TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
94
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGƯỜI THẦY GIÁO
HO CHI MINH’S IDEOLOGY ON THE TEACHER
Ngô Văn Hà, Đỗ Thị Hằng Nga
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
TÓM TẮT
Bài viết làm rõ quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò, đạo đức, chuyên môn và phương
pháp giảng dạy của người thầy giáo. Theo Hồ Chí Minh, người thầy giáo có vai trò quyết định
đến sự vận hành của hệ thống giáo dục và chất lượng giáo dục. Xuất phát từ vai trò to lớn
8 trang |
Chia sẻ: huongnhu95 | Lượt xem: 469 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Tư tưởng hồ chí minh về người thầy giáo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đó,
người thầy giáo phải có phẩm chất đạo đức phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, đoàn kết,
thương yêu học trò, yêu nghề, gắn bó với nghề nghiệp trong bất cứ hoàn cảnh nào. Phẩm chất
đạo đức đó của người thầy giáo luôn gắn với hành động cụ thể, thiết thực. Gắn liền với phẩm
chất đạo đức, người thầy giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh phải có kiến thức chuyên môn sâu
và rộng, nhuần nhuyễn, thuần thục về phương pháp giảng dạy.
ABSTRACT
This article clarifies President Ho Chi Minh’s views on the role of the teacher’s ethical
and professional qualities and teaching methods. According to Ho Chi Minh, the teacher plays a
decisive role in the operation of an educational system and teaching quality. With this great role,
the teacher must have such moral qualities as good virtues to serve people and the Homeland,
solidarity with colleagues, love for students and profession and career attachment under any
circumstances. The moral qualities of teachers are always manifested by specific and practical
actions. Together with such moral qualities, the teacher in Ho Chi Minh’s ideology should have
a profound knowledge as well as expertise and proficiency in methods of teaching.
1. Đặt vấn đề
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục nói chung
và xây dựng đội ngũ người thầy nói riêng. Người có quan niệm khá hoàn chỉnh về vai
trò, nhiệm vụ, phẩm chất đạo đức, chuyên môn và phương pháp giảng dạy của người
thầy giáo. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy để có nhận thức đúng và
vận dụng vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn to lớn.
2. Kết quả nghiên cứu và bàn luận
2.1. Quan điểm về vai trò và nhiệm vụ của người thầy giáo
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giữa vai trò và nhiệm vụ của người thầy có mối
quan hệ mật thiết, không tách rời nhau. Vai trò quan trọng của người thầy trong xã hội
được thể hiện qua nhiệm vụ của họ đảm nhận. Người thầy đảm nhận tốt nhiệm vụ được
giao là sự khẳng định vị trí, vai trò của họ trong xã hội.
Nói đến giáo dục phải nói đến các yếu tố mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
95
dục, cơ sở vật chất, người học và người dạy. Các yếu tố đó gắn bó với nhau, hoạt động
trong một thể thống nhất, trong đó người thầy là yếu tố quan trọng nhất. Hồ Chí Minh
khẳng định: “không có thầy giáo thì không có giáo dục”(1), “học trò tốt hay xấu là do
thầy giáo, cô giáo tốt hay xấu”(2). Như vậy người thầy giáo trong tư tưởng Hồ Chí
Minh là nhân tố quyết định quá trình vận hành của hệ thống giáo dục và chất lượng
giáo dục.
Theo Hồ Chí Minh, người thầy giáo có sứ mệnh đào tạo lớp người có đức, có tài
kế tục sự nghiệp cách mạng. Tại lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền
Bắc (9/ 1958), Người viết: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm
thì phải trồng người. Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho
nước nhà. Nhân dân, Đảng và Chính Phủ giao các nhiệm vụ đào tạo thế hệ tương lai cho
các cô, các chú”(3), và “nếu không có thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân dân, thì làm
sao mà xây dựng chủ nghĩa xã hội được”(4). Việc “dạy dỗ” ở đây là người thầy giáo
phải đem sự hiểu biết, năng lực và phẩm chất của mình truyền đạt cho người học, làm
cho người học phát huy được “năng lực vốn có”, phát triển các mặt đức dục, trí dục, thể
dục, mỹ dục để trở thành người lao động chân chính, có ích cho xã hội. Đây là nhiệm
vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang gắn liền với sự nghiệp của những người làm thầy. Nhưng
tuỳ theo hoàn cảnh khác nhau, nhiệm vụ của người thầy giáo được cụ thể hoá.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, người thầy giáo được coi là chiến sĩ tiên
phong trong phong trào diệt giặc dốt, có nhiệm vụ chống nạn mù chữ, “phấn đấu mở
mang tri thức phổ thông cho đồng bào, để xây đắp nền văn hoá sơ bộ cho dân tộc”(5).
Việc nâng cao dân trí là cơ sở để khẳng định vị thế của dân tộc ta trên trường quốc tế.
“Đồng bào bây giờ phải biết chữ hết để trả lời cho thế giới biết nước ta là một nước văn
minh, ai cũng biết chữ”(6).
Theo Hồ Chí Minh, người thầy làm nhiệm vụ diệt giặc dốt, xoá nạn mù chữ là
gián tiếp chống giặc ngoại xâm, bảo vệ chính quyền cách mạng, góp phần đưa công
cuộc kháng chiến nhanh chóng đi đến thắng lợi. Người giải thích: Dốt nát cũng là kẻ
địch. Địch dốt nát giúp cho địch ngoại xâm. Địch dốt nát tấn công ta về tinh thần, cũng
như địch thực dân tấn công ta bằng vũ lực. Địch thực dân dựa vào địch dốt nát để thi
hành chiến lược ngu dân. Địch dốt nát dựa vào địch thực dân để đưa dân ta vào nơi mù
quáng, do đó “ tiêu diệt được giặc dốt, tức là tiêu diệt được một lực lượng hậu thuẫn của
thực dân”(7).
Có thể nói, ngay từ những ngày đầu của Cách mạng Tháng Tám năm 1945,
người thầy giáo đã đóng góp quan trọng trên nhiều phương diện của đời sống xã hội. Đó
là tham gia vào sự nghiệp giải phóng con người, xây dựng nền văn hóa mới, phục vụ
công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Đánh giá về việc làm và công lao của người thầy
trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh khẳng định: “Một phần tương lai của dân tộc nước nhà
nằm trong sự cố gắng của anh chị em Đồng bào ta ai cũng biết đọc, biết viết. Cái vinh
dự đó thì tượng đồng bia đá nào cũng không bằng”(8), và “công tác bình dân học vụ là
một việc quan trọng ảnh hưởng đến dân tộc, đến xã hội, đến xây dựng Tổ quốc”(9).
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
96
Bước vào thời kỳ hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, phát triển
văn hoá (1958- 1960) đặt ra yêu cầu bức thiết về đội ngũ cán bộ chuyên môn có trình độ
về khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ văn hóa. Người thầy được coi là
khâu then chốt trong quá trình đào tạo để “cung cấp đủ cán bộ cho nông nghiệp, công
nghiệp, cho các ngành kinh tế và văn hoá”(10).
Đảng lãnh đạo nhân dân thực hiện hai chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm thực hiện mục tiêu
chung là thống nhất Tổ quốc, người thầy giáo có nhiệm vụ “đào tạo những công dân tốt,
những cán bộ tốt sau này, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội làm cho miền Bắc vững
mạnh thành hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà”(11). Như vậy, vai trò
và nhiệm vụ của người thầy trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn gắn liền với nhiệm vụ
chính trị, đường lối phát triển giáo dục để đào tạo ra những con người đáp ứng yêu cầu
của cách mạng trong từng giai đoạn. Với ý nghĩa đó, người thầy giáo cũng là người
chiến sĩ cách mạng. Người thầy của chế độ mới khác người thầy dưới chế độ thực dân
phong kiến. Người so sánh “ thầy giáo ngày nay không phải như trước, chỉ biết gõ đầu
trẻ, miễn là có bài cho học trò học, cuối tháng lĩnh lương vào túi. Bây giờ thầy giáo có
trách nhiệm với nhân dân, đào tạo cán bộ ra phục vụ nhân dân”(12).
Vai trò và nhiệm vụ của người thầy giáo còn được thể hiện ở việc xây dựng nội
dung chương trình đào tạo phù hợp. Tức là dạy cái gì? học cái gì? để đào tạo ra thế hệ
kế tục sự nghiệp cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, người thầy giáo xây dựng nội dung
chương trình phải theo các nguyên tắc sau:
Một là, xây dựng nội dung chương trình phải toàn diện, bao gồm các mặt, văn
hóa, chính trị, khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, lao động...
Hai là, các nội dung trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, cấu tạo hợp lý và
phù hợp với từng giai đoạn. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, giáo dục có nhiệm
vụ đào tạo con người phục vụ sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, Người gửi thư cho Hội
nghị giáo dục căn dặn đội ngũ thầy cô giáo "Phải sửa đổi triệt để chương trình giáo dục
cho phù hợp với sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc"(13). Sau hòa bình lập lại, nhân
dân miền Bắc bước vào thời kỳ hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, đấu
tranh thống nhất Tổ quốc, Người nói, giáo dục cần phải chuyển hướng, "nội dung dạy
và học cần liên hệ thiết thực với công tác chung: củng cố miền Bắc, chiếu cố miền Nam,
thi đua yêu nước, khôi phục kinh tế, củng cố quốc phòng...”(14). Như vậy người thầy
giáo phải căn cứ vào điều kiện thực tiễn, nhiệm vụ chính trị, đường lối phát triển kinh
tế - xã hội, mục tiêu giáo dục để biên soạn giáo trình cho phù hợp.
Ba là, Xây dựng nội dung chương trình phải thiết thực, tiếp cận trình độ khoa
học kỹ thuật tiên tiến của thế giới gắn với thực tiễn Việt Nam. Cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước đang trong giai đoạn cam go, khốc liệt, Người viết thư động viên các
thầy cô giáo "phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực
giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra và trong một thời gian không xa, đạt
trình độ cao khoa học và kỹ thuật của thế giới"(15).
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
97
Bốn là, xây dựng nội dung chương trình phải phù hợp với từng cấp học. Người
nêu rõ nội dung đào tạo của từng cấp học:
“ Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận
và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực
giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà. Trung học thì cần đảm bảo cho học trò
những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây
dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết với đời sống thực tế. Tiểu học thì
cần giáo dục cho các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa
học, coi trọng của công”(16).
Hồ Chủ tịch coi nghề giáo là nghề cao quí nhất, được cả xã hội tôn vinh. Người
nói: “người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo – là người vẻ vang nhất. Dù
là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người
thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh. Đây là một điều vẻ vang”(17). Dù công việc
bận rộn, Hồ Chí Minh luôn thăm hỏi ân cần, động viên ngành giáo dục theo tinh thần
"dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua dạy tốt, học tốt". Đây thực sự là nguồn cổ vũ
lớn lao đối với những người làm công tác giáo dục.
2.2. Quan điểm về đạo đức của người thầy giáo
Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao vai trò của đạo đức, coi đạo đức là linh hồn của
người thầy giáo. Người nói: chính trị là đức, chuyên môn là tài, có tài mà không có đức
là hỏng, hay “chính trị là linh hồn, chuyên môn là xác. Có chuyên môn mà không có
chính trị thì chỉ là cái xác không hồn”(18).
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vai trò đạo đức của người thầy, song không tuyệt
đối hoá mặt đạo đức coi nhẹ lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ. Theo Hồ Chí Minh giữa
đức và tài, hồng và chuyên, phẩm chất và năng lực của người thầy giáo có mối quan hệ
hữu cơ và tác động qua lại lẫn nhau. Có đức là để tài năng phát triển đúng hướng, và có
tài thì đức mới phát huy được tác dụng. Người nói: “có tài mà không có đức là hỏng, có
đức mà chữ i tờ thì dạy thế nào”(19), do đó, người thầy giáo: “ phải chú ý cả tài cả
đức”(20). Ở Hồ Chí Minh có quan điểm mới về vị trí đạo đức của người thầy giáo. Đó
là từ đạo đức để đi đến tài năng, phải có chính trị trước rồi có chuyên môn, đức phải có
trước tài.
Theo Hồ Chí Minh, phẩm chất đạo đức quan trọng nhất của người thầy giáo là
phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Phục vụ Tổ quốc gắn liền với phục vụ nhân dân.
Phẩm chất đạo đức này được đề cập trong nhiều bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Nói chuyện với thầy giáo, cô giáo lớp Nghiên cứu chính trị Khoá 1 Trường Đại
học nhân dân, Người căn dặn: “chân lý là cái gì lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân, cái gì
trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân không phải là chân lý. Ra sức phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân tức là phục tùng chân lý”(21).
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, phẩm chất đạo đức phục vụ Tổ quốc của người
thầy giáo có nội dung rất cụ thể. Người thầy giáo phải đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
98
dân lên trước hết, trên hết và bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải thực hiện tốt đường lối
giáo dục của Đảng và Nhà nước, phải kính trọng nhân dân, tin vào sức mạnh của nhân
dân. Người giải thích “Nhân nghĩa là nhân dân. Trong bầu trời không có gì quí bằng
nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(22).
Như vậy, quan niệm đạo đức cũ coi người dân phụ thuộc vào giai cấp cầm quyền, thì
người dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh được đặt ở vị trí trân trọng nhất, quí nhất. Từ sự
tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, Hồ Chí Minh cho rằng sự nghiệp giáo dục đào
tạo nói chung và người thầy giáo nói riêng phải dựa vào dân, gắn bó với quần chúng
nhân dân để được quần chúng nhân dân tin yêu và giúp đỡ.
Theo Hồ Chí Minh, người thầy giáo phải có phẩm chất đạo đức thương yêu học
trò, phải quan tâm săn sóc học trò với một tình cảm sâu nặng như ruột thịt, song cách
thể hiện phải phù hợp với từng lứa tuổi và cấp học. Ở tiểu học, mẫu giáo người thầy
phải dành cho học trò một tình thương đặc biệt như tình cảm của cha mẹ đối với người
con. Người căn dặn: làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được thì trước hết
phải yêu trẻ, hay “phải thương yêu các cháu như con em ruột thịt của mình”(23). Ở cấp
đại học và trung học chuyên nghiệp thì tình thương của người thầy đối với học trò, được
xây dựng trên cơ sở dân chủ, kỷ cương và trách nhiệm. Người nói “Dân chủ nhưng trò
phải kính thầy, thầy phải quí trò chứ không phải là cá đối bằng đầu”(24). Đây là mối
quan hệ tốt đẹp của thầy và trò trong xã hội dân chủ, có sự kế thừa những giá trị đạo lý
tôn sư trọng đạo của dân tộc.
Gắn liền với phẩm chất đạo đức thương yêu học trò là phẩm chất đạo đức “thật
thà yêu nghề” của người thầy. Phẩm chất yêu nghề của người thầy được biểu hiện trước
hết là sự gắn bó thiết tha với nghề nghiệp trong bất cứ hoàn cảnh nào. Nghề giáo là một
nghề lao động khó nhọc, đòi hỏi phải đầu tư nhiều thời gian, công sức, nhưng không
phải là nghề có thu nhập cao. Nếu không thiết tha với nghề nghiệp sẽ bị dao động trước
hoàn cảnh khó khăn. Vì vậy, Hồ Chí Minh thường căn dặn những người làm thầy “nên
yên tâm công tác” không nên “đứng núi này trông núi nọ, muốn thay đổi công tác, kèn
cựa vì địa vị”
Trong môi trường sư phạm, Người hiểu rất rõ giá trị của sự đoàn kết. Đoàn kết
sẽ tạo ra bầu không khí vui vẻ, thoải mái kích thích sự khám phá sáng tạo trong giảng
dạy và nghiên cứu; đồng thời sẽ tạo ra môi trường thi đua lành mạnh, phát huy được khả
năng của cá nhân và sức mạnh của cộng đồng, cống hiến cho sự nghiệp giáo dục. Chính
vì vậy, Người luôn giáo dục tình thần đoàn kết trong đội ngũ thầy giáo, cô giáo và coi
đây là phẩm chất đạo đức quan trọng của người thầy.
“Biên độ” đoàn kết của người thầy trong tư tưởng Hồ Chí Minh là bao gồm tất
cả các mối quan hệ xã hội của người thầy, nhưng trước hết là mối quan hệ giữa đồng
nghiệp với đồng nghiệp, giữa thầy và trò, giữa thế hệ trước và thế hệ sau, giữa cán bộ
giảng dạy và cán bộ phục vụ, giữa thầy giáo và các cấp chính quyền và nhân dân địa
phương. Trong biên độ rộng lớn đó, Người yêu cầu những đảng viên và cán bộ lãnh đạo
trong ngành giáo dục phải gương mẫu về đoàn kết và coi đây là hạt nhân của khối đoàn
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
99
kết trong ngành giáo dục. Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết của người thầy được thể hiện
qua việc trao đổi về chuyên môn, kinh nghiệm giảng dạy, phối hợp trong quản lý, giáo
dục học trò, giúp đỡ nhau trong cuộc sống hàng ngày.
Việc đoàn kết, nhất trí của người thầy cần dựa trên những cơ sở vì mục tiêu
chung, vì sự phát triển của nhà trường và của nền giáo dục nước nhà; đoàn kết phải
thực sự, chân thành “thực sự trăm phần trăm, chứ không phải chỉ là đoàn kết
miệng”(25), “đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ” và mạnh dạn tự phê bình và phê
bình.
2.3. Quan điểm về chuyên môn và phương pháp giảng dạy của người thầy giáo
Theo Hồ Chí Minh, người thầy giáo phải giỏi về chuyên môn và thuần thục về
phương pháp giảng dạy. Cụ thể là:
- Phải giỏi về lĩnh vực mà mình đảm nhận giảng dạy. Tại Hội nghị lần thứ nhất
về công tác huấn luyện và học tập năm 1950, Người nói "Muốn huấn luyện thợ rèn, thợ
nguội thì người huấn luyện phải thạo nghề rèn, nghề nguội"(26).
- Phải được trang bị lý luận giáo dục. Bởi vì "Làm mà không có lý luận thì
không khác gì đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp, vừa hay vấp váp. Có lý luận thì mới
hiểu được mọi việc trong xã hội, trong phong trào để chủ trương cho đúng, làm cho
đúng"(27).
- Phải nắm chắc quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng.
- Ngoài kiến thức chuyên môn, người thầy giáo phải có những kiến thức liên
ngành bổ trợ cho chuyên ngành đảm nhận. Như vậy, người thầy trong tư tưởng Hồ Chí
Minh vừa có biên độ kiến thức rộng, vừa có kiến thức chuyên sâu. Có kiến thức rộng để
chuyên sâu.
Những người làm thầy phải truyền đạt kiến thức của mình cho người khác. Nếu
có chuyên môn giỏi mà phương pháp truyền đạt không tốt thì hiệu quả giảng dạy sẽ bị
hạn chế. Giữa chuyên môn và phương pháp giảng dạy có mối quan hệ mật thiết với
nhau, tác dụng tương hỗ với nhau, trong đó chuyên môn là nội dung. Vì vậy, Hồ Chí
Minh cho rằng, người thầy giáo ngoài kiến thức chuyên môn sâu rộng phải thuần thục
về phương pháp giảng dạy.
Mục đích của phương pháp giảng dạy trong tư tưởng Hồ Chí Minh là "cốt làm
cho người học hiểu thấu vấn đề"(28).
Là người đã từng đứng trên bục giảng đào tạo nhiều thế hệ cán bộ lãnh đạo, Hồ
Chí Minh đã có những chỉ dẫn cụ thể về phương pháp giảng dạy.
- Giảng dạy phải phù hợp với đối tượng, theo khả năng nhận thức của người học.
Theo Hồ Chí Minh, người thầy giáo phải sâu sát, nắm rõ khả năng nhận thức và hoàn
cảnh của từng người học để tìm ra cách thức giảng dạy phù hợp. Có đối tượng phải tốn
nhiều thời giờ, dạy tỷ mỉ thì mới hiểu vấn đề. Có đối tượng “cách dạy bao quát mà vấn
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
100
làm cho người học hiểu thấu được”(29). Như vậy Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm dạy
theo người học, chứ không phải bắt người học phải học theo cách dạy của mình. Muốn
thực hiện được điều đó thì “Bài giảng phải chuẩn bị cho tốt”, kỹ càng, không được qua
loa đại khái.
- Phương pháp giảng dạy là phải xuất phát từ mục tiêu, nội dung đào tạo và tâm
lý lứa tuổi. Người nói phải từ "mục đích của giáo dục, nội dung của giáo dục sau đó tìm
ra cách dạy". Theo phương châm đó, phương pháp dạy học ở cấp đại học là phải dân
chủ trong sinh hoạt học thuật, tăng cường thảo luận để người học chủ động chiếm lĩnh
tri thức, do đó, người thầy giáo “phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học"(30). Phương
pháp giảng dạy ở cấp tiểu học là phải "nhẹ nhàng vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn
khổ của người lớn”(31). Còn các cháu mẫu giáo, cần làm cho chúng vui, trong lúc vui
cũng cần làm cho chúng học và phải làm kiểu mẫu trong mọi việc cho các em bắt
chước.
- Bài giảng phải sinh động, lý luận phải gắn với thực tiễn để người học dễ
hiểu,“mau hiểu, mau nhớ". Vì vậy, Người viết vấn đề gì, nói vấn đề gì, kể cả những vấn
đề lý luận to lớn thì từ người có trình độ học vấn cao đến người dân bình thường đều có
thể hiểu được.
Trong phương pháp giảng dạy, Người đưa ra những điểm nên tránh. Đó là "tránh
lối dạy nhồi sọ, chú ý tránh nói tiếng nước ngoài quá nhiều. Những tiếng ta có thì không
nên dùng tiếng nước ngoài. Và việc hội họp còn quá nhiều hại đến sức khỏe và lãnh phí
thời gian của thầy giáo và học trò" .
- Phải phát động phong trào thi đua trong giảng dạy và học tập. Dạy tốt phải trở
thành một phong trào quần chúng, thì cán bộ giảng dạy có điều kiện hợp tác, học hỏi,
trao đổi kinh nghiệm trong học thuật và giảng dạy. Dưới sự chỉ dẫn của Người, ngành
giáo dục đã phát động phong trào thi đua "hai tốt" (dạy tốt, học tốt). Phong trào "hai tốt"
phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu và đã xuất hiện nhiều điểm hình tiên tiến trong giảng
dạy và học tập đóng góp cho sự phát triển của ngành giáo dục.
3. Kết luận
Như vậy, Hồ Chí Minh có quan niệm rất sâu sắc về vai trò, đạo đức, chuyên
môn và phương pháp giảng dạy của người thầy giáo. Thực hiện tư tưởng của Người,
Đảng và Chính phủ đã xây dựng đội ngũ nhà giáo đông đảo về số lượng và chất lượng
ngày một cao. Nhiều người trong số họ đã trở thành nhà giáo ưu tú, nhà giáo nhân dân,
nhà khoa học, nhà văn hoá, nhà giáo dục tên tuổi. Đội ngũ nhà giáo đã và đang góp
phần quyết định trong việc đào tạo ra những trí thức trẻ, kỹ sư, bác sĩ, cán bộ khoa học
kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế, những người lao động chân chính trong các lĩnh vực
khác nhau, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
101
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] (1),(9),(10),(12),(14),(16),(21),(22),(31), Hồ Chí Minh toàn tập, T 8, Nxb CTQG,
HN, 2000, Tr 184, 207, 138, 225, 65, 81, 216, 276, 81.
[2] (2),(3),(11),(18),(19),(20), Hồ Chí Minh toàn tập, T 9, Sđd, Tr 492, 222,494, 492,
492, 492.
[3] (4),(17),(25), Hồ Chí Minh toàn tập, T 11, Sđd, Tr 331,331,331.
[4] (5),(8), Hồ Chí Minh toàn tập, T 4, Sđd, Tr 220, 220.
[5] (6),(7),(13), Hồ Chí Minh toàn tập, T 5, Sđd, Tr 60, 379, 462.
[6] (15), Hồ Chí Minh toàn tập, T 12, Sđd, Tr 403.
[7] (23),(24), Hồ Chí Minh toàn tập, T 7, Sđd, Tr 562, 456.
[8] (26),(27),(28),(29),(30), Hồ Chí Minh toàn tập, T 6, Sđd, Tr 46,47,47,47, 50.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tu_tuong_ho_chi_minh_ve_nguoi_thay_giao.pdf