Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc và việc vận dụng tư tưởng đó vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay

đại học quốc gia Hà Nội trung tâm đào tạo & bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị š & › Luận văn thạc sĩ tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc và việc vận dụng tư tưởng đó vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam Chuyên ngành: triết học (cndvbc & cndvls) Mã số: 5. 01. 02 Học viên: Nguyễn Quang Trung Người hướng dẫn : ts. Vũ Thiện Vương Hà Nội - 2004 Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài : Mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc (gọi tắt là mối quan hệ giai cấp – dân tộc

doc111 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1445 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc và việc vận dụng tư tưởng đó vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
) là một trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Hồ Chí Minh là người đã vận dụng sáng tạo lý luận ấy vào quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đưa dân tộc Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập và tiến lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Việc nhận thức đúng đắn quan điểm CNMLN và Tư tưởng Hồ Chí Minh (TTHCM) về mối quan hệ giai cấp – dân tộc (QHGC-DT) và vận dụng nó vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay là một đòi hỏi cấp bách. Chính vì vậy tôi chọn đề tài : "Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc và việc vận dụng tư tưởng đó vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay" làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ triết học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu : Xung quanh vấn đề quan điểm CNMLN và TTHCM về mối QHGC-DT đã có nhiều công trình nghiên cứu (xem mục tài liệu tham khảo thứ 11, 13, 17, 36). Tuy nhiên đây lại là vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ thêm. Đặc biệt là việc vận dụng CNMLN và TTHCM về mối QHGC-DT trong điều kiện ở nước ta hiện nay đang là vấn đề chưa được nghiên cứu một cách sâu sắc. Thực tiễn của sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay đòi hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn những nội dung trên. 3. Mục đích và nhiệm vụ : Mục đích của luận văn là góp phần nhận thức TTHCM về mối QHGC-DT trong cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở ấy vận dụng tư tưởng này vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Nhiệm vụ : -Nghiên cứu cơ sở hình thành TTHCM về mối QHGC-DT ở Việt Nam. -Nghiên cứu nội dung cơ bản của TTHCM về mối QHGC-DT trong cách mạng Việt Nam. -Vận dụng TTHCM về mối QHGC-DT vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu : Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã đi đến rất nhiều nơi trên thế giới, biết rất nhiều thứ tiếng khác nhau, am hiểu sâu sắc văn hoá Đông – Tây, Kim – Cổ. Tư tưởng của người về mối QHGC-DT được hình thành và phát triển trong quãng thời gian cũng hết sức phong phú. Nó được ghi nhận, phản ánh qua nhiều nhân chứng, nhiều vật thể mang tính khác nhau. Nhưng trong luận văn này, chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu TTHCM về mối QHGC-DT trong các bài viết, bài nói của Hồ Chí Minh mà thôi. Các bài viết, bài nói này tập trung trong bộ Hồ Chí Minh – Toàn tập, gồm 12 tập, xuất bản lần thứ hai, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội. Trong khuôn khổ của phạm vi như thế, đối tượng nghiên cứu của luận văn này là : -Thực chất của mối QHGC-DT theo quan điểm của CNMLN. -Thực tiễn của mối QHGC-DT trên thế giới và ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. -Những luận điểm cơ bản, thể hiện bản chất của mối QHGC-DT trong TTHCM. -Những phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường mối QHGC-DT ở Việt Nam hiện nay, dưới ánh sáng TTHCM về mối QHGC-DT. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. Trên cơ sở lý luận của CNMLN, TTHCM và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, luận văn sử dụng chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau : -Phương pháp quy nạp và diễn dịch : Trong rất nhiều bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh, chúng tôi thấy rất nhiều bài thể hiện tư tưởng của Người về mối QHGC-DT. Bằng phương pháp quy nạp không đầy đủ, chúng tôi đã khái quát lại thành những luận điểm thể hiện bản chất của TTHCM về mối QHGC-DT. Những luận điểm này trở thành những đề mục lớn cho chương II của luận văn. -Phương pháp chứng minh luận đề : Trong các bài viết, bài nói của Hồ Chí Minh, có nhiều luận điểm nổi tiếng, thể hiện tư tưởng sâu sắc của Người về một vấn đề nào đó. Bằng những dẫn chứng cụ thể chúng tôi chứng minh rằng những luận đề này là kết quả của một quá trình chưng cất lâu dài về một vấn đề nào đó để hình thành nên TTHCM về vấn đề này. -Phương pháp loại suy và so sánh : Lịch sử Việt Nam và thế giới thời cận hiện đại đã từng tồn tại nhiều giai cấp, nhiều trào lưu chính trị tư tưởng khác nhau. Bằng phương pháp loại suy, chúng tôi đã thấy được quá trình tìm kiếm, lựa chọn con đường cách mạng và giai cấp lãnh đạo của Hồ Chí Minh. Đồng thời với sự so sánh các vấn đề "đồng dạng phối cảnh" chúng tôi đã rút ra được bản chất của một số vấn đề của luận văn. Chẳng hạn thực chất của QHGC-DT; QHGC-DT trong TTHCM và trong tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam… phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở các mục (1.2.2.), (2.1.1.4), (2.2.1)… -Phương pháp lịch sử – lôgic : Để bảo đảm cho sự phán đoán, rút ra kết luận tránh được sự sai lầm tối đa, những đoạn trích về Hồ Chí Minh thường được chúng tôi đặt vào hoàn cảnh lịch sử mà Hồ Chí Minh đã nói hay viết. Đó là phương pháp lịch sử. Đồng thời trong mỗi một chương, mỗi một mục… chúng tôi đều cố gắng luận giải vấn đề theo trình tự lôgíc. Hơn nữa để cho luận văn mang tính hệ thống lôgíc chặt chẽ, qua mỗi chương, mỗi mục, chúng tôi đều cố gắng trình bày sự kết nối giữa các chương, mục này theo trình tự lôgíc. Đó là phương pháp tư duy lôgíc. Phương pháp lịch sử – lôgíc được sử dụng trong toàn luận văn. Đồng thời trong mỗi phương pháp nêu trên chúng tôi đều sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp làm công cụ thực hiện. Phân tích và tổng hợp là phương pháp phổ biến cho mọi luận văn về khoa học xã hội nhân văn. 6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn. -Góp phần làm sáng tỏ TTHCM về mối GHGC-DT trong cách mạng Việt Nam. 7. Kết luận của luận văn : Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày trong 3 chương, 7 tiết. Chương I gồm 3 tiết, 2 tiết đầu, (1.1), (1.2), chúng tôi phân tích cơ sở hình thành TTHCM về QHGC-DT. Tiết 1.3 là những phẩm chất vốn có ở Hồ Chí Minh. Đó là yếu tố nội sinh của TTHCM về QHGC-DT. Chương II chính là sự kết hợp giữa tiết (1.3) và 2 tiết đầu của chương I trong thời gian. Kết quả của sự kết hợp này là luận điểm (2.1) và (2.2) của chương. Chương III là sự vận dụng của chương II, gồm luận điểm (2.1) và (2.2) vào điều kiện Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở xem xét thực trạng QHGC-DT ở Việt Nam hiện nay (tiết [3.1]). Chúng tôi đề xuất phương pháp vận dụng các luận điểm (2.1) và (2.2) của Hồ Chí minh. Phương pháp vận dụng ấy là tiết 3.2 của luận văn này. Những chữ viết tắt CNMLN : Chủ nghĩa Mác – Lênin CNTB : Chủ nghĩa tư bản CNXH : Chủ nghĩa xã hội ĐLDT : Độc lập dân tộc LCLN : Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa QHGC-DT : Quan hệ giai cấp – dân tộc. TBCN : Tư bản chủ nghĩa TTHCM : Tư tưởng Hồ Chí Minh TTTT : Trung tâm truyền tin XHCN : Xã hội chủ nghĩa Chương 1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giai cấp - dân tộc 1.1. Cơ sở thực tiễn: 1.1.1. Quan hệ giai cấp - dân tộc trên thế giới từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX: Tử nửa đầu thế kỷ XIX trở về trước, ở châu Âu, sự phát triển của lực lượng sản xuất Tư bản chủ nghĩa (TBCN) đang bị kìm hãm nặng nề bởi tình trạng cát cứ của giai cấp phong kiến quý tộc. Trong tình hình ấy giai cấp tư sản là người đi tiên phong trong phong trào dân tộc.Lúc bấy giờ, lợi ích của giai cấp tư sản và nhân dân lao động trong xã hội châu Âu về cơ bản là thống nhất với nhau. Giai cấp tư sản đã lãnh đạo các tầng lớp nhân dân, tập hợp xung quanh mình lực lượng to lớn xóa bỏ tình trạng cát cứ phong kiến, thành lập các quốc gia - dân tộc. Tư bản chủ nghĩa Quan hệ dân tộc - giai cấp trong điều kiện lịch sử ấy là quan hệ giữa lợi ích của giai cấp tư sản với dân tộc tư sản. Giai cấp tư sản đã đóng vai trò to lớn trong việc thành lập các quốc gia dân tộc- tư bản chủ nghĩa. Do sự phát triển của lực lượng sản xuất (LLSX), giai cấp tư sản không những ra sức bóc lột giai cấp công nhân, nhân dân lao động trong nước mà còn bành trước sự bóc lột ấy ra nước ngoài. Chính phủ tư sản của các nước đế quốc đã dùng vũ lực và sức mạnh đi xâm lược và đặt ách đô hộ lên giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước nhược tiểu. Mâu thuẫn cơ bản của thời đại đế quốc do đó là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động với giai cấp tư sản ở các nước TBCN, và mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc thuộc địa. Từ chỗ thống nhất với lợi ích dân tộc, đi tiên phong trong phong trào dân tộc, giai cấp tư sản từ cuối thế kỷ XIX đã đứng lên trên dân tộc, mượn danh công lý và chính nghĩa của dân tộc tư sản đi xâm lược, đặt ách áp bức lên các dân tộc thuộc địa. Nước nào lạc hậu đều trở thành đối tượng xâm lược của chủ nghĩa đế quốc. Trong quá trình đua tranh xâm lược thuộc địa, các nước đế quốc đã mâu thuẫn và dẫn đến xung đột lẫn nhau.Đỉnh cao của sự xung đột ấy vào đầu thế kỷ XX là chiến tranh thế giới thứ nhất 1914 - 1918. Chiến tranh đã phơi bày tính chất phản động và thối nát của giai cấp tư sản và chủ nghĩa đế quốc. Bản chất kinh tế của giai cấp tư sản và chủ nghĩa đế quốc là thu được lợi nhuận tối đa cho dù có phạm phải tội ác đến mức độ nào. Chủ nghĩa đế quốc đã tìm mọi cách, dùng mọi thủ đoạn để bóc lột và kìm hãm nhân dân lao động của nước thuộc địa. Chúng như đám mây đen khổng lồ bao phủ khắp thế giới. Vấn đề dân tộc - thuộc địa, vấn đề giải phóng các nước bị áp bức thoát khoải sự thống trị của đế quốc, thành lập nhà nước dân tộc độc lập, thực hiện quyền dân tộc tự quyết trở thành vấn đề trung tâm của thời đại. Nhưng những lực lượng cách mạng nào sẽ thực hiện? Giai cấp, tầng lớp tiên phong nào sẽ đủ khả năng lãnh đạo nhân dân thực hiện vấn đề ấy? Để trả lời cho câu hỏi ấy thì phải nhận diện bạn, thù là những ai. Hồ Chí Minh trong quá trình hoạt động tìm đường cứu nước đã nhận thức bản chất của thực tiễn về quan hệ ta - bạn - thù, Về QHGC-DT. Người thấy rằng: "ở đâu CNTB cũng tàn ác vô nhân đạo, ở đâu giai cấp công nhân và nhân dân lao động cũng bị áp bức, lóc lột rất dã man, các dân tộc thuộc địa đều có một kẻ thù không đội trời chung là bọn đế quốc, thực dân”[5-19]. Người nhận rõ "giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước đều là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù"[5-19]. Đó là bản chất của QHGC-DT, quan hệ giữa thống trị và bị trị trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Ba mâu thuẫn cơ bản của thời đại: Giai cấp tư sản mâu thuẫn với giai cấp công nhân Chủ nghĩa đế quốc mâu thuẫn với các dân tộc Chủ nghĩa đế quốc mâu thuẫn với chủ nghĩa đế quốc được biểu hiện về mặt xã hội bằng hiện tượng là đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, chiến tranh đế quốc. Ba trào lưu đấu tranh ấy ngày càng xoắn xuýt lấy nhau, làm tiền đề cho nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Chiến tranh đế quốc, tạo điều kiện cho đấu tranh của giai cấp công nhân tại các nước đế quốc tham chiến có điều kiện phát triển. Đấu tranh giải phóng của các dân tộc thúc đấy sự suy yếu của chủ nghĩa đế quốc và sự trưởng thành lớn mạnh của giai cấp công nhân. Đỉnh cao của ba phong trào đấu tranh ấy vào đầu thế kỷ XX là sự bùng nổ và giành thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Đó là thắng lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga nói riêng và thế giới nói chung; là sự khẳng định vai trò đầu tầu lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại mới. Xét trên một ý nghĩa khái quát, Cách mạng Nga trở thành Trung tâm truyền tin(TTTT) những lý tưởng cách mạng đi khắp thế giới. Nó đã đem những nguyên lý cơ bản của CNMLN, kinh nghiệm Cách mạng Nga vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước của các nước; thúc đẩy nhân dân nơi đây nổi dậy chống đế quốc, phong kiến mạnh mẽ hơn. Từ đó các tổ chức chính trị đầu tiên của giai cấp công nhân ra đời, làm cơ sở tiến tới thành lập các Đảng Cộng sản. Những lý tưởng cách mạng của TTTT trở thành con đường cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước bị áp bức. Chính vì thế, Cách mạng tháng Mười Nga đã khơi nguồn và thúc đẩy sự ra đời của 3 trào lưu cách mạng trong thế kỷ XX và còn có thể kéo dài đến rất nhiều thế kỷ sau. Đó là phong trào giải phóng dân tộc, phong trào xây dựng XHCN ở Liên Xô, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế . Trước hết là phong trào giải phóng dân tộc: Ngày 4/5/1919, một phong trào lớn mạnh chống chủ nghĩa đế quốc đã nổ ra ở Trung Quốc, mở đầu cuộc cách mạng dân chủ mới tiếp diễn trong suốt 30 năm sau đó. Trong những năm 1918 - 1922, nhân dân ấn Độ đã tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng rộng rãi và gian khổ, chống sự thống trị của đế quốc Anh. Tháng 3, 4 năm 1919, nhân dân Triều Tiên khởi nghĩa chống đế quốc Nhật. Năm 1919, nhân dân Apganixtăng thu được thắng lợi trong chiến tranh giải phóng dân tộc, buộc đế quốc Anh phải công nhận nền độc lập của Apganixtăng. Cùng trong năm 1919, nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ đã phát động đấu tranh vũ trang chống bọn đế quốc can thiệp và giữ vững được độc lập. Năm 1921, cách mạng của nhân dân Mông Cổ thắng lợi, nước dân chủ nhân dân đầu tiên xuất hiện ở trung tâm châu á. Năm 1919 và năm 1921, nhân dân Ai Cập đã hai lần vùng lên khởi nghĩa, buộc đế quốc Anh phải thừa nhận về hình thức nền độc lập của Ai Cập. Phong trào giải phóng dân tộc như là cái hiện tượng, cái trực quan sinh động để căn cứ vào đó, Hồ Chí Minh thấy được cái bản chất bên trong là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc; thấy được ý nhĩa khơi nguồn và thúc đẩy của Cách mạng tháng Mười Nga; và một cách gián tiếp thấy được vai trò đầu tàu lịch sử của giai cấp công nhân. Người Viết: "Cách mạng tháng Mười Nga thành công đã đánh tan một bộ phận lực lượng của CNTB và mở đường giải phóng cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới"[1-10-7]. "Cách mạng tháng Mười Nga đã mở đường cho phong trào cách mạng vô sản toàn thế giới tiến lên và đã khuyến khích giúp đỡ những cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc phát triển mạnh và thành công to lớn"[1-9-258]. Thứ hai là phong trào công nhân và cộng sản quốc tế: Sau Cách mạng tháng Mười Nga, hàng loạt Đảng cộng sản và đảng của giai cấp lao động trên thế giới được thành lập. Nếu như năm 1918 trên thế giới có 10 Đảng cộng sản thì cho đến năm 1921 con số đó đã lên tới 48. Sự lan rộng của CNMLN và sự ra đời của nhiều đảng cộng sản như vậy đã tạo cơ sở thực tiễn, tạo địa bàn, tạo môi trường cho sự ra đời của Quốc tế III, quốc tế cộng sản vào năm 1919. Trong thời gian tồn tại của mình (1919 - 1943), Quốc tế III đã cắm nhánh được ở rất nhiều nơi. Nhờ hệ thống chi nhánh này CNMLN và kinh nghiệm Cách mạng Nga truyền đi các nước ngày càng thuận lợi hơn, thường xuyên hơn, sâu rộng hơn. Nhờ đó mà Hồ Chí Minh ở ngay tại Pari thủ đô nước Pháp, một nước đế quốc đã tìm đọc được luận cương của Lê nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, tạo cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ dân tộc - giai cấp. Sự ra đời của quốc tế cộng sản và nhiều đảng cộng sản trên thế giới, xét về bản chất là phản ánh sự phát triển về số lượng của giai cấp công nhân và phong trào công nhân.Đồng thời nó tạo điều kiện thúc đẩy cho giai cấp công nhân và phong trào công nhân ngày càng phát triển sâu rộng trên toàn thế giới. Cao trào cách mạng 1918 - 1923 ở châu Âu dẫn đến sự hình thành các Xô Viết công nông ở một số nước là hành động dũng cảm của giai cấp công nhân. Qua cao trào này, vai trò đầu tàu lịch sử của giai cấp công nhân tiếp tục được khẳng định trên thế giới. Vấn đề dân tộc kể từ đây thuộc về tay giai cấp công nhân. Thứ ba là phong trào xây dựng CNXH ở Liên Xô. Sau Cách mạng tháng Mười Nga và Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Liên Xô bắt tay vào công cuộc xây dựng CNXH. Công cuộc này đã giành được nhiều thành tựu nổi bật thể hiện bản chất nhân đậo, nhân văn và tính ưu việt của chế độ XHCN so với các chế độ xã hội trước đây. Hồ Chí Minh trong thời gian ở Liên Xô đã Nghiên cứu chế độ Xô Viết Nga. Người chú ý nhất đến chế độ xã hội của nước này. “ở đây mọi người ra sức học tập nghiên cứu để tiến bộ - Chính phủ thì giúp đỡ khuyến khich nhân dân học tập. ở đâu cũng thấy trường học… về pháp luật ruộng đất là của nhà nước, nhưng thực tế do nông dân sử dụng. Chính phủ cho những nông trường tập thể mượn máy cày. Trong nông trường tập thể, mọi người làm chung và chia sản phẩm theo công làm của mỗi người… Những người đau ốm được chăm sóc không mất tiền"[16-56,57]. Sự ưu việt của chế độ XHCN ở nước Nga Xô Viết do giai cấp công nhân lãnh đạo là cơ sở để Hồ Chí Minh gắn ĐLDT với CNXH; cơ sở để Người "đi tới xã hội cộng sản" và lựa chọn mô hình CNXH cho Việt Nam sau này. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời của Nhà nước Xô Viết Nga đã làm cho mâu thuẫn cơ bản của thế giới tăng lên. Nếu như trước 1917 có 3 mâu thuẫn cơ bản thì sau 1917 xuất hiện nhiều mâu thuẫn mới là mâu thuẫn giữa nước Nga Xô Viết với chủ nghĩa đế quốc. Bốn mâu thuẫn cơ bản ấy quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau thể hiện về mặt xã hội thành 3 trào lưu cách mạng và chiến tranh đế quốc. Nó vận động đi lên, quy định bản chất và xu hướng của thời đại ngày nay. Hồ Chí Minh trong quá trình tìm đường cứu nước, gặp gỡ với Cách mạng tháng Mười Nga chứng kiến nhiều cuộc chiến tranh đế quốc và ba trào lưu cách mạng này đã nhận diện được bản chất mới của thời đại mới do Cách mạng tháng Mười Nga mở ra. Người viết: “Cách mạng tháng Mười Nga mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên thế giới”. Thời kỳ quá độ ấy diễn ra và được thể hiện ở những nước riêng biệt có thể có nhiều hình thức khác nhau, với những mốc thời điểm khác nhau, nhưng bản chất của nó chỉ có thể là một: Chuyên chính Vô sản. Như thế bản chất của thời đại ngày nay được xác định bởi bản chất giai cấp công nhân - Người đứng ở trung tâm của thời đại và trở thành đầu tầu của lịch sử: Đó là thời đại cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản; thời đại các dân tộc bị áp bức thức tỉnh và đứng lên tự giải phóng mình; thời đại mà vấn đề dân tộc, người đi tiên phong trong phong trào dân tộc thuộc về tay giai cấp công nhân. Bản chất ấy của thời đại, với quan hệ dân tộc - giai cấp như vậy là cơ sở để Hồ Chí Minh xác đinh: giai cấp công nhân là người lãnh đạo cách mạng, “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Nhưng những lý tưởng cách mạng của TTTT cũng chỉ có thể truyền đi và cộng hưởng có hiểu quả ngay sau đó đối với những nước có điều kiện cơ cấu xã hội giai cấp, quan hệ dân tộc - giai cấp cùng tần số với TTTT. Bởi vì trong cùng điều kiện lịch sử nửa đầu thế kỷ XX, cùng thời với Hồ Chí Minh, mà các lãnh tụ Nê Ru (ấn Độ); Xu Cac Nô (Inđônêxia) lại lựa chọn con đường cách mạng tư sản? Do giai cấp tư sản lãnh đạo? Họ không lựa chọn con đường cách mạng vô sản do giai cấp công nhân lãnh đạo như Hồ Chí Minh? Sở dĩ như vậy là vì tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ dân tộc - giai cấp được hình thành trong điều kiện cơ cấu xã hội giai cấp, quan hệ dân tộc - giai cấp ở Việt Nam. Những điều kiện này có cùng tần số và do đó có thể cộng hưởng được với những lý tưởng cách mạng củaTTTT. 1.1.2. Quan hệ giai cấp - dân tộc từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX ở Việt Nam: Cơ cấu xã hội giai cấp Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược là một xã hội phong kiến đang suy tàn trong đó có hai giai cấp đối kháng chủ yếu. Một bên là giai cấp địa chủ mà đại diện là vua quan nhà Nguyễn lạc hậu và cực kỳ phản động. Một bên là giai cấp nông dân nghèo khổ, bị áp bức bóc lột thậm tệ. Chính sách quốc gia dân tộc của triều đình nhà Nguyễn là một chính sách cực kỳ bảo thủ, phản động. Về đối nội, triều Nguyễn tăng cường bóc lột, vơ vét nặng nề và đàn áp khốc liệt đối với nhân dân; cự tuyệt mọi đề án của cải cách. Còn về đối ngoại thì thi hành chính sách bế quan toả cảng. Những thành quả và lợi ích thu được từ các chủ trương, chính sách của triều đình đều rơi vào trong giai cấp địa chủ, đội ngũ quan lại, cường hào. Càng về sau triều Nguyễn càng mất hết khả năng mở mang kinh tế và phát huy tiềm lực nhân dân trong xây dựng đất nước. Do chính sách quốc gia dân tộc như vậy, một chính sách hủy hoại sinh lực của dân tộc và nhân dân, triều đình nhà Nguyễn, dựa trên nền tảng giai cấp địa chủ, cường hào, bị nhân dân rất rất căm ghét. Mâu thuẫn giữa giai cấp địa chủ và nông dân là mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội Việt Nam. Biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn ấy là các cuộc nổi dậy của nông dân chống lại địa chủ, cường hào và triều Nguyễn. Thời Gia Long có 73 cuộc, thời Minh Mạng có 234 cuộc, thời Thiện Trị có 58 cuộc. Khoảng cách giữa nhân dân và triều đình ngày càng phình to ra, khối đoàn kết dân tộc vô cùng lỏng lẻo, suy yếu. Triều Nguyễn lúc bấy giờ chỉ là cái u ăn bám của xã hội. Nó chỉ đại diện cho chính bản thân nó, không còn là kẻ đại diện cho xã hội và dân tộc. Đây là một triều đại mà, nói như Phan Bội Châu năm 1906, "Vua không biết tý gì về dân, quan cũng thế. Dân chỉ biết đến dân, họ coi thường vua, quan"[18-152]. Trong kết cấu xã hội giai cấp như vậy, một kết cấu rệu rã, lỏng lẻo, xộc xệch, thì quan hệ giữa giai cấp địa chủ và các tầng lớp nhân dân (chủ yếu là nông dân), quan hệ giữa triều đình và nhân dân, tóm lại là quan hệ dân tộc - giai cấp ở Việt Nam lúc này đang khủng hoảng. Giai cấp địa chủ, quan lại cường hào đã mất hết tính tiên phong của nó trong việc đại diện cho xu thế đi lên của dân tộc mà trước đây nó đã từng đảm nhiệm. Hậu quả của sự khủng hoảng ấy là nước Việt Nam mất độc lập (1884) sau 27 năm kể từ khi thực dân Pháp xâm lược 1858. Dưới chính sách cai trị tàn bạo và khai thác thuộc địa vắt kiệt của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam tiếp tục phân hóa sâu hơn. Qua hai lần khai thác của Pháp, xã hội Việt Nam xuất hiện thêm 3 giai cấp, tầng lớp xã hội mới: Tư sản, tiểu tư sản và công nhân. Tùy theo địa vị kinh tế - xã hội, đặc điểm truyền thống mà mỗi một giai cấp, tầng lớp có thái độ chính trị, vai trò, vị trí nhất định trong khuynh hướng dân tộc, phong trào dân tộc. Trước hết là giai cấp địa chủ, nền tảng của triều đình nhà Nguyễn, kẻ dâng nộp Tổ quốc ta cho thực dân Pháp, kẻ đặt lợi ích giai cấp họ lên trên lợi ích dân tộc, đã được thực dân Pháp sử dụng làm công cụ tay sai. Được sự giúp đỡ và dung dưỡng của Pháp, địa chủ ngày càng có ưu thế về kinh tế và chính trị. Họ cũng có nhiều loại khác nhau: Địa chủ Pháp, địa chủ Nhà Chung, địa chủ quan lại, địa chủ thường, địa chủ kiêm công thương. Họ tìm mọi cách chiếm đoạt ruộng đất của nông dân. Ruộng đất ngày càng tập trung vào tay họ, ruộng công ngày càng ít đi. Đồng thời do nắm các địa vị chủ chốt trong bộ máy thống trị của thôn xã, giai cấp địa chủ ở khu vực này, mà đại diện là bọn tổng lý, kỳ hào đã tìm đủ mọi cách để chiếm đoạt hoặc lũng đoạn ruộng công. Cho đến năm 1930, ruộng công trong cả nước chỉ còn lại 10% diện tích canh tác. Tính chung trong cả nước, giai cấp địa chủ chỉ chiếm 9% tổng số chủ ruộng, nhưng lại tập trung trong tay trên 50% diện tích canh tác. Được thực dân Pháp giúp đỡ, ách áp bức bóc lột của địa chủ đối với nông dân không từ một thủ đoạn nào: Địa tô (tô điền, tô hiện vật, tô lao dịch…), cho vay nặng lãi. Mức độ của địa tô chiếm từ 50 - 75%, thậm chí 80% hoa lợi thu được. Sự cấu kết giữa đế quốc (thực dân Pháp) với phong kiến (địa chủ) là đặc trưng nổi bật của chế độ thuộc địa. Địa chủ phong kiến là tay sai của đế quốc, là kẻ thù không đội trời chung của nông dân. Do đó mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ là mẫu thuẫn vốn có từ trước đến nay càng trở nên sâu sắc hơn, và là mẫu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam. Mặt đối lập của giai cấp địa chủ là giai cấp nông dân. ách áp bức bóc lột nặng nề của đế quốc và phong kiến đã đưa đến sự phá sản và bần cùng hóa của giai cấp nông dân Việt Nam. Kinh tế tiểu nông lạc hậu, kết hợp với tiểu thủ công nghiệp có tính chất nghề phụ gia đình của nông dân là điều kiện thuận lợi cho sự vơ vét sưu thuế, bóc lột nhân công của thực dân phong kiến. Nó đưa đến sự phân hóa không thế tránh khỏi ở nông thôn. Nông dân phân hóa theo thời gian thành cố nông, bần nông, trung nông, phú nông. Việc mở rộng đồn điền, hầm mỏ và xí nghiệp của tư bản Pháp luôn luôn đi kèm với việc cướp đoạt, lấn chiếm ruộng đất của nông dân. "Ruộng đất bình quân của những hộ tiểu nông - cả bần nông và trung nông ở Việt Nam thuộc vào loại thấp nhất của thế giới” [37-2-179]. Bên cạnh đó chính sách độc quyền kinh tế, hệ thống thuế khóa nặng nề, sưu cao của chế độ thực dân, chế độ bóc lột địa tô cao và cho vay nặng lãi của giai cấp địa chủ đều trút tai họa lên vai, lên đầu, lên cổ nông dân Việt Nam, chiếm hơn 90% dân số cả nước. Ngoài thuế đinh và thuế điền, người nông dân còn phải đóng hàng chục thứ thuế ngoại thu và thuế bất thường của tổng, huyện, tỉnh. Sau khi nộp các khoản địa tô cho địa chủ, tá điền chẳng còn được mấy hạt thóc trong nhà. "treo hái là treo niêu". Đã thế chính sách độc quyền thương mại, độc chiếm thị trường, tăng giá hàng công nghiệp, hạ giá hàng nông sản của thực dân Pháp đã làm cho hàng loạt ngành thủ công ở nông thôn bị bóp chết. Lợi dụng đục nước để béo cò, bộ phận tư sản mại bản và tư sản hoa kiều cũng tăng giá bán và hạ giá mua của nông dân, dồn họ đến tận cùng của bể khổ. Tình trạng thất nghiệp, nửa thất nghiệp, nạn nhân khẩu thừa ngày càng tăng ở nông thôn. Nhưng nền công nghiệp yếu ớt, què quặt ở thuộc địa không thu dùng được hết. Một bộ phận được thu dùng đã không chịu được cuộc sống bi thảm ở đồn điền đành phải quay về địa phương sống vất vưởng với vài thước đất ruộng công của làng, hoặc kiếm ăn bằng cách cày thuê cuốc mướn. Tính chất tù đọng và nạn nhân khẩu thừa trong nông thôn Việt Nam ngày càng trầm trọng. Sưu thuế, địa tô, cho vay nặng lãi, mua bán ép giá, cướp đoạt ruộng đất đã dồn nông dân Việt Nam lâm vào một cổ ba tròng, chịu 3 tầng áp bức bóc lột nặng nề của đế quốc, phong kiến, tư sản. Tất cả các tầng lớp ăn bám trong xã hội xông vào xâu xé nông dân. Nông dân có 3 kẻ thù, hình thành 3 mâu thuẫn bộ phận: Nông dân mâu thuẫn với địa chủ Nông dân mâu thuẫn với đế quốc Nông dân mâu thuẫn với tư sản Nhưng địa vị kinh tế xã hội của nông dân là người tư hữu nhỏ, lực lượng sản xuất phân tán, nên nông dân không đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ của xã hội, nông dân không có sự cố kết chặt chẽ cả về kinh tế lẫn tư tưởng và tổ chức nên không có hệ tư tưởng riêng. Chính vì thế dù bị áp bức bóc lột nặng nề nông dân vẫn không có khả năng tự giải phóng mình, càng không thể là giai cấp lãnh đạo, đi tiên phong trong phong trào dân tộc. Tuy nhiên họ là thành phần tập trung nhiều truyền thống lịch sử dân tộc, chiếm đa số trong dân cư, nên là lực lượng cách mạng rất quan trọng. Cùng với sự phát triển của đô thị, tầng lớp tiểu tư sản cũng từng bước hình thành và ngày càng đông. Họ bao gồm: Trí thức (học sinh, sinh viên, công chức, giáo viên …), tiểu thưởng, tiểu chủ, thợ thủ công, dân nghèo thành thị, những người làm các nghề tự do… Họ không phải là giai cấp mà là một tầng lớp xã hội. Đời sống của tiểu tư sản trong những năm 20 của thế kỷ XX ngày một khó khăn do sưu thuế chồng chất và giá cả đắt đỏ. Chính sách độc quyền kinh tế của Pháp đã làm phá sản giới thợ thủ công. Chính sách đối xử phân biệt và văn hóa giáo dục ngu dân đã làm cho tầng lớp trí thức thấy chua chát, bị miệt thị. Họ cảm thấy nền văn hóa dân tộc bị bọn thống trị nước ngoài coi rẻ và chà đạp. Cảnh phồn hoa bề ngoài của đô thị không che lấp được nỗi khổ của họ, những người dân mất nước không có quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, học hành, đi lại và nhiều quyền tự do sơ đẳng khác. Trí thức có thể bị đuổi học, đuổi việc, giam cầm; tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công có thể bị phá sản, bị thất nghiệp do thuế má nặng nề của đế quốc và sự cạnh tranh của tư sản. Bị áp bức về chính trị, chèn ép về chuyên môn, bóc lột về kinh tế nên tiểu tư sản có tinh thần yêu nước, căm thù đế quốc khá cao. Xã hội Việt Nam trong quan hệ với tiểu tư sản có 2 mâu thuẫn: Tiểu tư sản mâu thuẫn với đế quốc Tiểu tư sản mâu thuẫn với địa chủ. Những người tiểu tư sản trí thức thường đóng vai trò truyền bá những tư tưởng tiến bộ vào nhân dân và là ngòi pháo nổ cho phong trào cách mạng ở các đô thị. Nhưng thành phần của tiểu tư sản không thuần nhất, địa vị kinh tế - xã hội không ổn định, đã làm cho họ có lập trường chính trị không vững vàng. Họ thường hay dao động nghiêng ngả trước sự đàn áp của thực dân Pháp. Họ hăng hái tham gia cách mạng nhưng không có can đảm. Họ dám nghĩ mà không dám làm. Thành phần và địa vị kinh tế - xã hội của tiểu tư sản cho thấy rằng, họ không địa diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ của xã hội, không có hệ tư tưởng chính trị riêng nên không thể là người đại diện cho xu thế tiến hóa của dân tôc, không thể đi tiên phong trong phong trào chống đế quốc và phong kiến. Họ chỉ có thể đi theo cách mạng với tư cách như là một lực lượng cách mạng khá quan trọng mà thôi. Đô thị và công nghiệp phát triển thì giai cấp tư sản theo đó cũng từng bước xuất hiện. Họ xuất thân từ địa chủ, quan lại, tiểu tư sản… Chính sách bảo thủ, phản động về kinh tế, không chủ trương phát triển công nghiệp ở thuộc địa và chính sách chuyên chế về chính trị của thực dân Pháp đã làm cho giai cấp tư sản Việt Nam ra đời khá muộn, què quặt. Chỉ sau chiến tranh thế giới thứ nhất, gắn liền với công tác thuộc địa thứ hai của Pháp, giai cấp tư sản Việt Nam mới hình thành. Họ có mặt ở hầu hết khắp các ngành (Bông vải sợi, nhuộm, đồ gốm, máy xay, máy in, làm sơn, ép dầu, làm đường, xà phòng, nước mắm, sửa chữa ô tô…). Sau thời gian phát triển, giai cấp tư sản phân hóa thành 2 bộ phận: Tư sản mại bản và tư sản dân tộc. Tư sản mại bản có quyền lợi gắn liền với quyền lợi kinh tế của tư bản lũng đoạn Pháp. Họ là những chủ thầu khoán lớn, những chủ hãng đại lý lớn, được thực dân Pháp cho hưởng một đặc quyền nào đó, hoặc có chung một phần hùn vốn với thực dân Pháp. Chính vì thế bộ phận tư sản này cực kỳ phản động. Họ là tay sai và đồng lõa của thực dân Pháp. Họ là kẻ thù của nhân dân, và đương nhiên không thể là người lãnh đạo dân tộc. Tư sản dân tộc bị các công ty tư bản độc quyền của Pháp chèn ép, kìm hãm gắt gao, họ chỉ nắm được những ngành phụ thuộc và phần đông không thoát khỏi con đường tư sản kiêm địa chủ. Họ còn bị thực dân Pháp ngăn cấm hoạt động chính trị. Xét một cách đại thể, địa vị kinh tế - xã hội của tư sản dân tộc rất yếu. Đứng bên cạnh thực dân Pháp, tư sản dân tộc Việt Nam như một trẻ em suy dinh dưỡng đứng bên cạnh một gã đàn ông to béo. Địa vị kinh tế - xã hội ấy và chính sách mua chuộc của Pháp làm cho tư sản dân tộc có bản chất hai mặt. Một mặt do có mâu thuẫn nhất định về kinh tế và chính trị với thực dân Pháp’ do cơ sở kinh tế yếu kém và bị lệ thuộc tư bản nước ngoài nên họ có tinh thần dân tộc dân chủ khá cao. Mặt khác, do bản chất giai cấp và ít nhiều dính líu với phong kiến (tư sản kiêm địa chủ), lại được thực dân ._.Pháp mua chuộc dụ dỗ, nên họ thường đi vào con đường thỏa hiệp với đế quốc và phong kiến để bảo vệ quyền lợi của họ. Kinh tế yếu nên tinh thần của tư sản dân tộc rất bạc nhược, không tạo ra được hệ tư tưởng chính trị độc lập. Chính vì vậy, trong điều kiện chèn ép nặng nề của thực dân Pháp, tư sản dân tộc Việt Nam phải khom lưng mà đi nên họ không đủ sức chi phối các giai cấp tầng lớp trong xã hội. Chủ nghĩa tư bản do đó cũng không thể phát triển được ở Việt Nam. Do đó tư sản dân tộc không thể là người đi tiên phong trong phong trào dân tộc. Xã hội Việt Nam trong quan hệ với tư sản dân tộc có mâu thuẫn là: Đế quốc mâu thuẫn với Tư sản dân tộc Sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào Việt Nam và sự phát triển của công thương nghiệp thuộc địa đã dẫn đến sự ra đời của giai cấp công nhân. Là sản phẩm của quá trình xâm lược và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản. Về thành phần, công nhân xuất thân từ những người thợ thủ công, những người tiểu thủ công nghiệp phá sản, nhưng chủ yếu là từ những người nông dân bị bần cùng hóa. Song công nghiệp Việt Nam chưa phát triển cho nên công nhân chưa thoát ly hoàn toàn khỏi nông dân. Họ là những công nhân theo mùa vụ, theo hợp đồng với chủ xưởng. Khi hết mùa vụ họ có thể trở lại địa phương, với gia đình và trở về số phận của nông dân. Điều đó làm cho công nhân và nông dân Việt Nam dễ gần gũi và thông cảm sâu sắc về những nỗi đau khổ cùng cực của nhau. Do đó công nhân là bạn đồng minh tự nhiên của nông dân. Đó là điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng khối liên minh công nông. Đế quốc, phong kiến và tư sản ra sức bóc lột công nhân vô cùng thậm tệ theo 3 thủ đoạn: Chế độ lao động tự do, chế độ lao động theo giao kèo, chế độ lao động cưỡng bức. Bọn tư sản thực dân thẳng tay đàn áp bóc lột công nhân, tước đoạt mọi quyền dân chủ, quyền làm người của họ. Chúng là kẻ thù cướp đoạt ruộng đất của nông dân, thợ thủ công, rồi dồn họ vào đội quân công nghiệp để rút tỉa xương thịt của họ. Đế quốc vì vậy là kẻ thù của giai cấp công nhân đồng thời cũng là kẻ thù của toàn thể nhân dân Việt Nam. Địa chủ phong kiến đồng lõa với đế quốc thi hành chế độ lao dịch để cung cấp và trói buộc công nhân vào đội quân công nghiệp, đồng thời bắt công nhân phải nộp sưu, nộp thuế để nuôi béo chúng. Giai cấp tư sản bản xứ, đặc biệt là tư sản mại bản đã kết hợp lối bóc lột tư bản chủ nghĩa hiện đại với lối bóc lột hết sức ty tiện, tàn ác thời kỳ tiền tư bản chủ nghĩa để hút máu, lột da công nhân. Đế quốc, phong kiến, tư bản là 3 kẻ thù, 3 tầng áp bức bóc lột đối với công nhân. Trong quan hệ với công nhân, xã hội Việt Nam có ba mâu thuẫn. Công nhân mâu thuẫn với đế quốc Công nhân mâu thuẫn với phong kiến Công nhân mâu thuẫn với tư sản bản xứ. Chính sách bóc lột ấy của đế quốc tự bản thân nó làm cho giai cấp công nhân có tinh thần đoàn kết cao. Trong hàng ngũ công nhân Việt Nam không có công nhân quý tộc. Điều kiện làm việc tập trung càng làm cho tinh thần đoàn kết ấy ngày càng được củng cố. Giai cấp công nhân Việt Nam ngoài những đặc điểm chung của giai cấp công nhân thế giới còn có những đặc điểm riêng của mình (ra đời trước giai cấp tư sản, quan hệ đồng minh tự nhiên với nông dân, chịu 3 tầng áp bức bóc lột, nội bộ đoàn kết). Vì vậy kẻ thù giai cấp của họ cũng là kẻ thù của dân tộc. Đối với giai cấp công nhân, kẻ thù giai cấp và kẻ thù dân tộc là một. Do thành phần xuất thân, công nhân Việt Nam đã kế thừa được truyền thống bất khuất của dân tộc. Nằm trong mạch máu kinh tế của xã hội, vừa mới ra đời, tuy số lượng còn ít, nhưng những đặc điểm chung và riêng của công nhân Việt Nam cho thấy rằng, họ vừa là người lao động đau khổ, vừa là người tiên tiến cho nên công nhân là người đại biểu xuất sắc nhất cho tất cả các giai cấp tầng lớp bị áp bức ở Việt Nam. Họ có đầy đủ khả năng để tập hợp và lôi cuốn các tầng lớp nhân dân vào phong trào chống đế quốc và phong kiến, giành độc lập tự do. Song khi chưa có lý luận tiên phong và đảng Cộng sản, họ vẫn chưa thể biến khả năng của mình thành hiện thực. Nhìn chung, xã hội Việt Nam dưới ách cai trị của thực dân Pháp đã phân hóa thành 5 giai cấp tầng lớp khác nhau: Địa chủ, nông dân, tiểu tư sản, tư sản, công nhân. Và cơ cấu xã hội giai cấp, quan hệ giai cấp có 9 mâu thuẫn bộ phận, chồng chéo lên nhau: Đế quốc mâu thuẫn với Nông dân Phong kiến mâu thuẫn với Nông dân Tư sản mâu thuẫn với Nông dân Đế quốc mâu thuẫn với Tiểu tư sản Phong kiến mâu thuẫn với Tiểu tư sản Đế quốc mâu thuẫn với Tư sản dân tộc Đế quốc mâu thuẫn với Công nhân Phong kiến mâu thuẫn với Công nhân Tư sản mâu thuẫn với Công nhân Chín mâu thuẫn bộ phận ấy có thể quy về thành 2 mâu thuẫn cơ bản: - Mâu thuẫn dân tộc: Đế quốc mâu thuẫn với Công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc. - Mâu thuẫn giai cấp: Địa chủ mâu thuẫn với Công nhân, nông dân. Trong 2 mâu thuẫn ấy thì mâu thuẫn dân tộc là mâu thuẫn chủ yếu. Có áp bức thì có đấu tranh, có mâu thuẫn thì sẽ có sự bùng nổ của mâu thuẫn. Nhưng trong 5 giai cấp tầng lớp ấy chưa có giai cấp nào về mặt hiện thực, thực tiễn đủ sức lãnh đạo, đi tiên phong trong phong trào dân tộc, dân chủ. Còn giai cấp công nhân thì đang trong quá trình lớn lên, chưa có hệ tư tưởng riêng. Xã hội Việt Nam, dân tộc Việt Nam với một kết cấu giai cấp như vậy đang vận động xộc xệch. Nó như một tổ ong bị chiếc gậy tàn bạo của thực dân Pháp đập vỡ. Ong chúa bị đánh chết, đàn ong tản ra nhiều phía, mất phương hướng. Nhìn chung, dưới ánh thống trị của thực dân pháp, xã hội Việt Nam nổi lên 9 mẫu thuẫn, 5 giai cấp. Đó là một xã hội có kết cấu lỏng lẻo, xộc xệch và mất hết sinh lực. Chính vì thế xã hội Việt Nam, dân tộc Việt Nam mất phương hướng vận động. Đó chính là sự khủng hoảng trầm trọng của một kết cấu xã hội giai cấp trong thời kỳ chưa xuất hiện vai trò đầu tầu của giai cấp tiên phong, khủng hoảng trầm trọng của quan hệ dân tộc - giai cấp. Thực chất là sự khủng hoảng trầm trọng về vai trò lãnh đạo của một giai cấp đối với xã hội. Biểu hiện về mặt hiện tượng xã hội của sự khủng hoảng ấy là kết cục thất bại liên tiếp của các phong trào dân tộc, dân chủ theo ý thức hệ phong kiến và ý thức hệ tư sản. Nhận thức của con người là đi từ cái hiện tượng đến bản chất, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Hồ Chí Minh, trên cơ sở nghiên cứu các phong trào này, dựa vào công cụ lý luận Mác Lê nin, đã rút ra được kết cấu xã hội giai cấp, quan hệ dân tộc - giai cấp ở Việt Nam (Xem chương II, mục 2.1.1.4) do đó mà tư tưởng của Người về quan hệ dân tộc - giai cấp được hình thành . Nội dung chính của tư tưởng này : Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân do giai cấp công nhân lãnh đạo. 1.2. Cơ sở lý luận 1.2.1. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống. Yêu nước là giá trị tinh thần của con người và cộng đồng người được hình thành trong quá trình đấu tranh dựng nước, giữ nước và xây dựng đất nước. Đúng như Lê nin cho rằng, chủ nghĩa yêu nước "là một trong những tình cảm sâu sắc nhất, đã được củng cố qua hàng nghìn năm tồn tại của các Tổ quốc biệt lập"[3-37-226]. Từ điển Triết học, do Nhà xuất bản tiến bộ Matxcơva, ấn hành năm 1975, trang 712, viết về chủ nghĩa yêu nước là: "Chủ nghĩa yêu nước, nguyên tắc đạo đức chính trị, một tình cảm xã hội mà nội dung là tình yêu và lòng trung thành với tổ quốc, là lòng tự hào về quá khứ và hiện tại của tổ quốc, ý chí bảo vệ những lợi ích của tổ quốc". Tình yêu và lòng trung thành với tổ quốc có thể nói là những nội dung chính của chủ nghĩa yêu nước. Đó là giá trị tinh thần phổ quát của nhân loại. Nhưng tổ quốc có môi trường kinh tế - xã hội, chính trị thay đổi theo lịch sử, cho nên chủ nghĩa yêu nước ở những thời đại khác nhau, mang tính lịch sử và giai cấp khác nhau. Nó là bộ phận không thể tách rời của ý thức xã hội. Trong xã hội có giai cấp, nội dung của chủ nghĩa yêu nước trở nên có tính giai cấp, vì mỗi giai cấp biểu hiện thái độ của mình đối với tổ quốc thông qua những lợi ích riêng vốn có của giai cấp đó. Lịch sử Việt Nam từ thuở các vua Hùng dựng nước cho đến cuối thế kỷ XIX khi bị thực dân Pháp xâm lược, về cơ bản là lịch sử chống ngoại xâm. Trong chiều dài lịch sử ấy, chưa bao giờ dân tộc Việt Nam sống nổi trong độc lập, hòa bình quá 300 năm. Thế nhưng dân tộc Việt Nam vẫn trường tồn! Theo các nhà nghiên cứu thế giới (các nhà Việt Nam học), thì lịch sử Việt Nam có 3 sự kiện nổi bật. Thứ nhất, nằm dưới ách thống trị suốt hàng nghìn năm của chế độ phong kiến phương Bắc mà không bị đồng hóa. Thứ hai, nhà nước phong kiến Việt Nam vừa mới được củng cố đã 3 lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên - Mông, một thế lực bành trướng mạnh nhất lúc bấy giờ. Thứ ba, một đất nước vừa mới giành được độc lập với điểm xuất phát ban đầu rất thấp (trên nhiều lĩnh vực), đã làm một cuộc chiến tranh 30 năm (1945-1975), đánh bại 2 đế quốc thuộc vào loại mạnh nhất thế giới trong thế kỷ XX. Cái gì đã làm cho dân tộc Việt Nam có một sức sống trường tồn và mãnh liệt như vậy? Trong khi đó đã có nhiều dân tộc bị đồng hóa, bị sáp nhập vào các nước đế quốc? Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Tồn tại xã hội nào thì quyết định ý thức xã hội ấy. Trong các cuộc kháng chiến, chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam trước đây, lợi ích của giai cấp nông dân và giai cấp địa chủ; lợi ích của nhân dân lao động và của triều đình; lợi ích của nhà Vua và của thường dân về cơ bản thống nhất với nhau trong lợi ích chung của cả dân tộc. Đất nước mất độc lập thì không có ai được tự do (trừ những kẻ làm tay sai cho giặc ngoại xâm). Chính vì vậy dân tộc Việt Nam đất không rộng, người không đông, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, để chống lại các thế lực phương Bắc mạnh hơn gấp nhiều lần thì không có vũ khí nào khác hơn ngoài đoàn kết. Có đoàn kết mới làm nên sức mạnh, đoàn kết trở thành nhu cầu tất yếu của dân tộc Việt Nam. Nó đi vào tâm thức của mỗi một người dân mất nước hình thành nên chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước ấy được hình thành trong kháng chiến chống ngoại xâm, có thể khái quát thành những nội dung sau: - Yêu nước là ý thức khẳng định cương vực chủ quyền quốc gia, quyền bất khả xâm phạm của dân tộc: "Sông núi nước Nam Vua Nam ở Rành rành định phận tại sách trời Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời". (Lý Thường Kiệt) - Yêu nước là ý thức đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc nhằm tạo nên sức mạnh cho công cuộc kháng chiến: "Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, nước nhà góp sức nên sức giặc tự bị bắt… có thu được quân lính một lòng như cha với con thì mới dùng được, vả lại khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách để giữ nước" [38-186]. Hoặc là: Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng Bầu ơi thương lấy bí cùng Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. (ca dao) - Yêu nước là ý thức bảo tồn củng cố bản sắc dân tộc, không để bị sáp nhập đồng hóa bởi bất cứ thế lực ngoại xâm nào, cho dù đó là thế lực mạnh nhất thế giới, với một nền văn hóa cao hơn văn hóa Việt Nam: Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có (Nguyễn Trái - Bình Ngô Đại Cáo) - Yêu nước là ý chí sắt đá, quyết tâm cao độ nhằm đánh đuổi ngoại xâm, giữ gìn phong tục, khẳng định chủ quyền quốc gia dân tộc: "Đánh cho để dài tóc Đánh cho để đen răng Đánh cho nó chích luân bất phản Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn Đánh cho sử tri nam quốc anh hùng chi hữu chủ"[37-1-353] Chính chủ nghĩa yêu nước truyền thống ấy là động lực tinh thần thôi thúc cả dân tộc Việt Nam đứng lên chiến đấu bảo vệ giang sơn đất nước. Nó đã hun đúc lên các vị anh hùng dân tộc nổi tiếng. Nó đã tạo nên sức sống trường tồn cho dân tộc Việt Nam. Chính vì thế nó đã làm nên 3 sự kiện nổi bật như các nhà nghiên cứu thế giới đã nhận xét ở trên. Song chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống (mà người đại diện là giai cấp địa chủ và các triều đại phong kiến) mang tính giai cấp, tuy rất mờ nhạt. Yêu nước là trung quân (Sông núi nước Nam Vua Nam ở); là sự khẳng định và thừa nhận thể chế quân chủ (Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập;Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương) Cho đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã tỏ ra bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử. ý thức xã hội có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội. Trên một khía cạnh nhất định, sự độc lập tương đối ấy thể hiện sự bảo thủ lạc hậu của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Tồn tại xã hội ở Việt Nam vào thời kỳ này với một kết cấu xã hội giai cấp, quan hệ dân tộc - giai cấp như vậy (xem mục 1.1.2) thì chủ nghĩa yêu nước truyền thống, trung quân ái quốc không còn phù hợp. Nó đã bị tồn tại xã hội vượt qua. Sự thất bại của các phong trào dân tộc, dân chủ (phong trào Cần Vương, phong trào Duy Tân, phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục) là sự thất bại,(xét về mặt ý thức xã hội), của chủ nghĩa yêu nước truyền thống trước các thế lực ngoại xâm mới với một ý thức hệ mới, ý thức hệ đế quốc chủ nghĩa. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống, với những đặc trưng như trên đã bao phủ và in dấu đậm nét lên tâm hồn Hồ Chí Minh, góp phần hình thành tư tưởng của Người về QHGC-DT. Sự hình thành tư tưởng này ở Hồ Chí Minh được nhận biết như thế nào chúng ta hãy xem mục 2.1.1.2 1.2.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về quan hệ giai cấp- dân tộc: 1.2.2.1. giai cấp và Dân tộc: Chủ nghĩa Mác cho rằng: nguồn gốc sâu xa của sự ra đời của các giai cấp trong xã hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất, còn nguồn gốc trực tiếp của nó là chế độ tư hữu. Sự xuất hiện của chế độ tư hữu cũng là một tất yếu khách quan do mâu thuẫn giữa nhu cầu vật chất mỗi khi đã có của dư tương đối với khả năng sản xuất cuối thời đại công xã nguyên thủy không đủ đáp ứng nhu cầu ấy cho mọi thành viên của xã hội. Lực lượng sản xuất phát triển từng bước, năng xuất lao động tăng lên, ở con người xuất hiện khả năng lao động mới và nhu cầu vật chất mới. Từng cá nhân dân dần thấy rõ khả năng lao động của mình. Sự phân công lao động xuất hiện và lao động theo gia đình tỏ ra có hiệu quả hơn trước, của cải tăng lên và của dư xuất hiện. Mỗi gia đình đều tìm cách duy trì và tăng thêm của cải cho mình. Chế độ của riêng dần dần nảy sinh. Lúc đầu sự chênh lệch về sức lực và kinh nghiệm đã đẻ ra kẻ giàu và người nghèo. Rồi của cải trở thành hấp dẫn. Làm giàu trở thành mục tiêu; mọi biện pháp làm giàu được sử dụng. Một số người có chức, có quyền trong thị tộc hay bộ tộc lợi dụng quyền hành để chiếm hữu tài sản chung của công xã làm của riêng. Những tù binh bắt được trong chiến tranh giữa các bộ lạc, bộ tộc được sử dụng làm nô lệ phục vụ sản xuất. Những người nghèo đói ngày càng bị khinh rẻ và cuối cùng nợ nần chồng chất, không trả được cũng rơi vào số phận như các tù binh. Xã hội cộng sản nguyên thủy tan vỡ dần. Hậu quả của sự tan rã này là đã xuất hiện xã hội có giai cấp đối kháng. Lê-nin trên cơ sở tổng kết những tư tưởng của Mác và Ăng-ghen về những đặc trưng căn bản phân chia các giai cấp trong xã hội đã đưa ra định nghĩa nổi tiếng về giai cấp. “Người ta gọi là giai cấp những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thưòng thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức, lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này thì có thể chiêm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định”[3-39-17,18]. Như vậy chủ nghĩa Mác Lênin xác định các giai cấp trên các phương thức sản xuất nhất định “trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử”. Trong các phương thức ấy các giai cấp khác nhau về quan hệ sở hữu, về tổ chức quản lý sản xuất, về cách thức và số lượng sản phẩm được hưởng thụ. Phương thức sản xuất thay đổi đã dẫn đến sự thay đổi của các hình thức cộng đồng người trong lịch sử. Từ thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, xã hội loại người chuyển lên thành các dân tộc. Tùy theo đặc điểm không gian, thời gian mà sự hình thành dân tộc ở mỗi nơi gắn với một phương thức sản xuất, một chế độ xã hội nhất định, khác nhau. Dân tộc ở châu Âu ra đời gắn với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mác và Ăng-ghen đã chỉ rõ, sự hình thành dân tộc, nhìn chung, gắn với thắng lợi của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đối với phương thức sản xuất phong kiến. “Giai cấp tư sản ngày càng xóa bỏ tình trạng phân tán của tư liệu sản xuất, của tài sản & của dân cư. Nó tụ tập dân cư, tập trung các tư liệu sản xuất và tích tụ tài sản vào trong tay một số ít người. Kết quả tất nhiên của những thay đổi ấy là sự tập trung về Chính trị. Những địa phương độc lập, liên hệ với nhau hầu như chỉ bởi những quan hệ liên minh và những lợi ích, luật lệ, chính phủ, thuế quan khác nhau, thì đã được tâp hợp lại thành một dân tộc thống nhất, có một chính phủ thống nhất, một luật pháp thống nhất có tính chất giai cấp và một thuế quan thống nhất”[2-1-546,547] Quá trình hình thành của dân tộc cho thấy rằng, dân tộc là cộng đồng người gắn với xã hội có giai cấp, có nhà nước và có các thể chế chính trị. Nhưng khác với các hình thức cộng đồng người trước đó. Những mối liên hệ dân tộc chặt chẽ hơn, bền vững hơn, một mặt do chúng được hình thành trong quá trình lịch sử rất lâu dài, đã trải qua nhiều thử thách, mặt khác, do chúng được hình thành và củng cố trên cơ sở mới là quan hệ trong một địa bàn, hoặc một thị trường thống nhất. “Dân tộc là cộng đồng xã hội - tộc người ổn định, bền vững được thành lập trong lịch sử, bao gồm những thành viên có quan hệ cộng đồng về mặt lãnh thổ, ngôn ngữ sinh hoạt, kinh tế, có quan hệ cộng đồng trực tiếp về mặt nhà nước và pháp luật, có quan hệ cộng đồng về sắc thái tâm lý, tính cách, bản sắc văn hóa, có chung một lịch sử dựng nước và giữ nước. Do những quan hệ nói trên, các thành viên trong dân tộc cùng chia sẻ những lợi ích dân tộc chính đáng”[36-13]. Các thành viên của dân tộc gồm nhiều giai cấp, tầng lớp có những lợi ích chung và riêng và có quan hệ với lợi ích dân tộc ở những mức độ khác nhau. Trong các quan hệ ấy, quan hệ giai cấp - dân tộc là quan hệ chi phối. 2.2.2. Quan hệ giai cấp - dân tộc: Quan hệ giai cấp với tư cách là sản phẩm của một phương thức sản xuất nhất là nhân tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành dân tộc, tính chất dân tộc, xu hướng phát triển của dân tộc. Trong kết cấu giai cấp của xã hội, giai cấp nào mạnh nhất (xét một cách toàn diện) thì sẽ giữ vai trò thống trị đối với dân tộc. Tính chất giai cấp của giai cấp thống trị quy định tính chất của phương thức sản xuất và quy định tính chất của dân tộc. áp bức giai cấp sẽ sinh ra áp bức dân tộc: “hãy xóa bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng mất”[2-1-565]. Đồng thời chủ nghĩa Mác Lênin hoàn toàn xa lạ với quan điểm tuyệt đối hóa nhân tố giai cấp, coi nhẹ vai trò của nhân tố dân tộc. Bởi vì kể từ khi có dân tộc thì cộng đồng xã hội dân tộc là địa bàn trực tiếp của các quá trình kinh tế xã hội, các cuộc đấu tranh giai cấp, các biến cố chính trị, các cuộc cách mạng xã hội. “Không có một nước nào mà giai cấp tư sản có thể nắm quyền thống trị mà lại không có độc lập dân tộc… không khôi phục lại độc lập thống nhất cho từng dân tộc thì về phương diện quốc tế, không thể thực hiện được sự đoàn kết giai cấp vô sản và sự hợp tác hòa bình và tự giác giữa các dân tộc đó để đạt tới những mục đích chung”[2-1-534] Dân tộc là địa bàn trực tiếp của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân. Sự nghiệp cách mạng của giai cấp này trong mỗi nước là sự nghiệp có tính chất dân tộc sâu sắc: “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc. Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải thanh toán xong giai cấp tư sản nước mình đã”[2-1-555]. áp bức giai cấp sinh ra áp bức dân tộc. Công nhân trong điều kiện ấy không có quyền dân tộc như Mác đã nói: “Công nhân không có tổ quốc. Người ta không thể cướp đi của họ cái mà họ không có. Vì giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải dành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành một giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”[2-1-565] Là đại biểu chân chính của lợi ích và truyền thống dân tộc, giai cấp công nhân có khả năng đoàn kết mọi lực lượng yêu nước và cách mạng xây dựng mặt trận dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa và đấu tranh giai cấp ở chính quốc có quan hệ, tác động lẫn nhau hết sức mật thiết. Đấu tranh dân tộc chứa đựng những nội dung giai cấp sâu sắc. Nó không chỉ là kết quả mà còn là nguyên nhân làm cho đấu tranh giai cấp phát triển cả bề rộng, bề sâu và có bước nhảy vọt về chất : Trong "sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa", gồm 12 điểm, Lênin đã chỉ ra con đường giải quyết vấn đề dân tộc. Trong đó có các điểm đáng chú ý sau : Điểm 2 : Lê nin đã chỉ ra quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề dân tộc. Điểm 4 : Lê nin đề ra chính sách đoàn kết quốc tế : "Chính sách của quốc tế cộng sản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa là phải làm cho vô sản và quần chúng lao động của tất cả các dân tộc và tất cả các nước gần gũi nhau để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng chung nhằm lật đổ bọn địa chủ và giai cấp tư sản". [341-199]. Điểm 6 : Lênin đề ra chính sách liên minh quốc tế giữa các phong trào dân tộc và liên minh giữa các phong trào này với nước Nga Xô Viết : "Thực hiện sự liên minh chặt chẽ nhất của tất cả các phong trào giải phóng dân tộc và thuộc địa với nước Nga Xô Viết, bằng cách đem lại cho sự liên minh ấy những hình thức phù hợp với trình độ phát triển của phong trào cộng sản trong nội bộ giai cấp vô sản mỗi nước, hay của phong trào giải phóng dân chủ tư sản của công nhân và nông dân ở các nước chậm tiến hay ỏ các dân tộc chậm tiến" [3-41-200]. Điểm 11 : Lênin đòi hỏi thực hiện sự liên minh giữa giai cấp vô sản Tây Âu với phong trào nông dân phương Đông: "Phải ra sức làm cho phong trào nông dân có được tính chất cách mạng nhất, bằng cách thực hiện sự liên minh chặt chẽ nhất giữa giai cấp vô sản cộng sản Tây Âu với phong traò cách mạng nông dân ở các nước phương Đông, ở các thuộc địa và nói chung ở các nước chậm tiến". Điểm 12 : Lênin khẳng định sự cần thiết phải đoàn kết giai cấp và đoàn kết quốc tế : "Không có sự cố gắng tự nguyện tiến tới sự liên minh và sự thống nhất của giai cấp vô sản, rồi sau nữa của toàn thể quần chúng cần lao thuộc tất cả các nước và các dân tộc trên toàn thế giới, thì không thể chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư bản được". [3-41-206]. Những quan điểm nêu trên chủ Lênin chính là sự phát triển và cụ thể hoá khẩu hiệu "Vô sản toàn thế giới đoàn kết lại" từ thời kỳ CNTB sang thời kỳ chủ nghĩa đế quốc. Cốt lõi của các quan điểm nêu trên được đúc kết trong khẩu hiệu nổi tiếng của Lênin : "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại". Những vấn đề dân tộc trong LCLN là vấn đề dân tộc thuộc địa. Nội dung vấn đề dân tộc thuộc địa là : -Thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, các nước đế quốc. -Giành độc lập cho dân tộc. -Thành lập Nhà nước dân tộc độc lập, thực hiện quyền dân tộc tự quyết. Còn vấn đề giai cấp ở trong LCLN là : Việc giải quyết vấn đề dân tộc – thuộc địa sẽ do giai cấp nào đảm nhiệm. Chính vì thế nội dung của QHGC-DT trong LCLN là quan hệ giữa giai cấp tiên phong, giai cấp lãnh đạo của dân tộc với toàn thể dân tộc đó. Tóm lại, Chủ nghĩa Mác Mác Lênin khẳng định rằng, vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp quan hệ biện chứng với nhau không thể tách rời. Việc giải quyết vấn đề giai cấp có ý nghĩa quyết định đối với việc giải quyết vấn đề dân tộc. Ngược lại bất cứ ở đâu và khi nào thì sự hình thành và phát triển của dân tộc, việc giải quyết vấn đề dân tộc đều gắn liền với lợi ích giai cấp, được chỉ đạo bởi quan điểm của giai cấp nhất định. Tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể mà việc giải quyết vấn đề dân tộc hay vấn đề giai cấp trở thành nhiệm vụ chủ yếu trong từng giai đoạn cách mạng. Và mối QGGC-DT theo CNMLN như là quan hệ giữa cái bộ phận với cái toàn thể. Như là quan hệ giữa phần tử chính, chủ yếu của hệ thống với hệ thống đó. Khi mà phần tử này giữ vai trò chỉ đạo, chi phối các phần tử khác, và phù hợp ở một mức độ nhất định đối với toàn hệ thống thì phần tử này sẽ giữ vai trò thống trị. Nhưng một khi vai trò chủ đạo ấy mất đi thì nhất định một phần tử chính, chủ yếu khác của hệ thống sẽ xuất hiện và thay thế. Sự xuất hiện và trưởng thành của giai cấp công nhân trong các dân tộc và trên thế giới cùng tương tự như vậy. Chủ nghĩa Mác Lênin kết luận rằng: trong thời đại ngày nay, dân tộc gắn liền với giai cấp công nhân và để làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải nắm lấy ngọn cờ dân tộc. Những quan điểm trên đây của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã được Hồ Chí Minh đánh giá cao. Người viết: “Lênin đã nhận thấy rằng muốn cho công tác trong các nước thuộc địa thành công tốt đẹp thì cần phải triệt để lợi dụng phong trào giải phóng dân tộc trong các nước đó, rằng giai cấp vô sản trên thế giới, bằng việc ủng hộ phong trào ấy thì sẽ có nhiều bạn đồng minh mới hùng mạnh trong cuộc đấu tranh của mình cho cách mạng xã hội”[1-2-219]. “Theo Lênin, cách mạng ở phương tây muốn thắng lợi thì nó phải liên hệ chặt chẽ với phong trào giải phóng chống đế quốc ở các nước thuộc địa và các nước bị nô dịch và vấn đề dân tộc, như Lênin đã dạy chúng ta, chỉ là một bộ phận của vấn đề chung về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản”[1-1-277]. “Lênin là người đầu tiên đã hiểu và đánh giá hết tầm quan trọng lớn lao của việc lôi cuốn nhân dân các nước thuộc địa vào phong trào cách mạng. Lênin là người đầu tiên đã chỉ rõ rằng, nếu không có sự tham gia của các dân tộc thuộc địa, thì cách mạng xã hội không thể có được… Trong con mắt của các dân tộc thuộc địa, trong lịch sử cuộc đời đau khổ và bị mất quyền của các dân tộc thuộc địa, Lênin là người sáng tạo ra cuộc đời mới, là ngọn hải đăng chỉ dẫn con đường đi tới giải phóng cho toàn thể nhân loại bị áp bức”[1-2-136,137] Từ LCLN, Hồ Chí Minh tiếp tục nghiên cứu sâu sắc chủ nghĩa Mác. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ dân tộc, giai cấp vì thế thuộc hệ tư tưởng Mác Lênin . Nội dung cơ bản của tư tưởng ấy của Hồ Chí Minh là: Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân do giai cấp công nhân lãnh đạo. Việc Hồ Chí Minh có được quan điểm này như thế nào từ chỗ nghiên cứu CNMLN về QHGC-DT ? Xin mời xem phần sau, mục 2.1.1.1.Song cũng trong điều kiện lịch sử như nhau mà nhiều người khác ở Việt Nam không tìm được con đường cách mạng phù hợp cho dân tộc như Hồ Chí Minh? Điều căn bản này chỉ có thể phải được nghiên cứu và giải thích xuất phát từ đâu? Theo Các Mác, Căn bản là xét vấn đề đến tận gốc rễ, mà gốc rễ ở trong con người là chính bản thân con người. Cái gốc rễ này ở trong con người theo I. Cantơ (nhà triết học Đức thế kỷ XVIII) là năng lực bẩm sinh mà tạo hoá phú cho con người.Đó là yếu tố rất quan trọng. Ông cho rằng, nếu "thiếu nó thì không thể bù đắp nổi bằng bắt cứ trường học nào" [40 – 395]. Chính vì thế điều làm cho Hồ Chí Minh khác với những bậc tiền bồi khác được giải thích xuất phát từ nhân tố chủ quan của Hồ Chí Minh.Đó là phẩm chất riêng của người. 1.3. Phẩm chất thiên bẩm đặc biệt của Hồ Chí Minh: Tư tưởng là sản phẩm của tư duy con người trong quá trình hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Tư tưởng đó đạt tới chân lý khách quan đến mức độ nào là phụ thuộc vào chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức. Nếu một trong hai yếu tố này bị hạn chế thì tỷ lệ chân lý khách quan trong tư tưởng đó sẽ bị giảm đi. Đành rằng thời thế tạo anh hùng nhưng không phải cá nhân nào cũng trở thành anh hùng trong cùng một điều kiện lịch sử như nhau. Cũng trong điều kiện lịch sử ấy, thì cái làm cho nhân cách của người này hơn hẳn nhân cách người kia là do nhân tố chủ quan của họ quyết định, do chủ thể nhận thức là chính bản thân họ. Quá trình hình thành và phát triển của một nhân cách điển hình là một quá trình tích luỹ lâu dài trải qua các cung bậc khác nhau. Các cung bậc ấy đi từ thấp đến cao, từ năng khiếu đến khả năng đến năng lực đến tài năng đến thiên tài. Không thể có nhân cách ở cung bậc sau nếu không có những cung bậc trước đó. Hồ Chí Minh ngày từ thời niên thiếu đã có năng khiếu, phẩm chất đặc biệt. Những hiện tượng tự nhiên và xã hội diễn ra xung quanh mình đều đem lại cho Người những cảm giác mạnh mẽ, vượt hẳn người thường. Xét về trí, ngày từ lúc mới lên 5 tuổi, theo cha vào kinh, các hiện tượng xã hội dọc đường đều gây cho Người những cảm giác mới lạ. “Những cái lạ nhất đối với Sinh Cung là thấy những ông Tây cao lớn và các bà đầm môi đỏ chót đi lại nghênh ngang trên đường phố. Họ làm gì mà hễ ai gặp cũng phải chắp tay cúi chào? và ngay cả những vị quan to trong triều đình, sao cũng phải cung kính?”[4-13]. Trong giờ học, “Sinh cung vẫn thích nhất là giờ đối chữ. Ai đố được cái hay thường được thầy khen và bạn bè tán tưởng. Có lần, trong tiết tập làm đối ứng khẩu, thầy ra vế đối: “Bạch thanh nhãn” nghĩa là “mắt trắng xanh”. Một số bạn bè xướng lên câu đối của mình, nhưng chưa được thầy khen. Nhác thấy trong lớp có bạn vì mắt đau phải che mảnh vài đỏ lên mé đầu, Sinh Cung liền đọc: “Hồng Hắc đầu”, nghĩa là “đầu đen đỏ”. Thế là cả lớp được một mẻ cười thoải mái”[4-18]. “Một lần thắp đèn dầu sánh ra, thầy liền ra cho học trò một vế đối: Thắp đèn lên đầu Vương ra đế. Có học trò lớn tuổi đối một câu rất chỉnh: Đốt nhang rồi gió quạt bay tàn Trò Nguyễn Tất Thành xin đối: Cưỡi ngựa dong thẳng Tấn lên Đường; Thầy khen cả hai câu, nhưng với câu sau, thầy cho rằng đối thoát hơn, không gò bó nghĩa đen của từng từ tr._.h, vững mạnh, có hiệu lực cao, thật sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trước đây, khi chưa có chính quyền, nhiệm vụ công tác quần chúng của Đảng và nhiệmvụ công tác của Mặt trận là vận động nhân dân, tổ chức, đoàn kết nhân dân đấu tranh bảo vệ lợi ích của mình, chống lại sự áp bức, bóc lột, đàn áp, khủng bố của địch, từng bước làm suy yếu chính quyền của chúng, và khi thời cơ đến thì tổ chức quần chúng nổi dậy giành lấy chính quyền. Ngày nay, khi chính quyền đã về tay nhân dân, thì nhiệm vụ của Mặt trận và các đoàn thể thành viên của Mặt trận là vận động, tổ chức nhân dân xây dựng, củng cố, bảo vệ chính quyền, đồng thời cùng với chính quyền, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc và tiến bộ cho nhân dân, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Chính quyền có trách nhiệm rất lớn trong việc ban hành các chính sách và luật pháp để tăng cường và bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc, bảo vệ an toàn xã hội, chấn hưng nền văn hoá dân tộc và xây dựng con người mới. Phải thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc ngay trong tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền. Bản thân bộ máy chính quyền phải là hình ảnh tiêu biểu cho khối đại đoàn kết dân tộc. Bốn là, củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bằng các hình thức phong phú, đa dạng, thích hợp với từng giới, từng thành phần xã hội, từng địa phương, cơ sở… nhằm khơi nguồn trí tuệ, sáng kiến, phát huy mọi năng lực của các tầng lớp nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong nhân dân không thiếu những người có đức, có tài, nếu chúng ta không tập hợp được, không phát huy được tài, đức của họ là sự thiệt thòi lớn cho đất nước. Điều quan trọng là phải thu hút được thật nhiều trong các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo thì mới hình thành được Mặt trận rộng lớn. Mặt trận không chỉ đoàn kết bằng tổ chức mà còn phải đoàn kết bằng phong trào hành động chung từ thấp đến cao. Không chỉ đoàn kết ở bên trên mà cần tiếp tục hướng mạnh hoạt động về cơ sở, tới mọi địa bàn dân cư, đến từng hộ gia đình. Đi đôi với việc củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phải không ngừng củng cố liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, làm cho nó thực sự trở thành nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân. Nếu công nhân, nông dân, trí thức không đủ mạnh, không liên minh với nhau chặt chẽ thì không thể củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, Mặt trận không thể vững chắc và đi đúng hướng được. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam dựa trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức là sự phản ánh về mặt tổ chức xã hội, mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp. Tách biệt, hoặc nhấn mạnh một chiều vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hoặc liên minh công nhân - nông dân - trí thức đều không đúng với biện chứng của đời sống cách mạng. Tuyệt đối hoá vai trò, vị trí của liên minh công nhân - nông dân - trí thức, hạ thấp vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sẽ dẫn đến cực đoan, "tả khuynh và bệnh cô lập, hẹp hòi; ngược lại, nhấn mạnh, đề cao một chiều vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, coi nhẹ liên minh công nhân - nông dân - trí thức sẽ dẫn đến hữu khuynh, xa rời lập trường giai cấp. Thực tế cho thấy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam càng rộng rãi bao nhiêu, sức mạnh của liên minh công nhân - nông dân - trí thức càng to lớn bấy nhiêu; ngược lại, liên minh công nhân - nông dân - trí thức càng được củng cố, tăng cường thì Mặt trận Tổ quốc Việt Nam càng vững chắc, càng có sức mạnh. Trên lĩnh vực chính trị, liên minh công nhân - nông dân - trí thức phải tập trung vào các nhiệm vụ cơ bản và cấp bách sau: bảo vệ thành quả cách mạng, duy trì sự lãnh đạo của Đảng, củng cố chế độ xã hội chủ nghĩa; kiên trì mục tiêu, con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên lĩnh vực kinh tế, liên minh công nhân - nông dân - trí thức hiện nay cần hướng vào giải quyết tốt các mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp; giữa Nhà nước và nông dân; giữa phát triển kinh tế và phát triển khoa học, kỹ thuật, văn hoá. Về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển khoa học, kỹ thuật, văn hoá, phát huy vai trò đội ngũ trí thức, các văn kiện gần đây nhất của Đảng vạch rõ: tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển văn hoá, giáo dục; khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đào tạo, bồi dưỡng và phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước… Trên lĩnh vực xã hội, liên minh công nhân - nông dân- trí thức có nhiệm vụ quan trọng là rút ngắn khoảng cách phát triển giữa thành thị và nông thôn, giảm bớt sự khác biệt giữa lao động chân tay và lao động trí óc, củng cố những thành quả giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp đã đạt được. Với cơ sở vững chắc là sự thống nhất về lợi ích cơ bản; với quá khứ liên minh chiến đấu vẻ vang trong cách mạng dân tộc dân chủ; với nhu cầu khách quan của qúa trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, và với những kết quả ban đầu đạt được trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, liên minh công nhân- nông dân- trí thức hoàn toàn có điều kiện củng cố ngày càng vững chắc, làm nền tảng cho khối đại đoàn kết dân tộc, một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam là yếu tố quyết định nhất trong sự nghiệp củng cố, mở rộng khối đoàn kết toàn dân, cũng như củng cố, tăng cường khối liên minh công nhân- nông dân- trí thức. Đảng lãnh đạo Mặt trận, lãnh đạo khối liên minh công nhân- nông dân- trí thức, đó là nguyên tắc. Chỉ có Đảng mới vạch ra được đường lối đúng, cơ sở của khối đoàn kết dân tộc, của khối liên minh công nhân- nông dân- trí thức. Chỉ có Đảng mới giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc, mới điều chỉnh được lợi ích của giai cấp, và mới đủ phẩm chất, tài năng trí tuệ lãnh đạo đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, dân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng có hệ tư tưởng tiên tiến dẫn đường là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; có đường lối cách mạng đúng đắn, có bản lĩnh chính trị vững vàng; có quan hệ máu thịt với nhân dân; đại bộ phận cán bộ, đảng viên có phẩm chất tốt đẹp,nêu cao tinh thần hy sinh, chiến đấu suốt đời phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc. Đảng có khả năng tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động và mọi lực lượng yêu nước, tiến bộ, tổ chức đấu tranh thực hiện các mục tiêu chung của giai cấp và dân tộc. Cần tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy trách nhiệm của Nhà nước đối với Mặt trận, khắc phục những quan điểm tư tưởng sai lầm coi Mặt trận là tổ chức tượng trưng. Mặt khác, mọi sự phủ nhận lập trường giai cấp công nhân, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận và dân tộc chính là gián tiếp phủ nhận đại đoànkết dân tộc, và do đó, đều có hại cho việc củng cố, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc ta. Sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vượt qua đói nghèo, lạc hậu phải là sự nghiệp của từng cá nhân, của mỗi tập thể, của cả cộng đồng. Đó là con đường có thể khai thác mọi tiềm năng trong mỗi con người và trong cả xã hội tạo ra sức mạnh tổng hợp về vật chất, tinh thần, trí tuệ, tài năng đưa dân tộc tiến lên trên con đường văn minh, tiến bộ. Vì vậy đòi hỏi phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Khơi dậy mọi tiềm năng, năng lực của cá nhân, của tập thể lao động và cả cộng đồng dân tộc, động viên, sáng tạo cho mọi nười Việt Nam phát huy ý chí tự lực, tự cường, cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ra sức làm giàu cho mình, cho đất nước. Lợi ích của mọi người, của tập thể và toàn xã hội gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp Lợi ích cá nhân bao gồm lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần. Đó là lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, văn hoá, được học hành, được chăm sóc sức khoẻ, dân chủ bình đẳng, công bằng xã hội cùng nhiều giá trị tinh thần khác. Chăm lo đến lợi ích cá nhân này là động lực trực tiếp góp phần quan trọng trong việc tăng cường khối đoàn kết dân tộc xây dựng và bảo vệ những thành quả của sự nghiệp đổi mới trước những thách thức có tính chất sống còn của dân tộc ta. Việc chăm sóc và phát triển những nhu cầu, năng lực phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân là hoàn toàn cần thiết. Song không thể tuyệt đối hoá cá nhân, mà phải giải quyết cho đúng mối quan hệ giữa cá nhân với lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng, lợi ích chung toàn xã hội… Sự hài hoà, thống nhất giữa lợi ích quốc gia, dân tộc - giai cấp, cộng đồng- gia đình phải được coi là nguyên tắc chiến lược. "Nội dung đoàn kết ngày nay gắn với cơ sở kinh tế, xã hội và phải giải quyết hài hoà lợi ích của giai cấp và tầng lớp xã hội"[33-63]. Chỉ có như vậy khối đại đoàn kết dân tộc mới phát triển bền vững. Tôn trọng, khuyến khích lợi ích của cá nhân không đồng nghĩa với dung nạp chủ nghĩa cá nhân. Tôn trọng lợi ích cá nhân, coi trọng lợi ích cá nhân là cần thiết, đúng đắn. Nhưng thực tế cho thấy từ lợi ích cá nhân dễ rơi vào chủ nghĩa cá nhân. Chính vì vậy, để kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, phải thực hiện phương châm đoàn kết - đấu tranh - đoàn kết. Phương châm đoàn kết - đấu tranh - đoàn kết cần được áp dụng triệt để thường xuyên, nhiều mặt, thận trọng để giải quyết mối quan hệ trong nội bộ dân tộc, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc phục vụ đắc lực cho việc thực hiện nhiệm vụ lịch sử. 3.2.3. Đẩy mạnh việc phát triển các thành phần kinh tế, đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Nghiên cứu một cách có hệ thống quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ cho thấy, sự quá độ từ xã hội tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội, tuy đã được các ông đặt ra, nhưng đây là một loại hình quá độ chưa được trình bày đầy đủ. Vì vậy, chúng ta phải đi sâu nghiên cứu những tư tưởng đó của các ông, đặc biệt về phương diện kinh tế - xã hội để vận dụng một cách sáng tạo, đồng thời bổ sung, phát triển trong điều kiện mới của nước ta. Trên cơ sở phân tích đặc điểm của thời đại ngày nay và những đặc điểm của các quốc gia đi lên chủ nghĩa xã hội như nước ta, phải thực hiện một mô hình kinh tế mà trong đó tồn tại đồng thời nhiều loại hình sở hữu khác nhau mới có khả năng thúc đẩy nền kinh tế phát triển năng động, khai thác tốt nhất mọi tiềm năng, thế mạnh kinh tế - xã hội phục vụ cho sự phát triển đất nước. ở nước ta hiện nay, mặc dù nền kinh tế - xã hội đang vận động theo con đường của giai cấp công nhân, định hướng lên chủ nghĩa xã hội, song vấn đề đặt ra là phải phù hợp với đặc điểm dân tộc. Điều đó có nghĩa: không phải là xoá bỏ ngay chế độ tư hữu để thiết lập sở hữu công cộng với tính cách là chế độ sở hữu duy nhất, mà bên cạnh việc củng cố và tăng cường khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, làm cho kinh tế nhà nước thực sự giữ vai trò chủ đạo trong kinh tế, khuyến khích phát triển các ngành, xí nghiệp, cơ sở sản xuất cần thiết thuộc sở hữu tư nhân làm cho nền kinh tế trở nên năng động hơn. Như thế chế độ sở hữu ở nước ta trong thời kỳ quá độ là thực hiện đa dạng hoá các hình thức sở hưũ trên cơ sở bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Việc Đảng và Nhà nước ta xây dựng và thực hiện mô hình kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá nhiều hình thức sở hữu với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, việc Nhà nước nắm trong tay những tư liệu sản xuất chủ yếu, chi phối toàn bộ nền kinh tế - xã hội, có thể nói rằng đó là những biểu hiện của việc vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chế độ sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng thời cũng là biểu hiện của đường lối phát triển kinh tế đúng đắn, phù hợp với đặc điểm của nước ta, một nước xuất phát điểm từ xã hội tiền tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng phải có lực lượng sản xuất hiện đại. Chỉ có lực lượng sản xuất đó chúng ta mới có thể tạo ra một năng suất lao động cao hơn và mới bảo đảm cho sự thắng lợi của phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. Bản thân nền sản xuất của chủ nghĩa xã hội chủ yếu dựa trên chế độ công hữu chứ không phải chế độ tư hưũ về tư liệu sản xuất. Đây chính là điểm mấu chốt nhất để phân biệt chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản. Bên cạnh việc củng cố và tăng cường khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, việc sử dụng khả năng của các thành phần kinh tế khác như kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, đặc điểm là kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta hiện nay là cần thiết để thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nói cách khác, việc thực hiện một nền kinh tế nhiều thành phần với chế độ sở hữu đa dạng, trong đó vai trò chủ đạo thuộc về kinh tế nhà nước được coi là mô hình kinh tế phù hợp với điều kiện của nước ta trên con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Công cuộc đổi mới kinh tế của nước ta trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu quan trọng, tạo ra sự chuyển biến căn bản từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghãi. Kết quả đó là một thực tế được mọi người thừa nhận. Điều quan trọng là, chuyển sang xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, nhưng không để đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Việc chúng ta tham khảo và vận dụng các hình thức và phương pháp quản lý nền kinh tế thị trường của các nước tư bản chủ nghĩa là vì lợi ích của chủ nghĩa xã hội, của dân tộc. Trên thực tế, mức tăng trưởng của nền kinh tế trong thời gian qua, nhất là giai đoạn 1991 - 2002 đạt được khá cao, trung bình mỗi năm tăng hơn 7%. Tuy nhiên, sự tăng trưởng kinh tế đó chủ yếu còn dựa vào một nền sản xuất nhỏ mang tính khai thác. Đó là sự nối tiếp của nền kinh tế chậm phát triển trong một cơ chế kinh tế mới. Sức tăng trưởng này khó có thể kéo dài và sức cạnh tranh sẽ rất thấp. Đặc biệt trong bối cảnh quốc tế hiện nay, nếu không bảo đảm tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, ổn định, thì sự tụt hậu kinh tế là không tránh khỏi và đó là nguy cơ lớn nhất đe doạ lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc. Vì vậy, chúng ta phải tiếp tục đổi mới, phát huy mọi khả năng các thành phần kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở - vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý. Có như vậy mới nâng cao được đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, bảo đảm quốc phòng - an ninh được củng cố vững chắc. Phát huy mọi khả năng các thành phần kinh tế trong điều kiện mới của nước ta cần tập trung vào những vấn đề sau: Một là: Tập trung đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước và các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của Nhà nước như đất đai, ngân sách, lực lượng dự trữ và một phần vốn của Nhà nước đưa vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân: làm đòn bẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội; mở đường hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển; là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới. Tức là, chính vì lợi ích cả dân tộc, (thể hiện qua việc ổn định, phát triển kinh tế, đời sống nhân dân, xoá đói - giảm nghèo, cùng giàu có lên…) chứ không phải "kinh tế thị trường" chỉ có một nhóm giàu có như chủ nghĩa tư bản, mà giai cấp công nhân và Đảng cộng sản dứt khoát phải có chủ trương lãnh đạo, xây dựng kinh tế nhà nước làm chủ đạo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, mới có thể chủ động từ kinh tế mà giải quyết tốt nhiều vấn đề xã hội khác cho dân tộc. Điều này, về cơ bản giai cấp tư sản trong chủ nghĩa tư bản không làm được qua vài thế kỷ rồi! Để đáp ứng yêu cầu đó, cần tập trung các nguồn lực kinh tế của Nhà nước cho các ngành, lĩnh vực trọng yếu, mà ở đó, các doanh nghiệp nhà nước cần nắm giữ và thực hiện các chức năng xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất và thương mại, dịch vụ quan trọng; một số doanh nghiệp thực hiện những nhiệm vụ liên quan đến quốc phòng - an ninh. Đồng thời phải có những giải pháp như sắp xếp lại sản xuất, thực hiện cổ phần hoá… nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế thị trường, để kinh tế nhà nước thực sự đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Hai là: Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức kinh tế hợp tác Kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp tác xã là hình thức liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của sản xuất, kinh doanh và đời sống. Trong điều kiện đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, sự hợp tác giữa những người sản xuất kinh doanh riêng lẻ, dưới nhiều hình thức đa dạng là một nhu cầu bức xúc và xu thế khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Kinh tế hợp tác ở nước ta được phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ để giúp những người sản xuất nhỏ có đủ sức cạnh tranh, mà về lâu dài trong đường lối phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, Đảng ta chủ trương kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã ở miền núi, nông thôn và thành thị, là một bộ phận quan trọng, cùng với kinh tế nhà nước sẽ trở thành nền tảng của nền kinh tế. Đó cũng là nền tảng chính trị - xã hội của đất nước để đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong điều kiện hiện nay, những người lao động chỉ có thể hợp tác với nhau mới có thể giúp nhau tạo được sức mạnh trong sản xuất kinh doanh, góp phần tạo thêm việc làm và thu nhập, thực hiện việc làm giàu chính đáng đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội. Kinh tế hợp tác ở nước ta cần phát triển mạnh từ thấp đến cao, dưới nhiều hình thức đa dạng và cấp độ khác nhau, không phân biệt địa bàn hoạt động rộng hẹp, quy mô to nhỏ khác nhau. Chỉ có những hình thức hợp tác như thế mới hướng những người sản xuất nhỏ đi vào con đường phát triển kinh tế hàng hoá, đóng góp ngày càng nhiều vào việc phát triển nền kinh tế quốc dân. Mọi hình thức hợp tác cần được Nhà nước hướng dẫn giúp đỡ và có chính sách khuyến khích phát triển. Nghị quyết TW lần thứ V khoá IX đã khẳng định điều đó Ba là: Đa dạng hoá và áp dụng một cách phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước Đa dạng hoá các hình thức kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài. Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý… của các nhà tư bản vì lợi ích của bản thân họ, cũng như của công cộng xây dựng và phát triển đất nước. Kinh tế tư bản nhà nước là cầu nối giữa sản xuất nhỏ và sản xuất lớn, "nhịp cầu trung gian" đi lên chủ nghĩa xã hội. Con đường đó hết sức có ý nghĩa đối với nước ta, với một nền sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa, tuy đã có một số cơ sở kinh tế tư bản, nhưng chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ bé. Tư bản nhà nước cần được xem là một bộ phận của sức mạnh kinh tế độc lập để góp phần cùng với lực lượng kinh tế nhà nước tổ chức lại nền sản xuất nhỏ, cùng làm đối tác và đối trọng với tư bản nước ngoài. Bởi vậy, trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta chủ trương áp dụng một cách phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Điều quan trọng là phải tạo ra môi trường đầu tư, liên doanh thuận lợi, tạo ra những sức hút về kỹ thuật và công nghệ hiện đại trong quá trình hợp tác, liên doanh giữa Nhà nước với các nhà tư bản tư nhân trong và ngoài nước, để lôi kéo họ yên tâm đầu tư, hợp tác liên doanh lâu dài, có hiệu quả. Bốn là: Khuyến khích, hướng dẫn kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển Kinh tế cá thể, tiểu chủ (của nông dân, thợ thủ công, người làm thương nghiệp và dịch vụ cá thể) bao gồm những đơn vị kinh tế và những hoạt động kinh doanh dựa vào vốn và sức lao động của từng hộ là chủ yếu. Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí rất quan trọng lâu dài trong nhiều ngành, nghề ở nông thôn và thành thị. Nó có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả, tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Do đó, việc mở rộng sản xuất, kinh doanh của kinh tế cá thể, tiểu chủ không bị hạn chế. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, hướng dẫn nó phát triển. Các đơn vị kinh tế cá thể, tiểu chủ có thể tồn tại độc lập, hoặc tham gia các loại hình hợp tác, hoặc liên doanh liên kết với các doanh nghiệp nhà nước dưới nhiều hình thức. Năm là: Khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài Kinh tế tư bản tư nhân là các đơn vị kinh tế mà vốn do một, hoặc một số nhà tư bản góp lại để sản xuất- kinh doanh và thuê mướn công nhân. Kinh tế tư bản tư nhân có hình thức là các xí nghiệp tư doanh hay xí nghiệp cổ phần. Kinh tế tư bản tư nhân có khả năng góp phần xây dựng đất nước. Cần có chính sách khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi về tín dụng, khoa học công nghệ, đào tạo cán bộ… đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn kinh tế tư bản tư nhân làm ăn đúng pháp luật, có lợi cho quốc kế dân sinh. Không nên và không thể để cho sự khác biệt về lợi ích giai cấp trở thành sự cản trở, dẫn đến làm suy yếu sức mạnh của cách mạng Việt Nam. Nhà nước cần hình thành các công ty cổ phần với hình thức liên kết kinh tế với tư bản tư nhân thông qua góp vốn đầu tư nhằm tạo thế và lực cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển đủ sức là đối tác với các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là khi chúng ta mở rộng hợp tác kinh tế với bên ngoài. Để ngăn chặn tình trạng phát triển tự phát, cần có chính sách khuyến khích các nhà tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài, làm giàu hợp pháp cho bản thân, góp phần xây dựng đất nước và cùng nhân dân đi lên chủ nghĩa xã hội. Việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tất yếu phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là tiêu chí quyết định tính định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế. Đồng thời phải đặt dưới sự quản lý của Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật và cơ chế kế hoạch mới - cơ chế kế hoạch hướng dẫn, những đòn bảy kinh tế, khuyến khích thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo đảm tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, từng bước thực hiện công bằng xã hội, không ngừng nâng cao mức sống nhân dân. Thực hiện mục tiêu trên, nhiệm vụ cơ bản quyết định của sự nghiệp đổi mới trong những thập kỷ tới của nước ta là căn bản hoàn thành công nghiệp hoá, vì công nghiệp hoá tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đó, nước ta mới có điều kiện tạo ra nhịp độ phát triển kinh tế cao và bền vững, thực hiện các mục tiêu xã hội. Đó cũng là những điều kiện bảo đảm cho nước ta thực hiện con đường phát triển rút ngắn, tránh được các nguy cơ và thách thức to lớn, đặc biệt là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Kết luận QHGC - DT về thực chất là quan hệ giữa giai cấp cầm quyền trong xã hội với toàn thể dân tộc. Hồ Chí Minh là người đã thành công trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, giành độc lập cho dân tộc, đem lại quyền tự quyết cho nhân dân. Sự thành công của Hồ Chí Minh trong quá khứ và của Đảng Cộng sản trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hôm nay, như chúng tôi đã nghiên cứu ở trên có thể rút ra những kết luận sau: Thứ nhất: Hồ Chí Minh là người có phẩm chất thiên bẩm đặc biệt thông minh, tim nhân hậu, lòng dạ sắt son, tinh thần dũng cảm đã tạo ra ở người mầm mống thiên tài của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng. Đó là yếu tố nội sinh. Nhờ vậy Hồ Chí Minh đã tìm ra được hình thức phù hợp cho việc du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, hình thức đó chính là những luận điểm của Người về mối QHGC - DT. Thứ hai: Những luận điểm của Hồ Chí Minh về QHGC - DT (luận điểm 2.1 và 2.2) không chỉ là tư tưởng riêng của Người mà còn là sự chưng cất lâu đời của tư tưởng, văn hóa truyền thống Việt Nam. Đó là sản phẩm của sự giao lưu văn hóa Việt Nam - thế giới trong thời đại mới, mà Hồ Chí Minh là người kết nối. Thứ ba: QHGC - DT trong tư tưởng Hồ Chí Minh có một sự kết hợp rất cao giữa lý thuyết và thực tiễn. Hay nói cách khác, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối QHGC - DT là phương hướng vận động tất yếu của lịch sử Việt Nam. Đồng thời, trong mỗi hoàn cảnh nhất định, tư tưởng ấy là những lát cắt của lịch sử Việt Nam. Thứ tư: Đảng Cộng sản Việt Nam đã thành công ít, nhiều trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối QHGC - DT vào sự nghiệp đổi mới. Với kết quả đã đạt được, chúng tôi đề nghị tiếp tục nghiên cứu đề tài này theo hướng: nghiên cứu, phát triển hơn nữa chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối QHGC - DT; Tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới để tìm ra bước đi cụ thể cho việc vận dụng lý luận QHGC - DT vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Tài liệu tham khảo A. Tài liệu kinh điển : 1. Hồ Chí Minh : Toàn tập, gồm 12 tập, xuất bản lần thứ hai; NXB Chính trị quốc gia – Hà Nội 2. Mác - Ăng ghen : Tuyển tập, gồm 6 tập, xuất bản vào các năm từ 1980 đến 1984, NXB Sự thật, Hà Nội. 3. V.I Lênin : Toàn tập, NXB tiến bộ Matxcơva Tập 35, tập 37, tập 39, tập 41, xuất bản 1977 B. Tài liệu về Hồ Chí Minh : 4. Bản nghiên cứu lịch sử Đảng : Bác Hồ thời niên thiếu; NXB Sự thật; Hà Nội – 1989 Tỉnh uỷ Nghệ Tĩnh 5. Bản nghiên cứu lịch sử Đảng : Chủ tịch Hồ Chí Minh – Tiểu sử và sự nghiệp, NXB Sư thật – Hà Nội 1975 Trung ương 6. Phạm Văn Đồng : Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh; NBX Chính trị quốc gia – Hà Nội 1998 7. Ep-ghe-nhi-cô be lep : Đồng chí Hồ Chí Minh; 2 tập; NXB Thanh Niên – Hà Nội – 1985 8 . Võ Nguyên Giáp : Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam; NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1997. 9. Trần Văn Giàu : Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội 1997. 10. Hồng Hà : Bác Hồ trên đất nước Lênin; NXB Thanh Niên; Hà Nội – 1980. 11. Trần Văn Hải : Tìm hiểu nền tảng văn hoá dân tộc trong tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh; NXB Hà Nội – 1996. 13. Lê Hữu Nghĩa : Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh; NXB Lao động – Hà Nội 1997. 14. Mạch Quang Thắng : Một số chuyên đề về môn học tư tưởng Hồ Chí Minh; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội – 1996. 15. Nguyễn Đình Thuận : Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc (1911 – 1945); NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội - 2002. 16. Trần Dân Tiên : Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch; NXB văn học; Công ty xuất bản đối ngoại; Hà Nội – 1985. 17. Chu Đức Tính : Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc giải quyết vấn đề dân tộc – dân chủ trong cách mạng Việt Nam (từ 1930 – 1954); (Luận án Tiến sĩ); Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Hà Nội – 2000. 18. UNESCO và Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam : Hội thảo quốc tế về chủ tịch Hồ Chí Minh. NXB Khoa học xã hội; Hà Nội 1990. C. Các tài liệu khác. 19. Lưu Gia Ban : Chủ nghĩa yêu nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội 2000. 20. Ban gnhiên cứu lịch sử công đoàn Việt Nam : Lịch sử phong trào công nhân và công đoàn Việt Nam (1860 - 1945); NXB lao động - 1977. 21. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương : Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam – Sơ thảo; Tập I 1920 – 1954; NXB Sự thật – 1981. 22. Ban tư tưởng văn hoá Trung ương : Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng cộng sản Việt Nam; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội – 2002. 23. Phan Hữu Dật; Lâm Bá Nam : Chính sách dân tộc của các chính quyền nhà nước phong kiến Việt Nam (X-XIX); NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội 2001. 24. Đảng cộng sản Việt Nam : Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tư; NXB Sự thật; Hà Nội – 1997. 25. Đảng cộng sản Việt Nam : Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI; NXB Sự thật; 1987. 26. Đảng cộng sản Việt Nam : Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII; NXB Sự thật; Hà Nội 1991 27. Đảng cộng sản Việt Nam : Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội –1996 28. Đảng cộng sản Việt Nam : Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội - 2001. 29. Võ Nguyễn Giáp : Tư nhân dân mà ra (Hồi ký); NXB Quân đội nhân dân; Hà Nội – 1964 30. Võ nguyên Giáp : Những năm tháng không thể nào quên (Hồi ký); NXB Quân đội nhân dân; Hà Nội -1970. 31. Joyce Kolko : Cải cách cơ cấu kinh tế thế giới – Học viên chính trị quốc gia Hồ Chí Minh dịch; Hà Nội -1991. 32. Nguyễn Quang Ngọc : Cơ cấu xã hội trong quá trình phát triển của lịch sử Việt Nam; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội - 1998. 33. Nhà xuất bản chính trị quốc gia : Lược sử mặt trận dân tộc thống nhất trong cách mạng Việt Nam; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội - 1995. 34. Richard Bergerom : Phản phát triển – cái giá của chủ nghĩa tự do; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội 1995. 35. Nguyễn Anh Thái (Chủ biên) : Lịch sử thế giới hiện đại; NXB giáo dục – 1998. 36. Trần Hữu Tiến ; Nguyễn Ngọc Long; Nguyễn Xuân Sơn : Quan hệ giai cấp – dân tộc – quốc tế; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội – 2002. 37. Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam : Lịch sử Việt Nam; gồm 2 tập; NXB Khoa học xã hội – Hà Nội; Tập I xuất bản năm 1976; Tập II xuất bản năm 1985. 38. Viện khoa học xã hội Việt Nam : Lịch sử tư tưởng Việt Nam – Tập I; NXB Khoa học xã hội; Hà Nội 1993. 39. Vụ biên soạn Ban tuyên huấn Trung ương : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Trích văn kiện Đảng); Tập I (1930 – 1945); NXB Sách giáo khoa Mác Lênin – 1978. 40. Nguyễn Hữu Vui : Lịch sử triết học; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội 1998. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32186.doc
Tài liệu liên quan