mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam xác định là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam" [11, tr.83], trong đó có vấn đề cán bộ. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác cán bộ; Người coi "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc"[4
108 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1533 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và vận dụng trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3, tr.269], và "Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém"[43, tr.240].
Kế thừa tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng công tác cán bộ, luôn quan tâm xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan, tổ chức của mình; coi đó là lực lượng then chốt bảo đảm cho sự thành công của sự nghiệp cách mạng. Vấn đề xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được thể hiện rõ trong nhiều văn kiện của đảng và văn bản pháp luật của Nhà nước.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) chỉ ra: "Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước vừa có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao vừa giác ngộ về chính trị, có tinh thần trách nhiệm, tận tụy, công tâm, vừa có đạo đức liêm khiết khi thi hành công vụ"[10, tr.132]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII (1997) coi: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng"[16, tr.66]. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) khẳng định:
Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, công chức, coi trọng cả năng lực và đạo đức; bảo đảm tính nghiêm túc, trung thực trong thi tuyển cán bộ, công chức. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, về đường lối, chính sách, về kiến thức và kỹ năng quản lý hành chính nhà nước. Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức theo đúng chức năng, tiêu chuẩn. Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức, kịp thời thay thế những cán bộ, công chức yếu kém và thoái hóa. Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Có chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn [11, tr.135].
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) chỉ rõ: "Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức thực sự là công bộc của nhân dân" [22, tr.125], và đưa ra giải pháp: "Đổi mới chính sách cán bộ và công tác quản lý cán bộ, xây dựng chế độ công vụ rõ ràng, minh bạch, đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực gắn với chế độ hưởng thụ thỏa đáng và công bằng" [22, tr.254]. Đặc biệt Bộ Chính trị khóa IX đã có Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-5-2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến 2020; trong đó có chỉ ra "xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức, cán bộ và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của cải cách hành chính nhà nước" và "ban hành luật về công chức, công vụ; xác định rõ cơ quan, công chức nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cho từng loại cán bộ, công chức và hệ thống tiêu chuẩn đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức".
Những văn kiện đó của Đảng là cơ sở chính trị để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật cụ thể, đáp ứng được yêu cầu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cán bộ, công chức. Để thực hiện các nghị quyết đó của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật như pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 (sửa đổi năm 2000 và năm 2003) cùng hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành, quyết định 136/2001/QĐ-TTg ngày 17-9-2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 đến 2010... Những văn bản này tạo tiền đề pháp lý cho việc hình thành đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch vững mạnh, vừa hồng, vừa chuyên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ những cơ sở chính trị và pháp lý kể trên, đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta ngày càng phát triển vững mạnh, có năng lực, trình độ và phẩm chất ngày càng được nâng cao, là công bộc của nhân dân, đáp ứng yêu cầu cơ bản của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Mặc dù vậy, cũng như tình trạng chung của hệ thống pháp luật mà Nghị quyết 48 của Bộ Chính trị đã chỉ ra là: "Nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống"; các văn bản quy phạm pháp luật về cán bộ, công chức và hoạt động công vụ trong những năm qua cũng còn nhiều hạn chế, bất cập. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng "Không ít cán bộ, công chức vừa kém về đạo đức, phẩm chất, vừa yếu về năng lực, trình độ chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ" [11, tr.78], rơi vào căn bệnh mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra là "tự tư tự lợi". Do đó cần thiết phải nghiên cứu, luận chứng để xây dựng, ban hành, tiến tới hoàn thiện hơn pháp luật cán bộ, công chức, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc hình thành đội ngũ cán bộ, công chức vừa có phẩm chất đạo đức, vừa có trình độ năng lực, bảo đảm vừa hồng vừa chuyên, thực sự là công bộc của nhân dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vì những lý do trên, tác giả chọn nội dung "Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và vận dụng trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật, chuyên ngành Lịch sử và Lý luận Nhà nước và Pháp luật tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nâng cao phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn nghiệp vụ đội ngũ cán bộ, công chức là đòi hỏi khách quan cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Để bảo đảm điều đó trước hết phải tạo ra được cơ sở pháp lý bằng cách hoàn thiện chế định pháp luật cán bộ, công chức; Đảng và Nhà nước ta đã xác định cơ sở chính trị của tiến trình đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì thế trong những năm gần đây đã có nhiều đề tài nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và nghiên cứu vấn đề hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức. Liên quan tới nội dung nghiên cứu của luận văn này có một số công trình sau:
- Tác phẩm "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" do các tác giả Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên), Nhà xuất bản (Nxb) Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
- Tác phẩm "Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ" của tác giả Bùi Đình Phong, Nxb Lao động, Hà Nội, 2002.
- Tác phẩm "Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức" các tác giả Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Luận án tiến sĩ Luật "Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về công chức nhà nước ở nước ta", tác giả Nguyễn Văn Tâm, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1997.
- Luận văn Thạc sĩ Luật "Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và vận dụng trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam", tác giả Trần Nghị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002.
- Luận văn Thạc sĩ Luật "Hoàn thiện pháp luật về công chức hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay", tác giả Phạm Minh Triết, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003.
Ngoài ra còn nhiều bài viết đăng trên các tạp chí khoa học hoặc nhiều công trình, luận văn, luận án khác có đề cập ít nhiều tới vấn đề này.
* Đánh giá chung: Các công trình, bài viết khoa học trên đề cập tới vấn đề hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức hoặc trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, công chức và đưa ra những giải pháp cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên chưa có công trình nào đi sâu gắn kết tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ với việc vận dụng để hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ; trong đó làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của cán bộ, tiêu chuẩn cán bộ, việc lựa chọn, huấn luyện và sử dụng cán bộ, chính sách đối với cán bộ; từ đó làm cơ sở luận giải cho việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay. Bên cạnh đó luận văn cũng nghiên cứu lý luận chung về cán bộ và tư tưởng cán bộ để làm cơ sở cho việc tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn là phân tích, làm sáng tỏ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ, về tầm quan trọng của cán bộ, về tiêu chuẩn cán bộ, việc lựa chọn, huấn luyện và sử dụng cán bộ, chính sách đối với cán bộ, đề xuất quan điểm, giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay.
* Luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Luận giải vấn đề lý luận chung về cán bộ và tư tưởng cán bộ.
- Phân tích, làm rõ nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ.
- Làm rõ nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ.
- Lý giải yêu cầu khách quan của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, về nhà nước và pháp luật cũng như những quan điểm về vấn đề này trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít và các phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn trình bày một cách tương đối có hệ thống nguồn gốc ra đời và quá trình phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ; những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ, về tiêu chuẩn cán bộ, về lựa chọn, huấn luyện và sử dụng cán bộ, về chính sách đối với cán bộ. Thông qua những phân tích đó, luận văn góp phần khẳng định cùng với lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ đóng vai trò nền tảng trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay.
- Luận văn chỉ ra yêu cầu khách quan của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay.
- Luận văn đề xuất quan điểm và giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Từ kết quả mà luận văn đạt được, có thể thấy một số ý nghĩa sau đây:
- Góp phần làm sáng tỏ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ.
- Góp phần vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ để hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Có thể sử dụng luận văn làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy về tư tưởng Hồ Chí Minh, về vấn đề hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn này, ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, được chia thành 2 chương, 6 tiết.
Chương 1
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
1.1. Khái niệm và đặc điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
1.1.1. Tư tưởng và tư tưởng về cán bộ
* Khái niệm tư tưởng:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, thì đời sống xã hội có hai loại nhu cầu cơ bản là nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần, trong đó lĩnh vực vật chất quyết định lĩnh vực tinh thần, nhưng lĩnh vực tinh thần có tính độc lập tương đối và tác động trở lại lĩnh vực vật chất. Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội được gọi là ý thức xã hội; còn ý thức xã hội bao gồm những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống… của cộng đồng xã hội, nó nảy sinh từ chính tồn tại xã hội và phản ánh sự tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. Như thế, tư tưởng chính là bộ phận của ý thức xã hội. Vậy tư tưởng là gì? Đã có nhiều định nghĩa về tư tưởng:
+ Theo cuốn Từ điển triết học do Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội ấn hành năm 1957 thì coi tư tưởng là sự phản ánh của hiện thực trong ý thức, là biểu hiện mối quan hệ của con người đối với thế giới xung quanh;
+ Theo cuốn Từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội ấn hành năm 1994 thì coi tư tưởng là những quan điểm, ý nghĩ phản ánh thế giới vật chất trong nhận thức của con người và thể hiện mặt này hay mặt khác của thế giới khách quan;
+ Theo cuốn Từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học ấn hành năm 2002, thì theo nghĩa hẹp, tư tưởng là suy nghĩ hoặc ý nghĩ; theo nghĩa rộng thì tư tưởng là những quan điểm và ý nghĩ chung của con người đối với hiện thực khách quan và đối với xã hội;
+ Theo cuốn Từ điển triết học do Nhà xuất bản Văn hóa- Thông tin, Hà Nội ấn hành năm 2002, thì coi tư tưởng là một hình thái phản ánh thế giới xung quanh con người, tổng hợp các quan niệm, khái niệm thành một thể duy nhất.
Thuật ngữ tư tưởng được bắt nguồn từ tiếng Hy-lạp, idea, có nghĩa là hình thức.
Về nguồn gốc: Do là bộ phận của ý thức xã hội, nên tư tưởng cũng được xuất phát từ việc con người tiến hành hoạt động sản xuất vật chất để bảo đảm nhu cầu sinh tồn của mình, từ đó và sau đó, xã hội mới thường xuyên diễn ra các quá trình sản xuất tinh thần, đúng như Mác viết: "Con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã, rồi mới có thể làm ra chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo,… được" [32, tr.500]. ý thức xã hội từ tự phát như tình cảm, mong ước,… dưới tác động trực tiếp của các điều kiện ấy, được lưu truyền, cùng với nhận thức tăng lên, con người dần tìm đến quy luật bên trong của tồn tại xã hội, nghiên cứu chiều sâu bản chất của các mối quan hệ xã hội, để đúc kết thành quan điểm, tư tưởng. Qua đó, cho thấy tư tưởng là tầm cao của ý thức xã hội, được hình thành một cách tự giác thông qua những hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy, tư tưởng là sự phản ánh điều kiện vật chất xã hội đương thời, nhưng cũng có sự kế thừa; nó xâu chuỗi, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa những yếu tố của tâm lý xã hội cùng với kế thừa từ những quan điểm, tư tưởng có trước.
Về bản chất: Tư tưởng chính là biểu hiện khái quát mang tính lý luận của đời sống xã hội hiện thực, trong đó điều kiện sinh hoạt vật chất của con người là yếu tố quyết định. Nó chính là sản phẩm của sự phản ánh hiện thực thông qua lăng kính của nhà tư tưởng, mà theo Mác, tư tưởng luôn gắn với lợi ích và trong xã hội có giai cấp thì tư tưởng bao giờ cũng mang tính giai cấp: "Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống trị" [31, tr.625].
Về cấu trúc: Do tư tưởng là sự phản ánh khái quát ở trình độ lý luận đối với hiện thực xã hội, mà hiện thực rất phong phú, đa dạng, nên tư tưởng cũng có cấu trúc phản ánh nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Về thực tế: Tư tưởng có vai trò rất to lớn. Do được hình thành một cách tự giác thông qua các hoạt động thực tiễn, được khái quát hóa mang tầm lý luận nên tư tưởng có thể trở thành vũ khí sắc bén trong đấu tranh chính trị xã hội giữa các giai cấp. Theo ăngghen, thực chất của đấu tranh tư tưởng chính là biểu hiện của cuộc đấu tranh giai cấp: "Tất cả mọi cuộc đấu tranh trong lịch sử, không kể nó diễn ra trên địa hạt chính trị, tôn giáo, triết học hay trên bất kỳ một địa hạt tư tưởng nào khác- thực ra chỉ là biểu hiện ít nhiều, rõ rệt của cuộc đấu tranh của các giai cấp trong xã hội" [33, tr.373].
Như vậy, tư tưởng chính là sự phản ánh khái quát, trừu tượng tồn tại xã hội của ý thức, trong đó có biểu hiện các lợi ích nhất định, mà khi được hệ thống hóa thành hệ tư tưởng, nó được biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau như chính trị, tôn giáo, pháp luật, văn hóa,…
Từ những phân tích trên có thể khái quát: Tư tưởng là sự phản ánh hiện thực khách quan trong ý thức của con người trên cơ sở nghiên cứu, phân tích khái quát thành lý luận; nó là sự biểu hiện và phản ánh những lợi ích nhất định.
* Tư tưởng về cán bộ:
Về nguyên tắc, như một lẽ tự nhiên, bất kỳ Nhà nước nào muốn tồn tại và phát triển được phải tạo dựng cho mình một đội ngũ những con người nhất định trở thành chủ thể tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước nhằm duy trì sự tồn tại của Nhà nước mình. Vì thế tất nhiên sẽ hình thành tư tưởng lý luận về những con người đó.
Với Nhà nước XHCN cũng không nằm ngoài quy luật trên. Để bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của mình, Nhà nước cũng cần một đội ngũ những con người nhất định là lực lượng tổ chức và thực hiện quyền lực của Nhà nước mình. Đến lượt mình, đội ngũ những con người ấy phải được hình thành, phát triển trên một nền tảng cơ sở lý luận nhất định; ấy là tư tưởng về cán bộ.
Như trên đã trình bày, tư tưởng là sự phản ánh một cách khái quát và trừu tượng tồn tại xã hội của ý thức con người, thông qua những nghiên cứu, phân tích, tổng hợp của những nhà tư tưởng nhất định. Nếu ta gắn khái niệm tư tưởng với điều kiện xã hội có phân chia giai cấp, ở đó có Nhà nước, mọi giai cấp và các tầng lớp đều hướng tới quyền lực nhà nước, thì thấy điều tất yếu là các giai cấp tìm cách hình thành tư tưởng của mình về vấn đề Nhà nước, trong đó có tư tưởng về những con người là chủ thể nắm giữ, tổ chức và thực hiện trực tiếp quyền lực nhà nước. Với Nhà nước XHCN, thì đó là tư tưởng về cán bộ.
Thực tế, tài liệu bàn về cán bộ và công tác cán bộ có khá nhiều. Tuy nhiên lại chưa có cuốn từ điển hay công trình khoa học pháp lý nào bàn cụ thể khái niệm tư tưởng về cán bộ. Vậy thực chất của tư tưởng về cán bộ là gì?
ở nước ta, khái niệm cán bộ được hiểu theo nghĩa khá rộng. Trên thực tế thì cán bộ được coi là những công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Từ đó có thể thấy: "Cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức" [61, tr.18].
Từ thực tiễn đó, trên cơ sở quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin và khoa học pháp lý có thể khái quát: Tư tưởng về cán bộ là nhận thức lý luận về cán bộ và công tác cán bộ được hình thành bởi các nhà tư tưởng; được thể hiện thành các quan điểm, khái niệm về cán bộ và công tác cán bộ như vị trí,vai trò của cán bộ, tiêu chuẩn cán bộ, việc huấn luyện, đào tạo cán bộ, sử dụng, quản lý cán bộ,…
Tư tưởng về cán bộ là bộ phận của ý thức hệ, nên luôn mang tính giai cấp, nó có vai trò rất quan trọng, là cơ sở chính trị để hình thành trên thực tế những tiêu chuẩn, những quy định mang tính luật hóa về cán bộ. Tư tưởng về cán bộ sẽ bị lịch sử bỏ qua nếu không được bổ sung, phát triển một cách kịp thời để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; nhưng sự phát triển đó cũng phải luôn mang tính kế thừa.
Các khái niệm tư tưởng và tư tưởng về cán bộ đã đề cập, nghiên cứu kể trên là cơ sở lý luận để xác định khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
* Tư tưởng Hồ Chí Minh:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một chủ đề rộng, một hệ thống lý luận phong phú và bao quát nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, được hình thành từ khá sớm; và có thể nói từ năm 1930, bằng việc tổ chức Hội nghị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã là một nhà tư tưởng kiên định lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin. Trên thực tế hơn 70 năm qua Đảng Cộng sản và Nhà nước ta rất coi trọng vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng đề cập từ rất sớm và từng bước bổ sung, hoàn thiện. Trong diễn văn khai mạc Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951), đồng chí Tôn Đức Thắng đã khẳng định: "Đường lối chính trị, nề nếp làm việc và đạo đức cách mạng của Đảng ta hiện nay là đường lối, tác phong, đạo đức của Hồ Chủ tịch" [13, tr.9]. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh được đề cập chính thức tại lễ kỷ niệm 70 năm ngày sinh của Người (19/5/1960), khi ấy đồng chí Trường Chinh viết: "Nhân dịp này, chúng ta hãy ôn lại tiểu sử và sự nghiệp của Hồ Chí Minh, tìm hiểu và học tập tư tưởng, đạo đức và tác phong của Người để phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân được tốt hơn" [4, tr.20]. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (1982) xác định: "Đảng phải đặc biệt coi trọng việc tổ chức học tập một cách có hệ thống tư tưởng, đạo đức, tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn Đảng" [8, tr.61]. Còn Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH (1991) xác định: "Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động" [7, tr.21]. Nhưng phải tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh mới được chính thức làm rõ:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân...
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta [11, tr.83].
Quan điểm trên của Đảng cho thấy tư tưởng Hồ Chí Minh không đơn giản chỉ là một tập hợp những ý tưởng hay suy nghĩ cụ thể của Hồ Chí Minh về những sự việc cụ thể trong những hoàn cảnh cụ thể, mà là một hệ thống, quan niệm về con đường cách mạng Việt Nam được hình thành trên cơ sở nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin; đó là "sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa, nhân nghĩa vào thực tiễn cách mạng Việt Nam với tinh hoa văn hóa nhân loại, được nâng lên tầm cao mới dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin" [23, tr.19].
Tư tưởng Hồ Chí Minh có vị trí hết sức quan trọng đối với tiến trình cách mạng Việt Nam, trở thành ngọn cờ chỉ lối thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua và tiếp tục soi sáng sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Nó mãi mãi soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Như vậy tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm sâu sắc, toàn diện về các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó có vấn đề cán bộ.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ:
Trước hết cần khẳng định rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là bộ phận cấu thành hữu cơ của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, nằm trong mối quan hệ sâu sắc và mật thiết với các vấn đề quan trọng khác thuộc tư tưởng Hồ Chí Minh, là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cán bộ vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, cùng với việc kế thừa tinh hoa truyền thống dân tộc, tạo thành hệ tư tưởng về cán bộ một cách toàn diện, đặc sắc Hồ Chí Minh.
Để hiểu rõ thế nào là tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, cần thấy rằng Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của con người, đặc biệt là người cán bộ. Người từng nói: "Con người là vốn quý nhất, là lực lượng to lớn nhất" [48, tr.310], và Người luôn coi "Cán bộ là gốc của mọi công việc" [43, tr.269], "Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém" [43, tr.240]. Vì vậy nếu có được đội ngũ cán bộ tốt, ngang tầm là điều kiện tiên quyết để đưa sự nghiệp cách mạng đi tới thắng lợi; từ đó trong hoạt động cách mạng của mình, tư tưởng về cán bộ của Người được hình thành qua các công việc cụ thể của thực tiễn, từ việc phát hiện, lựa chọn, đánh giá cán bộ đến việc dùng cán bộ, từ việc huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đến việc khen thưởng, phê bình, kỷ luật cán bộ... Tất cả những yếu tố đó nằm trong mối liên hệ mật thiết, đúc kết nên sự hoàn chỉnh, phong phú của tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ.
Ngay từ việc hiểu người cán bộ một cách cụ thể "Là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ, giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng" [43, tr.269], Hồ Chí Minh đã tạo ra một sự dễ hiểu, gần gũi về người cán bộ, nhưng cũng đồng thời đòi hỏi những nét cơ bản nhất về nhân cách, phẩm chất, năng lực của người cán bộ. Tất cả đã tạo nên một hệ thống lý luận sâu sắc, toàn diện trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về cán bộ. Từ đó Người đã xây dựng những luận cứ khoa học để chỉ ra vai trò của người cán bộ, tiêu chuẩn cán bộ, việc huấn luyện cán bộ cũng như các công việc quan trọng là đánh giá và sử dụng cán bộ. Và điều quan trọng hơn là ở chỗ tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ nói riêng cũng như toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người nói chung không chỉ đơn thuần được hình thành trên một bệ phóng duy nhất là lý luận, mà nó được đúc rút từ thực tiễn, được kiểm nghiệm qua thực tiễn hoạt động của chính Hồ Chí Minh.
1.1.3. Đặc điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
Những tư tưởng của Hồ Chí Minh về cán bộ, từ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của cán bộ đến tiêu chuẩn cán bộ; từ việc phát hiện, lựa chọn, đánh giá cán bộ đến việc sử dụng cán bộ; từ việc huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đến việc đãi ngộ, kiểm soát cán bộ, … đã hợp thành một hệ thống tư tưởng hoàn chỉnh, mà cốt lõi nhất là ở việc coi trọng đánh giá đúng vai trò quyết định là "cái gốc của mọi công việc" của cán bộ; từ đó có kế hoạch chiến lược về hình thành đội ngũ cán bộ vừa có đức, vừa có tài, vừa hồng, vừa chuyên, xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh đủ sức đáp ứng được các yêu cầu, nhiệm vụ trong từng thời kỳ lịch sử. Với Hồ Chí Minh mọi việc trong công tác cán bộ đều cùng nhằm tới hình thành người cán bộ đạt tiêu chuẩn cả đức, cả tài, xây dựng một đội ngũ cán bộ vững mạnh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ mang đặc trưng rất riêng, có thể nói đó là đặc sắc Hồ Chí Minh với những đặc điểm sau:
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là hệ thống những tư tưởng hết sức sâu sắc, toàn diện, đầy đủ về các vấn đề cán bộ và công tác cán bộ, đồng thời cũng rất cụ thể, thiết thực, dễ hiểu, dễ thực hiện. Người đề cập tới mọi vấn đề cán bộ: từ xếp rất đúng, đánh giá rất cao vị trí, vai trò và tầm quan trọng của cán bộ, đến việc đề ra tiêu chuẩn cán bộ một cách toàn diện gồm cả đức, cả tài, cả trình độ tư duy lý luận đến phương pháp và phong cách làm việc; đồng thời Người lại đặc biệt coi trọng và đề cao vấn đề sử dụng cán bộ một cách thiết thực ở tất cả các khâu, từ phát hiện, tuyển chọn cán bộ đến trọng dụng, cất nhắc cán bộ, từ huấn luyện, đào tạo cán bộ đến kiểm soát cán bộ,... Vì vậy mà tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ không chỉ có ý nghĩa về nhận thức, về lý luận, mà còn có ý nghĩa rất lớn trong chỉ đạo thực tiễn.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ được xây dựng thành hệ thống lý luận toàn diện và đầy đủ trên cơ sở thực tiễn, bám sát thực tiễn; nó không chỉ dừng lại ở sự phản ánh bề ngoài một cách giản đơn, mà đi sâu vào bản chất bên trong của vấn đề, mang tính khái quát cao, có tính lý luận sâu sắc; vì vậy tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ đã vượt qua được những hạn chế về thời gian, luôn mang tính thời sự.
Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ có tính dự báo cáo. Nhờ nắm bắt được bản chất và tính quy luật khách quan của vấn đề nên tư tưởng của Người không chỉ có ý nghĩa chỉ đạo để giải quyết các công việc về cán bộ và công tác cán bộ cụ thể đương thời khi Hồ Chí Minh còn sống, mà còn chỉ ra, thích ứng với xu hướng có tính quy luật của tương lai. Những tư tưởng có tính dự báo đó của Hồ Chí Minh không phải là dự báo ngẫu nhiên, mà được hình thành trên cơ sở những phân tích lý luận và thực tiễn sâu sắc nên luôn mang tính khoa học cao. Vì thế tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ đã ra đời cách đây nhiều chục năm, nhưng đến nay vẫn luôn là vấn đề mới, vấn đề thời sự, mang hơi thở của chính cuộc sống hiện đại; đó vẫn là kim chỉ nam, là nền tảng tư tưởng cho công tác cán bộ trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
Từ những phân tích trên có thể khái quát: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là hệ thống những quan điểm lý luận toàn diện và sâu sắc về cán bộ và công tác cán bộ ở nước ta được hình thành trên cơ sở tiếp thu, kế thừa tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cán bộ cách mạng cùng với truyền thống trọng dụng nhân tài gắn với tiêu chuẩn đạo đức ở Việt Nam được nảy sinh và kiểm nghiệm qua thực tiễn ở Việt Nam; là cơ sở tư tưởng chỉ đạo công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước ta.
1.2. nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ nói riêng không phải chỉ là sản phẩm chủ quan trong tư duy lý luận của Người, hay chỉ là sự thêu dệt để ngợi ca lãnh tụ; mà nó ra đời do đòi hỏi khách quan, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trở thành điều tất yếu. Tư tưởng ấy được hình thành dưới sự tác động và ảnh hưởng của những bối cảnh lịch sử xã hội cụ thể của dân tộc và của thời đại, của các yếu tố quốc tế lúc Hồ Chí Minh đã sống và hoạt động. Những điều kiện và những đòi hỏi ấy đã được Hồ Chí Minh nắm bắt một cách chính xác để qua đó vận dụng vào thực tế cách mạng Việt Nam, và phát triển thành tư duy lý luận khoa học về cán bộ.
Như vậy, có thể thấy rằng tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung chính là sự gặp gỡ, thâu tóm có chọn lọc giữa tinh hoa, truyền thống dân tộc với trí tuệ thời đại trong những điều kiện cụ thể trên cơ sở tư duy lý luận và thực tiễn Hồ Chí Minh để tạo ra hệ tư tưởng Hồ Chí Minh một cách đặc sắc.
1.2.1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
Là nhà cách mạng luôn gắn liền với hoạt động thực tiễn, mà mục tiêu lớn nhất là độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, Hồ Chí Minh đã sớm đặt câu hỏi "cách mạng trước hết phải có cái gì?", và Người thấy trước hết phải có một tổ chức cách mạng gồm những con người tiêu biểu làm đầ._.u tầu để dẫn dắt cách mạng đi đến thành công, rồi sau này sẽ là những người làm việc trong bộ máy nhà nước, trong hệ thống chính trị. Những con người đó chính là đội ngũ cán bộ. Vì vậy, vấn đề cán bộ đã hình thành rất sớm trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trở thành bộ phận quan trọng, một trong những vấn đề cốt lõi trong tư tưởng của Người. Do đó, có thể khẳng định rằng nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ cũng chính là các yếu tố chi phối sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung.
1.2.1.1. Truyền thống dân tộc, yếu tố quê hương và gia đình
Việt Nam là quốc gia có truyền thống lịch sử lâu đời với nền văn hóa sớm phát triển, cũng sớm hình thành Nhà nước và pháp luật. Các Nhà nước ở Việt Nam, nhất là từ thời kỳ độc lập tự chủ thế kỷ XI dưới triều Lý trở đi, vấn đề xây dựng Nhà nước với nền độc lập tự cường ngày càng được chú trọng. Trong điều kiện ấy, các Nhà nước của quốc gia Việt Nam phong kiến rất quan tâm tới việc chăm lo xây dựng đội ngũ quan lại của Nhà nước mình. Dù đội ngũ quan lại ấy được tạo dựng, rèn rũa để bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến; nhưng do các điều kiện lịch sử cụ thể và truyền thống của dân tộc Việt Nam, đội ngũ quan lại có nhiều yếu tố mang đặc điểm gần dân, thân dân, gắn bó với dân, ít có điểm tách biệt, đối lập với dân, mà thường xuất phát từ dân, có nhiều điều kiện sống trong lòng dân, được dân che chở, đùm bọc, ủng hộ, nhất là những khi vận mệnh dân tộc nước nhà bị đe dọa, lâm nguy. Những yếu tố và điều kiện đó làm cho đội ngũ quan lại của các nhà nước phong kiến Việt Nam bớt đi tính xa dân và quan liêu. Trong đội ngũ ấy còn có nhiều tấm gương thanh liêm, trong sáng.
Một truyền thống quý báu nữa của dân tộc là sự quý trọng và trọng dụng nhân tài, luôn coi:
Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và hưng thịnh. Nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp kém. Vì thế, các bậc thánh nhân chẳng ai không coi trọng việc kén chọn kẻ sĩ, bồi dưỡng nhân tài, vun trồng nguyên khí là công việc cần kíp. Bởi vì kẻ sĩ có quan hệ trọng đại với quốc gia như thế, cho nên được quý trọng không biết nhường nào [2, tr.27].
Đối với dân tộc Việt Nam, truyền thống yêu nước có trong mỗi con người nói chung, cũng như hiện hữu trong đội ngũ quan lại của các Nhà nước phong kiến nói riêng, nó được hun đúc để trở thành điều cốt lõi trong bản sắc văn hóa Việt Nam.
Tất cả những yếu tố kể trên trở thành truyền thống dân tộc có ảnh hưởng rất lớn tới tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ. Đó là cơ sở ban đầu hình thành nên tư duy về một đội ngũ những con người với những tổ chức là lực lượng tiên phong trong đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước sau này. Đó là tư duy về đội ngũ cán bộ, công chức mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đối với Hồ Chí Minh, truyền thống dân tộc, đặc biệt là truyền thống yêu nước đã trở thành động lực lớn thôi thúc Người đi tìm đường cứu nước, là cơ sở ban đầu để Người đến với và tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, từ đó hình thành nên tư tưởng về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng về cán bộ, như chính Người đã thừa nhận: "Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa Cộng sản đã đưa tôi theo Lênin, tin theo quốc tế thứ Ba" [44, tr.171]
Cùng với truyền thống dân tộc, yếu tố quê hương và gia đình cũng có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ nói riêng. Nơi Hồ Chí Minh sinh ra là mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, đã đóng góp cho đất nước nhiều con người và lãnh tụ kiệt xuất như Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu,… Lẽ dĩ nhiên những bậc tiền bối kiệt xuất muốn phát triển được phong trào, phải chú trọng trước tiên tới vấn đề tổ chức và con người cho phong trào. Đặc biệt như Phan Bội Châu, đã sớm nghĩ tới nguồn nhân lực lâu bền cho cách mạng, nên đã tuyển chọn và gửi nhiều thanh niên tiên tiến đi học ở nước ngoài qua phong trào Đông du. Dù không tán thành con đường và cách đi của Phan Bội Châu, nhưng phương thức tư duy về công tác tổ chức ấy có ảnh hưởng không nhỏ tới tư tưởng Hồ Chí Minh về việc gây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ sau này.
Còn gia đình, thân tộc Hồ Chí Minh, đặc biệt tư tưởng của người cha "chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cải cách chính trị, xã hội" [23, tr.24], với lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, một nhân cách lớn với phẩm chất và nghị lực phi thường; từ đó, "Nguyễn Sinh Sắc đã góp phần xây dựng tư tưởng, đạo đức, nhân cách Hồ Chí Minh." Cái nôi gia đình và thân tộc mẫu mực ấy chính là cơ sở, điểm tựa, là vườn ươm, bệ phóng cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh sau này. Chính từ nền tảng đó, khi gặp trào lưu tư tưởng mới, tiến bộ của thời đại là chủ nghĩa Mác-Lênin đã được Hồ Chí Minh thâu tóm, nâng lên tầm cao mới.
1.2.1.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
Cùng với truyền thống dân tộc, yếu tố quê hương và gia đình, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố thuộc tinh hoa văn hóa nhân loại. Hồ Chí Minh đã làm giàu tư tưởng, trí tuệ của mình bằng sự thâu tóm, kế thừa những di sản tư tưởng quý báu của nhân loại. Đó là sự kế thừa có chọn lọc, phê phán chứ không phải sự sao chép máy móc; cũng không phải sự phủ định sạch trơn, mà luôn là sự đánh giá một cách công bằng, khoa học. Như Người đã từng viết: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê-su có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta” [23, tr.51].
* Về ảnh hưởng của Nho giáo:
Là học thuyết chính trị- pháp lý chỉ ra phương cách cai trị xã hội, trong đó lấy đạo đức làm chủ yếu, Nho giáo rất quan tâm tới vấn đề người cai trị, đẩy người cai trị lên vị trí rất cao, nhưng cũng đòi hỏi người cai trị phải có điều kiện và đáp ứng những yêu cầu phẩm chất nhất định. Đó là tính thân dân với phẩm chất đạo đức và phải thường xuyên tu thân, rèn đức, nêu gương tốt; đó là đức nhân và lòng thương người, đức kính cẩn, khiêm tốn và đức tín với dân. Qua đó, Nho giáo đòi hỏi người cai trị phải thường xuyên sửa mình, tu thân, rèn đức, không ngừng nâng cao trình độ qua học tập.
Sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, được học chữ Hán và tiếp thu văn hóa Khổng- Mạnh từ niên thiếu, nên đạo đức Nho giáo đã thấm vào tư tưởng, tình cảm Hồ Chí Minh; nhưng không phải là những giáo điều nhằm bảo vệ tôn ti trật tự phong kiến, mà là tinh thần nhân nghĩa, nên Hồ Chí Minh nhận rõ những chân giá trị tích cực cũng như điểm duy tâm, lạc hậu của Nho giáo. Người đề cao những yếu tố tích cực trong tư tưởng Nho giáo như các mệnh đề nhân nghĩa, trung hiếu, dân vi quý; từ đó Hồ Chí Minh kết luận: "Học thuyết đức trị của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân" [28, tr.51], và Người cho rằng: "Những người dân An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử, và về mặt cách mạng thì đọc các tác phẩm của Lênin" [40, tr.454].
Với Hồ Chí Minh, trong điều kiện chế độ và thời đại mới, thì những tư tưởng như "Làm chính trị mà dùng đức thì như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các ngôi sao khác hướng cả về" [26, tr.38], hay "Giữ mình cho kính cẩn, làm việc thì giản dị" [26, tr.103] của Nho giáo, người cán bộ cần tiếp thu, học tập. Từ cách nhìn nhận dân vi quý, tư tưởng Nho giáo không chỉ nói nên mục đích vì dân trong hoạt động của Nhà nước, mà còn nói lên vai trò, sức mạnh của dân. Thấm nhuần giá trị tiến bộ đó, Hồ Chí Minh đẩy nó cao hơn với chủ trương "Gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân". Nho giáo mới thấy được sức mạnh của dân mà chưa đi tới dân là chủ của quyền lực nhà nước, nên đội ngũ quan lại ở vị trí cai trị dân, đứng trên dân. Hồ Chí Minh trên cơ sở thấy được sức mạnh to lớn của dân, khẳng định dân là gốc, và xa hơn, dân còn là chủ của quyền lực nhà nước, do đó người cán bộ trong Nhà nước mới "là người đầy tớ trung thành của nhân dân" [48, tr.663]. Các giá trị của người quân tử trong Nho giáo đề ra như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng,… được Hồ Chí Minh vận dụng, kế thừa để bàn về đạo đức và đòi hỏi đạo đức của người cán bộ cách mạng lên những tầm cao mới như cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,… Từ đó thấy rằng Hồ Chí Minh đã tiếp thu, sử dụng cái tích cực, phê phán, loại bỏ cái tiêu cực, đặc biệt là vấn đề đạo đức, như Người chỉ ra: "Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ như người ngược đầu xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngẩng lên trời" [44, tr.320]; từ đó, Hồ Chí Minh đảo lại thế đứng ấy như Mác và ăngghen đã tiếp thu, cải tạo phép biện chứng duy tâm của Hê-ghen để đặt lại nó trên nền duy vật.
Trong kho tàng tư tưởng chính trị phương Đông, bên cạnh Nho giáo, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng và tiếp thu phần tích cực, tiến bộ của nhiều học thuyết khác như Mặc, Lão, Phật; như tư tưởng đòi hỏi nhà cầm quyền "làm đầy tớ" cho nhân dân của Mặc Tử, thì Hồ Chí Minh nói về Chính phủ mới: "Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các dân làng đều là công bộc của dân" [38, tr.261].
* Về ảnh hưởng của tư tưởng phương Tây:
Tư tưởng văn hóa phương Tây là bộ phận quan trọng của tư tưởng văn hóa nhân loại, là một trong những cơ sở quan trọng để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ nói riêng.
Học chữ Hán và tiếp thu tư tưởng Nho giáo từ nhỏ, nhưng sinh thời của Hồ Chí Minh cũng là lúc Nho giáo suy vi, trở nên bế tắc, bất lực trước các vấn đề của thời cuộc, trong khi Việt Nam đã là một xứ thuộc Pháp, bắt đầu tiếp thu những giá trị tư tưởng văn hóa, chính trị phương Tây. Trong điều kiện ấy, Hồ Chí Minh còn nhỏ đã vào học trường Tiểu học Pháp Việt ở Vinh, rồi trường Tiểu học Đông Ba, trường Quốc học Huế, để từ đó, trên cái nền và vốn văn hóa phương Đông cổ học nhất định, Người đã bước đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây, tiếp xúc với những khẩu hiệu như dân chủ, bình đẳng, tự do, bác ái, tư tưởng giải phóng con người khỏi thần quyền tôn giáo…. Những tư tưởng đó thôi thúc Người hướng sang phương Tây: "Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, bình đẳng, bác ái,… Và từ thửa ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy" [39, tr.477].
Trong 30 năm bôn ba nước ngoài, đi qua và sống ở nhiều quốc gia, tiếp xúc với nhiều luồng tư tưởng, nhiều học thuyết khác nhau của phương Tây, đặc biệt là các nhà tư tưởng lớn thời kỳ phục hưng, thế kỷ ánh sáng như Vol-te, Rut-xo, Mông-tec-ski-ơ…, những yếu tố tích cực, tiến bộ từ các cuộc cách mạng Tư sản phương Tây, đã ảnh hưởng lớn đến việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân quyền, tự do, bình đẳng,… Những tư tưởng đòi hỏi Nhà nước được tổ chức đáp ứng yêu cầu của pháp quyền, dân chủ, tổ chức nhà nước không phải là bộ máy cai trị nhân dân, mà là bộ máy tổ chức và thực thi quyền lực của nhân dân. Lẽ tất nhiên khi tiếp thu những giá trị tích cực, tiến bộ đó, Hồ Chí Minh cũng đồng thời chỉ ra những hạn chế của nó như: "Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mĩ, nghĩa là cách mệnh Tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong nước thì tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa" [40, tr.274].
* Về ảnh hưởng từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin:
Dưới sự tác động biện chứng giữa các mối quan hệ cá nhân, dân tộc và thời đại đã đưa Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin- đỉnh cao của tinh hoa trí tuệ nhân loại. Đó là bộ phận có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhờ thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và chuyển hóa được những nhân tố tích cực và tiến bộ trong truyền thống dân tộc cũng như của nhân loại để tạo nên hệ tư tưởng hết sức đặc sắc của mình. Mỗi bước phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh hướng tới hoàn thiện đều không thể tách rời với việc không ngừng học tập và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể Việt Nam. Qua đó, Hồ Chí Minh góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, trong đó có vấn đề cán bộ.
Với tư cách là những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội (CNXH) khoa học, Mác và ăngghen đã đặt nền móng đầu tiên cho vấn đề cán bộ của giai cấp vô sản, rằng: "Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn" [30, tr.181]. Đến Lênin, khi chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền, vấn đề xây dựng đội ngũ những nhà cách mạng chuyên nghiệp cho cách mạng vô sản đã được hết sức quan tâm. Lênin đòi hỏi giai cấp vô sản phải làm sao có được "Những nhà chính trị giai cấp thực sự của mình, những nhà chính trị vô sản và không thua kém những nhà chính trị của giai cấp tư sản" [28, tr.80]. Khi đã giành được chính quyền, vấn đề cán bộ được đặt ra một cách cấp bách, thì tư tưởng của Lênin về cán bộ ngày càng được hoàn thiện hơn, nhất là việc đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn và sử dụng cán bộ.
Chủ nghĩa Mác-Lênin rất coi trọng vai trò, vị trí của cán bộ và công tác cán bộ:
Người Cộng sản lãnh đạo chỉ có một cách duy nhất để chứng minh quyền lãnh đạo của mình, đó là làm cho mình được nhiều, càng ngày càng nhiều, những người phụ tá trong số những nhà sư phạm thực hành, biết giúp đỡ họ làm việc, biết đề bạt họ, biết giới thiệu và chú ý đến kinh nghiệm của họ [29, tr.407].
Lênin cho rằng, đối với đảng cầm quyền, một trong những vấn đề mấu chốt đặc biệt quan trọng là vấn đề cán bộ. Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đòi hỏi người cán bộ phải đạt được những yêu cầu, tiêu chuẩn nhất định:
Về mặt thực tiễn, những người Cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong tất cả các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên; về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản [31, tr.614].
Chủ nghĩa Mác-Lênin đòi hỏi người cán bộ phải luôn tự rèn luyện mình cả năng lực thực tiễn và tư duy lý luận, phải trung thành với sự nghiệp cách mạng, gắn bó và phục vụ nhân dân, chịu sự kiểm soát của nhân dân, dám thừa nhận và sửa chữa sai lầm khuyết điểm: "Luôn luôn hành động dưới sự kiểm soát của nhân dân…, không nấp sau một chế độ quan liêu giấy tờ, không ngại thừa nhận những sai lầm của mình bằng cách sửa chữa những sai lầm ấy" [34, tr.35]. Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng rất coi trọng vấn đề lựa chọn và sử dụng cán bộ, coi đó như một khoa học, phải đặt người cán bộ vào đúng vị trí thì mới phát huy được khả năng, sở trường của cán bộ.
Hồ Chí Minh khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, Người cũng tiếp thu nhiều quan điểm quan trọng về cán bộ và công tác cán bộ, từ đó qua yêu cầu và thực tiễn cách mạng Việt Nam, kết hợp với truyền thống dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đã tạo nên tính đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ- bộ phận cấu thành quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung.
1.2.1.3. Trí tuệ thiên tài, nhân cách, phẩm chất Hồ Chí Minh và hoạt động thực tiễn của Người
Tư tưởng là mặt hoạt động thuộc tinh thần, ý thức của con người, do con người sáng tạo ra trên cơ sở những nhân tố khách quan. Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh còn phụ thuộc vào những yếu tố chủ quan của con người như trí tuệ, phẩm chất, tinh thần, bản lĩnh của người đã sinh ra nó. Đồng thời, tư tưởng nảy sinh từ hoạt động thực tiễn, do chính các hoạt động thực tiễn chi phối và quyết định. Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng không nằm ngoài sự chi phối và tác động của quy luật khách quan ấy.
Hồ Chí Minh là người đặc biệt thông minh, sắc sảo, ham học hỏi, rất nhạy bén, có lối tư duy độc lập, óc sáng tạo, với khối kiến thức sâu rộng, phong phú. Là người có hoài bão lớn, có tinh thần yêu nước, thương dân, có đầu óc tổ chức thực tiễn, luôn gắn lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm; ở Hồ Chí Minh đồng thời là sự mẫu mực về đạo đức cách mạng với tất cả sự khiêm tốn, bình dị, hòa mình vào quần chúng, có sức cảm hóa đối với mọi người. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đánh giá: "Người là một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng" [19, tr.64], hay như nhà báo người Nga Ô-xip Man-đen-xtam ngay từ đầu thế kỷ XX đã viết: "Từ Nguyễn ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai" [39, tr.478]. Những điều đó đã tạo nên nét phong cách riêng biệt Hồ Chí Minh. Qua hoạt động thực tiễn, tiếp nhận, chọn lọc, chuyển hóa và phát triển những tinh hoa của dân tộc và thời đại thành nét đặc sắc trong tư tưởng của mình. Cũng vì thế, Hồ Chí Minh hiểu được vị trí, vai trò đặc biệt của con người nói chung, của người cán bộ nói riêng trong bất cứ hoạt động gì của cộng đồng, của tổ chức. Lý do đó cũng khiến Người hết sức chú trọng vào mảng công tác này, đó là chú ý việc tạo nguồn, đào tạo, huấn luyện, bố trí sử dụng và trọng dụng cán bộ.
1.2.2. Quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là bộ phận cấu thành quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung. Nó có quá trình hình thành và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung.
1.2.2.1. Thời kỳ tìm tòi, khảo nghiệm trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Cháy bỏng khát vọng độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, khâm phục các cuộc khởi nghĩa và các phong trào yêu nước do các bậc tiền bối lãnh đạo nhưng không nhất trí với phương pháp và các cách đi đó, Hồ Chí Minh đã tìm cách ra nước ngoài với cuộc hành trình qua nhiều quốc gia với nhiều gian nan, thử thách. Trên hành trình ấy, Người luôn tìm tòi, miệt mài vừa học vừa làm. Trước các vấn đề của cuộc sống, Người "luôn đặt câu hỏi "tại sao?", và cố gắng tìm lời giải đáp từ trong chính thực tiễn cuộc sống" [52, tr.26]. Từ đó, Người phân biệt được bạn, thù, cơ sở quan trọng cho tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục cán bộ sau này.
Năm 1919, tại Pháp, Hồ Chí Minh gia nhập Đảng Xã hội Pháp để rèn luyện cách hoạt động theo con đường của tổ chức. Người thành lập Hội Người Việt Nam yêu nước nhằm biến cộng đồng người Việt Nam tại Pháp thành một lực lượng hữu ích chống lại chế độ thuộc địa của Pháp tại Việt Nam. Đồng thời, Người còn liên hệ với các thành viên của các nhóm ngoại kiều khác tại Pa-ri. Có thể coi đây là một sự thể nghiệm đầu tiên của Hồ Chí Minh về vấn đề tổ chức con người, để từ đó tạo cơ sở cho việc hình thành tư tưởng về cán bộ sau này của Người. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh còn tham gia nhiều hoạt động báo chí, văn chương, dự các cuộc mít tinh, tham gia nhiều hội, mà theo lời Trần Dân Tiên thì qua đó, Hồ Chí Minh "muốn biết những nước ấy tổ chức và cai trị như thế nào. Ông Nguyễn bắt đầu tổ chức, hoặc đúng hơn là bắt đầu học tổ chức" [52, tr.29].
Mốc quan trọng đánh dấu quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là từ năm 1920, khi bắt đầu tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin. Những quan điểm về cán bộ và công tác cán bộ của chủ nghĩa Mác-Lênin có ảnh hưởng lớn tới sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ; đó là những quan điểm về vị trí, vai trò của cán bộ, về tiêu chuẩn cán bộ, về huấn luyện, sử dụng, kiểm soát cán bộ,… Thời điểm đó, Hồ Chí Minh cũng trở thành một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và là người Cộng sản Việt Nam đầu tiên, thời điểm được coi là "Đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng, bước nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận thức, tư tưởng Hồ Chí Minh và lập trường chính trị của Người, trong đó có nhận thức về cán bộ và công tác cán bộ" [52, tr.40]. Một trong những vấn đề bức xúc mà Hồ Chí Minh nhận thấy lúc ấy đối với cách mạng Việt Nam là cần phải có một bộ phận ưu tú những con người là đầu tầu, nòng cốt thúc đẩy và nắm lấy thời cơ cho cách mạng Việt Nam. Đội ngũ ấy sẽ có trách nhiệm thức tỉnh, tổ chức đoàn kết quần chúng, huấn luyện và đưa họ ra đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho chính mình. Vì thế, công việc đầu tiên là phải lựa chọn và huấn luyện cán bộ. Khi còn chưa có điều kiện tạo nguồn và đào tạo cán bộ trong nước, Hồ Chí Minh đã tổ chức ra các Hội ở nước ngoài để tạo cơ sở ban đầu. Người đã tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa Pháp năm 1921, tiến hành đào tạo một số cán bộ nòng cốt cho phong trào cách mạng các nước thuộc địa, bước đầu truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Hồ Chí Minh đề nghị Đảng Cộng sản Pháp cần bổ sung người bản xứ vào các phân bộ thuộc địa và tổ chức các nghiệp đoàn ở các nước thuộc địa. Khi dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản, Người đề xuất tăng cường lựa chọn, đào tạo cán bộ đối với các nước thuộc địa, và chỉ ra: "Nếu hiện nay nông dân vẫn còn ở trong tình trạng tiêu cực, thì nguyên nhân là vì họ còn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo" [39, tr.289].
Công việc đầu tiên của Hồ Chí Minh khi tới Trung Quốc cuối năm 1924 là tìm cách bắt mối liên lạc với tổ chức yêu nước của Phan Bội Châu mang tên Tâm Tâm xã và bắt tay ngay vào việc xây dựng kế hoạch mở lớp cán bộ đầu tiên cho cách mạng trong nước tại Quảng Châu. Nhờ nỗ lực của Người, trường Huấn luyện chính trị đã được tổ chức, để từ đây đội ngũ cán bộ nòng cốt đầu tiên cho cách mạng Việt Nam đã được hình thành. Sau một thời gian học tập, các học viên trưởng thành nhanh chóng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, được đưa về nước để xây dựng cơ sở, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo cách mạng. Tới giữa năm 1927, Hồ Chí Minh lựa chọn một số cán bộ gửi đi học tại Đại học Phương Đông ở Mát-xcơ-va và trường Quân sự Hoàng Phố ở Quảng Châu. Đồng thời trên cơ sở Tâm Tâm xã, Hồ Chí Minh sáng lập tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội vào tháng 6/1925- tổ chức tiền thân của Đảng sau này. Qua đó, những trí thức cách mạng vừa có điều kiện rèn luyện, phấn đấu, vừa góp phần tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Hồ Chí Minh không những chú trọng đào tạo cán bộ từ đội ngũ thanh niên, mà còn quan tâm đào tạo nguồn cán bộ từ những em thiếu niên nhằm chuẩn bị cho các em trở thành những chiến sĩ cách mạng tương lai. Bằng những công việc cụ thể đó, Hồ Chí Minh đã có điều kiện thể nghiệm trên thực tế những nhận thức của mình, kiểm nghiệm lý luận đã tiếp thu trong thực tiễn, qua đó làm hoàn bị hơn lý luận của mình, đồng thời đào tạo cho cách mạng Việt Nam một lớp cán bộ nòng cốt rất quan trọng đầu tiên. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ đã từng bước được hình thành, góp phần rất lớn vào công tác đào tạo cán bộ sau này.
Khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập năm 1930, Hồ Chí Minh càng giành sự quan tâm nhiều hơn tới vấn đề cán bộ, đặc biệt là công tác đào tạo cán bộ. Người khẩn thiết đề nghị với Quốc tế Cộng sản cần tăng cường đào tạo cán bộ cho Việt Nam và các nước thuộc địa. Người cũng đề xuất biện pháp xuất bản những cuốn sách nhỏ để cán bộ nghiên cứu, học tập. Người chỉ đạo trong nước: "Đảng phải đấu tranh không nhân nhượng chống tư tưởng bè phái, và tổ chức học tập có hệ thống chủ nghĩa Mác-Lênin để nâng cao trình độ văn hóa và lý luận cho các đảng viên. Phải giúp đỡ cán bộ không đảng phái nâng cao trình độ…" [41, tr.139].
Đặc biệt, đầu năm 1941, Hồ Chí Minh đã trực tiếp tổ chức lớp học và huấn luyện cho hơn 40 cán bộ cách mạng Việt Nam, chương trình và tài liệu huấn luyện do chính Người tổ chức biên soạn.
Tháng 5/1941, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 của Đảng, đề ra nhiệm vụ bức thiết cho cách mạng Đông Dương là giải phóng dân tộc, đề xuất thành lập Việt Nam độc lập đồng minh hội, là mặt trận thống nhất đoàn kết rộng rãi toàn dân tộc. Ngay sau đó, Người mở lớp huấn luyện chính trị- quân sự ngắn hạn cho cán bộ tại Cao Bằng và chỉ đạo tổ chức nhiều lớp huấn luyện cán bộ khác, đồng thời trực tiếp giảng dạy hoặc nói chuyện thời sự cho các học viên tại các lớp này.
Cuối năm 1944, Hồ Chí Minh trao đổi với Võ Nguyên Giáp về chuẩn bị chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, mà một trong những nhiệm vụ của đội là tập trung huấn luyện cán bộ với phương pháp là chính trị trọng hơn quân sự, tuyên truyền trọng hơn tác chiến. Khi về tới Tân Trào vào tháng 5/1945, Người chỉ thị khẩn trương thành lập trường đào tạo cán bộ mang tên Trường Quân chính kháng Nhật, và căn dặn: "Lúc nào cũng phải chú ý xây dựng chi bộ, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên và các phần tử trung kiên" [35, tr.256].
Toàn bộ những hoạt động tích cực kể trên của Hồ Chí Minh trước Cách mạng tháng Tám 1945 đã góp phần hết sức quan trọng vào việc xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ ban đầu cho cách mạng Việt Nam. Chính lực lượng ấy đã trở thành một trong những nhân tố nòng cốt quyết định thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945. Cũng chính từ quá trình đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam đã được hình thành ngày càng rõ nét. Đây cũng được coi là giai đoạn tìm tòi, khảo sát và thể nghiệm thành công bước đầu của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ nói riêng, tạo tiền đề lý luận và thực tiễn quan trọng cho việc hoàn thiện tư tưởng của Người sau này.
1.2.2.2. Thời kỳ từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Khi cách mạng tháng Tám thành công, trong điều kiện đã giành được chính quyền nhà nước, và phải đấu tranh kiên quyết giữ vững chính quyền, Hồ Chí Minh còn quan tâm nhiều hơn đến vấn đề cán bộ. Người đã có nhiều bài viết và tác phẩm về vấn đề này, như bài "Cán bộ tốt và cán bộ xoàng" trên báo Sự thật số 77 tháng 6/1947; tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" vào tháng 10/1947; bài viết "Dân vận" trên báo Sự thật số 120, ngày 15/10/1949; bài "Tự phê bình" trên báo Nhân dân ngày 20/5/1951…. Các tác phẩm, bài viết đó thể hiện một cách sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ trên nhiều vấn đề, từ huấn luyện, đào tạo đến sử dụng cán bộ, từ đạo đức đến tác phong làm việc của cán bộ…
Đặc biệt, năm 1949, Người đề nghị thành lập trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Khi đến thăm trường lần đầu tiên, Người đã ghi lên trang đầu cuốn sổ vàng của Trường: "Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư" [43, tr.684]. Những lời vàng đó toát lên tư tưởng rất rõ ràng, đặc sắc của Hồ Chí Minh về cán bộ, đặc biệt là vấn đề phẩm chất đạo đức người cán bộ.
Cùng với việc trực tiếp viết nhiều bài báo, tác phẩm về công tác cán bộ, Hồ Chí Minh còn tới dự, tới thăm và phát biểu tại nhiều lớp, nhiều khóa huấn luyện, đào tạo nhiều loại hình cán bộ và nhiều hội nghị về công tác cán bộ. Những lời phát biểu đó là sự thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ một cách sâu sắc trên các bình diện và khía cạnh khác nhau, phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của từng loại hình đào tạo huấn luyện cán bộ cụ thể.
Giai đoạn kháng chiến kiến quốc, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ đã hình thành qua tìm tòi, khảo sát và bước đầu thể nghiệm ở giai đoạn trước, đến đây được thực thi trong điều kiện mới là có chính quyền nhà nước trong tay, qua đó được bổ sung, hoàn thiện hơn, góp phần quan trọng vào việc hình thành đội ngũ cán bộ, đặc biệt là công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ trong kháng chiến kiến quốc, đó không chỉ là đội ngũ cán bộ của Đảng, mà còn là đội ngũ cán bộ của Nhà nước và của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Khi hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954), nhiệm vụ cách mạng hai miền khác nhau, vấn đề cán bộ và công tác cán bộ được đặt ra cấp bách. Với tư cách là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, tư tưởng về cán bộ của Hồ Chí Minh lại được thực thi trong điều kiện mới. Người tiếp tục có nhiều tác phẩm, bài viết, bài phát biểu đề cập cụ thể và sâu sắc về vấn đề cán bộ và công tác cán bộ. Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 7 khóa II (1955), vấn đề kiện toàn cơ quan lãnh đạo của Đảng, xây dựng lề lối làm việc, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật và đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên được đặt ra như một nhiệm vụ quan trọng. Hồ Chí Minh đã viết bài "Người cán bộ cách mạng" trên báo Nhân dân ngày 03/3/1955 nêu lên tầm quan trọng của việc rèn luyện đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư của người cán bộ. Tại Hội nghị, Người cũng nhấn mạnh yêu cầu người cán bộ phải không ngừng học tập lý luận, thực hiện phê bình, tự phê bình để nâng cao trình độ, năng lực công tác. Đặc biệt, Người đề cao tinh thần tự phê bình của người cán bộ; bản thân Người cũng làm điều đó tại Hội nghị Ban chấp hành trung ương 10 khóa II (1956) khi bàn về cải cách ruộng đất và chấn chỉnh tổ chức: "Tôi nhận trách nhiệm trong lúc sóng gió này" [37, tr.334]. Người cũng rất quan tâm tới việc rèn luyện đạo đức của người cán bộ. Tháng 12/1958, Người viết bài "Đạo đức cách mạng" trên tạp chí Học tập; trong đó chỉ ra vai trò của đạo đức cách mạng, nội dung và chuẩn mực của đạo đức cách mạng, phương cách đấu tranh để loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
Sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960), Hồ Chí Minh tiếp tục có nhiều chỉ đạo cụ thể đối với công tác cán bộ trên nhiều mặt. Người đề nghị Trung ương mở lớp chỉnh huấn mùa xuân 1961 với mục tiêu chống bảo thủ, hữu khuynh, quan liêu xa rời thực tế, xây dựng tinh thần làm chủ, phục vụ nhân dân, cần kiệm xây dựng đất nước.
Ra đi tìm đường cứu nước mang trong mình truyền thống dân tộc, quê hương, lại được tiếp xúc với nhiều luồng tư tưởng lý luận khác nhau, nên tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng và bao quát nhiều vấn đề khác nhau; đó là những quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, bên cạnh tư tưởng về cán bộ, tư tưởng Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở nhiều vấn đề khác, trong đó có tư tưởng về nhà nước, pháp luật, về xây dựng nhà nước pháp quyền được bảo đảm bằng pháp luật. Vì thế, tư tưởng về cán bộ của Hồ Chí Minh không tách rời, mà có mối liên hệ chặt chẽ vơi tư tưởng về nhà nước, về pháp luật, nhất là từ khi giành được chính quyền nhà nước, ý thức được tầm quan trọng của việc thể chế hóa thành pháp luật Nhà nước các đường lối chủ trương của Đảng, nhất là các tiêu chuẩn quy chiếu về cán bộ, qua đó mới thực sự biến sức mạnh tư tưởng thành lực lượng vật chất hiện thực; Nên sau cách mạng tháng Tám thành công, dù còn bận đối phó với cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, và dù tính đặc thù của đội ngũ cán bộ ở nước ta không chỉ làm việc trong các cơ quan nhà nước._.ó là: "a.Do sắp xếp tổ chức, giảm biên chế theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; b.Tự nguyện xin thôi việc được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đồng ý". Cạnh đó, pháp luật về cán bộ, công chức hiện hành lại không có quy định về việc từ chức của cán bộ, công chức để bảo đảm quyền được tự lựa chọn, định đoạt của cán bộ, công chức trong những điều kiện nhất định, nhất là khi họ thấy khó hoặc không hoàn thành được nhiệm vụ, công vụ của mình.
+ Về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức: Quy định rõ những tiêu chuẩn cần có của mỗi loại cán bộ, công chức. Luật cán bộ, công chức cần có quy định về phương thức để cán bộ, công chức phấn đấu, rèn luyện nhằm đạt những tiêu chuẩn đó thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng. Đó cần được coi là quy định bắt buộc. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng gồm những kiến thức cơ bản về quản lý nhà nước cùng kỹ năng hành chính và kiến thức pháp luật cơ bản ngoài kiến thức chuyên môn nghiệp vụ để tạo nên hệ tiêu chẩn kiến thức tổng hợp của cán bộ, công chức, tạo cơ sở, điều kiện để cán bộ, công chức hoàn thành nhiệm vụ, công vụ.
Về vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trước đây, Hồ Chí Minh đã có quan điểm: "Cán bộ chính trị phải hiểu chuyên môn" [45, tr.82], cùng phương châm huấn luyện toàn diện là: "a) Huấn luyện nghề nghiệp… b)Huấn luyện chính trị… c)Huấn luyện văn hóa… d)Huấn luyện lý luận…" [43, tr.270,271].
Trong pháp luật cán bộ, công chức, cần phải có quy định về chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng. Các chương trình, nội dung đó phải được quy định một cách cụ thể, gắn với yêu cầu và phù hợp trong từng thời điểm, giai đoạn lịch sử cụ thể: "Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cần bám sát mục tiêu, yêu cầu, định hướng của chiến lược cán bộ, gắn kết chặt chẽ với công tác quy hoạch cán bộ. Coi trọng chất lượng đào tạo. Phân định rõ giữa đào tạo cơ bản với bồi dưỡng chức danh. Rút ngắn thời gian đào tạo. Chú trọng đào tạo tập trung" [56, tr.369].
2.3.3.3. Hoàn thiện các quy định về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức
Một nội dung quan trọng trong hệ thống thể chế pháp luật cán bộ, công chức là những quy định về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức. Đó là công cụ điều tiết hết sức quan trọng, nó là điều kiện thúc đẩy, tạo động lực cho cán bộ, công chức phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ, công vụ; vì cán bộ, công chức cũng như những người khác, luôn cần có những nhu cầu vật chất và tinh thần nhất định. Các nhu cầu đó xen kẽ nhau. Cần quy định trong pháp luật những chế độ đãi ngộ thường xuyên với cán bộ, công chức. Đó vừa là phần bù đắp những tiêu hao năng lượng, vừa chứa đựng sự đánh giá, tôn trọng của Nhà nước và xã hội đối với hoạt động thực thi nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức. Ngoài những quy định về chế độ đãi ngộ thường xuyên, còn cần phải có cả những quy định về chế độ đãi ngộ đột xuất cho sự hoàn thành nhiệm vụ, công vụ một cách xuất sắc của cán bộ, công chức để động viên, khuyến khích, ghi nhận công lao của họ, thông qua đó cũng chính là sự khích lệ đối với mọi người nói chung trong "nâng cao nhiệt tình cách mạng, lòng yêu nước, yêu nghề, say mê công tác, tự giác rèn luyện, nâng cao trình độ về các mặt, giữ gìn phẩm chất đạo đức" [52, tr.222].
Sinh thời, Hồ Chí Minh luôn chăm lo cho công tác cán bộ một cách toàn diện, Người cũng quan tâm chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ. Đó là những quan tâm hết sức thiết thực, vừa là sự ghi nhận công lao, thành tích, vừa là động viên khích lệ to lớn, thể hiện sự khéo léo, tinh tế trong sử dụng cán bộ của Người: "Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc của chúng ta" [43, tr.273]; và "Người luôn có phần thưởng vật chất thích đáng và những động viên tinh thần kịp thời. Đó có thể chỉ là một lá thư khen, một tấm áo lụa, một chiếc áo khoác chiến lợi phẩm, hoặc thậm chí là một lời chia buồn với những mất mát…" [53, tr.303]. Đó là những kinh nghiệm rất quý của Hồ Chí Minh, thể hiện chính sách trọng dụng hiền tài đúng đắn và khoa học. Chúng ta cần phải học tập, vận dụng tinh thần ấy, đưa thành những quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật về cán bộ, công chức.
Hiện nay, quy định của pháp luật về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức còn ở mức thấp, chưa bảo đảm tái tạo sức lao động, và chưa tương xứng với những cống hiến, sự cố gắng của cán bộ, công chức nếu họ thực sự phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ, công vụ, lại nặng tính bình quân chủ nghĩa; thể hiện rõ nhất là ở chế độ tiền lương còn nhiều bất hợp lý, chế độ khen thưởng thực hiện còn tràn lan và ít có tác dụng khích lệ, động viên.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức trong xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, trên cơ sở nắm chắc những tư tưởng và bài học kinh nghiệm của Hồ Chí Minh về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 3 khóa VII của Đảng (1992) đã ra Nghị quyết về đổi mới chính sách đối với cán bộ, công chức. Tiếp đó, các Hội nghị Trung ương 3 và 7 khóa VIII (1997 và 1999) tiếp tục ra Nghị quyết chuyên đề về vấn đề này. Các Nghị quyết đó thể hiện quan điểm đổi mới và hoàn thiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức trong thời kỳ đổi mới, gắn với các yêu cầu cơ bản sau:
+ Bảo đảm quyền lợi phải đi đôi, gắn liền với trách nhiệm, quyền lợi càng lớn thì trách nhiệm càng cao;
+ Hệ thống chế độ, chính sách phải bảo đảm công bằng trên cơ sở nguyên tắc cơ bản là có làm có hưởng; làm nhiều, cống hiến nhiều, mang lại giá trị lợi ích lớn thì hưởng nhiều tương xứng; không làm không hưởng. Tức là bảo đảm trả công giá trị sức lao động một cách thỏa đáng. Đó chính là nguyên tắc phân phối của CNXH;
+ Các chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức phải bảo đảm tạo ra sự hài hòa, cân đối, không phiến diện, thiên lệch, mang cả ý nghĩa vật chất, tinh thần, chính trị, xã hội…;
+ Các chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức phải phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, nhất là không thoát ly, xa rời điều kiện kinh tế đất nước.
Đặc biệt cần có chính sách đối với người tài: "Xây dựng và thực hiện chính sách phát triển và trọng dụng nhân tài, thu hút nhân tài vào những lĩnh vực quan trọng, không phân biệt người trong Đảng hay ngoài Đảng" [12, tr.296].
Các quan điểm trên là cơ sở chính trị quan trọng để xây dựng, hoàn thiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức để phản ánh trong hệ thống thể chế pháp luật cán bộ, công chức. Trong đó cần tập trung vào một số vấn đề sau:
Thứ nhất, quy định của pháp luật về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức phải giải quyết cơ bản vấn đề tiền lương, để nó phản ánh đúng được trình độ, năng lực và khả năng đóng góp của cán bộ, công chức thông qua hoạt động thực hiện nhiệm vụ, công vụ sao cho những quy định về tiền lương của cán bộ, công chức ngoài tính xã hội còn thể hiện không phải là chủ nghĩa bình quân, cào bằng; bảo đảm tiền lương trở thành nguồn thu nhập chính, chủ yếu, bảo đảm đời sống cho cán bộ, công chức và gia đình họ;
Thứ hai, quy định chế độ tiền lương và các chế độ, chính sách khác đối với cán bộ, công chức phải được tiền tệ hóa, xóa bỏ các khoản biến tướng bao cấp ngoài lương, mang tính đặc quyền, đặc lợi, tạo nên sự phân hóa, bất bình đẳng trong nội bộ cán bộ, công chức; đồng thời phải có quy định rõ ràng đối với những người có công lao, đóng góp lớn, đặc biệt;
Thứ ba, cùng với những quy định về chế độ tiền lương, cần phải có những quy định chính sách khác kích thích, khuyến khích trong các lĩnh vực cần thu hút nhân tài, đối với những chuyên gia có nghiệp vụ chuyên môn sâu, có tay nghề cao; cũng như có những quy định khuyến khích, thu hút cán bộ, công chức đến những nơi làm việc khó khăn, vùng sâu, xa, các quy định chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cấp cơ sở…
Chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức được thể hiện cụ thể trong các quy định về quyền lợi và các quy định về khen thưởng đối với cán bộ, công chức. Các quy định đó cần phải cụ thể, rõ ràng, tạo ra sự thống nhất trong hệ thống chế độ, chính sách chung của pháp luật về cán bộ, công chức. Những quy định đó phải vừa bảo đảm tính riêng biệt cho đối tượng cán bộ, công chức, vừa bảo đảm tính đồng bộ trong hệ thống pháp luật nói chung, tránh sự chồng chéo, trùng lặp không cần thiết với các quy định khác trong hệ thống pháp luật nói chung.
2.3.3.4. Hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức
Trong Pháp lệnh Cán bộ, công chức hiện hành đã có quy định về quyền lợi của cán bộ, công chức, nhưng còn chung chung, thiếu tính cụ thể, hoặc trùng lặp với các quy định khác của các văn bản pháp luật khác một cách không cần thiết; như các quy định trùng với quy định trong Bộ luật Lao động, hay Luật Thi đua khen thưởng. Trong khi những vấn đề mang tính riêng biệt của cán bộ, công chức lại chưa có quy định cụ thể. Ví dụ quy định quyền lợi "chính sách về nhà ở, các chính sách khác và được bảo đảm các điều kiện làm việc" tại Điều 10 Pháp lệnh cán bộ, công chức; quy định khen thưởng đối với cán bộ, công chức cũng tại Điều 10 của Pháp lệnh khi "lập thành tích xuất sắc trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ thì được xét nâng ngạch, nâng bậc lương trước thời hạn". Nhưng khi cán bộ, công chức có đủ các điều kiện trên thì lại không có quy định cụ thể hướng dẫn để thực hiện. Những vướng mắc, tồn tại đó không tạo ra sự động viên, thúc đẩy, kích thích cán bộ, công chức hoàn thành tốt nhiệm vụ, công vụ, làm ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng phục vụ của cán bộ, công chức, thuyên giảm động lực phấn đấu vì nhân dân của họ; điều mà Hồ Chí Minh trước đây đã rất có kinh nghiệm và làm rất tốt.
Cùng với các quy định về quyền của cán bộ, công chức, cũng cần hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ của cán bộ, công chức, nhằm tạo ra sự ràng buộc bảo đảm cán bộ, công chức làm tròn các chức trách, nhiệm vụ được giao, cũng như không được lợi dụng danh nghĩa nhiệm vụ, công vụ để mưu lợi cá nhân. Pháp lệnh Cán bộ, công chức hiện hành quy định nghĩa vụ cán bộ, công chức nói chung tại các Điều 6, 7, 8. Tuy nhiên, để bảo đảm cách hiểu và thực thi cũng như giám sát thực thi các nghĩa vụ đó của cán bộ, công chức được dễ dàng, nên có sự phân loại rõ thành từng nhóm nghĩa vụ. Đặc biệt, do đặc thù trong hoạt động của cán bộ, công chức, thấy rằng, cán bộ, công chức không chỉ chịu trách nhiệm về hành vi thực thi nhiệm vụ, công vụ của mình khi còn đương là cán bộ, công chức, mà trách nhiệm ấy còn tồn tại ngay cả khi họ đã rời bỏ công việc của mình. Điều này có nghĩa cán bộ, công chức phải chịu trách nhiệm phát sinh do việc thực thi nhiệm vụ, công vụ của mình gây ra kể cả khi họ đã rời bỏ chức trách đã được giao bất kể lý do gì. Có như vậy mới nâng cao tính trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức và bảo đảm tính nghiêm minh, công bằng nói chung của pháp luật. Nhưng Pháp lệnh Cán bộ, công chức hiện hành không có quy định nào về vấn đề này.
Hoạt động thực thi nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức cũng là một dạng thức lao động cụ thể, nhưng là lao động đặc thù, là hoạt động phục vụ thể hiện tính chất "là công bộc của nhân dân", nhưng nhìn chung là các hoạt động quản lý, có những dấu hiệu của quyền lực công, nên cán bộ, công chức phải chịu những hạn chế nhất định. Đó là những việc mà cán bộ, công chức không được làm. Những điều cần thiết này được quy định tại Chương III Pháp lệnh Cán bộ, công chức hiện hành là cần thiết để bảo đảm sự công tâm, vô tư, tận tụy trong phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức. Nhưng vẫn cần thiết phải có những nghiên cứu để bổ sung. Ví dụ như quy định cán bộ, công chức không được từ bỏ nhiệm sở, công việc, tham gia đình công, lãn công…
2.3.3.5. Hoàn thiện các quy định về thanh tra, kiểm tra, giám sát, quản lý đội ngũ cán bộ, công chức
Đội ngũ cán bộ, công chức chính là công cụ đắc lực, chủ thể trực tiếp thực thi các hoạt động quản lý của Nhà nước đối với xã hội, là mối dây liên hệ giữa Nhà nước với công dân, là cầu nối chuyền tải giữa chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước với xã hội và ngược lại, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân với Đảng, Nhà nước. Để bảo đảm sự vận hành đó, cần thiết phải xây dựng những quy định về thanh tra, kiểm tra, giám sát, quản lý đối với cán bộ, công chức; coi đó như điều kiện bảo đảm việc thực thi nhiệm vụ, công vụ một cách tích cực, đúng đắn của cán bộ, công chức, để họ thực sự vừa hồng, vừa chuyên. Thanh tra, kiểm tra, giám sát là biện pháp bảo đảm việc chấp hành nghiêm kỷ cương, kỷ luật trong thực thi nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức. Quản lý thống nhất là bảo đảm cho hoạt động của cán bộ, công chức được nhất quán, nhịp nhàng, có trật tự và hướng tới tính hiệu lực, hiệu quả.
Hồ Chí Minh đã từng rất coi trọng công tác kiểm tra, kiểm soát đối với cán bộ. Người đòi hỏi kiểm tra cán bộ phải trở thành nền nếp và thực hiện một cách có hệ thống, qua đó chống được các bệnh quan liêu, bàn giấy, biết được các nghị quyết có được thực thi không, có đúng không và đúng tới mức nào. Người chỉ ra 3 lý do phải kiểm soát đối với cán bộ là: "1.Có kiểm soát như thế mới biết rõ cán bộ và nhân viên tốt hay xấu. 2.Mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các cơ quan. 3. Mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các mệnh lệnh và nghị quyết" [43, tr.287]. Theo Hồ Chí Minh có 2 cách kiểm soát: "Một cách là từ trên xuống. Tức là người lãnh đạo kiểm soát kết quả những công việc của cán bộ mình. Một cách nữa là từ dưới lên. Tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cái cách sửa chữa sự sai lầm đó. Cách này là cách tốt nhất để kiểm soát các nhân viên" [43, tr.288].
Trong điều kiện đổi mới, hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức hiện nay, cũng cần phải lưu ý hoàn thiện các quy định về thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với cán bộ, công chức. Đó là điều kiện bảo đảm cho cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ một cách nghiêm chỉnh, đúng pháp luật, có hiệu quả cao. Thông qua các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát giúp cho cấp trên biết được cán bộ, công chức thuộc quyền thực hiện công việc được giao đến đâu, có đúng không, có gì sai sót không? Nếu có sai phạm thì có chỉ đạo, uốn nắn kịp thời. Đồng thời, thông qua đó còn có cơ sở thực chất để xem xét, đánh giá được đường lối, chủ trương của mình. Cũng qua thanh tra, kiểm tra, giám sát giúp cho cán bộ, công chức thấy được ưu điểm, nhược điểm của mình để có hướng điều chỉnh cho đúng, không bị trượt vào những sai lầm. Đặc biệt những quy định về thanh tra, kiểm tra, giám sát phải theo cách nhìn nhận là: "công tác kiểm tra, giám sát phải góp phần phát hiện và khắc phục được những khuyết điểm, thiếu sót khi mới manh nha"[12, tr.302]. Muốn thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát được, phải có công cụ. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, công cụ số một, quan trọng nhất là pháp luật. Phải có những quy định rõ về thẩm quyền và cơ chế bảo đảm thực thi thẩm quyền thanh tra, kiểm tra, giám sát từ phía Nhà nước, hệ thống chính trị và nhân dân đối với cán bộ, công chức, nhất là việc thực thi quyền khiếu nại, tố cáo một cách dễ dàng, thuận lợi; đồng thời phải có quy định rõ việc cán bộ, công chức phải chịu trách nhiệm về những sai phạm trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ của mình gây ra bằng cách quy định chế độ kỷ luật đối với cán bộ, công chức. Những quy định này phải hết sức chặt chẽ, cụ thể, rõ ràng để tạo ra sự thống nhất, khách quan trong thi hành, tránh những quy định chung vừa thiếu định lượng, định tính như hiện nay; ví dụ như quy định sai phạm "ở mức độ nhẹ" tại Điều 12 Nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính phủ về xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với công chức; mức độ nhẹ là như thế nào không có quy định, giải thích rõ, gây khó khăn, dễ tạo ra sự tùy tiện chủ quan trong thực tiễn áp dụng. Cũng cần quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, trình tự, thủ tục, nguyên tắc trong xem xét, áp dụng các biện pháp xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức.
Điều đáng tiếc là trong Pháp lệnh Cán bộ, công chức hiện hành không có quy định cụ thể về thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động của cán bộ, công chức, ngoài một quy định rất chung chung trong nội dung quản lý nhà nước về cán bộ, công chức tại Khoản 10 Điều 33 Pháp lệnh sửa đổi 2003: "10. Thanh tra, kiểm tra việc thi hành các quy định của pháp luật về cán bộ, công chức", ngoài ra, chưa có nghị định của Chính phủ hướng dẫn rõ vấn đề này.
Để bảo đảm hoạt động của cán bộ, công chức được đúng đắn, thực sự hướng tới phục vụ nhân dân, rất cần thiết phải có những quy định cụ thể về thanh tra, kiểm tra, giám sát những hoạt động của cán bộ, công chức; trong đó phải chỉ ra được các cơ chế, phương thức và nguyên tắc cho các quy định này được triển khai thực hiện, nhất là vấn đề giám sát hoạt động của cán bộ, công chức- một trong những phương thức thể hiện rõ nhất tính dân chủ với nhân dân của nhà nước pháp quyền. Ngoài ra, còn cần phải có các quy định về kiểm tra, sát hạch thường xuyên và định kỳ đối với cán bộ, công chức; kết quả đó phải được công bố công khai, là cơ sở để xét nâng bậc lương, để bố trí, đề bạt, bổ nhiệm và xét hưởng các chế độ đãi ngộ khác.
Một nội dung quan trọng của pháp luật cán bộ, công chức là vấn đề quản lý cán bộ, công chức. Quản lý cán bộ là công việc khó và phức tạp, nó biểu hiện mối quan hệ tổng hợp về nhiều mặt: kinh tế, tổ chức, hành chính, chính trị, pháp lý, tâm lý xã hội…, đòi hỏi tính khoa học và cả nghệ thuật cao. Vì vậy đòi hỏi phải xây dựng được những quy định pháp luật về quản lý cán bộ, công chức rõ ràng, cụ thể, khoa học, là điều kiện bảo đảm cho pháp luật về cán bộ, công chức được thực thi nhất quán và có hiệu quả cao, giúp cho việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, phân phối và sử dụng cán bộ, công chức đúng với yêu cầu, nhiệm vụ của từng giai đoạn cụ thể.
Kết luận
Chúng ta đang trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hướng tới mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tiến trình ấy cần sự nỗ lực to lớn của toàn Đảng, toàn dân; trong đó đội ngũ cán bộ, công chức có vị trí, vai trò hết sức quan trọng.
Mặt khác, đặc trưng quan trọng cơ bản của nhà nước pháp quyền là phải luôn tôn trọng tính tối cao của pháp luật, coi pháp luật là công cụ hàng đầu và chủ yếu nhất trong điều hành, quản lý đất nước. Điều đó có nghĩa và đòi hỏi phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật một cách đồng bộ, thống nhất, minh bạch và công khai.
Như thế, đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về cán bộ, công chức nói riêng là nhu cầu, đòi hỏi tất yếu khách quan. Qua đó tạo ra cơ sở pháp lý cho việc hình thành đội ngũ cán bộ, công chức, cũng như cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực thi nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức; đồng thời còn bảo đảm kiểm soát được quá trình đó, để nó diễn ra theo đúng những quy định của pháp luật, hướng tới phục vụ nhân dân, bảo đảm cán bộ, công chức là công bộc của nhân dân.
Tiến trình đổi mới hiện nay do Đảng khởi xướng và lãnh đạo là tiến trình đổi mới mang tính toàn diện và sâu sắc. Trong suốt tiến trình ấy, Đảng xác định nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc biệt, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể nước ta. Chính tư tưởng ấy đã trở thành sợi chỉ đỏ dẫn đường xuyên suốt mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, không chỉ trong đấu tranh giải phóng dân tộc, trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, mà còn mang tính tương lai bền vững. Tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định "là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam" [11, tr.83], trong đó có tư tưởng về vấn đề cán bộ, về xây dựng và hoàn thiện nhà nước và pháp luật. Kết hợp những yếu tố đó là cơ sở tư tưởng quan trọng trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về cán bộ, công chức ở nước ta.
Hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đòi hỏi tất yếu khách quan trong tiến trình đổi mới hiện nay ở nước ta; bởi nghiên cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng đất nước là chủ trương chung của Đảng và Nhà nước ta, trong đó có nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên, là công bộc của nhân dân. Trong khi thực trạng pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta thời gian qua dù đã được hình thành và từng bước hoàn thiện, góp phần xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, nhưng còn chưa mang tính đồng bộ, thiếu sự thống nhất, chưa thực sự trở thành công cụ, cơ sở pháp lý đầy đủ cho xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức thực sự vững mạnh, trong sạch, đáp ứng yêu cầu đưa cán bộ, công chức trở thành đầu tầu của công cuộc đổi mới, xây dựng kinh tế, cải cách và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh là góp phần làm rõ những giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam nói chung, cũng là góp phần quan trọng vào hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta. Đặc biệt là góp phần quan trọng vào việc tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc để xây dựng và hình thành đội ngũ cán bộ, công chức vừa có đức, vừa có tài, vừa hồng, vừa chuyên, thực sự là công bộc của nhân dân.
Khi nghiên cứu đề tài cho bản luận văn này, tác giả thấy đã có nhiều tác phẩm, công trình khoa học, nhiều bài viết phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, hoặc đề cập tới vấn đề cấp thiết là hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các tác phẩm, công trình, bài viết đó hoặc chỉ đề cập tới tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và vận dụng trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, hoặc phân tích thực trạng, đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức; mà chưa có sự gắn kết hai vấn đề đó với nhau.
Vì vậy, trong luận văn này, tác giả cố gắng nghiên cứu, phân tích, đặt vấn đề để gắn kết tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ với việc vận dụng, hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức theo tư tưởng của Người ở nước ta hiện nay. Qua đó, tác giả mong muốn góp phần làm rõ thêm những giá trị to lớn, quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung bằng việc phân tích những tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về cán bộ, từ đó luận giải cơ sở khách quan, đưa ra quan điểm, giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay.
Danh mục tài liệu tham khảo
1.Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 27/3/2003 về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới.
2.Lương Gia Ban (2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về trọng dụng nhân tài và vấn đề trọng dụng nhân tài trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Tạp chí Khoa học xã hội, (4), tr.27-30.
3.Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ - Viện Khoa học Tổ chức nhà nước (1998), Đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4.Trường Chinh (1991), Chủ tịch Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.
5.Phạm Hồng Chương (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh và một số vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6.Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000, Nxb Sự thật, Hà Nội.
7.Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb Sự thật, Hà Nội.
8.Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội.
9.Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
10.Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11.Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12.Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13.Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng, Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14.Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15.Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16.Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17.Nguyễn Trọng Điều (2005), "Về đánh giá, quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (20), tr.12-16.
18.Phạm Văn Đồng (1998), Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19.Võ Nguyên Giáp (chủ biên) (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20.Lê Kim Hải (2004), "Tìm hiểu quan điểm Hồ Chí Minh về giáo dục cán bộ, công chức", Tạp chí Quản lý nhà nước, (5), tr.30-32,37.
21.Nguyễn Ngọc Hiến (2003), "Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực", Tạp chí Quản lý nhà nước, (5), tr.2-6.
22.Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Xây dựng Đảng (2004), Giáo trình Xây dựng Đảng (hệ cử nhân chính trị), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
23.Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình các môn khoa học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Trần Đình Huỳnh (2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về luân chuyển cán bộ", Tạp chí Tổ chức nhà nước, (8), tr.9-11.
25.Đặng Xuân Kỳ (chủ biên) (2004), Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
26.Nguyễn Hiến Lê (dịch giả) (1995), Luận ngữ, Nxb Văn học, Hà Nội.
27.V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
28.V.I.Lênin (1975), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
29.V.I.Lênin (1975), Toàn tập, Tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
30.C.Mác- Ph.ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31.C.Mác- Ph.ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32.C.Mác- Ph.ăngghen(1995), Toàn tập, Tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33.C.Mác - Ph.ăngghen(1995), Toàn tập, Tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34.C.Mác- Ph.ăngghen (1983), Tuyển tập, Tập 4, Nxb Sự thật, Hà Nội.
35.Hồ Chí Minh (1995), Biên niên tiểu sử, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36.Hồ Chí Minh (1995), Biên niên tiểu sử, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37.Hồ Chí Minh (1995), Biên niên tiểu sử, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38.Hồ Chí Minh (1986), Tiểu sử và sự nghiệp, Nxb Sự thật, Hà Nội.
39.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50.Trần Nghị (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và vận dụng trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
51.Dương Xuân Ngọc (2003), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo và huấn luyện cán bộ", Tạp chí Xây dựng Đảng, (7), tr.2-3.
52.Bùi Đình Phong (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, Nxb Lao động, Hà Nội.
53.Thang Văn Phúc-Nguyễn Xuân Phương (đồng chủ biên) (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54.Nguyễn Văn Sáu (chủ biên) (2005), Nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55.Nguyễn Văn Tâm (1997), Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về công chức nhà nước ở nước ta, Luận án tiến sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
56.Trần Hậu Thành (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
57.Trần Dân Tiên (1994), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
58.Trịnh Xuân Toản (2003), "Đổi mới, hoàn thiện pháp luật về cán bộ, công chức nhà nước", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (4), tr.20-22.
59.Hoàng Trang- Nguyễn Khánh Bật (đồng chủ biên) (1999), Tìm hiểu thân thế, sự nghiệp và tư tưởng Hồ Chí Minh (hỏi và đáp-in lần thứ 2), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60.Phạm Minh Triết (2003), Hoàn thiện pháp luật về công chức hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
61.Nguyễn Phú Trọng-Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên) (2003), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (tái bản), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62.Đặng Minh Tuấn-Nguyễn Thị Thúy (2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ và một số vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (12), tr.3-10.
63.Nguyễn Anh Tuấn (chủ biên) (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
64.Trần Anh Tuấn (2006), "Thấy gì qua 2 năm thực hiện Pháp lệnh Cán bộ, công chức sửa đổi, bổ sung năm 2003", Tạp chí Tổ chức nhà nước, (1+2), tr.37-40.
65.Từ điển tiếng Việt (1994), Nxb Văn học, Hà Nội.
66.Từ điển tiếng Việt (2002), Nxb Đà Nẵng.
67.Từ điển triết học (1957), Nxb Sự thật, Hà Nội.
68.Từ điển triết học (2002), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
69.Đào Trí úc (chủ biên) (2005) Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70.Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý xuất bản (1993), Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van Anh Hieu.doc
- bia hieu.doc