Phần mở đầu
I. Sự cần thiết của vấn đề chọn nghiên cứu
1. Vấn đề lý luận
Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa quá trình sản xuất và quá trình lưu thông, giữa quá trình tạo ra giá trị thặng dư. Vì vậy, nghiên cứu quá trình lưu thông để xác định rõ hơn nữa vị trí của lưu thông và tác dụng tực cực của nó đối với sản xuất cũng như những biểu hiện của quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa trong quá trình này. Việc nghiên cứu như vậy sẽ làm chúng ta nhận thức được sâu sắc hơn bẩ
51 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1323 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. Vận dụng lý luận vào công tác quản lý ở Việt Nam - Đối với các Doanh nghiệp về nguồn vốn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n chất của chủ nghĩa tư bản, giải thích được đầy đủ những biểu hiện bên ngoài của hiện thực tư bản chủ nghĩa.
Việc nghiên cứu quá trình lưu thông của tư bản còn cung cấp cho chúng ta một số cơ sở lý luận chung về vấn đề này để nghiên cứu nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, chẳng hạn như lý luận về tư bản cố định và tư bản lưu động, thời gian sản xuất, thời gian lưu thông…
Vậy lưu thông tư bản là gì?
Theo nghĩa hẹp thì lưu thông tư bản là quá trình biến tư bản từ hình thái tiền tệ sang hình thái hàng hoá và từ hình thái hàng hoá sang hình thái tiền tệ. Quá trình đó bao gồm hai mắt khâu mua và bán diễn ra trên thị trường hàng hoá và thị trường lao động. Theo nghĩa rộng thì lưu thông tư bản là sự vận động của tư bản qua ba giai đoạn (hai giai đoạn lưu thông và một giai đoạn sản xuất), tức là sự tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. Sự lưu thông đề cập trong đề án này chủ yếu là sự lưu thông theo nghĩa rộng đó.
2. Vấn đề thực tiễn
Trong mọi nền sản xuất hàng hoá, các nhà doanh nghiệp luôn phải đối phó với các vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào và bán cho ai?
Đó là bài toán chung cho các doanh nghiệp ở các xã hội khác nhau có nền sản xuất hàng hoá. Thế nhưng ở những hình thái kinh tế khác nhau người ta có phương cách giải quyết khác nhau.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chính sự can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, những vấn đề kinh tế này lại được giải quyết hoàn toàn khác. Toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra mà không có sự bắt buộc của bất kỳ ai, người sản xuất ra hàng hoá một cách tự nguyện. Nhìn bề ngoài thì các hoạt động đó có vẻ là hỗn độn, nhưng thực ra nó lại tuân theo một trật tự nào đó.
Vấn đề đặt ra với đất nước chúng ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đó là sử dụng có hiệu quả các công cụ tài chính đặc biệt là nguồn vốn. Bởi vì vốn là điều kiện vật chất cần thiết cho sản xuất kinh doanh. Vì vậy hiệu quả của vốn phải được thể hiện bằng lợi nhuận tạo ra trên một đồng vốn.
Nhận rõ vai trò của nguồn vốn, đồng thời thấy rõ sự tác động qua lại giữa nó với các hoạt động kinh tế khác của doanh nghiệp có ý nghĩa lớn trong thực tiễn quản lý. Tổ chức và quản lý tốt tài chính doanh nghiệp sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cơ bản cho sản xuất kinh doanh. Mặt khác nguồn vốn của doanh nghiệp phải được vận dụng một cách năng động sáng tạo để phục vụ và tác động tích cực đến hoạt động kinh tế khác. Từ sự quản lý tốt nguồn vốn góp phần đưa doanh nghiệp tiến lên vững chắc, sản xuất kinh doanh mở rộng góp phần đưa đất nước ta tiến sát gần mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh" như đại hội Đảng VIII đã đề ra .
Với ý nghĩa thiết thực khi nghiên cứu "Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản” như vậy. Bài viết của em được trình bày như sau:
ii. giới hạn vấn đề nghiên cứu của đề tài
Phần mở đầu
Sự cần thiết của vấn đề chọn nghiên cứu và giới hạn nghiên cứu của đề tài.
Phần nội dung
Gồm: Thứ nhất :cơ sở lý luận khoa học tuần hoàn và chu chuyển tư bản.
Thứ hai: Vận dụng lý luận vào công tác quản lý ở Việt Nam (đối với các doanh nghiệp về nguồn vốn).
Phần thứ 3:
Nêu ra những kết luận và bài học của nghiên cứu vấn đề này.
phần nội dung
a. cơ sở lý luận khoa học trong tuần hoàn và chu chuyển của c.mac.
i. cơ sở lý luận khoa học của tuần hoàn tư bản
Mọi tư bản điều xuất hiện trước hết dưới hình thức một số lượng tiền tệ nhất định và được sử dụng để mang lại tiền tệ phụ thêm bằng cách bóc lột lao động làm thuê. Muốn đạt được kết quả ấy, tư bản phải vận động qua ba giai đoạn.
1. Giai đoạn thứ nhất T-H.
Mỗi hoạt động nhìn từ T-H cũng chỉ là một hành vi mua bán thông thường. Tiền tệ ở đây được sử dụng làm phương tiện mua như mọi tiền tệ khác trong lưu thông. Nhưng nếu xét kỹ các loại hàng hoá mà nhà tư bản đã mua thì tiền tệ đã đóng một vai trò khác hẳn. Hàng hoá mua được ở đây là tư liệu sản xuất và sức lao động, tức là những nhân tố vật.
Quá trình này có thể trình bày theo công thức
SLĐ
T - H
TLSX
Rõ ràng trong quá trình này hành vi T - SLĐ (việc mua sức lao động), là yếu tố đặc trưng khiến tiền xuất hiện thành tư bản. Hành vi T-TLSX chỉ cần thiết để cho sức lao động đã mua có thể hoạt động được. Song T-SLĐ được coi là nét đặc trưng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải cái gọi là sự phục vụ, nhưng mặc dầu thế, tiền lúc ấy vẫn không biến thành tư bản tiền tệ. Nét đặc trưng ở đây không phải ở chỗ người ta có thể mua được sức lao động bằng tiền, mà ở chỗ sức lao động xuất hiện thành hàng hoá. Đây là một việc mua bán, một quan hệ tiền tệ, nhưng trong đó người mua là nhà tư bản, kẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất, và người bán là người lao động làm thuê đã tách rời hoàn toàn khỏi tư liệu sản xuất, và tư liệu sinh hoạt. Vậy không phải bản chất của tiền đẻ ra mối quan hệ tư bản chủ nghĩa; trái lại, chính sự tồn tại của mối quan hệ đó mới làm cho chức năng đơn giản của tiền tệ biến thành chức năng của tư bản. Do đó, chính trên cơ sở tư liệu sản xuất và sức lao động hoàn toàn tách rời nhau, quan hệ giai cấp giữa nhà tư bản và người lao động làm thuê đã có, mà tiền của nhà tư bản ứng ra để thực hiện hành vi
SLĐ
T - H
TLSX
là tư bản tiền tệ hoàn thành quá trình này, giá trị tư bản trút bỏ hình thái tiền tệ để tồn tại dưới hình thái hiện vật là sức lao động và tư liệu sản xuất. Như vậy, kết quả của giai đoạn thứ nhất là tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản xuất.
2. Giai đoạn thứ hai ……..sản xuất ………..
Mua được hàng hoá sức lao động rồi, nhà tư bản không thể đem nó đi bán được mà chỉ có quyền sử dụng nó trong một thời gian nhất định. Hơn nữa chỉ có tiêu dùng sức lao động thì mới tiêu dùng được tư liệu sản xuất đã mua. ở đây, người sử dụng tiền muốn thu được tiền về thì phải có hàng hoá. Nói cách khác, tiếp theo giai đoạn thứ nhất tất yếu phải đến giai đoạn thứ hai: Sử dụng các hàng hoá đã mua, tức là giai đoạn sản xuất - Quá trình này có thể được biểu diễn như sau:
SLĐ
T - H ………..SX. H'
TLSX
Quá trình sản xuất diễn ra ở đây cũng giống như mọi quá trình sản xuất của mọi hình thái xã hội là do kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất mà có. Song sự kết hợp hai yếu tố vẫn hoàn toàn tách rời nhau này là do "công lao" của nhà tư bản đã ứng tư bản để thực hiện phương thức kết hợp đặc thù đó không chỉ là kết quả, mà còn là yêu cầu của sự vận động tư bản, trở thành quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong khi thực hiện chức năng của mình, tư liệu sản xuất tiêu dùng các thành phần của bản thân nó để biến các thành phần ấy thành một thành khối lượng sản phẩm có giá trị lớn hơn, kết quả của quá trình là một hàng hoá mới được tạo ra, khác về giá trị sử dụng và cả về lượng giá trị so với các hàng hoá cấu thành tư bản sản xuất. Hàng hoá mới này là hàng hoá đã mang giá trị thặng dư, nó đã trở thành hàng hoá có giá trị bằng sản xuất + m (tức là bằng giá trị của tư bản sản xuất hao phí để chế tạo nó, cộng với giá trị thặng dư m do tư bản sản xuất ấy đẻ ra. Như vậy kết quả của giai đoạn thứ hai là tư bản sản xuất biến thành tư bản hàng hoá.
3. Giai đoạn thứ ba: H ' - T'
Tư bản bây giờ tồn tại dưới hình thái hàng hoá nếu cần phải được đem bán hàng hoá để thu tiền về thì mới tiếp tục được công việc kinh doanh.
Quá trình này có thể trình bày bằng công thức H' - T'. Hàng hoá - tư bản ném vào lưu thông cũng không có gì phân biệt với hàng hoá thông thường, nó cũng thực hiện chức năng vốn có của hàng hoá vì ngay sau quá trình sản xuất, nó đã là H', đã mang trong mình nó giá trị của tư bản ứng trước và giá trị thặng dư. Vì vậy chỉ cần tiến hành trao đổi theo đúng quy luật giá trị như các hàng hoá thông thường và nếu bán được toàn bộ H', đảm bảo thu được T' nghĩa là thu được số tiền lớn hơn số tiền bỏ ra ban đầu. Chức năng của H', do đó là chức năng của một sản phẩm hàng hoá, song đồng thời lại là chức năng thực hiện giai đoạn này tư bản hàng hoá đã biến hành tư bản tiền tệ. Đến đây, mục đích của tư bản đã được thực hiện. Tư bản đã trở về hình thái ban đầu trong tay chủ của nó với một số lượng lớn hơn trước.
4. Nghiên cứu vấn đề này là nghiên cứu mặt chất của sự tồn tại tư bản.
Tổng hợp quá trình vận động của tư bản trong cả ba giai đoạn, ta có công thức sau đây:
SLĐ
T - H …. Sản xuất … H' - T'
TLSX
Trong công thức này, tư bản biểu hiện thành một giá trị thông qua một chuỗi biến hoá hình thái quan hệ lẫn nhau, quyết định lẫn nhau thông qua một chuỗi những biến hoá hình thái mà bao nhiêu biến hoá hình thái là bấy nhiêu thời kỳ hay trong giai đoạn đó, có hai giai đoạn thuộc lĩnh vực lưu thông và một giai đoạn thuộc lĩnh vực sản xuất. Sự vận động của tư bản trải qua ba giai đoạn, lần lượt mang ba hình thái để rồi trở lại hình thái ban đầu với giá trị không chỉ được bảo tồn mà còn tăng lên, là sự tuần hoàn tư bản.
Tuần hoàn tư bản chỉ có thể tiến hành một cách bình thường chừng nào các giai đoạn khác nhau của nó không ngừng chuyển từ giai đoạn này đến giai đoạn khác. Mặt khác, bản thân sự tuần hoàn lại làm cho tư bản phải nằm lại ở mỗi một giai đoạn tuần hoàn trong một thời gian nhất định. Do đó sự vận động của tư bản là liên tục không ngừng, đồng thời là sự vận động đứt quãng không ngừng. Chính trong sự vận động mâu thuẫn đó mà tư bản tự bảo tồn, chuyển hoá giá trị và không ngừng lớn lên.
Tư bản trong quá trình vận động trải qua ba giai đoạn, lần lượt khoác trên mình các hình thái tư bản -tiền tệ, tư bản sản xuất, tư bản hàng hoá và ở mỗi hình thái như thế nó thực hiện một chức năng thích hợp tư bản đó là tư bản công nghiệp. Sở dĩ như vậy là vì tư bản công nghiệp là hình thái tồn tại duy nhất của tư bản, mà chức năng của nó không phải chỉ chiếm lấy giá trị thặng dư, mà còn là tạo ra gía trị thặng dư.
Tuần hoàn của tư bản công nghiệp, vì vậy, có thể xem là dạng tuần hoàn của tư bản tiền tệ hoặc là dạng tuần hoàn của tư bản sản xuất, hoặc cũng có thể là dạng tuần hoàn của tư bản hàng hoá.
a. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ
Tuần hoàn của tư bản tiền tệ có công thức T-H….SX …. H' - T', với điểm xuất phát là T và điều kết thúc là T', đã biểu thị một cách rõ rệt nhất động cơ, mục đích vận động của tư bản là giá trị tăng thêm giá trị, tiền đẻ ra tiền và tích luỹ tiền. Trong tuần hoàn này, T là phương tiện ứng ra trong lưu thông và T' là mục đích đạt được trong lưu thông, nếu như lưu thông đó đẻ ra giá trị lớn hơn, còn giá trị sản xuất chỉ là khâu trung gian không thể tránh được, một "sự việc" cần thiết để làm ra tiền. Chính do đó mà hình thái tuần hoàn của tư bản tiền tệ là hình thái nổi bật nhất. Song cũng chính do đó mà nó là hình thái phiến diện nhất, che dấu nhất quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa.
b. Tuần hoàn của tư bản sản xuất
Tuần hoàn của tư bản sản xuất có công thức:
Sx ….H' - T' - H' ... Sx
Công thức này nói lên sự hoạt động lặp đi lặp lại một cách chu kỳ của tư bản sản xuất. Hình thái tư bản hàng hoá trong tuần hoàn này cho thấy rất rõ là nó từ quá trình sản xuất mà ra, là kết quả trực tiếp của sản xuất, còn hình thái tiền tệ của tư bản - kết thúc sự thực hiện tư bản hàng hoá (H’) - là phương tiện mua, chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sản xuất, tức là chỉ làm môi giới cho tư bản nó được nguồn gốc của tư bản. Dù là tái sản xuất giản đơn hay tái sản xuất mở rộng, nguồn tư bản đầu tư quá trình sản xuất mà ra. Song tuần hoàn này lại không biểu thị việc sản xuất ra giá trị thặng dư. Dù là sản xuất giản đơn hay tái sản xuất mở rộng, kết cục nó cũng chỉ xuất hiện dưới hình thái cần thiết để làm chức năng từ sản xuất, thực hiện quá trình tái sản xuất, nó không hề chỉ ra mục đích của quá trình làm tăng thêm giá trị. Do đó nó làm người ta dễ nhầm rằng mục đích của nó chỉ là bản thân sản xuất, trung tâm của vấn đề là sản xuất thật nhiều và thật rẻ, có trao đổi cũng chỉ là trao đổi sản phẩm để tiến hành được sản xuất liên tục, nên cũng không có hiện tượng thừa.
c. Tuần hoàn của tư bản hàng hoá .
Tuần hoàn của tư bản hàng hoá có công thức H' - T' - H …… Sx …..H' khác với các hình thái tuần hoàn khác ở chỗ: điểm xuất phát bao giờ cũng bắt đầu bằng H', bằng một giá trị đã tăng thêm giá trị, một giá trị tư bản ứng trước đã chứa đựng giá trị thặng dư với bất kỳ quy mô như thế nào. Điều này làm cho nó có một số đặc điểm khác là:
Thứ nhất, ngay từ lúc đầu, nó đã biểu hiện ra là hình thức sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa, nên ban đầu nó đã bao hàm cả tiêu dùng sản xuất và tiêu dung cá nhân.
Thứ hai, kết thúc bằng H', chưa chuyển hoá trở lại thành tiền đã tăng lên giá trị (T'), nó là hình thái chưa hoàn thành và phải còn tiếp tục tiến hành, vì vậy nó đã bao hàm tái sản xuất.
Thứ ba, nó là hình thái làm nổi bật lên sự liên tục của lưu thông. H' điểm bắt đầu tuần hoàn và H' điểm kết thúc tuần hoàn đều biểu hiện một khối lượng giá trị sử dụng được sản xuất ra để bán. Do đó nếu H' là điểm bắt đầu tuần hoàn đòi hỏi ngay một quá trình lưu thông mới.
Thứ tư, hình thái tuần hoàn này còn trực tiếp bộc lộ mối quan tâm giữa những người sản xuất hàng hoá với nhau. Mỗi nhà tư bản đều đem H' vào lưu thông và dùng T' đã thu được để mua các hàng hoá tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân. Cả hai loại hàng hoá này đều nằm trong lưu thông và cũng cũng đều do các nhà tư bản công nghiệp cung cấp cho nhau. Do đó hình thái tuần hoàn này "không phải chỉ là một hình thái vận động chung cho mọi tư bản cá biệt mà đồng thời còn là hình thái vận động của tổng tư bản của giai cấp tư bản, là một vận động trong đó có vận động của mỗi một tư bản công nghiệp cá biệt chỉ biểu hiện thành vận động bộ phận chằng chịt với những vận động của các tư bản khác và lại chế ước bởi những vận động này"( C. Mac: Tư bản, quyển II, Tập I, nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1961 trang 134.
). Như vậy là hình thái tuần hoàn H' …..H' đã vạch ra rõ rằng sự thực hiện hàng hoá là điều kiện thường xuyên của quá trình sản xuất và tái sản xuất. Song cũng do đó nhấn mạnh tính liên tục của lưu thông hàng hoá, nên người ta có ý ấn tượng rằng tất cả mọi yếu tố của quá trình sản xuất đều là do lưu thông hàng hoá mà ra và chỉ gồm có hàng hoá thôi.
Như vậy, nếu xét riêng từng hình thái tuần hoàn thì mỗi hình thái chỉ phản ánh hiện thực tư bản chủ nghĩa một cách phiến diện, mỗi hình thái đều làm nổi bật mặt chất này và lại che dấu mặt bản chất khác của sự vận động tư bản công nghiệp. Do đó, phải xem xét đồng thời cả ba hình thái tuần hoàn mới nhận được đầy đủ sự vận động thực tế của tư bản, mới hiểu được đầy đủ sự vận động thực tế của tư bản, mới hiểu biết đúng đắn bản chất của mối quan hệ giai cấp mà tư bản biểu hiện trong sự vận động của nó.
ii. cơ sở lý luận khoa học trong chu chuyển tư bản
1. Thời gian chu chuyển và số vòng chu chuyển
Sự tuần hoàn của tư bảnnn nói lên sự biến hoá hình thái của tư bản các giai đoạn lưu thông và sản xuất. Nhưng tư bản không chỉ xuất hiện biến hoá hình thái một lần rồi dừng hẳn "… Tư bản là một sự vận động chứ không phải là một vật đứng yên "( C. Mac: Tư bản, quyển II, Tập I, nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1961 trang 137
3 Sách đã dẫn trang 203
). Tư bản nếu muốn tồn tại là tư bản thì phải không ngừng đi vào lưu thông, tiếp tục thực hiện liên tục quá trình biến hoá hình thái, tức là tiếp tục sự tuần hoàn liên tục không ngừng. Sự tuần hoàn của tư bản được lắp đi lặp lại nhiều lần và có định kỳ - đó là sự chu chuyển của tư bản. Cac mác nói " Tuần hoàn của tư bản, khi được coi là một quá trình định kỳ, chứ không phải là một quá trình cô lập, thì gọi là vòng chu chuyển của tư bản (
)
a. Thời gian chu chuyển của tư bản: Là khoảng thời gian kể từ khi nhà tư bản ứng tư bản ra dưới một hình thái nào đó cho đến khi thu về cũng dưới hình thái ấy có kèm theo giá trị thặng dư. Chu chuyển của tư bản chỉ là tuần hoàn xét trong một quá trình định kỳ nên thời gian chu chuyển của tư bản cũng là tổng số thời gian mà tư bản trải qua các giai đoạn lưu thông và giai đoạn sản xuất trong quá trình tuần hoàn, tức là bằng tổng số thời gian lưu thông và thời gian sản xuất.
b. Thời gian sản xuất của tư bản là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất.Thời gian sản xuất bao gồm:
Thứ nhất: thời gian lao động, tức là thời gian mà người lao động sử dụng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm. Đây là thời gian duy nhất tạo ra giá trị và giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Thứ hai: Thời gian gián đoạn lao động, tức là thời gian để đối tượng lao động hoặc bán thành phẩm chịu tác động của tự nhiên mà không cần lao động của con người góp sức.
Thứ ba: Thời gian dự trữ sản xuất, tức là thời gian mà tư bản sản xuất đã sẵn sàng làm điều kiện cho quá trình sản xuất, nhưng chưa phải là yếu tố hình thành sản phẩm, cũng chưa phải là yếu tố hình thành giá trị. Bộ phận tư bản này là tư bản ở hoá, những tình trạng ở hoà này là điều kiện để tiến hành không ngừng quá trình sản xuất.
Thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất là thời gian không hề tạo ra giá trị thặng dư. Do đó, rút ngắn các thời gian này, cũng giảm bớt sự chênh lệch giữa thời gian sản xuất với thời gian lao động là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng đối với các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn là do tác động của nhiều nhân tố, trong đó chủ yếu là những nhân tố sau:
Thứ nhất: tính chất của ngành sản xuất, thời gian sản xuất sản phẩm trong công nghiệp nặng nhiều hơn thời gian sản xuất trong ngành công nghiệp nhẹ.
Thứ hai: năng xuất lao động cao hay thấp.
Thứ ba: vật sản xuất chịu sự tác động của tự nhiên dài hay ngắn.
Thứ tư: dự trữ sản xuất nhiều hay ít.
c. Thời gian lưu thông của tư bản và những tác nhân ảnh hưởng.
Đây là thời gian tư bản tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. Trong thời gian lưu thông tư bản không làm chức năng tư bản sản xuất, do đó không sản xuất ra hàng hoá và cũng không sản xuất ra giá trị thặng dư.
Thời gian lưu thông dài hay ngắn khiến cho khối lượng một tư bản nhất định làm chức năng tư bản sản xuất được tăng thêm, hay bị rút bớt, do đó mà năng suất của tư bản, tức là việc tư bản đẻ ra giá trị thặng dư lớn lên hay giảm sút.
Thời gian lưu thông gồm có thời gian mua và thời gian bán, trong đó thời gian bán là quan trọng và khó khăn hơn. Thời gian lưu thông dài hay ngắn chủ yếu là do ba nhân tố sau đây:
- Tình hình thị trường tốt hay xấu
- Khoảng cách thị trường xa hay gần
- Phương tiện giao thông khó khăn hay thuận lợi.
Ngoài những nhân tố chính như đã nêu trên thời gian lưu thông của tư bản còn phụ thuộc những nhân tố chính khách quan và chủ quan khác như điều kiện tự nhiên, thiên tai, cách thức quản lý, nhân sự.
Do chịu ảnh hưởng của hàng loạt nhân tố nên độ dài của thời gian sản xuất và thời gian lưu thông của tư bản của các tư bản không thể giống nhau. Do đó thời gian chu chuyển của các tư bản trong các ngành khác nhau và cả những tư bản trong một ngành cũng rất khác nhau. Thời gian chu chuyển của tư bản dài ngắn khác nhau như vậy nên muốn tính toán và so sánh với nhau được thì phải có một đơn vị đo lường duy nhất. Đơn vị dó là năm. Do đó ta có công thức tính số vòng chu chuyển của tư bản như sau:
Số lần chu chuyển =
2. Tư bản cố định và tư bản lưu động
Thời gian chu chuyển của tư bản bao gồm toàn bộ thời gian chu chuyển của các bộ phận tư bản phản ứng ra để tiến hành sản xuất. Nhưng phương thức chu chuyển của các bộ phận tư bản không giống nhau do đó vòng chu chuyển của chúng rất khác nhau. Căn cứ vào phương thức chu chuyển khác nhau, người ta phân chia các bộ phận tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động.
a. Tư bản cố định.
Đây là bộ phận tư bản tham gia vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó thì chuyển từng phần sang sản phẩm. Được xếp vào tư bản cố định trước hết là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu lao động (máy móc, thiết bị, nhà xưởng…) đang được sử dụng trong quá trình sản xuất. Hình thái giá trị sử dụng của bộ phận tư bản này luôn luôn được duy trì, tồn tại như khi nó mới gia nhập vào quá trình lao động. Chức năng tư liệu lao động trong quá trình sản xuất giữ chúng lại đó, và do đó bộ phận giá trị tư bản ứng ra được cố định dưới hình thái ấy. Bộ phận tư bản này lưu thông không phải dưới hình thái giá trị sử dụng của nó, chỉ có giá trị của nó lưu thông thơi và lưu thông dần dần từng phần một theo nhịp độ mà giá trị đó được chuyển vào sản phẩm. Phần giá trị cố định như vậy không ngừng giảm cho đến khi tư liệu lao động trở thành vô dụng. Tư liệu lao động cùng bền bao nhiêu, càng chậm hao mòn bao nhiêu thì giá trị tư bản bất biến sẽ được cố định dưới hình thái sử dụng ấy trong một thời gian càng lâu bấy nhiêu.
Xếp vào tư bản cố định còn có bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà xét về mặt chuyển gía trị, và do đó về phương thức lưu thông giá trị cũng như tư liệu lao động nói trên.
b. Tư bản lưu động
Là bộ phận tư bản khi tham gia vào quá trình sản xuất thì chuyển toàn bộ giá trị sang sản phẩm. Đó là bộ phận tư bản bất biến dưới hình thái nguyên liệu, vật liệu phụ, nguyên liệu, vật liệu phụ, nhiên liệu … Tiêu dùng trong quá trình lao động. Bộ phân tư bản khả biến, xét về mặt phương thức chu chuyển cũng giống như bộ phận tư bản bất biến lưu động nói trên nên cũng được xếp vào tư bản lưu động.
c. Vấn đề hao mòn của tư bản cố định
Sự phân chia tư bản thành bộ phận tư bản cố định và bộ phận tư bản mới có sự phân chia này, và căn cứ của sự phân chia là phương thức chu chuyển của tư bản. Trong quá trình sản xuất, tư cố định bị hao mòn dần dần. Đó là sự hao mòn về mặt giá trị sử dụng và giá trị. Những hao mòn đó được gọi là hao mòn hữu hình, những hao mòn này là do sử dụng vào sản xuất, do sức phá hoại của thiên nhiên gây ra.
Ngoài hao mòn hữu hình, tư bản cố định còn bị hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình là sự hao mòn thuần tuý về mặt giá trị, trong khi giá trị sử dụng mới hao mòn một phần hoặc còn nguyên vẹn. Hao mòn vô hình xảy ra do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất: Năng xuất lao động tăng lên, do đó làm giảm giá trị của những chiếc máy cũ, tuy giá trị sử dụng của những chiếc máy này còn nguyên vẹn hoặc mới hao mòn một phần.
Thứ hai: kỹ thuật cải tiến nếu người ta sản xuất được những máy móc tuy có giá trị bằng giá trị của máy cũ (hoặc cao hơn chút ít), nhưng có công suất vượt xa công suất của máy cũ. Tình hình này làm cho những máy cũ tuy giá trị sử dụng vẫn nguyên vẹn, song giá trị đã giảm sút đi nhiều.
Hao mòn hữu hình và hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình bình quân của tư bản cố định đều được tính chuyển giá trị vào sản phẩm, lưu thông cùng sản phẩm chuyển hoá thành tiền tệ để đổi mới tư bản cố định khi đến kỳ tái tạo ra tư bản đó dưới hình thái hiện vật. Đó là quỹ khấu hao cơ bản.
Để tránh những hao mòn bất thường và bảo đảm phát huy hiệu quả cao, tư bản cố định đòi hỏi những chi phí bảo quản đặc biệt, việc bảo quản ấy được thực hiện một phần ở bản thân quá trình lao động sử dụng nó, bảo tồn nó và chuyển giá trị của nó vào sản phẩm. Việc bảo quản này là một cống hiến tự nhiên không mất tiền của lao động sống. Nhưng để bảo quản tốt, tư bản cố định còn đòi hỏi phải thực sự chi phí sức lao động nữa. Máy móc yêu cầu thỉng thoảng phải được lau chùi. Đó là công việc phụ, nhưng nếu không làm thì máy móc sẽ hư hỏng. Ngoài việc cần được bảo quản, tư bản cố định còn cần được tu bổ, sửa chữa cần thiết, do đó đòi hỏi có những khoản chi về tư bản và lao động.
Để tránh hao mòn vô ích, nhất là tránh hao mòn vô hình, cũng như ra sức tiết kiệm các chi phí bảo quản và sửa chữa, tăng cường hiệu suất của tư bản, các nhà tư bản tìm mọi cách để thu hồi tư bản về nhanh và thu được nhiều lợi nhuận hơn nữa. Ngoài các thủ đoạn thông thường như tăng cường độ lao động, kéo dài ngày lao động, thực hiện chế độ ca, kíp…. Các nhà tư bản còn bóc lột cả thời gian nghỉ ngơi của công nhân; buộc công nhân lao động trong điều kiện kinh doanh vô cùng cực khổ, thậm chí không bảo đảm an toàn lao động cho công nhân. Mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tư bản, do đó cần tăng thêm gay gắt.
3. Tăng tốc chu chuyển tư bản và phương pháp để tăng tốc độ ấy.
Tốc độ chu chuyển của tổng tư bản ứng trước được tính bằng tốc độ chu chuyển trung bình của tư bản cố định và tư bản lưu động. Công thức tính tốc độ chu chuyển của tư bản ứng trước được tính bằng giá trị chu chuyển của tư bản cố định và giá trị chu chuyển của tư bản lưu động trong năm chia cho tổng tư bản ứng trước.
Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản thì sẽ tăng được hiệu suất, sản xuất và mang lại giá trị thặng dư nhiều hơn cho nhà tư bản. Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định thì giá trị chu chuyển của tư bản lưu động trong năm chia cho tổng tư bản ứng trước.
Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản thì sẽ tăng được hiệu suất sản xuất và mang lại giá trị thặng dư nhiều hơn cho nhà tư bản. Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định thì nhà tư bản có thể tránh được thiệt hại hao mòn vô hình và còn có thể tăng cường sử dụng được quỹ khấu hao vào mở rộng và cải tiến sản xuất.
Đặc biệt với tư bản lưu động, tăng tốc độ chu chuyển sẽ có tác dụng lớn. Đối với bộ phận tư bản bất biến lưu động, tức là bộ phận tư bản bỏ ra mua nhiên liệu, nguyên liệu và vật liệu. Nếu chu chuyển nhanh thì sẽ tiết kiệm được tư bản ứng trước, hoặc nếu giữ số tư bản lưu động ấy thì sẽ có điều kiện mở rộng sản xuất.
Đối với tư bản khả biến lưu động, tác dụng của việc tăng tốc độ chu chuyển càng hết sức quan trọng và có ý nghĩa quyết định trong việc tăng thêm giá trị thặng dư.
Thời gian chu chuyển của tư bản gồm có thời gian sản xuất và thời gian lưu thông, nên muốn tăng tốc độ chu chuyển của tư bản thì phải ra sức rút ngắn khoảng thời gian ấy lại.
Phương pháp rút ngắn thời gian sản xuất được thực hiện bằng cách áp dụng kỹ thuật mới, cải tiến cách thức sản xuất, mở rộng phạm vi phân công hiệp tác, cải tiến cách thức sản xuất, mở rộng phạm vi phân công hiệp tác , cải tiến tổ chức và quản lý lao động, kéo dài ngày lao động và tăng cường độ lao động … Tất cả các cách đó đều nhằm việc rút ngắn thời gian lao động, rút ngắn quá trình chịu ảnh hưởng tự nhiên của sản xuất cũng như rút ngắn và giảm bớt được dự trự sản xuất.
Song các phương pháp đó lại buộc nhà tư bản phải tăng thêm tư bản ứng trước, và nhất là phải tăng thêm bóc lột do lại làm tăng thêm mâu thuẫn trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Phương pháp rút ngắn thời gian lưu thông có thể thực hiện bằng cách cải tiến chất lượng hàng hoá, cải tiến mặt hàng, cải tiến mạng lưới và phương pháp thương nghiệp và đặc biệt là phát triển ngành giao thông vận tải…, song việc rút ngắn thời gian lưu thông của tư bản lại gặp rất nhiều trở ngại. Sản xuất càng phát triển, phạm vi thị trường càng mở rộng thì càng làm trầm trọng thêm tính chất cạnh tranh vô chính phủ trong xã hội tư bảnm khiến hàng hoá lưu thông hỗn đoạn, có nhiều hiện tượng bất hợp lý, lãng phído đông đảo quần chúng lao động bị bóc lột thậm tệ, thu nhập ngày càng giảm nên sức mua ngày càng giảm sút.
Như vậy là do mâu thuẫn đối kháng của bản thân chủ nghĩa tư bản, việc rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông của tư bản, do đó cả việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản đã vấp phải rất nhiều khó khăn, trở ngại. Tình trạng năng lực sản xuất thường xuyên không được. Sử dụng hết ở các nước đế quốc, cùng mức độ cạnh tranh, giành giật gay gắt thị trường giữa các nước này ngày càng bộ lộ rõ nét.
Tăng tốc đôk chu chuyển và tìm mọi biện pháp để tăng tốc độ chu chuyển vốn là yêu cầu chung của mọi nền sản xuất hàng hoá. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa do bản chất của nó, càng yêu cầu và có đầy đủ khả năng để thực hiện tốt điều đó. Để quản lý tốt nền kinh tế, phát huy được hiệu quả cao của đồng vốn đòi hỏi đất nước chúng ta phải biết vận dụng những nguyên lý đó một cách sáng tạo và linh hoạt.
Báo cáo chính trị của ban chấp hành Trung ương tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII viết " Khoa học xã hội phải góp phần xứng đáng trong việc đổi mới tư duy , xây dựng luật án khoa học cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, xây dựng lập trường quan điểm, ý thức và nhân cách đúng đắn, khắc phục những tư tưởng sai lầm. Trong những năm tới, nhiệm vụ chủ yếu của các ngành khoa học xã hội là vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh , tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nước ta và tiếp thu có chọn lọc những thành tựu khoa học của thế giới, nghiên cứu những vấn đề cơ sở lý luận để hoàn thiện và triển khai cương lĩnh, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội" (() Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội lần thứ VII, NXB Sự thật Hà Nội 1991, trang 80
)
Như vậy là những lý luận đúng đắn như trên đòi hỏi chúng ta phải áp dụng và kế thừa sáng suốt để đạt hiệu quả cao trong công tác quản lý nền kinh tế nước ta đạt được những mục tiêu đã đề ra, góp phần làm cho "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh."
b. Vận dụng lý luận vào công tác quản lý ở Việt Nam .
i. đặc điểm của Việt Nam khi chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Trước đây nước ta được thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, nhìn chung các thành phần kinh tế của nước ta kém năng động, còn chông trở ỷ lại nhà nước. Thực hiện nguyên tắc phát giao nộp ngân sách, các doanh nghiệp không tự khai thác và huy động vốn để đảm bảo vốn kinh doanh. Trong điều kiện đó các chỉ tiêu về doanh số, công nợ, đặc biệt là hiệu quả của kinh doanh đồng vốn chưa phải là mối quan tâm của doanh nghiệp mà vấn đề hàng đầu của họ là cắp cặp đi xin ngân sách.
Bên cạnh đó kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp theo mô hình của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, kinh tế được vận hành bằng các chỉ tiêu pháp lệnh do nhà nước đặt ra. Tồn tại cơ chế nhà nước định giá. Nhà nước nắm lấy quyền định giá thấp hơn so với giá trị hàng hoá. Chính việc này mà giá trị hàng hoá vận động trái với quy luật khách quan, ảnh hưởng đến hệ thống kinh tế xã hội. Do vậy hình thành hai loại thị trường, một do nhà nước với giá cả cứng nhắc được quy định trước và một thị trường tự do ở đó giá cả được quy định thông qua cung cầu. Điều này dẫn đến hiện tượng đầu cơ tích trữ ảnh hưởng xấu đến hoạt động của nền kinh tế. Trước hiện trạng như vậy cán bộ công nhân viên nhà nước bị thiệt thòi, đồng lương thực tế thấp, bản thân nhà nước phải chịu bù giá, bù lỗ làm cho ngân sách kiệt quệ nền tài chính quốc gia luân rơi vào khủngg hoảng, làm phát cao.
Việc định giá còn thực hiện trong các nhà sản xuất, làm cho sản xuất luân trong tình trạng thua lỗ, không đủ bù đắp chi phí sản xuất. Bất cứ người._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28262.doc