lời nói đầu
Xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra một cách sâu sắc, toàn diện trên phạm vi toàn thế giới. Nó là qui luật khách quan mà Việt Nam cần sớm nắm bắt vận dụng. Việc tham gia vào nền kinh tế khu vực và thế giới sẽ mở ra cho chúng ta nhiều cơ hội đồng thời cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đòi hỏi phải có những chính sách phù hợp. Một hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế là ngoại thương. Quyết định tới sự thành công hay thất bại của chính sác
27 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1661 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tỷ giá hối đoái & vấn đề áp dụng chế độ tỷ giá ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h kinh tế đối ngoại phải kể đến vai trò quan trọng của chế độ tỷ giá hối đoái mỗi quốc gia. Chúng ta chưa quên sự can thiệp bất thành của 15 Ngân hàng Trung ương trước sự sụp đổ của hệ thống tỷ giá hối đoái Châu Âu những năm 90; sự phá giá bất ngờ của đồng Bảng Anh tháng 9/1996 trước sự tấn công của những kẻ đầu cơ mặc dù đã có sự can thiệp tích cực của Ngân hàng Trung ương Đức và Anh với khối lượng 15 tỷ Bảng Anh; hay hai sự kiện làm rung chuyển thế giới chỉ trong một thời gian ngắn, đó là: Sự khủng hoảng của đồng Pê-sô (Mê hi cô) tháng 12/1998 và sự mất giá kỉ lục trong năm 1999, rồi lại lên giá đột biến của đồng USD năm 1996.
Là một nước đang đi những bước đi đầu tiên cả về phương diện lí luận và thực tiễn, hơn bao giờ hết việc nghiên cứu tỉ giá hối đoái đang trở thành vấn đề cấp bách đặt ra cho chúng ta. Xuất phát từ thực tế khách quan đó, bài viết sẽ đi sâu nghiên cứu Tỷ giá hối đoái và vấn đề áp dụng chế độ tỷ giá ở Việt Nam.
Cấu trúc bài viết gồm các phần:
Phần I: Tổng quan về tỷ giá.
Phần II: Kinh nghiệm một số nước và thực trạng áp dụng chế độ tỷ giá ở Việt Nam.
Phần III: Các giải pháp xúc tiến và đưa chế độ tỷ giá ở Việt Nam hoạt động có hiệu quả.
Do tỷ giá hối đoái và thị trường ngoại hối là những vấn đề rất phức tạp không thể nghiên cứu triệt để nên chỉ xoay quanh phạm vi: những khái niệm cơ bản về tỷ giá hối đoái, thị trường ngoại hối và đi sâu phân tích việc áp dụng chế độ tỷ giá ở Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu, những khiếm khuyết hạn chế là khó tránh khỏi, vì vậy em rất mong được sự phê bình góp ý của các thầy cô để những bài viết sau đạt chất lượng cao hơn.
phần I
Tổng quan về tỷ giá
1-/ Khái niệm tỷ giá, thị trường ngoại hối:
Tỷ giá hối đoái là giá trị tiền tệ nước này biểu hiện bằng giá trị tiền tệ nước kia dùng trong quan hệ kinh tế quốc tế. Ví dụ: 1 USD = 106 JPY.
Tuy nhiên, không phải đồng tiền nào cũng được nhận để thanh toán bên ngoài quê hương của nó. Để chuyển đổi ra nội tệ của nước nào đó, nó phải được ngân hàng nước đó thu mua. Những đồng tiền có thể chuyển đổi thành nội tệ của một nước khác được gọi là ngoại tệ, nó được xem là phương tiện thanh toán và đầu tư quốc tế. Trên thế giới hiện nay có một số ngoại tệ mạnh được sử dụng rộng rãi, phổ biến như: USD (Mỹ), JPY (Nhật), Bảng (Anh),...
Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra hoạt động mua bán ngoại tệ và vốn bằng ngoại tệ. Đặc điểm của thị trường ngoại hối ở mỗi quốc gia có thể khác nhau. ở Mỹ thị trường ngoại hối được tổ chức thành thị trường qua tay, tại đó hàng trăm nhà kinh doanh (đa số là ngân hàng) sẵn sàng mua và bán các khoản tiền gửi ghi bằng ngoại tệ. Tính cạnh tranh trên thị trường này là rất lớn. Mua bán trên thị trường ngoại hối là những giao dịch trị giá trên một triệu USD.
2-/ Vai trò của tỷ giá:
Tỷ giá giữ vai trò quan trọng đối với mọi nền kinh tế. Sự vận động của nó có tác động sâu sắc, mạnh mẽ tới mục tiêu, chính sách kinh tế vĩ mô của mỗi quốc gia:
Thứ nhất, nó là phương tiện để thực hiện trao đổi thương mại quốc tế. Một quốc gia muốn mua hàng hoá ở nước khác phải đổi đồng tiền nước mình ra tiền nước đó để thực hiện các giao dịch. Tỉ giá hối đoái sẽ qui định tỉ lệ qui đổi giữa hai loại đồng tiền đó.
Thứ hai, nó tác động trực tiếp tới hoạt động xuất nhập khẩu. Khi đồng tiền của một nước tăng giá (tăng trị giá so với các đồng tiền khác) thì hàng hoá của nước đó ở nước ngoài trở thành đắt hơn và hàng hoá nước ngoài tại nước đó trở thành rẻ hơn. Ngược lại, khi đồng tiền của một nước sụt giá, hàng hoá của nước đó tại nước ngoài trở thành rẻ hơn trong khi hàng hoá nước ngoài tại nước đó trở thành đắt hơn (các yếu tố khác không đổi).
Tỷ giá tác động tới hoạt động xuất nhập khẩu vì vậy nó tác động tới cán cân thanh toán quốc tế, gây ra thâm hụt hoặc thặng dư cán cân.
Thứ ba, tỷ giá là công cụ điều tiết vĩ mô. Tác động vào tỷ giá sẽ làm ảnh hưởng tới xuất nhập khẩu từ đó ảnh hưởng tới tổng cầu, sản phẩm quốc dân, thất nghiệp,... Việc điều hành tỷ giá không tốt có thể dẫn tới lạm phát, khủng hoảng. Tỷ giá còn góp phần vào việc cải thiện cung cầu về ngoại tệ, giải quyết vấn đề nợ nước ngoài,...
3-/ Những nhân tố tác động tới tỷ giá:
Về dài hạn, có 4 nhân tố chính tác động tới tỷ giá: mức giá cả tương đối; thuế quan và cô-ta; ưu đãi đối với hàng nội hơn hàng ngoại; năng suất lao động.
Mức giá cả tương đối. Theo thuyết ngang giá sức mua (PPP), khi giá cả hàng nội tăng (giá hàng ngoại giữ nguyên) thì cầu về hàng nội có xu hướng giảm xuống và đồng nội tệ có xu hướng giảm giá để hàng nội vẫn có thể bán được tốt. Mặt khác, nếu giá hàng ngoại tăng lên, sao cho giá cả tương đối của hàng nội giảm xuống thì cung về hàng nội tăng lên và đồng nội tệ có xu hướng tăng giá bởi vì hàng nội vẫn bán được tốt ngay cả với giá trị cao hơn của đồng nội tệ. Về lâu dài, một sự tăng lên mức giá của một nước (tương đối so với mức giá nước ngoài) làm cho đồng tiền nước đó giảm giá; ngược lại, một sự giảm giá xuống của mức giá tương đối của một nước làm cho đồng tiền nước đó tăng giá.
Thuế quan và cô-ta. Thuế quan và cô-ta là những hàng rào ngăn cản tự do buôn bán giữa các quốc gia. Việc đánh thuế cao vào hàng nhập, miễn thuế cho hàng xuất sẽ khuyến khích xuất khẩu hạn chế nhập khẩu. Việc hạn chế cấp cô-ta (những hạn chế về số lượng hàng ngoại nhập) sẽ kiềm chế hàng nhập khẩu. Giả sử một quốc gia áp đặt một loại thuế cao hoặc một cô-ta đối với một mặt hàng của nước ngoài. Những hàng rào này sẽ làm tăng cầu về hàng nội và đồng nội tệ có xu hướng tăng giá bởi vì hàng nội đó vẫn có thể bán tốt ngay cả với giá trị cao hơn của đồng nội tệ. Thuế quan và cô-ta về lâu dài làm cho đồng tiền của một nước tăng giá.
Ưa thích hàng nội so với hàng ngoại. Nếu sự ham thích của người nước ngoài về mặt hàng trong nước tăng lên thì cầu về hàng nội sẽ tăng lên làm đồng nội tệ tăng giá, bởi vì hàng nội địa vẫn bán được nhiều ngay cả với giá cao hơn của đồng nội tệ. Ngược lại, nếu người dân một nước lại ưa thích hàng ngoại hơn hàng nội thì cầu về hàng ngoại tăng lên làm giảm giá đồng nội tệ. Cầu đối với hàng xuất của một nước tăng lên về lâu dài làm cho đồng tiền nước đó tăng giá trong khi cầu về hàng nhập tăng lên làm cho đồng tiền nước đó giảm giá.
Năng suất lao động. Nếu năng suất lao động của Việt Nam cao hơn năng suất lao động của Trung Quốc thì những nhà kinh doanh Việt Nam có thể hạ giá hàng nội tương đối so với hàng Trung Quốc mà vẫn thu được lãi. Kết quả cầu về hàng Việt Nam tăng lên và đồng tiền của Việt Nam có xu hướng tăng giá bởi vì hàng nội sẽ tiếp tục bán được nhiều với một giá trị cao hơn của VND. Trong trường hợp ngược lại, nếu năng suất lao động của Việt Nam kém hơn Trung Quốc thì hàng hoá Việt Nam trở nên tương đối đắt hơn và VND có xu hướng giảm giá. Về lâu dài, năng suất lao động của một nước cao hơn tương đối so với nước khác sẽ làm cho đồng tiền nước đó tăng giá.
Nắm bắt được các nhân tố tác động tới tỷ giá Chính phủ có thể chủ động can thiệp điều hành tỷ giá khi cần thiết.
4-/ Sự can thiệp điều hành tỷ giá:
Thông thường, Ngân hàng Trung ương là người thay mặt Chính phủ can thiệp vào thị trường ngoại hối. Nó đóng vai trò quan trọng, to lớn trong việc điều hành tỉ giá song không phải là vô hạn. Trên thị trường ngoại hối nó đóng vai trò kép: Ngân hàng mua bán ngoại tệ và sử dụng các công cụ can thiệp khi cần thiết.
a-/ Các loại hình can thiệp của NHTƯ:
Can thiệp trách nhiệm: Khi tỷ giá của một đồng tiền trong hệ thống tỷ giá cố định đạt tới cận điểm hoặc đỉnh điểm qui định can thiệp thì phải can thiệp. Theo khuôn khổ hệ thống Bretton-woods, các nước thành viên có trách nhiệm duy trì sự dao động của đồng tiền nước mình trong miền dao động tỷ giá so với USD đã qui định trwcs. Khi cán cân thanh toán của một quốc gia bị mất cân đối hết sức nghiêm trọng (mặc dù đã dùng mọi biện pháp mà không cải thiện được), thì mới được phép tăng hoặc giảm tỷ giá hối đoái của nội tệ.
Can thiệp tự do (ngược lại với can thiệp trách nhiệm):
Có thể xảy ra không chỉ trong hệ thống tỷ giá cố định mà ngay cả trong hệ thống tỷ giá thả nổi.
Thông thường, sự can thiệp của NHTƯ phải được tiến hành trước khi sự dao động của tỷ giá hối đoái đạt tới những điểm cần can thiệp, nhằm giảm bớt sự căng thẳng của tình hình.
Sự can thiệp của NHTƯ vào thị trường ngoại hối, ngoài các hiệu ứng phụ, có 2 hiệu ứng chính sau đây: thứ nhất, tác động trực tiếp vào khối lượng ngoại tệ; thứ hai, trực tiếp gây biến động mức lãi suất trong nước.
b-/ Hệ thống công cụ can thiệp:
Phương án can thiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, song nó phụ thuộc phần lớn vào chế độ tỷ giá hiện hành. Mỗi chế độ ngoại hối đều có phương án điều chỉnh can thiệp thích hợp. Trên thực tế, đã và đang tồn tại nhiều phương pháp khác nhau: phương pháp lãi suất chiết khấu, các nghiệp vụ thị trường hối đoái, quĩ bình ổn hối đoái, giảm giá hoặc tăng giá đồng nội tệ,...
Phương pháp lãi suất chiết khấu: Đây là phương pháp thường được sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường. Khi tỷ giá hối đoái đạt đến mức “báo động” cần phải can thiệp thì NHTƯ nâng cao lãi suất chiết khấu. Do lãi suất chiết khấu tăng, lãi suất cho vay trên thị trường cũng tăng lên. Kết quả là vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ dồn vào để thu lãi cao hơn. Nhờ thế mà sự căng thẳng về nhu cầu ngoại tệ bớt đi, làm cho tỷ giá không có cơ hội tăng nữa.
Tuy nhiên, chính sách lãi suất chiết khấu cũng có những hạn chế nhất định, vì quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá chỉ là quan hệ tác động một cách qua lại gián tiếp, chứ không phải quan hệ trực tiếp nhân quả. Các yếu tố để hình thành lãi suất và tỷ giá là không giống nhau, do đó những biến động của lãi suất không nhất thiết kéo theo biến động của tỷ giá. Lãi suất cao có thể thu hút được vốn ngắn hạn từ nước ngoài, nhưng nếu tình hình kinh tế - chính trị - xã hội không ổn định thì khó có thể thực hiện được vì vấn đề an toàn vốn phải đặt lên trên hết. Khủng hoảng 1971-1973 ở Mỹ là một ví dụ. Mặc dù lãi suất trên thị trường New-York cao gấp rưỡi thị trường London, gấp ba thị trường Frankfurk nhưng vốn ngắn hạn không được chuyển vào Mỹ mà lại được đưa đến Tây Đức và Nhật Bản.
Các nghiệp vụ thị trường hối đoái. Thông qua các nghiệp vụ mua-bán ngoại tệ điều chỉnh tỷ giá hối đoái là một trong những biện pháp rất quan trọng của Nhà nước để giữ vững sự ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia. Đây là biện pháp trực tiếp tác động vào tỷ giá hối đoái.
Một sự can thiệp hữu hiệu trong đó đồng tiền trong nước được bán để mua tài sản nước ngoài đưa đến: (1) Thu thêm dự trữ quốc tế; (2) Một sự tăng trong cung tiền tệ; (3) Một sự sụt giá của đồng nội tệ. Ngược lại, khi đồng tiền trong nước được mua bằng cách bán tài sản nước ngoài đưa đến: (1) Dự trữ quốc tế giảm; (2) Cung tiền tệ giảm; (3) Đồng tiền trong nước tăng giá.
Tuỳ điều kiện mỗi quốc gia mà việc tổ chức thực hiện nghiệp vụ này có sự khác nhau về phạm vi, qui mô tác động. Với những nước có nền kinh tế phát triển cao, các nghiệp vụ thị trường hối đoái được thực hiện trên qui mô rộng lớn, đôi khi mở ra trên phạm vi cả một khu vực, thậm chí thế giới.
Việc lựa chọn các thời điểm cần mua, cần bán ngoại tệ trên thị trường với tỉ giá nào để đạt được mục tiêu điều chỉnh là những hoạt động có ý nghĩa quyết định. Nếu chủ quan, thiếu cân nhắc đầy đủ kỹ càng việc lựa chọn này thì hậu quả nhiều khi khó mà lường hết được.
Điều chỉnh tỷ giá theo phương pháp này, Chính phủ thường gặp phải phản ứng trái ngược nhau của các doanh nghiệp cũng như các tầng lớp dân cư trong xã hội bắt nguồn tự lợi ích kinh tế. Những mâu thuẫn này thường xảy ra giữa những nhà xuất khẩu và nhập khẩu giữa những người đang nắm giữ trong tay số lượng lớn ngoại tệ và những người trong túi chỉ có nội tệ.
Để thực hiện có hiệu quả biện pháp này, một điều kiện không thể thiếu là Chính phủ phải có một lượng dự trữ ngoại tệ đủ sức để can thiệp vào thị trường khi cần thiết.
Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái: Trong điều kiện tình hình giá cả thị trường luôn không ổn định, thậm chí hay xảy ra các biến động lớn, các nước thường sử dụng quỹ dự trữ bình ổn hối đoái như là một trong những công cụ để điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
Nguồn vốn để hình thành quỹ dự trữ bình ổn hối đoái thường là:
- Phát hành trái khoán kho bạc bằng tiền quốc gia (như Anh, Hà Lan,...)
- Sử dụng vàng để lập quỹ dự trữ bình ổn hối đoái (như Pháp, Mỹ, Thuỵ Sỹ,...)
Hạn chế của công cụ này là nó chỉ tác động lớn khi khủng hoảng ngoại tệ ít nghiêm trọng. Hơn nữa, việc tạo lập được quĩ bình ổn hối đoái đòi hỏi các quốc gia phải có một thực lực nhất định về kinh tế.
Vấn đề phá giá đồng tiền: Phá giá đồng tiền là việc nâng cao hoặc giảm thấp sức mua của đồng tiền so với các ngoại tệ. Kết quả của phá giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng hoặc giảm của tỷ giá hối đoái. Đây là điểm giống nhau giữa phá giá đồng tiền và điều chỉnh tỷ giá hối đoái, nhưng không phải không có sự khác nhau.
Điều chỉnh tỷ giá hối đoái là việc làm thường xuyên liên tục của Nhà nước nhằm duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế đẩy lùi lạm phát. Tỷ giá hối đoái được điều chỉnh theo nguyên tắc duy trì biên độ dao động cho phép tăng hoặc giảm một tỷ lệ nhất định so với tỷ giá hối đoái được sử dụng làm chuẩn. Khác hẳn với phá giá đồng tiền, một biện pháp mạnh, cực đoan, chỉ áp dụng trong những trường hợp hết sức cần thiết.
Phá giá không phải là giải pháp đúng cho mọi trường hợp. Nó phải được vận dụng linh hoạt, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể thích hợp. Nếu không hiệu ứng tiêu cực của hành động phá giá sẽ đẩy tình hình vào thế khủng hoảng trầm trọng hơn.
Bên cạnh giảm giá sức mua đồng nội tệ là việc nâng giá sức mua đồng nội tệ. Nó thường được áp dụng trong các trường hợp:
- Giá hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu được xác định thấp so với giá trên thị trường quốc tế.
- Hạn chế xuất khẩu do sức ép của các nước bạn hàng nhằm tạo thế cân bằng trong thương mại quốc tế.
- Tăng khả năng nhập khẩu, kiềm chế lạm phát.
- Ngăn ngừa các loại ngoại tệ đang bị mất giá tràn vào nước mình.
Sự can thiệp điều hành tỷ giá trong lịch sử không phải luôn giống nhau. Thực tế mỗi công cụ can thiệp điều chỉnh tỷ giá lại được vận dụng một cách linh hoạt tương ứng với mỗi điều kiện, chế độ tỷ giá cụ thể. Trong lịch sử đã xuất hiện các chế độ bản vị vàng, bản vị đô la, chế độ tỷ giá thả nổi, chế độ tỷ giá linh hoạt,... Các chế độ này sẽ được nghiên cứu ở phần tiếp theo.
5-/ Các chế độ tỷ giá trong lịch sử:
Chế độ bản vị vàng: Khi áp dụng chế độ tỷ giá cố định lấy vàng làm bản vị (còn gọi là chế độ bản vị vàng) thì việc lựa chọn phương án xử lý tỷ giá ít phải đặt ra vì chế độ bản vị vàng là một chế độ ổn định, đồng tiền ít bị mất giá, tỷ giá xác định qua nội dung vàng của các đồng tiền ít khi bị biến động. Trong chế độ bản vị vàng thì biên độ dao động của tỷ giá là ngang giá vàng cộng (hoặc trừ) chi phí vận chuyển vàng (vận tải, bảo hiểm, đóng gói và thủ tục phí,...) giữa các nước hữu quan. Biên độ dao động này gọi là “điểm vàng”. Khi tỷ giá vượt qua điểm vàng thì nước mắc nợ sẽ không dùng đồng tiền quốc gia của mình để mua ngoại tệ dùng vào việc trả nợ mà họ sẽ chuyển vàng ra nước ngoài để trả nợ. Với đặc trưng này, chế độ bản vị vàng là một chế độ ổn định, sức mua đồng tiền ít bị biến động. Để biết chế độ bản vị vàng hoạt động như thế nào ta hãy xem xét ví dụ sau: kho bạc Mỹ chấp nhận đổi 1USD lấy 1/20 lạng vàng, ở Anh 1 Bảng đổi được 1/4 lạng vàng. Do đó, tỷ giá hối đoái giữa đồng Bảng Anh và đồng USD Mỹ là 1 Bảng = 5 USD. Bây giờ đồng Bảng Anh bắt đầu tăng giá cao hơn 5 USD. Nếu một người nhập khẩu Mỹ mua thực phẩm ở Anh trị giá 100 Bảng thì họ phải trả nhiều hơn 500 USD so với trước. Song người nhập khẩu có cách lựa chọn khác, đó là mua vàng bằng 500 USD ở Mỹ rồi trả số vàng đó sang Anh để thanh toán tiền hàng. Việc chở vàng sang Anh rẻ hơn khi giá đồng Bảng Anh vẫn cao hơn giá 5 USD (cộng thêm số tiền chi phí vận chuyển vàng từ Mỹ sang Anh).
Việc chuyển vàng từ Mỹ sang Anh làm cho cơ số tiền tệ của Anh tăng lên và cơ sở tiền tệ của Mỹ giảm xuống. Kết quả tăng lên trong cung ứng tiền tệ làm tăng mức giá cả của Anh trong khi việc cung ứng tiền tệ của Mỹ giảm xuống làm mức giá cả của Mỹ giảm xuống. Kết quả mức giá tại Anh tăng lên so với mức giá tại Mỹ làm cho đồng Bảng Anh giảm giá. Quá trình này tiếp tục cho đến khi giá trị của đồng Bảng Anh giảm xuống trở lại bằng 5 USD.
Trong giai đoạn đầu của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, chế độ này tỏ ra có nhiều ưu điểm. Nó có khả năng điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông một cách tự phát, không cần đến sự can thiệp của Nhà nước theo cơ chế: Sự tăng giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông luôn tỷ lệ nghịch với sự tăng giảm dự trữ vàng kim loại trong nền kinh tế.
Chế độ tỷ giá cố định Bretton woods (1944). Theo chế độ này, tỷ giá chính thức giữa đồng tiền của các nước thành viên được hình thành trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng của USD Mỹ (1 USD = 0,888671 gam vàng) và chỉ được phép dao động trong biên độ 1% của tỷ giá chính thức đã được đăng ký tại quĩ tiền tệ quốc tế (IMF). Nếu vượt quá biên độ này thì Ngân hàng Trung ương phải can thiệp bằng cách mua vào hoặc bán ra một số lượng USD nhất định. Theo chế độ này, vàng vẫn đóng vai trò trung tâm để so sánh sức mua giữa các đồng tiền với nhau qua cái cầu nối là USD (lúc bấy giờ 1 ounce = 35 USD).
Từ cuối những năm 50 trở đi, vai trò của Mỹ ngày càng giảm sút trên thị trường thế giới, cán cân thanh toán quốc tế thường xuyên bị thâm hụt, dự trữ suy giảm và nợ nước ngoài tăng đã làm cho đồng USD ngày càng mất giá nghiêm trọng.
Sự mất giá liên tục của đồng USD làm cho nạn đầu cơ trên các thị trường hối đoái quốc tế tăng lên. Hàng tỷ USD được tung ra trên thị trường để mua cái đồng tiền được giá. Các Ngân hàng Trung ương của các thành viên IMF cũng không đủ sức can thiệp để giữ giá đồng USD theo nguyên tắc tỷ giá cố định Bretton-woods. Trong bối cảnh đó, Mỹ buộc phải phá giá đồng USD. Đồng USD - đồng tiền chủ chốt, chỗ dựa cho các đồng tiền khác, trở nên bất ổn định kéo theo sự sụp đổ của chế độ tỷ giá Bretton-woods.
Chế độ tỷ giá thả nổi (Floating rate): Chế độ tỷ giá thả nổi ra đời sau khi chế độ tỷ giá cố định Bretton - woods sụp đổ. Với chế độ tỷ giá thả nổi, tỷ giá được hình thành trên cơ sở diễn biến của cung và cầu ngoại hối trong nền kinh tế mà không bị ràng buộc như trước đây. Tỷ giá thả nổi có vai trò rất quan trọng trong điều tiết xuất - nhập khẩu và góp phần làm ổn định trở lại nền kinh tế đang có nguy cơ suy thoái.
Thả nổi tỷ giá là xu hướng tất yếu của kinh tế thị trường, song việc áp dụng nó như thế nào lại là vấn đề phải cân nhắc kỹ để lựa chọn. Do đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của các nước trên thế giới còn có những sự khác nhau nhất định nên tuỳ vào hoàn cảnh cụ thể mà các nước tự lựa chọn cho mình một chế độ phù hợp. Đến nay chế độ tỷ giá thả nổi được chia làm 2 loại:
- Chế độ tỷ giá thả nổi tự do.
- Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý.
Chế độ tỷ giá thả nổi tự do là chế độ mà tỷ giá hối đoái không có sự can thiệp nào của Chính phủ hoàn toàn do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định, tuy nhiên trên thực tế thì hầu như không có chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn. Chế độ tỷ giá này được áp dụng ở những nước có nền kinh tế phát triển cao, thị trường tài chính phát triển và hoàn chỉnh.
Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý là chế độ mà trong đó cung - cầu ngoại hối là cơ bản, nhưng không phải hoàn toàn, trong những trường hợp cần thiết Chính phủ sẽ có những biện pháp can thiệp nhằm giữ vững sự ổn định sức mua đồng tiền trong nước.
Lựa chọn chế độ tỷ giá nào luôn là bài toán hóc búa đối với mọi quốc gia. Thực tế đã chứng minh đó là cả một nghệ thuật. Trong lịch sử, nhiều quốc gia đã thành công trong việc lựa chọn chế độ tỷ giá thích hợp. Bên cạnh đó, không ít quốc gia đã phải trả giá đắt cho việc sai lầm khi lựa chọn chế độ tỷ giá. Qua đây, chúng ta có thể rút ra những bài học bổ ích vận dụng vào thực tế ở Việt Nam. Kinh nghiệm lựa chọn chế độ tỷ giá một số nước và thực trạng lựa chọn chế độ tỷ giá ở Việt Nam sẽ được phân tích sâu hơn ở Phần II.
phần II
kinh nghiệm một số nước và thực trạng áp dụng chế độ tỷ giá ở việt nam
I-/ Kinh nghiệm lựa chọn chế độ tỷ giá ở một số nước
Chế độ tỷ giá cố định, thả nổi tự do hay thả nổi có quản lý đều có mặt tích cực và mặt hạn chế nhất định. Việc lựa chọn chế độ tỷ giá nào phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia. Nó phụ thuộc vào mục tiêu, chính sách phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kì. Mỗi chế độ tỷ giá lại có một cơ chế hoạt động riêng. Việc vận dụng sáng tạo, hợp lý chế độ tỷ giá vào nền kinh tế không phải đơn giản, dễ dàng. Thực tế, việc lựa chọn chế độ tỷ giá không hợp lý sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới đã cho thấy điều đó.
1-/ Đức:
Nước Đức lựa chọn cho mình chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý của Nhà nước. Chính phủ Đức đã can thiệp điều hành tỷ giá để chống lại khủng hoảng kinh tế (sản xuất giảm tuyệt đối, lạm phát cao, thất nghiệp hàng loạt) đầu những năm 80.
Chính phủ Đức mưa toan tìm lối thoát thông qua giải pháp mở rộng xuất khẩu bằng lợi thế phá giá, thế nhưng năm 1980 khi DM mất giá 12% lại là năm Đức có mức xuất siêu thấp nhất (8,9 tỷ DM). Lúc đó ở Đức có hai cách nhìn nhận vấn đề phá giá. Một là, sẽ cải thiện. Hai là, làm giá nhập khẩu tăng, khuyến khích lạm phát lên cao.
Đến lượt mình lạm phát tất yếu tác động tiêu cực vào xuất khẩu, sản xuất. Vậy là hiệu ứng phá giá tan mất, tình hình thêm phức tạp. Còn các chủ xuất khẩu Đức thừa nhận phá giá DM hoàn toàn không thể khắc phục khó khăn.
Kề từ 1/1980 chưa đầy hai năm, DM đã 5 lần mất giá so với USD với mức đáng kể (14 đến 15%), song tỷ giá lại nhanh chóng quay trở lại mức xuất phát điểm trước khi phá giá.
Chiến lược khôi phục kinh tế của Đức lúc bấy giờ thất bại, ngoài các nhân tố nội địa, còn chịu tác động không thể cưỡng nổi từ chính sách đồng tiền nặng của Chính quyền Rigân (vốn từ Đức, Anh “tháo chạy” sang Mỹ, Canada,...).
Vấn đề kinh tế của Đức chỉ được giải quyết khi Chính phủ mới của ông Hellmut Kol áp dụng phương sách khác: giảm can thiệp Nhà nước; sử dụng các cơ chế, chính sách tài chính; giảm mạnh thuế; khuyến khích sản xuất nội địa; thực thi chính sách thắt chặt.
2-/ Mêhicô:
Khủng hoảng ở Mêhicô là bài học có giá cho việc lựa chọn, điều chỉnh tỷ giá hối đoái và quản lý ngoại hối. Sau khủng hoảng nợ 1982, với sự hỗ trợ của IMF, Mêhicô đã cải cách và điều chỉnh kinh tế dựa trên các định hướng chính sách tài chính thắt chặt, sử dụng tỷ giá hối đoái như một chỗ dựa danh nghĩa, cải cách cơ cấu (tư nhân hoá, tự do hoá ngoại hối và ngoại thương, cải cách lại các khoản nợ,...) nhằm tạo khả năng thanh toán nợ nước ngoài, tạo cơ sở phát triển cho khu vực tư nhân,...
Kết quả của cuộc cải cách (1988-1997) được thế giới đánh giá là rất thành công trên nhiều mặt: chuyển từ thâm hụt ngân sách (12% GDP năm 1988) sang bội thu trong các năm 1996-1997 (trong khi thuế thu nhập doanh nghiệp giảm từ 42% xuống 35% bằng Mỹ, thuế thu nhập cá nhân từ 50% xuống 35%). Lạm phát từ 160% năm 1987 còn 8% năm 1997; dự trữ ngoại tệ tăng mạnh (80 tỷ USD năm 1997), tăng trưởng kinh tế từ 0% (1985-1988) lên 8% GDP trong các năm (1993-1997), việc cơ cấu lại nợ đã khôi phục và mở rộng quan hệ của Mêhicô và các tổ chức tài chính quốc tế.
Sau đó, kinh tế Mêhicô có nhiều biểu hiện xấu đi, mầm mống của khủng hoảng xuất hiện, nhất là từ năm 1998:
- Thâm hụt cán cân thanh toán 6,5% GDP năm 1997 đã là lớn; năm 1998 lên tới 8% GDP và chủ yếu được tài trợ bởi các nguồn vốn vay ngắn hạn (việc tăng giá nội tệ và giảm tích luỹ tư nhân là một nguyên nhân của tình hình trên), dự trữ ngoại tệ giảm còn 6 tỷ USD vào năm 1998 thiếu khả năng bảo vệ giá trị đồng nội tệ.
- Mêhicô phải đương đầu với việc lãi suất trên thị trường quốc tế tăng nhanh. Ngoài ra, còn phải chuộc lại 28 tỷ USD trái phiếu ngắn hạn bằng ngoại tệ. Hơn nữa, Chính phủ phải bưng bít tình hình ngày càng xấu đi của nền kinh tế trước cuộc bầu cử.
Trong bối cảnh đó Chính phủ lại quyết định phá giá đột ngột đồng nội tệ. Vì vậy nó đã trở thành ngòi nổ cho cuộc đại khủng hoảng. Mặc dù IMF tài trợ 50 tỷ USD nhưng Mêhicô vẫn không cải thiện được tình hình.
Bài học rút ra từ sự kiện này là:
Thứ nhất, sự mở cửa ra thị trường quốc tế ngày nay đòi hỏi có trách nhiệm thực hiện quyết định đúng đắn trong chính sách kinh tế. Sự thận trọng và tuân thủ các nguyên tắc là phương thức hiệu quả nhằm chống lại các biến động của thị trường quốc tế. Mêhicô đã phải trả giá đắt cho việc nới lỏng kiểm soát và để mặc cho thị trường tự do thực hiện các quy luật của mình.
Thứ hai, thâm hụt cán cân thanh toán lớn chứa đựng nhiều nguy hiểm, nhất là khi chúng được sử dụng vào tiêu dùng nội địa và được tài trợ bằng các nguồn vốn ngắn hạn.
Thứ ba, việc phá giá nội tệ vào tháng 10/1998 cho thấy điều chỉnh tỷ giá hối đoái thích hợp là hết sức khó khăn ngay cả khi sự thay đổi đó là cần thiết. Hơn nữa, các biện pháp vĩ mô đi kèm và hỗ trợ là hết sức quan trọng, đảm bảo chắc chắn các đòi hỏi của thị trường và đưa ra một tỷ giá hối đoái hợp lý. Chính phủ quyết định phá giá 20% (từ 3,4 Peso/USD xuống 4,5 Peso/USD) nhưng thực tế không giữ nổi mức này và đồng Peso giảm thêm 22% thành 5,5 Peso/USD.
Thứ tư, cuộc khủng hoảng cho thấy sẽ phải trả giá đắt khi những thông tin thường xuyên, kịp thời về các chỉ số kinh tế quan trọng không được công bố đúng lúc.
3-/ Các nước ASEAN và NICs
Các nước ASEAN và NICs theo đuổi chính sách tỷ giá ổn định, hướng về xuất khẩu. Theo đó, việc can thiệp vào tỷ giá của Chính phủ nhằm ổn định tỷ giá, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, thu hút đầu tư nước ngoài. Không một nước nào chủ trương phá giá làm động lực cho xuất khẩu, vai trò của tỷ giá chỉ là hỗ trợ.
Việc điều chỉnh tỷ giá ở các nước này có một số điểm chung:
Thứ nhất, do khó khăn về tài chính, thiếu ngoại tệ nghiêm trọng nên lúc đầu họ áp dụng nhiều loại tỷ giá, nội tệ định giá cao trong cơ chế cố định. Sau thời kì 1971-1973 thực hiện phá giá, sau đó nhanh chóng thống nhất tỷ giá chính thức và thị trường.
Thứ hai, khi đạt được tỷ giá thị trường cân đối, họ áp dụng cơ chế điều chỉnh theo quan hệ cung - cầu là chính. Các nước gắn nội tệ vào giỏ ngoại tệ mạnh.
Thứ ba, các nước nỗ lực ổn định hoá các quan hệ tỷ giá, tỷ giá hối đoái thực tế, có dự trữ ngoại tệ để khống chế biên độ dao động của tỷ giá ở mức thấp.
Thứ tư, khi tỷ giá tăng họ điều chỉnh tỷ giá để không cản trở xuất khẩu, song luôn gắn bó việc điều chỉnh này với nhiệm vụ khống chế lạm phát.
Thứ năm, nhìn chung đồng nội tệ của các nước này có xu hướng tăng giá ổn định so với USD.
Việc duy trì chế độ tỷ giá hối đoái cố định, ổn định hoá các quan hệ tỷ giá hướng vào xuất khẩu trong thời gian đầu đã phát huy tác dụng và đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên việc theo đuổi chế độ tỷ giá này trong một thời gian dài đã dẫn đến những bất cập. Nó là một trong những nguyên nhân dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á vừa qua. Khi nợ nước ngoài đến thời kì đáo hạn lại là lúc cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt nghiêm trọng. Mặc dù nguồn ngoại tệ lúc này khan hiếm nhưng hoạt động xuất khẩu lại bị chững lại. Do đó nguồn thu ngoại tệ không đủ bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai. Chính phủ các nước vẫn tiếp tục tung dự trữ ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá cố định. Lợi dụng tình hình đó, nhà đầu cơ người Mỹ Soros đã đầu cơ vào đồng tiền các nước ASEAN. Khi ngoại tệ khan hiếm tới đỉnh điểm, đồng nội tệ có nguy cơ phải phá giá thì Soros bán khống một lượng lớn nội tệ ra thị trường làm cho đồng bản tệ hoàn toàn mất giá. Chính phủ Thailand phải tuyên bố phá giá đồng Bath, mở đầu cho cuộc khủng hoảng tài chính Châu á, chấm dứt chế độ tỷ giá cố định.
Qua các sự kiện Mêhicô, khủng hoảng ở Đức, bão táp tài chính ASEAN chúng ta có thể rút ra nhiều bài học bổ ích. Việc theo đuổi, áp dụng chế độ tỷ giá nào là cả một nghệ thuật. Nên chăng Việt Nam sẽ gắn chặt đồng nội tệ với đồng tiền nước khác, duy trì chế độ tỷ giá hối đoái cố định (như các nước ASEAN) hay sẽ chủ trương thả nổi hoàn toàn tỷ giá và phá giá nội tệ để chống đỡ khủng hoảng, hướng về xuất khẩu. áp dụng máy móc một chế độ tỷ giá nào đều là sai lầm bởi vì mỗi chế độ tỷ giá đều có mặt mạnh và mặt hạn chế. Việc lựa chọn, áp dụng chế độ tỷ giá như thế nào là hợp lý, phù hợp với đặc thù của Việt Nam sẽ được phân tích kỹ ở phần tiếp theo.
II-/ Thực trạng áp dụng chế độ tỷ giá ở Việt Nam
1-/ Bối cảnh áp dụng chế độ tỷ giá thời gian qua ở Việt Nam
Từ ngày 25/11/1955 tỷ giá chính thức giữa đồng Việt Nam và Nhân dân tệ (NDT) của Trung Quốc là: 1 NDT = 1.470 VNĐ, 1 Rúp (Liên Xô) = 0,5 NDT, tỷ giá chéo là 735 VNĐ = 1 Rúp. Sau đổi tiền (1959) tỷ giá VNĐ với Rúp và NDT thay đổi. Đến năm 1977 các nước XHCN thoả thuận thanh toán với nhau bằng đồng Rúp chuyển nhượng (RCN). Mỗi RCN có hàm lượng vàng là 0,98712 gam.
Bên cạnh tỷ giá trên, Nhà nước còn dùng tỷ giá thanh toán nội bộ để thanh toán giữa các tổ chức và đơn vị có thu - chi ngoại tệ với Ngân hàng ngoại thương, tính thu - chi ngân sách Nhà nước khi nhận viện trợ bằng đồng Rúp và cấp phát cho các tổ chức kinh tế để thanh toán với các đơn vị ngoại thương.
Tỷ giá kết toán nội bộ được điều chỉnh như sau:
Năm 1958 : 1 Rúp = 5,64 VNĐ
Năm 1986 : 1 Rúp = 18 VNĐ
Năm 1987 : 1 Rúp = 150 VNĐ
Năm 1988 : 1 Rúp = 700 VNĐ
Đến tháng 3/1989 huỷ bỏ chế độ kết toán nội bộ.
Trong thời gian này quan hệ kinh tế đối ngoại của ta chủ yếu với các nước XHCN, nhất là khối SEV, nên quan hệ của VNĐ chủ yếu là với đồng Rúp. Còn với các đồng tiền chuyển đổi tự do thì không được xác lập chính thức.
Chế độ tỷ giá trên đây có một số đặc trưng:
Một là, tỷ giá được xác lập nhằm phục vụ cho kế hoạch do Nhà nước quyết định, không xuất phát từ yêu cầu thực tại của nền kinh tế thị trường trong và ngoài nước. Tỷ giá hối đoái giữ vai trò thụ động (chủ yếu làm chức năng thanh toán, công cụ để lập kế hoạch), chưa phải là công cụ điều chỉnh vĩ mô thực thụ.
Hai là, do việc xác lập tỷ giá hối đoái duy ý chí, không tuân thủ qui luật kinh tế, các quy trình kinh tế ngay cả với kinh tế kế hoạch. Vì vậy, nó không chỉ cản trở các quan hệ kinh tế của ta với khối SEV mà còn gây nhiều khó khăn trong trao đổi, thanh toán nội bộ, trong công tác quản lý điều hành của Nhà nước, thủ tiêu động lực đối với hoạt động xuất khẩu.
Ba là, do sử dụng tỷ giá kết toán nội._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0603.doc