuối cùng trong các kế hoạch Marketing trực tuyến, là việc thông qua các trang web, địa chỉ web, bản thân doanh nghiệp thực hiện các chiến lược Marketing nhằm lôi kéo khách hàng tới website của mình. Webpromotion có khả năng tạo ra được những phản ứng đáp lại nhanh nhất và hiệu quả nhất. Nó là công cụ để khách hàng không chỉ trong nước mà còn khắp toàn cầu biết được địa chỉ trang web của doanh nghiệp để từ đó truy cập vào. Các công cụ sử dụng cho yểm trợ trang web gồm: e-mail, công cụ tìm kiếm (search engine), trang quảng cáo,... 2.3. Giao dịch bằng thư điện tử Thư điện tử (e-mail) đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong xúc tiến thương mại, trong Marketing Internet và là cách tốt nhất để giao dịch với khách hàng. Thông tin được chuyển tải không chỉ nhanh chóng nhất mà còn đảm bảo chi phí thấp nhất so với bất cứ phương tiện giao tiếp nào hiện có. Doanh nghiệp có thể gửi thông điệp về sản phẩm, dịch vụ của mình đến hàng ngàn địa chỉ khác nhau trong thời gian nhanh nhất. Doanh nghiệp chỉ phải soạn thảo nội dung của một bức thư rồi sau đó gửi đến danh sách khách hàng của mình chỉ với một thao tác đơn giản. Khách hàng có thể nhận được e-mail chỉ sau một vài giây hay lâu hơn tuỳ thuộc vào tốc độ truyền mạng Internet của nhà cung cấp dịch vụ. Mỗi e-mail được gửi đi là một lần doanh nghiệp quảng cáo cho chính mình. Là một công cụ của Marketing Internet, thư chào hàng bằng e-mail hấp dẫn sẽ góp phần tăng khả năng thu hút khách hàng tiềm năng, nâng cao uy tín của doanh nghiệp bằng cả nội dung, tính chuyên nghiệp và hình thức trình bày của người gửi. 2.4. Quảng cáo trực tuyến trên Internet Quảng cáo trực tuyến là phương tiện đầu tiên có thể xác định chính xác nhất những cơ hội quảng cáo và phản hồi đối với các quảng cáo. Quảng cáo trên Internet khác với trên các phương tiện truyền thông khác. Khi một quảng cáo được đưa lên ti vi hoặc lên đài truyền thanh, có thể không có ai xem hoặc nghe nó. Khi mua một tờ tạp chí, người đọc có thể không xem trang quảng cáo. Khi nhận được một bức thư quảng cáo trực tuyến, người đọc có thể không mở phong bì. Nhưng khi một quảng cáo đã được trình bày trên một trình duyệt web có nghĩa là đã có người yêu cầu hoặc có thể xem nó. Không thể xác định được liệu người sử dụng có thực sự xem quảng cáo không khi họ nhấn chuột qua các trang web hay họ tiến hành các thao tác có thể làm cho quảng cáo không hiển thị. Tuy nhiên quảng cáo trên Internet có nhiều ưu việt hơn so với các phương tiện khác và thực hiện được ưu điểm của các hình thức quảng cáo thông thường khác: quảng cáo Internet được sử dụng dưới hình thức các băng biển quảng cáo (banner) với hình ảnh động, màu sắc phong phú, âm thanh hoàn hảo. Không những thế một banner quảng cáo có thể dẫn khách hàng truy cập vào trang web của doanh nghiệp khi khách hàng nhấn chuột vào banner quảng cáo đó. Internet là một phương tiện truyền thông quảng cáo hiệu quả và phát triển nhanh nhất. Với Internet, nhà quảng cáo, nhà sản xuất có thể trò chuyện với khách hàng hiện tại và tiềm năng, nhận ý kiến của họ ngay khi trao đổi. Từ đó nhà sản xuất có thể điều chỉnh sản phẩm cùng các dịch vụ của mình cho phù hợp với yêu cầu của các khách hàng này, qua đó có [29] thể có thêm khách hàng mới, giữ gìn sự trung thành với sản phẩm của những khách hàng cũ và tiếp cận với độc giả theo một cách thức hiệu quả đáng ghi nhớ. 3. Kênh truyền thông trong Marketing Internet Theo Marketing Tiền Internet, có hai kênh truyền thông là kênh truyền thông trực tiếp và kênh truyền thông gián tiếp. Kênh truyền thông trong Marketing Internet cũng gồm hai kênh nói trên nhưng đặc điểm của từng kênh lại khác so với trong Marketing Tiền Internet. Kênh truyền thông trực tiếp trong Marketing Internet cho phép doanh nghiệp có thể đối thoại trực tiếp với nhau như thông qua website của doanh nghiệp, thông qua thư điện tử.... Kênh truyền thông gián tiếp cho phép doanh nghiệp tải thông điệp đi mà không cần có sự tiếp xúc hay giao tiếp trực tiếp như việc thông qua báo chí điện tử, qua nhóm thông tin điện tử.... Quá trình truyền thông điện tử trong Marketing Internet được mô tả như trong sơ đồ dưới đây: Internet Người gửi Mã hoá Người nhận Giải mã Thông điệp Liên hệ ngược Phản ứng đáp lại Thông tin nhiễu thông tin lượng hàng bán Thông tin của người gửi ở đây là các doanh nghiệp sẽ được mã hoá mỗi khi được truyền đi dưới dạng các tín hiệu 0,1 tới máy của người nhận. Các tín hiệu này sẽ được giải mã và nếu nó không bị cản trở bởi các chế độ cài đặt tại máy nhận, thông tin này sẽ được lưu lại trong máy đến tay người nhận. Ngược lại nếu thông điệp gửi đi gặp cản trở từ máy của người nhận thông tin sẽ bị gửi ngược trở lại cho người đã truyền tải đi. Mô hình này nhấn mạnh những yếu tố then chốt trong hệ thống truyền thông có hiệu quả. Thông tin được truyền tải đến công chúng được mã hoá và giải mã cho phù hợp với ngôn ngữ, văn hoá và hành vi mua hàng của khách hàng, đồng thời trang web của doanh nghiệp cũng có thể nhận thông tin phản hồi từ khách hàng. 4. Chức năng của chiến lược yểm trợ trong Marketing Internet 4.1.Cung cấp nhanh chóng thông tin cho khách hàng Thông qua các dịch vụ trực tuyến trong Marketing Internet, thông tin hỗ trợ khách hàng gồm các thông tin về sản phẩm, các chương trình khuyến mãi, tư vấn dịch vụ được đưa tới khách hàng ngay lập tức. Các thông tin do được giới thiệu phong phú và đầy đủ trên web nên sẽ giúp khách hàng tự giải quyết những khúc mắc của mình và không cần sự hỗ trợ của nhân viên bán hàng. Thêm vào đó, việc kết hợp giữa tính tương tác của trang web với những hiểu biết thích hợp về nhu cầu của khách hàng có thể giúp nhà quản trị Marketing tạo ra những đơn đặt hàng cho từng loại khách hàng, xây dựng những mối quan hệ lâu dài, qua đó tăng cường sức mạnh cạnh tranh cho doanh nghiệp. Các thông tin còn giúp khách hàng tự lựa chọn sản phẩm, tự đặt hàng và tự thực hiện các thủ tục thanh toán. Như đã đề cập ở phần "đặc thù của Marketing Internet ", việc cung cấp thông tin cho khách hàng trong chiến lược yểm trợ được huy động đến mức tối đa, không bị cản trở bởi bất kỳ lý do nào về thời gian và không gian. Nói cụ thể hơn, trong Marketing Internet , khách hàng có thể nhận được thông tin bất cứ lúc nào và từ đâu mà họ muốn, không có khái niệm ngày nghỉ, cũng như không có khái niệm biên giới quốc gia. 4.2. Thúc đẩy truy cập vào trang Web của doanh nghiệp Thông qua các công cụ của webpromotion như e-mail, banner quảng cáo, khách hàng đã ghi nhận được hình ảnh và địa chỉ của công ty. Sự hấp dẫn và lôi cuốn của e-mail và banner quảng cáo về cả hình thức và nội dung thuyết phục họ, làm nảy sinh nhu cầu tham quan trang web của doanh nghiệp và trở thành khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp. Tuy nhiên để khách hàng có thể truy cập được trang web của doanh nghiệp một cách dễ dàng và nhanh chóng, trên e-mail và các banner quảng cáo phải ghi chú địa chỉ trang web của doanh nghiệp và đôi khi cung cấp dịch vụ truy cập trực tiếp vào trang web của doanh nghiệp chỉ với việc nhấn chuột vào dòng địa chỉ web được ghi trên e-mail hoặc banner quảng cáo. 4.3. Thúc đẩy khách hàng mua sản phẩm của doanh nghiệp Khi khách hàng đã truy cập vào trang web của doanh nghiệp hay nói cách khác là tham quan cửa hàng ảo của doanh nghiệp, họ thường được cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết về hàng hoá. Xúc tiến thương mại hay yểm trợ trong Marketing Internet luôn luôn đảm bảo rằng, cửa hàng ảo của doanh nghiệp phải thực sự đẹp mắt và hấp dẫn cả về nội dung lẫn hình thức trình bày và phải đủ sức thuyết phục để khách hàng muốn sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp và mua thử. 4.4. Lôi cuốn khách hàng quay trở lại doanh nghiệp Đây là chức năng rất quan trọng của không chỉ Marketing Internet mà còn cả của Marketing Tiền Internet nhằm duy trì và củng cố mối quan hệ khách hàng- nhà sản xuất. Để lôi cuốn khách hàng quay trở lại doanh nghiệp thì ngoài sản phẩm có chất lượng tốt, doanh nghiệp phải có các chính sách hỗ trợ dịch vụ sau bán hàng tốt và thông tin về sản phẩm được cập nhật thường xuyên cho khách hàng. 4.5. Khách hàng hiện hữu lôi kéo thêm khách hàng mới cho doanh nghiệp Bên cạnh việc duy trì và củng cố mối quan hệ với khách hàng hiện tại, doanh nghiệp luôn muốn mở rộng thị trường của mình. Đây là một cách thức để doanh nghiệp có thêm khách hàng tiềm năng và cũng là hiệu quả trực tiếp của việc doanh nghiệp đã thực hiện tốt bốn chức năng của xúc tiến thương mại trong Marketing Internet nói trên. Đối với mỗi người tiêu dùng, việc được người thân hay bất cứ người quen biết nào giới thiệu về chất lượng của một sản phẩm nào đó có ảnh hưởng rất lớn tới quyết định mua hàng của họ. Mỗi người tiêu dùng đều cho rằng sản phẩm được giới thiệu đó đã được thử nghiệm bởi người giới thiệu cho mình với chất lượng tốt. Điều đó sẽ thôi thúc họ có ý định dùng thử sản phẩm của doanh nghiệp và kết quả là doanh nghiệp đã có thêm khách hàng tiềm năng trở thành khách hàng hiện hữu của mình. Với hiệu quả như vậy, phương pháp quảng cáo truyền miệng này được đánh giá là có giá trị nhất trong việc duy trì và nâng cao uy tín, hình ảnh của doanh nghiệp. IV. Lợi ích của ứng dụng Marketing Internet trong chiến lược phân phối và yểm trợ 1. Đáp ứng tốt hơn những nhu cầu đặc biệt của khách hàng Khi triển khai chiến lược Marketing Internet, doanh nghiệp có thể thực hiện các công việc của hoạt động Marketing, tiếp xúc và trao đổi trực tiếp với khách hàng một cách gần gũi, hiểu biết lẫn nhau từng người một và mỗi người sẽ có những nội dung tiếp xúc e-mail khác nhau được cá nhân hoá một cách sâu sắc. Chính vì vậy doanh nghiệp có thể phân loại được các phân đoạn thị trường nhỏ với các nhu cầu đặc biệt riêng, từ đó doanh nghiệp có thể cung cấp các sản phẩm khác biệt tương ứng với đặc điểm của từng phân đoạn thị trường, từng khách hàng như may mặc, dịch vụ tư vấn.... 2. Đa dạng hoá và nâng cao mối quan hệ với khách hàng. Bên cạnh các phương pháp tiếp cận khách hàng của Marketing Tiền Internet , Marketing Internet tạo ra những phương pháp tiếp cận khách hàng mới như thông qua e-mail, website, diễn đàn,...với chi phí thấp và thời gian ngắn. Đồng thời qua môi trường trực tuyến, mối liên hệ giữa nhà sản xuất -người tiêu dùng được duy trì liên tục gần như không còn khoảng cách về địa lý và về thời gian. Nhờ đó cả sự hợp tác lẫn sự quản lý đều được tiến hành nhanh chóng và liên tục, các bạn hàng mới, các cơ hội kinh doanh mới được phát hiện nhanh chóng trên bình diện toàn quốc, toàn khu vực và toàn thế giới, tạo ra nhiều cơ hội để doanh nghiệp lựa chọn. 3. Tiết kiệm chi phí thấp nhất ứng dụng Marketing Internet trong chiến lược phân phối, xúc tiến giúp doanh nghiệp giảm được rất nhiều loại chi phí từ chi phí sản xuất, chi phí dịch vụ đến chi phí bán hàng và yểm trợ. Việc tiết kiệm chi phí sản xuất được thể hiện rõ nét nhất ở những công ty kinh doanh, bán những sản phẩm có tính chất hay thay đổi thường xuyên có thể giảm giá sản phẩm, hạn chế sự mất giá do lỗi thời, do công nghệ như: vé máy bay, vé dịch vụ,... Marketing Internet sẽ giúp doanh nghiệp điều chỉnh giá tương ứng với sự thay đổi của thị trường. Giảm chi phí sản xuât được thể hiện trước hết là chi phí văn phòng. Các chi phí không giấy tờ (paperless costs) [11] chiếm tỷ trọng nhỏ hơn rất nhiều, chi phí tìm kiếm chuyển giao tài liệu giảm nhiều lần, đạt tới 30% (trong đó công đoạn in ấn gần như bỏ hẳn). Và điều quan trọng nhất là các nhân viên có năng lực được giải phóng khỏi nhiều công đoạn sự vụ để có thể tập trung vào nghiên cứu phát triển, điều này sẽ đem lại lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp. Giao dịch thông qua Internet giúp người tiêu dùng và doanh nghiệp giảm đáng kể khâu trung gian và chi phí. Thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua fax và bằng khoảng 0,5% thời gian giao dịch qua bưu điện. Chi phí giao dịch qua Internet chỉ bằng khoảng 5% chi phí qua fax hay qua bưu điện chuyển phát nhanh. Chi phí thanh toán đầu tư chỉ bằng từ 10% đến 20% chi phí thanh toán theo lối thông thường. Theo số liệu của hãng Boeing của Mỹ, cho tới nay đã có tới 50% khách hàng đặt mua 9% phụ tùng qua Internet và mỗi ngày hãng này giảm được 600 cuộc điện thoại so với trước. Tốc độ và chi phí truyền gửi một bộ tài liệu 40 trang từ New York đi Tokyo được mô tả như bảng 1 dưới đây. Bảng 1: So sánh chi phí và thời gian truyền gửi của Internet với các phương tiện truyền thông khác Phương tiện Thời gian Chi phí Bưu điện 5 ngày USD 7,4 Chuyển phát nhanh 24 giờ USD 26,3 Fax 31 phút USD 28,8 Internet 2 phút USD 0,1 Nguồn: Bộ Thương Mại-"Thương mại điện tử"-NXB Thống kê năm 1999/ Trang 60 Tổng hợp các lợi ích này, thời gian cần thiết để thiết kế và sản xuất một sản phẩm (cycle time) giảm xuống nhờ đó sản phẩm mới nhanh chóng xuất hiện và hoàn thiện. 4. Mở rộng không gian thị trường (Market place) Chúng ta thấy rằng mạng Internet là mạng được kết nối trên phạm vi toàn cầu với số lượng người truy cập đến từ tất cả các nước trên thế giới. Chính vì vậy, Marketing Internet có khả năng bán sản phẩm của doanh nghiệp ra thị trường to lớn này. Marketing Internet đã tạo ra một sức mạnh to lớn cho việc thâm nhập thị trường nước ngoài và khả năng bán hàng của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể nhận được đơn đặt hàng qua mạng từ bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Tuy nhiên, để mở rộng và có thể tiếp cận được thị trường toàn cầu này, doanh nghiệp phải có được kế hoạch đầy đủ và hiệu quả. Một công ty phần mềm của Mỹ đã thành công trong chiến lược này. Nhân viên phụ trách bán hàng hạ giá các phần mềm của công ty đã tham gia vào thư điện tử của Compu Server- một địa chỉ thương mại lớn đã phân tích các đơn đặt hàng của địa chỉ này và nhận thấy 40% đơn đặt hàng đến từ các nước khác. Công ty phần mềm này đã quyết định quảng cáo trên Compu Server vì nó có tỷ lệ thành viên quốc tế cao [29]. Chiến lược này của họ đã thực sự có kết quả với số lượng đơn đặt hàng từ nước ngoài ngày càng tăng. 5. Cung cấp thông tin cho khách hàng một cách nhanh chóng và hiệu quả Thông qua các dịch vụ trực tuyến của Marketing Internet, thông tin hỗ trợ khách hàng như các thông tin về sản phẩm, về các chương trình khuyến mãi, tư vấn dịch vụ được đưa tới khách hàng ngay lập tức. Các thông tin giới thiệu phong phú và đầy đủ trên web giúp khách hàng tự giải quyết những khúc mắc của mình mà không cần sự giúp đỡ, hỗ trợ của người bán hàng. Thêm vào đó, việc kết hợp giữa tính tương tác của trang web với những hiểu biết thích hợp về nhu cầu khách hàng có thể giúp nhà quản trị Marketing Internet tạo ra những đơn đặt hàng cho từng loại khách hàng, xây dựng những mối liên hệ lâu dài, qua đó tăng sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp. Các thông tin còn giúp khách hàng tự lựa chọn sản phẩm, tự đặt hàng và tự thực hiện các thủ tục thanh toán. Từ việc lựa chọn cấu hình một máy tính cho đến việc mua bán chứng khoán đều có thể dựa trên các thông tin web sao cho phù hợp với nhu cầu của mình nhất. 6. Nắm được thông tin phong phú, hấp dẫn Marketing Internet trước hết giúp cho các doanh nghiệp nắm được thông tin phong phú về kinh tế- thương mại (có thể gọi chung là thông tin thị trường), nhờ đó có thể xây dựng được chiến lược sản xuất và kinh doanh thích hợp với xu thế phát triển cuả thị trường trong nước, khu vực và quốc tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nỗ lực tìm kiếm chỗ đứng và mở rộng vị trí trên trường quốc tế. Marketing Internet còn cho phép doanh nghiệp phản ứng với các cơ hội thị trường một cách nhanh chóng và linh hoạt hơn. Truyền thông Internet cho phép doanh nghiệp nhanh chóng giới thiệu sản phẩm mới ra thị trường, nhận thông tin phản hồi từ thị trường ngay lập tức, cải tiến và hoàn thiện nó mà không cần đầu tư những khoản tiền khổng lồ vào hệ thống phân phối hay thuê kho và cửa hàng ảo trưng bày hàng hoá cuả các nhà bán buôn, bán lẻ như trong Marketing Internet. Khi sản phẩm đã được thị trường chấp nhận thì doanh nghiệp có thể đưa ra thị trường thông qua các kênh truyền thống với thông tin nhanh đảm bảo thành công lớn hơn nhiều bởi lẽ chớp được các cơ hội kinh doanh. 7. Thúc đẩy nhanh hơn việc tiêu thụ sản phẩm Bằng cách thiết lập những liên kết điện tử với khách hàng và nhà cung cấp của mình, các doanh nghiệp có thể chuyển và nhận đơn đặt hàng, hóa đơn và gửi thông báo với thời gian ngắn hơn. Sự liên kết bằng điện tử với nhà cung cấp, đại lý và khách hàng cũng cho phép doanh nghiệp duy trì mức tồn kho tối thiểu, giảm phần lớn các chi phí liên quan. Với thời gian dành cho mỗi đơn hàng ngắn đi và chi phí thấp hơn, doanh nghiệp có thể phục vụ nhiều khách hàng hơn, từ đó thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm nhanh hơn đồng thời thu được lợi nhuận cao hơn. 8. Đo lường được hiệu quả quảng cáo Với hệ thống truyền thông Marketing Internet, các nhà quản trị quảng cáo của doanh nghiệp có thể ngay lập tức biết được số người quan tâm tới các thông tin, số khách hàng truy cập trang web của doanh nghiệp, số khách hàng tiềm năng. Thông qua nhà quản trị trang web mà các doanh nghiệp đặt banner quảng cáo doanh nghiệp có thể thu thập được các thông tin về số người truy cập trang web của nhà quảng cáo cũng như số lượng khách hàng truy cập vào trang của doanh nghiệp thông qua trang web quảng cáo này. 9. Xây dựng và củng cố nhãn hiệu Hiện nay trên thế giới ngày càng có nhiều doanh nghiệp nhận thấy tầm quan trọng của việc ứng dụng Marketing Internet trong việc xây dựng và củng cố nhãn hiệu. Trong một nghiên cứu về hiệu quả quảng cáo trực tuyến quan trọng vào năm 1997 do công ty MBinteractive thực hiện cho tập đoàn IAB của Mỹ, một thử nghiệm đã được tiến hành để xác định ảnh hưởng của một lần quảng cáo dạng biểu ngữ trên một website so với một nhóm điều hành. Sau một lần xuất hiện, người ta nhận thấy quảng cáo dạng biểu ngữ trực tuyến làm tăng nhận thức về nhãn hiệu, tăng nhận thức về sản phẩm và tăng dự định mua sản phẩm của khách hàng. Nghiên cứu này đã chỉ ra: Nhận thức về quảng cáo (được xác định bằng cách đặt câu hỏi cho những người được phỏng vấn xem liệu họ có nhớ một quảng cáo được xem cách đây một tuần hay không) tăng 30% với một lần quảng cáo. Quảng cáo trên Internet làm tăng nhận thức của khách hàng về các nhãn hiệu được quảng cáo với mức tăng trung bình là 5%. Quảng cáo trực tuyến cung cấp một khả năng to lớn để cải thiện cảm nhận của khách hàng về nhãn hiệu hàng hoá. Ví dụ, sau khi một quảng cáo của hãng Volvo- một hãng chuyên sản xuất hàng ôtô của Thuỵ Điển xuất hiện, số người nghĩ rằng đây là một loại ô tô tốt tăng lên 55%, số người đánh giá xe Volvo cao hơn các loại xe khác tăng lên 44%, số người nghĩ rằng Volvo có điểm khác so với các loại ô tô khác tăng lên 57%. Như vậy, chúng ta có thể thấy Marketing Internet ra đời là một thành tựu lớn của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, của cuộc cách mạng tin học và Internet. Marketing Internet được phát triển và ứng dụng một cách rộng rãi trong các hoạt động của các doanh nghiệp trên Thế giới với những hiệu quả cao. Việt Nam cũng nằm trong xu thế của sự phát triển trên, hoạt động Marketing Internet được ứng dụng và phát triển như thế nào, sau đây tác giả xin đề cập tại chương II. Chương II Tình hình ứng dụng Marketing Internet trong chiến lược phân phối và yểm trợ của doanh nghiệp Việt Nam I- sự cần thiết phảI kinh doanh theo định hướng Marketing nói chung và marketing internet nói riêng 1.Sự cần thiết phải kinh doanh theo định hướng Marketing Trong những năm gần đây, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng trở nên gay gắt, đặc biệt là trong bối cảnh mở cửa và hội nhập kinh tế nước ta hiện nay. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải theo sát thị trường và có những quyết định chính xác kịp thời, hợp lý nếu không sẽ vấp phải những trở ngại lớn và khó tồn tại trên thị trường. Vì vậy việc áp dụng các chiến lược Marketing vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trở nên cần thiết và đóng vai trò rất lớn giúp các doanh nghiệp cạnh tranh có hiệu quả với các đối thủ, đáp ứng kịp thời những yêu cầu của khách hàng ngày càng trở nên đa dạng và khác biệt hoá. 2.Sự cần thiết phải kinh doanh theo định hướng Marketing Internet Đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, việc kinh doanh không chỉ theo định hướng Marketing thông thường mà còn phải có các chiến lược phát triển phù hợp với sự phát triển của xã hội. Cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã mở ra một phương thức kinh doanh mới- phương thức ứng dụng mạng Internet vào các họat động kinh doanh. Do vậy các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải có sự điều chỉnh để phù hợp với phương thức kinh doanh mới này. Chiến lược Marketing cũng phải có sự thay đổi tương ứng, theo đó các doanh nghiệp cần phải có sự điều chỉnh để có thể ứng dụng mạng Internet vào các hoạt động của mình trong đó có hoạt động Marketing Internet. Với các lợi ích của Marketing Internet như đã đề cập ở chương trước thì điều cần thiết ở đây không chỉ là phải kinh doanh theo định hướng Marketing mà là theo định hướng Marketing Internet khi mạng Internet đã phát triển và được ứng dụng rộng rãi tại Việt Nam. II- Tình hình ứng dụng Marketing Internet vào chiến lược phân phối và yểm trợ của doanh nghiệp Việt Nam 1. Thực trạng phát triển Internet ở Việt Nam Một trong những bước đổi mới quan trọng của công nghệ Việt Nam vào năm 1997 và 1998 là Việt Nam đã chính thức tham gia nối mạng với hệ thống Internet quốc tế vào ngày 19/11/1997 [19]. Trong bối cảnh hội nhập và phát triển của kinh tế quốc tế, của một nền kinh tế số hoá với công nghệ là cơ sở, Nhà nước ta đã khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh sự phát triển của Internet trong cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin quốc gia. Từ khi gia nhập vào hệ thống siêu thông tin toàn cầu, Việt Nam chỉ có một nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP: Internet Service Provider) là công ty truyền số liệu Việt Nam (VDC) của Tổng công ty Bưu chính Viễn Thông Việt Nam với số thuê bao xấp xỉ 3000 với khoảng 20.000 người sử dụng Internet [30]. Đến năm 1999, Việt Nam đã có 4 nhà cung cấp dịch vụ Internet, ngoài VDC còn có thêm công ty Phát triển và Đầu tư công nghệ thông tin (FPT), công ty cổ phần dịch vụ viễn thông Sài Gòn (SPT) và Viện công nghệ thông tin (Netnam) với số lượng thuê bao lên tới 4000. Bước ngoặt trong quá trình phát triển của Internet tại Việt Nam là sự ra đời của Nghị định 55/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/8/2001. Nghị định này cho phép thêm nhiều doanh nghiệp tham gia vào hoạt động cung cấp dịch vụ Internet, thị trường Internet đã sôi động hẳn lên. Hiện nay, ở Việt Nam đã có 7 nhà cung cấp dịch vụ Internet và 2 nhà cung cấp dịch vụ truy cập Internet (IAP: Internet Acess Provider). Internet ngày càng được xã hội hoá sâu rộng, thu hút nhiều thành phần kinh tế. Gần 5000 đại lý Internet đã được phát triển tạo điều kiện cho đông đảo dân chúng sử dụng Internet, đặc biệt tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh, sinh viên có điều kiện tiếp xúc với các công nghệ tiên tiến, tạo thêm công ăn việc làm và thu nhập cho xã hội. Theo con số thông kê của VNNIC (Trung tâm thông tin mạng Internet Việt Nam), tính đến hết năm 2001, số lượng người sử dụng Internet đã lên tới 1.009.544 người, tỷ lệ dân số sử dụng Internet là 1,26%. Số lượng các doanh nghiệp tham gia vào Internet cũng đã tăng đáng kể. Năm 1999 có khoảng 500 doanh nghiệp xây dựng trang Web, đến năm 2001, đã có 1.500 doanh nghiệp có trang Web trên mạng [86]. Tuy nhiên, 5 năm kể từ ngày hoà mạng quốc tế là một thời gian rất ngắn đối với Internet Việt Nam. Nhiều vấn đề bất cập còn tồn tại như giá cước (Việt Nam có mức giá cước Internet vào loại cao so với các nước [86] trong khu vực và thế giới nếu xét theo thu nhập bình quân của người dân hàng năm), tốc độ truy cập chậm cũng là một vấn đề gây nhiều khó khăn cho người sử dụng Internet. Bên cạnh đó, sự hiểu biết và sự ứng dụng các dich vụ trên Internet còn hạn chế, lượng người sử dụng tăng nhưng trong số đó, tỷ lệ sử dụng Internet để khai thác dịch vụ rất nhỏ, còn lại đa phần là sử dụng Internet để chuyển thư từ, tán gẫu qua mạng (tỷ lệ này trong học sinh, sinh viên lên tới hơn 90%), trong đó có số lượng không nhỏ sử dụng Internet với mục đích không lành mạnh. Các doanh nghiệp cũng đã tham gia vào việc khai thác Internet nhưng đa phần mới chỉ dừng ở việc chuyển thư, khai thác dịch vụ một chiều, chưa thực sự sử dụng Internet như một phương tiện cho hoạt động thương mại và kinh doanh của mình. 2. Những hoạt động chủ yếu của Marketing Internet ở Việt Nam Như đã đề cập ở chương I, hoạt động Marketing Internet chủ yếu bao gồm hoạt động Marketing Internet nghiên cứu môi trường, hoạt dộng trong nghiên cứu thị trường, hoạt động trong khâu quảng cáo ... Tại Việt Nam, hoạt dộng Marketing Internet cũng bao gồm các nội dung trên nhưng có những điểm riêng cụ thể như sau: 2.1. Hoạt động Marketing Internet ở Việt Nam trong khâu nghiên cứu môi trường: gồm những yếu tố sau: Thứ nhất là hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin. Đây là một vấn đề mang tính cấp bách đối với mỗi doanh nghiệp khi quyết định ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của mình. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình nghiên cứu ứng dụng Marketing Internet cũng đã từng bước nghiên cứu các yêu cầu, đặc điểm và sự phát triển của công nghệ thông tin, của các tiêu chuẩn ứng dụng và thiết bị công nghệ. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thế giới hiện nay, khi thương mại điện tử đã trở thành một phương thức kinh doanh mới, ngày càng có nhiều doanh nghiệp quan tâm hơn tới ứng dụng của nó và các điều kiện về kỹ thuật trong chiến lược Marketing Internet. Thứ hai là hạ tầng cơ sở nguồn nhân lực. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng nhận thấy để có thể thành công trong việc ứng dụng mạng Internet và Marketing Internet vào hoạt động của mình thì điều cần thiết là phải có được lực lượng cán bộ nòng cốt hiểu biết, đủ trình độ. Trong kế hoạch xây dựng lực lượng cán bộ cho Marketing Internet các doanh nghiệp Việt Nam cũng dựa vào hai yếu tố là trình độ tin học công nghệ và trình độ ngoại ngữ mà chủ yếu là tiếng Anh. Thứ ba là hạ tầng cơ sở kinh tế-pháp lý. Môi trường kinh tế pháp lý hiện nay của Việt Nam có thể nói rằng đã được hoàn thiện hơn rất nhiều so với trước. Năm 1997 mới chỉ có Nghị định 21/CP ngày 5/3/97 về quy chế tạm thời về quản lý, thiết lập và sử dụng mạng Internet ở Việt Nam đến nay hàng loạt các văn bản pháp luật được ban hành mơí nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và ứng dụng mạng Internet tại Việt Nam như Nghị Định 55/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet, Quyết định số 33/2002/QĐ-TTg về phê duyệt kế hoạch phát triển Internet tại Việt Nam giai đoạn 2001-2005... Điều này đã tạo thuận lợi rất nhiều cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc nghiên cứu ứng dụng Marketing Internet vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên để có thể thành công trong hoạt động Marketing Internet ở Việt Nam các doanh nghiệp cần phải tập trung vào các yếu tố sau đây: - Mức độ thừa nhận và bảo vệ tính pháp lý của Internet. - Mức độ bảo vệ pháp lý cho thanh toán điện tử. - Quy định pháp lý các dữ liệu có xuất xứ từ phía nhà nước. - Bảo vệ pháp lý đối với sở hữu trí tuệ trong giao dịch điện tử. - Sự an toàn, bảo mật trong các giao dịch điện tử. Ngoài ba môi trường trên, hoạt động Marketing Internet ở Việt Nam cũng tậ._.n hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng hiện hữu - những khách hàng đến với doanh nghiệp theo cách thức của Marketing Tiền Internet. Để Website của doanh nghiệp được quảng bá rộng rãi, doanh nghiệp có thể áp dụng các cách thức sau: - Đặt tên địa chỉ Website của doanh nghiệp theo quy ước chung và thật đơn giản sao cho dễ nhớ và có quan hệ mật thiết với tên giao dịch của Công ty. Ví dụ một Công ty có tên viết tắt là ABC có thể đặt tên Website của mình là www.ABC.com.vn. ý nghĩa của các thành phần của địa chỉ trên là: www: world wide web: Mạng diện rộng toàn cầu – Internet. ABC: Tên Công ty. Com: Thuộc các hình thức kinh doanh doanh nghiệp. Vn: Thuộc quốc gia Việt Nam. Với cách đặt tên này, khách hàng nếu biết tên Công ty có thể tự đoán ra địa chỉ Web của doanh nghiệp trên mạng Internet và tìm được tới Website của doanh nghiệp. - Đưa địa chỉ Web của doanh nghiệp vào thông báo e- mail gửi tới những khách hàng tiềm năng. - Đặt một quảng cáo tiêu đề lên một Website khác thông dụng mà khách hàng tiềm năng ưa thích viếng thăm. Ví dụ như các trang www.vnexpress.net hay www.vnn.vn ...là những trang Web có lượng người tham quan đông nhất vì các trang này chứa lượng thông tin phong phú, luôn cập nhật hàng giờ và thông tin được sắp xếp theo chủ đề hoặc theo mốc thời gian để người đọc có thể tra cứu dễ dàng. - Đưa địa chỉ Website của doanh nghiệp lên bộ công cụ tìm kiếm trên Website lớn. ở Việt Nam hiện nay, các trang Web có công cụ tìm kiếm mạnh nhất là các trang Web của các nhà cung cấp dịch vụ Internet lớn như FPT, VDC, VNPT,... Còn để mở rộng ra phạm vi toàn cầu, doanh nghiệp có thể đưa địa chỉ của mình lên các trang Web nổi tiếng như Yahoo ở địa chỉ www.yahoo.com, Google ở địa chỉ www.google.com hay Altavista ở địa chỉ www.AltaVista.com...Khi khách hàng muốn tìm điạ chỉ Web của doanh nghiệp, họ sẽ vào trang chủ của các Website có bộ dò tìm trên, đánh các từ khoá về tên Công ty hay địa chỉ Công ty... từ đó bộ dò tìm của trang chủ đó sẽ tìm địa chỉ Website của doanh nghiệp dựa trên các thông số trên và đưa kết quả tìm kiếm hiện ra trên màn hình để khách hàng có thể truy cập vào. - Đưa địa chỉ Website của doanh nghiệp lên danh thiếp thương mại của doanh nghiệp, giấy tờ văn phòng và các tài liệu khác. - Quảng cáo địa chỉ Web trên phương tiện truyền thông đại chúng như nhà xuất bản, TV, Radio... - Quảng cáo địa chỉ Web của doanh nghiệp trên bảng quảng cáo, xe chở hàng và các địa điểm khác cho khách hàng tiềm năng có thể nhìn thấy. - Sử dụng các dịch vụ có trả tiền để xúc tiến Website của doanh nghiệp. - Thuê một đại lý quảng cáo để xúc tiến Website của doanh nghiệp. 3.8.3. Giải pháp trong sử dụng e-mail Gửi thư điện tử trong chiến lược Marketing Internet hiện nay là một vấn đề gây nhiều tranh cãi bởi nó luôn bị nhầm lẫn với các spammer (người gây rối) và những nỗ lực Marketing Internet lúc này trở nên phản tác dụng và thậm chí tồi tệ. Việc gửi đi hàng nghìn thư điện tử với tần suất lớn tới hàng nghìn địa chỉ với hy vọng sẽ có một trong số ít người trả lời có thiện ý đã gây khó chịu cho người nhận nó. Tuy nhiên không thể phủ nhận rằng e-mail là một kỹ thuật, một công cụ có hiệu quả để xây dựng một quá trình truyền thông đầu tiên cho sự bắt đầu của một địa chỉ web. Chiến lược gửi thư điện tử được xác định trên nền tảng hệ thống Marketing Internet. Cách thực hiện gửi một e-mail có hiệu quả mà người làm công tác Marketing Internet cần xác định gồm: Thứ nhất là đối tượng (khách hàng tiềm năng) nhận thư điện tử. Thứ hai là thời điểm gửi thư điện tử. Người làm Marketing Internet cần để ý đến khách hàng mục tiêu một cách kỹ lưỡng và tôn trọng thời gian của họ, chỉ gửi đến cho họ những thông tin mà doanh nghiệp có đủ lý do để người nhận có thể chấp nhận được. Điều này có nghĩa là phải chọn thời điểm nhu cầu của khách hàng xuất hiện, khi mà khách hàng tiềm năng cần hoặc đang quan tâm đến sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Để có thể biết được thời điểm nhu cầu này xuất hiện ở các khách hàng mục tiêu, người làm Marketing Internet phải kiểm soát những người thường xuyên truy cập tới trang web của doanh nghiệp hay thông báo có nhu cầu. Thứ ba là bố cục, nội dung của thư điện tử. Các thư điện tử này cần ngắn gọn, không mang tính gạ gẫm và mang tính cá nhân hoá. Trước tiên cần nói cho người nhận biết tại sao họ là khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp có nghĩa là nói thẳng vào nhu cầu của họ Có những phần mềm cho phép cá nhân hoá các bức thư điện tử mỗi khi gửi đi với cùng một nội dung mà không cần phải viết lại cho từng cá nhân. Các bức thư mang tính cá nhân hoá này thường có tỷ lệ hồi âm cao hơn vì mọi người đều có thiên hướng thích đọc và trả lời các bức thư bắt đầu bằng tên của họ hoặc bằng lời hỏi thăm cá nhân. Tuy nhiên các doanh nghiệp cũng nên lưu ý rằng chỉ nên cá nhân hoá các bức thư khi đã nắm rõ các thông tin về khách hàng. Thông điệp gửi đi không được quá 65 ký tự trên một dòng vì có trường hợp bộ duyệt thư điện tử của khách hàng không có bộ cuộn dòng và trong giới hạn của màn hình khách hàng không thể đọc trọn vẹn được thông điệp. Thông điệp phải ngắn gọn, nếu dài hơn hai trang thì phải nén lại cho gọn. 3.8.4. Giải pháp trong quảng cáo trên mạng Internet Quảng cáo trên mạng Internet thường được thực hiện thông qua các băng hiệu quảng cáo (banner). Để có thể đảm bảo được hiệu quả của quảng cáo trên Internet hay cụ thể là trên trang Web thì trang Web đó phải có lượng người tham quan mỗi ngày cao. 10 Internet website hàng đầu trên thế giới để doanh nghiệp có thể quảng cáo trên phạm vi toàn cầu là Yahoo, Go, Excite, Lycos, AltaVista, Snap, Hotbot, Goto.com, Looksart và Webcrawler. Các website có lượng độc giả lớn ở Việt Nam có thể kể như sau: Laodong.com, vnexpress.net, vnn.vn... Phương thức hoạt động của quảng cáo trên website là mà doanh nghiệp có thể lựa chọn là: 1- Mua không gian banner từ một Portal. 2- Site này tính cước đối với doanh nghiệp dựa trên số lượng người kích chuột vào tổ chức có banner của doanh nghiệp. 3- Càng nhiều khách hàng tham quan site thì càng phải trả nhiều tiền hơn cho Banner. 4- Nhiều Portal, ví dụ như các chương trình tìm kiếm có thể chọn động hiển thị các banner dựa trên các dữ liệu nhập vào của người sử dụng. Quảng cáo trực tuyến có thể là hiệu quả hơn các phương tiện truyền thông khác vì doanh nghiệp có thể chắc chắn rằng mọi người ở trên trang Web mà banner của doanh nghiệp được đặt. Phần lớn các site bán quảng cáo Web đều yêu cầu việc đăng ký quảng cáo trong vòng ít nhất là 3 tháng. Tuy nhiên các banner quảng cáo sẽ hiệu quả hơn nếu chúng được thay đổi theo một chu kỳ hợp lý nhất định. 3.9.Giải pháp hoàn thiện hệ thống phân phối trong Marketing Internet Để có thể thoả mãn nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất, doanh nghiệp phải đảm bảo được việc giao hàng đến tay người tiêu dùng đúng hẹn mà không có sai sót nào xảy ra đối với sản phẩm. Đây là nguyên tắc không chỉ dùng trong Marketing Internet mà trong cả Marketing Tiền Internet. Sản phẩm phải được giao đến tay người tiêu dùng đúng thời gian đã thoả thuận để khách hàng có thể sử dụng kịp thời theo mục đích riêng của mình. Nếu có hỏng hóc nào xảy ra trong quá trình giao hàng, doanh nghiệp cũng phải đảm bảo được việc gửi hàng thay thế đến kịp thời hay trong thời gian sớm nhất có thể với một lời xin lỗi. Thực hiện tốt chiến lược phân phối, doanh nghiệp phải đảm bảo được sự hoạt động tốt của mọi khâu trong kênh phân phối của mình từ khâu lưu kho, vận chuyển đến dịch vụ sau bán hàng. Tuy nhiên, đối với những doanh nghiệp quy mô lớn, có hệ thống các trung gian và đại lý ở nhiều nơi thì việc giao hàng trực tiếp từ doanh nghiệp tới tay người tiêu dùng ở các khu vực nơi các trung gian của mình hoạt động có thể gây ảnh hưởng không tốt tới quan hệ giữa doanh nghiệp với đại lý. Chính vì vậy, các doanh nghiệp này cần phải đảm bảo việc cho phép khách hàng được quyết định xem có mua hàng của các đại lý địa phương hay không hoặc các công đoạn đặt hàng và thanh toán sẽ được thực hiện thông qua trang Web của doanh nghiệp, còn khâu phân phối sẽ do đại lý đảm nhiệm. Ngoài ra doanh nghiệp cũng phải bảo đảm công tác chăm sóc khách hàng hoạt động tại các địa phương này diễn ra có hiệu quả. 3.10. Giải pháp kiểm tra, giám sát và điều chỉnh các hoạt động phân phối và yểm trợ trong Marketing Internet Nhằm đảm bảo việc ứng dụng Marketing Internet trong chiến lược phân phối và yểm trợ hay xúc tiến bán hàng hay xúc tiến thương mại của doanh nghiệp đem lại hiệu quả cao và lâu dài, các doanh nghiệp cần phải thường xuyên kiểm tra, giám sát và đánh giá công tác thực hiện các chiến lược nói trên. Trước tiên doanh nghiệp cần rà soát lại các nguồn thông tin của mình và cập nhật chúng để xem những mục tiêu trong kế hoạch về nguyên tắc còn tính khả thi hay không. Tiếp đó, doanh nghiệp sẽ phải so sánh những mục tiêu này với kết quả đạt được hoặc các công việc đã được triển khai để đánh giá mức độ sát thực của mục tiêu và tiến độ hoàn thành các công việc đã đề ra, từ đó có những điều chỉnh cho thích hợp. Đối với chiến lược yểm trợ, doanh nghiệp cần phải theo dõi lượng người tham quan vào Website của doanh nghiệp, lượng người đã có nhận thức về địa chỉ của doanh nghiệp nhưng chưa truy cập Website dựa trên các bảng câu hỏi điều tra các khách hàng tiềm năng theo nguyên tắc xác suất thông qua các tiếp thị viên. Đồng thời doanh nghiệp cũng cần theo dõi lượng khách hàng trả lời các e-mail được gửi tới- lượng khách hàng tiềm năng trở thành khách hàng hiện tại của doanh nghiệp và lượng người đã tham gia vào quá trình mua hàng nhưng không đi đến điểm kết thúc là giai đoạn thanh toán. Các thông tin này doanh nghiệp có thể tự hệ thống được thông qua công cụ quản lý Web và hộp thư điện tử của doanh nghiệp. Xác định được các thông tin trên có thể giúp doanh nghiệp đánh giá được hiệu quả của công tác yểm trợ trong Marketing Internet của mình để có thể đưa ra các điều chỉnh cho phù hợp hơn. Ví dụ như nếu phát hiện thấy tỷ lệ khách hàng đã tham gia vào quá trình mua hàng nhưng chưa đi đến giai đoạn kết thúc cao, doanh nghiệp có thể suy luận và tìm hiểu nguyên nhân của nó. Đơn cử như do quá trình mua hàng kéo dài quá lâu hay các yêu cầu mà doanh nghiệp đặt ra buộc khách hàng phải tuân thủ quá nhiều hoặc quá phức tạp đã khiến khách hàng bỏ dở quá trình mua hàng. Trong trường hợp như vậy, doanh nghiệp có thể điều chỉnh thiết kế nội dung Website sao cho quá trình mua hàng của khách hàng ngắn hơn và đơn giản hơn. Đối với chiến lược phân phối, doanh nghiệp cần phải thông qua các thông tin phản hồi hay các lời phàn nàn về hệ thống phân phối của doanh nghiệp. Các thông tin này có thể được gửi qua e-mail cho doanh nghiệp hay cũng có thể là trực tiếp đối với người vận chuyển và phân phối hàng. Nếu như các lời phàn nàn này chủ yếu tập trung vào thời gian giao hàng, doanh nghiệp cần xem lại hệ thống kho bãi và chất lượng khâu vận chuyển của mình để từ đó nâng cấp chúng lên. Nếu các lời phàn nàn này chủ yếu tập trung vào các sai sót hay hỏng hóc của sản phẩm, doanh nghiệp sẽ phải đồng thời xem lại chất lượng khâu vận chuyển, khâu đóng gói và cả khâu sản xuất hàng hoá. Trường hợp các doanh nghiệp có hệ thống đại lý rộng lớn, khâu phân phối cuối cùng do các trung gian đảm nhiệm, doanh nghiệp cần tổng kết, đánh giá hiệu quả của công tác này thông qua báo cáo của các đại lý trung gian. Từ đó, hệ thống lại và phân tích hiệu quả tổng thể của toàn bộ hệ thống phân phối đồng thời đánh giá hiệu quả của từng đại lý riêng theo từng khu vực, xem xét, phân tích và đưa ra quyết định cần tiếp tục duy trì quan hệ với đại lý nào, cần loại bỏ đại lý nào, cần nâng cao chất lượng dịch vụ của đại lý nào để có được hiệu quả tổng thể cao hơn. III. Một số kiến nghị đối với Nhà nước trong việc đẩy mạnh ứng dụng Marketing Internet trong chiến lược phân phối và yểm trợ của Doanh nghiệp Việt Nam 1. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng Công nghệ thông tin ở cấp vĩ mô Để các doanh nghiệp Việt Nam có thể ứng dụng Marketing Internet vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, Việt Nam cần phải có được cơ sở hạ tầng Công nghệ thông tin đủ mạnh. Bộ bưu chính viễn thông cần cụ thể hoá kế hoạch chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin này để các doanh nghiệp có thể căn cứ vào các biện pháp và lộ trình cụ thể này xây dựng kế hoạch chiến lược riêng của mình. Phát triển cơ sở hạ tầng Công nghệ thông tin có thể dựa vào một số giải pháp sau: Thứ nhất là đầu tư phát triển hợp lý và sử dụng có hiệu quả mạng lưới viễn thông, trong đó phấn đấu đạt mức trung bình của khu vực về dung lượng cổng kết nối Internet quốc tế; đáp ứng đủ số lượng, chất lượng đường truyền, xây dựng kênh thuê riêng phục vụ Internet cho toàn xã hội với độ tin cậy và an toàn cao. Thứ hai là đầu tư phát triển các dịch vụ ứng dụng truy cập Internet bao gồm: hệ thống cơ sở dữ liệu, nội dung thông tin điện tử bằng tiếng Việt và đầu tư phát triển các dịch vụ ứng dụng Internet. Trong đó ưu tiên tạo lập nguồn thông tin điện tử nội dung tiếng Việt phong phú, phục vụ nhu cầu trong nước truy cập Internet, khuyến khích các cơ quan, doanh nghiệp, nhà cung cấp dịch vụ Internet tổ chức nguồn cơ sở dữ liệu thông tin điện tử đa dạng, từng bước xã hội hoá việc cung cấp nội dung thông tin lên mạng, Thứ ba là khuyến khích ứng dụng Internet trong các dịch vụ điện tử về báo chí, bưu chính, viễn thông, tài chính, ngân hàng, giáo dục và đào tạo trên mạng, từng bước phát triển Thương Mại Điện Tử, hình thành thói quen hoạt động mua bán trên Internet giữa các doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân, tiến tới điện tử hoá rộng rãi mọi hoạt động của quá trình sản xuất kinh doanh. 2. Quy hoạch chiến lược đào tạo cán bộ Marketing và Công nghệ thông tin Việc ứng dụng Marketing Internet trong hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam phát sinh hai đòi hỏi: thứ nhất là nhân sự, chuyên môn và thứ hai là trình độ tiếng Anh của các nhà hoạt động Marketing Internet. Về vấn đề chuyên môn, Việt Nam cần xây dựng kế hoạch chiến lược đào tạo chuyên gia Marketing Internet cho các doanh nghiệp và kiến thức Internet cho đông đảo người dân. Với tư cách là cơ quan chủ quản nhà nước về vấn đề giáo dục và đào tạo, Bộ Giáo dục - Đào tạo cần sớm đưa ra kế hoạch này. Nội dung của kế hoạch đào tạo này có thể dựa trên những nội dung cơ bản sau: Thứ nhất là xây dựng các biện pháp cụ thể nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, các chuyên gia về công nghệ thông tin nước ngoài tham gia đào tạo nhân lực về công nghệ thông tin. Thứ hai là xây dựng và thực hiện dự án phát triển mạng máy tính phục vụ cho Giáo dục và đào tạo, mở rộng kết nối Internet tới các cơ sở đào tạo theo đó có thể đáp ứng được việc phổ cập kiến thức Internet tại tất cả các viện nghiên cứu, trường Đại học, Cao đẳng, Trung học dạy nghề trong năm 2002-2003. Thứ ba là hợp tác giáo dục Công nghệ thông tin và công nghệ Internet cũng như kiến thức về Marketing Internet với các nước có chất lượng phát triển các lĩnh vực này ở mức tương đối cao. Theo đó chúng ta có thể cử các cán bộ, chuyên gia và sinh viên đi đào tạo tại các nước này. Tuy nhiên Việt Nam cũng cần có những biện pháp đảm bảo rằng những cán bộ, chuyên gia, sinh viên được cử đi này sẽ quay về phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước, tránh tình trạng chảy máu chất xám đang rất phổ biến như hiện nay. Thứ tư là triển khai mạnh các chương trình giảng dạy và ứng dụng tin học tại các cấp trường học. Thứ năm là thường xuyên nâng cao kiến thức về công nghệ, kỹ thuật Internet và Marketing Internet cho các cán bộ chuyên môn của các doanh nghiệp thông qua các khoá đào tạo ngắn hạn, hội thảo chuyên đề để đội ngũ nhân sự của Việt Nam luôn theo kịp được tốc độ phát triển của công nghệ Internet và Công nghệ thông tin trên thế giới. Về vấn đề ngoại ngữ, chúng ta đều biết rằng để doanh nghiệp có khả năng tiếp cận được thị trường toàn cầu thì điều cần thiết là đội ngũ nhân viên của doanh nghiệp phải có trình độ ngoại ngữ có thể đáp ứng được yêu cầu. Xuất phát từ vấn đề này bộ Giáo dục - Đào tạo cần xem xét và đề nghị các trường Đại học, Trung học...cần đưa ra biện pháp nâng cao trình độ ngoại ngữ của những kỹ sư, cử nhân tương lai của đất nước. 3. Củng cố môi trường kinh tế, pháp lý 3.1. Củng cố môi trường kinh tế cho việc phát triển Marketing Internet tại Việt Nam Với mức sống trung bình của người dân nước ta hiện nay vào khoảng 706,9 đô la một người một năm ((): Nguồn: Tổng cục thống kê- "Số liệu thống kê dân số và kinh tế xã hội Việt Nam 1975-2001- NXB Thống kê 2002 ), việc sử dụng và thuê bao Internet được coi là một cách sống xa xỉ. Do vậy muốn phát triển Internet nói chung và Marketing Internet nói riêng, Việt Nam cần phải hoàn thiện và nâng cao mức sống của người dân. Mức sống của người dân hay thu nhập bình quân đầu người (GDP/người) phụ thuộc vào nhiều yếu tố kinh tế. Để nâng cao mức thu nhập này, Việt Nam trước hết phải thúc đẩy sự phát triển của tất cả mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời cần thiết phải kích hoạt khu vực kinh tế Nhà nước năng động hơn, thoát hoàn toàn khỏi cơ chế bao cấp. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần phải có các chính sách thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu nhằm tạo nguồn thu lớn cho đất nước và nâng cao mức sống của người dân. 3.2.Củng cố môi trường pháp lý cho việc phát triển Marketing Internet ở Việt Nam Cơ sở hạ tầng pháp lý được nhiều nền kinh tế coi là thách thức chủ yếu trong việc chấp nhận và ứng dụng mạng Internet trong các hoạt động của doanh nghiệp trong đó có hoạt động Marketing. Như đã đề cập ở chương II, hệ thống pháp lý điều chỉnh các hoạt động Internet ở Việt Nam vẫn chưa đầy đủ và hoàn chỉnh. Chính vì vậy, củng cố môi trường pháp lý cho các hoạt động này đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế và ứng dụng công nghệ ở Việt Nam. Việc tạo và hoàn thiện môi trường này thông qua quy trình sau: Trước hết, chúng ta có thể tham khảo mô hình luật pháp của các nước khác và của các tổ chức đa phương, ví dụ như sắc luật giao dịch điện tử của Singapore, luật Thương Mại điện tử của uỷ ban Liên Hiệp Quốc về thương mại quốc tế UNCITRAL.... Ngoài ra chúng ta cũng có thể tham khảo các mô hình khác khi soạn thảo luật pháp cho việc phân tích và ứng dụng Marketing Internet thích hợp cho Việt Nam như luật về chữ ký điện tử và hồ sơ điện tử của Singapo, ấn độ, Hồng Kông, Thái Lan. Thứ đến, không nhất thiết phải đưa tất cả các vấn đề xuất hiện trong Thương Mại Điện Tử hay Marketing Internet vào luật mới. Trên thực tế, trong nhiều trường hợp, biện pháp Thương Mại Điện Tử và Marketing Internet hiện hành đã bao quát nhiều vấn đề pháp lý hoặc có thể điều chỉnh cho phù hợp với những sửa đổi tương đối đơn giản. Trong khi đó, hai luật mới cũng phải đề cập đến những vấn đề đặc biệt mà khung pháp lý hiện hành không nhắc tơí. Như vậy, khung pháp lý toàn diện cho lĩnh vực Thương Mại Điện Tử và Marketing Internet cần kết hợp biện pháp hiện hành và biện pháp được ban hành mới. Nói chung, Việt Nam cần xây dựng khung pháp lý trên nhằm vào bốn mục tiêu chính là: Củng cố sự tin tưởng rằng các giao dịch trên Internet sẽ được coi là có giá trị pháp lý và có khả năng thi hành. Nâng cao sự an toàn thông tin trong các giao dịch. Khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Bảo vệ người tiêu dùng. 4. Phổ cập Internet tới đông đảo quần chúng Với cơ sở vật chất thiếu thốn như hiện nay, chúng ta không có tham vọng sẽ làm cho gần 80 triệu dân Việt Nam hiểu đầy đủ về Internet, về công nghệ thông tin, song ít nhất chúng ta có thể đưa chương trình tin học tới mọi nơi có thể được. Như vậy điều cần thiết hiện nay là phải phổ cập kiến thức Internet cho học sinh ngay từ khi còn đang đi học. Đây là nền tảng cho cơ sở hạ tầng nhân lực vững mạnh của Việt Nam trong những năm sau. Theo ý kiến của đại đa số các nhà khoa học trong báo cáo giai đoạn 1 đề tài “Nâng cao hiệu quả giảng dạy tin học trong nhà trường phổ thông bằng phương pháp sử dụng hệ thống chương trình dạy tin học liên thông trong các cấp học (tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông)” được tổ chức ngày 15/10/2002 [85], việc đưa Internet vào trường phổ thông ngay từ lớp 7 là một biện pháp rất tốt nhằm nâng cao kiến thức và khả năng giao tiếp cho lứa tuổi học sinh. Tuy nhiên chúng ta phải chú trọng tới “Văn hoá sử dụng Internet” vì hiện nay có nhiều phong trào sử dụng Internet không lành mạnh ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Đồng thời với việc phổ cập giáo dục kiến thức về mạng Internet như nêu trên, chúng ta cũng phải xây dựng lực lượng giáo viên tin học có kiến thức chuyên môn cao phục vụ cho chiến lược này. Ngoài ra để thực hiện chiến lược này, chúng ta cần có các biện pháp tuyên truyền về tính năng, về đặc điểm và lợi ích của Internet cho đông đảo quần chúng và đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vốn đã có hệ thống máy tính và hoà mạng Internet. Các thông tin này có thể được truyền thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng như báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình. Ngoài ra chúng ta có thể đưa kiến thức về Internet vào nội dung giảng dạy của các cấp trường học, các trung tâm đào tạo tin học, các chương trình giáo dục từ xa... nhằm khuyến khích và mở rộng quy mô truyền bá kiến thức Internet cho mọi người. Kết luận Với sự ra đời và phát triển của mạng Internet, Marketing Internet đang được ứng dụng rộng rãi tại các doang nghiệp trên khắp thế giới nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng. Chiến lược phân phối trong Marketing Internet được triển khai hiệu quả hơn do sự giảm bớt của các khâu trung gian và sự nâng cao chất lượng phục vụ của các trung gian được lựa chọn. Chiến lược yểm trợ trong Marketing Internet góp phần thu hút thêm khách hàng tiềm năng của doang nghiệp đồng thời củng cố mối quan hệ với những khách hàng hiện tại thông qua các công cụ của chiến lược yểm trợ như website, email, quảng cáo trực tuyến. Những lợi ích này đã góp phần không nhỏ cho sự thành công của mỗi doanh nghiệp trên toàn cầu. Tại Việt Nam, Internet xuất hiện vào năm 1997 và được ứng dụng trong đời sống kinh tế. Sự ứng dụng Marketing Internet ở Việt Nam cho tới nay mới ở giai đoạn bắt đầu. Trong sự ứng dụng Marketing Internet vào chiến lược phân phối và yểm trợ, các doanh nghiệp Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn từ môi trường vi mô và vĩ mô. Hạ tầng cơ sở CNTT chưa hoàn thiện, hạ tầng pháp lý chưa ban hành đầy đủ, nền kinh tế yếu kém, sự thiếu hụt các chuyên gia giỏi về CNTT và Marketing... là những yếu tố thuộc môi trường vĩ mô không thuận lợi cho sự ứng dụng và phát triển Marketing Internet trong chiến lược phân phối và yểm trợ của doanh nghiệp. Hơn nữa, bản thân doanh nghiệp cũng gặp khó khăn như thiếu các chuyên gia giỏi và còn yếu kém về mạng lưới phân phối cùng sự hạn chế về khả năng tài chính. Tuy vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cũng có nhiều cơ hội để có thể ứng dụng Marketing Internet thành công với sự phát triển và tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng CNTT cũng như môi trường vĩ mô và trên hết là tinh thần và ý chí phấn đấu của các doanh nghiệp Việt Nam. Để có thể thành công hơn trong ứng dụng Internet các doanh nghiệp cần phải có kế hoạch cụ thể, đồng thời Đảng và Nhà nước cần tạo dựng môi trường thông thoáng và hợp lý. Đối với các doanh nghiệp trước hết cần đầu tư xây dựng cơ sử hạ tầng công nghệ và kỹ thuật phù hợp cho ứng dụng Marketing Internet , tiếp đó doanh nghiệp cần lập kế hoạch chiến lược cụ thể cho việc ứng dụng này từ việc nghiên cứu cho tới việc triển khai và đánh giá tình hình thực hiện chiến lược. Với vai trò là nhà hoạch định chiến lược vĩ mô cho các doanh nghiệp, Chính phủ cần đầu tư hoàn thiện và phát triển hơn nữa các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô như CNTT, các cơ sở pháp lý, quy hoạch và đào tạo cán bộ CNTT cho đất nước cũng như việc nâng cao trình độ và mức sống của người dân. Tóm lại, Marketing Internet được ứng dụng tại Việt Nam nhưng mới chỉ ở giai đoạn đầu. Quá trình ứng dụng Marketing Internet trong chiến lược phân phối và yểm trợ của các doanh nghiệp gặp không ít khó khăn nhưng cũng có nhiều thuận lợi. Tuy nhiên, với nỗ lực phấn đấu của bản thân doanh nghiệp cùng với sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, khoa học Internet cùng với sự quan tâm khuyến khích của Đảng và Nhà nước ta, hy vọng rằng các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có những bước tiến lớn và thành công trong việc ứng dụng Marketing Internet vào chiến lược phân phối và yểm trợ của mình. Tài liệu tham khảo GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn, PGS.TS Nguyễn Thế Nghĩa, PGS.TS Đặng Hữu Toàn - " Công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn" - NXB Chính trị Quốc gia 2002 GS.TSKH Trần Văn Thọ, TS Nguyễn Ngọc Đức, TS Nguyễn Văn Chỉnh, TS Nguyễn Quán - " Kinh tế Việt Nam 1955 - 2000, tính toán mới, phân tích mới" - NXB Thống kê 12/2000 PGS. TS Nguyễn Trung Vãn-" Bàn về Marketing Internet " - Tạp chí "Kinh tế đối ngoại" số 2, ĐH Ngoại Thương TS Ngô Xuân Bình - " Marketing - lý thuyết và vận dụng" - NXB Khoa học xã hội 2001 TS Phạm Minh Việt, TS Trần Công Nhượng - " Cơ sở kỹ thuật mạng Internet" - NXB Giáo dục 2000 TS Trần Đình Thiên - " Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, phác thảo lộ trình" - NXB Chính trị Quốc gia 2002 TS Trần Văn Tiến - " Nền kinh tế tri thức và yêu cầu đổi mới giáo dục Việt Nam" - NXB Thế giới mới 2001 "Niên giám Website & E-mail" - NXB Thống kê Đặng Nguyên - Thu Hà - " Quản lý công nghệ trong nền kinh tế tri thức" - NXB Hà Nội 2002 Bộ Ngoại giao - " Việt Nam con đường cải cách" - NXB Quân đội nhân dân 2000 Bộ Thương mại - " Thương mại điện tử" - NXB Thống kê 1999 Diễn đàn kinh tế - Tổ chức Việt Pháp - " Nền kinh tế mới" Học viện Công nghệ bưu chính viễn thông - " Cơ sở dữ liệu web cơ bản và nâng cao" - NXB Bưu điện 2002 Học viện công nghệ bưu chính viễn thông - " Kinh tế Internet" - NXB Bưu điện 12/2002 Học viện Công nghệ Bưu chính viễn thông - " Kỹ thuật mạng và thương mại điện tử" - NXB Bưu điện 2001 Học viện công nghệ bưu chính viễn thông - " Vai trò của viễn thông trong phát triển kinh tế" - NXB Bưu điện 4/2000 Hội đồng KHCN Bộ GTVT - " Thương mại điện tử" - NXB Giao thông vận tải 2001 Hội tin học thành phố Hồ Chí Minh - " Niên giám Công nghệ thông tin" - NXB Thành phố Hồ Chí Minh 2002 J.Beeker, Đặng Ngọc Dinh - " Internet ở Việt Nam và các nước đang phát triển" - NXB Khoa học và kỹ thuật 2000 Kỷ yếu hội thảo quốc gia - " Một số vấn đề chọn lọc của Công nghệ thông tin" - NXB Khoa học kỹ thuật 2001 Lê Hoàng Quân - " Nghiệp vụ Quảng cáo và tiếp thị" - NXB Khoa học và kỹ thuật Mai Thanh Hào - " Tiếp thị trong thế kỷ 21" - NXB Trẻ 2002 Nguyễn Danh Hưng, Douglas E.Comer - " Internet" - NXB Thống kê 1999 Nguyễn Duy Quý - " Thế giới trong 2 thập niên đầu thế kỷ XXI" - NXB Chính trị Quốc gia 2002 Nguyễn Nam Trung - " Cấu trúc máy tính và thiết bị ngoại vi" - NXB Khoa học kỹ thuật Nguyễn Văn Hoàn Ph.D - " Phát triển Website thương mại điện tử" - NXB Trẻ 2002 Nhóm tác giả ELICOM - " Phong cách trình bày trang web" - NXB Thống kê 2000 Nhóm tác giả ELICOM - " Quảng cáo trên Internet" - NXB Hà Nội 2000 Nhóm tác giả ELICOM - " Thành công nhờ Internet" - NXB Hà Nội 2000 Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam - " Các dịch vụ giá trị gia tăng" - Trung tâm thông tin Bưu điện - NXB Bưu điện Tổng cục Bưu điện - " Internet thật là đơn giản" - NXB Bưu điện 2000 Tổng cục Bưu điện - " Nghiên cứu tổng quan viễn thông Việt Nam" - NXB Bưu điện 11/2001 1,2,3,4,5 Tổng cục Thống kê - " Điều tra mức sống dân cư Việt Nam 1997 - 1998" - NXB Thống kê 2000 Tổng cục Thống kê - " Niên giám thống kê 2001" - NXB Thống kê 2001 Tổng cục Thống kê - " Số liệu thống kê Dân số và Kinh tế - xã hội Việt Nam 1975 - 2001" - NXB Thống kê 2002 Tổng cục Thống kê - " Số liệu thống kê kinh tế - xã hội Việt Nam 1975 - 2000" - NXB Thống kê 2000 UNDP MPI/DSI - " Việt Nam hướng tới 2021" - NXB Chính trị Quốc gia 2001 Vương Liêm - " Kinh tế học Internet" - NXB Trẻ Vụ tổng hợp và thông tin, tổ chức thống kê - " Tư liệu kinh tế - xã hội chọn lọc từ kết qủa 10 cuộc điều tra quy mô lớn 1998 - 2000" - NXB Thống kê 2001 Quyết định số 680/01/QĐ-TCBĐ Quyết định số 136/TTg ngày 5/3/1997 Nghị định số 21/CP ngày 5/3/1997 Quyết định số 169/1999/QĐ-TTG ngày 18/8/1999 Quyết định số 81/2001/QĐ-TTG ngày 24/5/2001 Nghị định số 55/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 Quyết định số 33/2002/QĐ-TTG ngày 8/2/2002 Báo Đầu tư các số tháng 10,11,12 năm 2001 và các số năm 2002 Báo Economist các số tháng 10 năm 2001 Báo Lao động các số tháng 10 năm 2001 Báo Sài Gòn giải phóng ngày 8/3/2002, 29/5/2002, 1/11/2002 Báo Tuổi trẻ ngày 21/1/2002, 1/4/2002, 16/4/2002, 1/11/2002 Tạp chí Bưu chính viễn thông chuyên đề Internet các số năm 2001 & 2002 Tạp chí PC World tháng 6/2002 Tạp chí The Econet các số tháng 10 năm 2001 Tạp chí Thông tin KHKT và kinh tế bưu điện 1999,2000,2001 & 2002 Tạp chí Thương mại các số 5,29 năm 2001 Tạp chí Tin học và đời sống tháng 4/2002 Thời báo Kinh tế Việt Nam các số 5/5/99, 14/10/2002 Thời báo Kinh tế Sài Gòn các số 37, 38, 43, 44, 45 năm 1999 và số ngày 23/7/2002, 17/1/2002 Australian Marketing Journal 9 (1), 2001 - " Perception of Internet Marketing" Dr. Ralph F. Wilson- "Planning your Marketing stratergy" -Web Marketing Today 10/9/2002 Dr. Ralph F. Wilson- "Survey of E-Mail Marketing Programs: Introduction" - Web Commerce today, issue 59, June 15,2002 Dr. Ralph F. Wilson - "Developing an Internet Marketing Plan" -Web Commerce Today, issue 82, June1,2000 Dr. Thomas A.Browdy- " Internet Application Assessement Instrument" EIU " World competitiveness Report & EIU 2000" Ghosh Shikhar - " Making Business Sense of the Internet" - Havard Business Review - 1998, Số 126-135 ITU-"Vietnam Internet case study" Judy Strauss & Raymond Frost - " E-Marketing" - NXB Prentice Hall 2001 Micheal Chesher, Rukesh Kaura-"Electronic commerce & business communications" - Springer, 1998 Nghiên cứu của tổ chức EIU/Pyramid Toby Bloomburg - " Internet Marketing overview" "Trends in distributed systems for electronic commerce" UNESCO's Institute for Statistic - "2002 World Development Indicator" World Bank -"Vietnam Data Profile" ITU- “World Telecommunication Development 2001” ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKLTN-Quan Thu Hang.doc
Tài liệu liên quan