Mục lục
Lời cảm ơn
Trang
Phần mở đầu
1
Tính cấp thiết của đề tài
4
2
Mục đích nghiên cứu của đề tài
5
3
Bố cục của đề án
5
Chương 1
Lí luận chung về lãi suất
1.1
Các khái niệm về lãi suất
6
1.2
Các loại lãi suất chủ yếu
7
1.3
Chức năng của lãi suất trong nền kinh tế
9
1.4
Các mục tiêu của lãi suất
9
1.5
Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất
10
1.6
Các nguyên tắc xác định lãi suất
12
Chương 2
Tự do hoá lãi suất
2.1
Khái niệm về tự do hoá lãi suất
13
2.2
Biểu hi
38 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1337 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tự do hoá lãi suất trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện của tự do hoá lãi suất
13
2.3
Tự do hoá lãi suất với các quá trình tự do hoá khác của nền kinh tế
14
2.4
Tính tất yếu của tự do hoá lãi suất trong nền kinh tế thị trường
15
2.5
Các điều kiện để thực hiện tự do hoá lãi suất thành công.
17
2.6
Kinh nghiệm của một số nước khi tự do hoá lãi suất
18
Chương 3
Một số giải pháp tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam
3.1
Những thách thức trong điều hành công cụ lãi suất ở Việt Nam trong thời gian tới
24
3.2
Định hướng về điều hành lãi suất ở Việt Nam trong thời gian tới
24
3.3
Việt Nam đã hội tụ đủ các điều kiện để tự do hoá lãi suất hay chưa
25
3.4
Một số giải pháp và các bước đi tiến tới tự do hoá lãi suất trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam
27
3.5
Một số kiến nghị
34
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Phần mở đầu
Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới ở nước ta trong hơn 10 năm qua đã tạo ra cho đất nước bộ mặt mới, sức sống mới. Những thành tựu đã đạt được trên nhiều mặt đã đưa nước ta thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, từ đó tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới của đất nước - giai đoạn phát triển theo chiều sâu. Nếu như đánh giá những thành quả về mặt kinh tế của Việt Nam kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay, sẽ thấy thể hiện trên nhiều mặt trong đó đặc trưng chủ yếu là: duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, kiềm chế được lạm phát, giữ ổn định tiền tệ liên tục trong nhiều năm.
Trong quá trình đổi mới nền kinh tế, hoạt động ngân hàng cũng được đổi mới tích cực và rõ nét kể từ năm 1988 đến nay, đặc biệt kể từ khi có hai pháp lệnh ngân hàng (1990). Đổi mới ngân hàng được thể hiện cả về mô hình tổ chức, hành lang pháp lí và các nội dung hoạt động ... Bởi vậy hệ thống ngân hàng đã có sự chuyển biến tích cực nhằm thoát ra khỏi những nội dung hoạt động và sự trì trệ của hệ thống ngân hàng theo cơ chế cũ, chuyển sang hoạt động theo nội dung hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường, và đã góp phần đáng kể vào công cuộc chống lạm phát, giữ vững và dần dần nâng cao giá trị Đồng Việt Nam, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế...
Từ khi đổi mới hoạt động ngân hàng, do ý thức được lãi suất là công cụ quan trọng để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, chính phủ, Ngân Hàng Nhà Nước đã có những bước cải cách quan trọng về lãi suất để tiến tới dần dần tự do hoá hoàn toàn lãi suất ở nước ta, đáp ứng đòi hỏi mang tính tất yếu của nền kinh tế thị trường. Lãi suất bước đầu đã được diều chỉnh theo yêu cầu của thị trường, chế độ kiểm soát lãi suất cứng nhắc dần dần được nới lỏng.
Tuy nhiên, lãi suất hiện nay vẫn còn nhiều điểm chưa hợp lí, đôi khi chưa linh hoạt và chưa điều tiết hoàn toàn theo quan hệ cung cầu về vốn, vẫn tồn tại nhiều mức trần lãi suất cho vay và lãi suất cho vay ngoại tệ, lãi suất tái chiết khấu chưa có điều kiện áp dụng để điều tiết linh hoạt nhu cầu tiền tệ ... Vì thế, độ nhạy cảm của nền kinh tế với lãi suất chưa cao, công cụ lãi suất chưa thực hiện đầy đủ các chức năng, chưa xứng với tầm của nó và sẽ không đáp ứng được nhu cầu đổi mới nền kinh tế trong những năm tới.
Thực trạng trên đòi hỏi phải tiếp tục cải cách lãi suất nhằm khắc phục những điểm bất cập để lãi suất thích ứng với cơ chế thị trường, tiến tới mục tiêu cuối cùng là tự do hoá lãi suất, phù hợp với xu thế của thời đại và mau chóng hội nhập với cộng đồng tài chính quốc tế.
Yêu cầu tiếp tục cải cách, hoàn thiện công cụ lãi suất để mục tiêu cuối cùng là tự do hoá lãi suất ở Việt Nam là vấn đề đặt ra hết sức bức thiết với hoạt động ngân hàng. Xuất phát từ lí do đó, tôi chọn đề tài: Tự do hoá lãi suất trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài này nghiên cứu nhằm những mục đích chính sau:
+Xác định tính tất yếu phải thực hiện tự do hoá lãi suất, đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, góp phần đẩy mạnh qua trình tự do hoá tài chính.
+Đưa ra giải pháp về phương diện vĩ mô và vi mô, trình tự và bước đi cụ thể đẻ tiến tới thực hiện thành công mục tiêu tự do hoá lãi suất hoàn toàn, phù hợp với điều kiện nền kinh tế Việt nam.
Bố cục của đề án
Ngoài phần mở đầu, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề án được chia thành 3 chương:
Chương 1: Lí luận chung về lãi suất
Chương 2: Tự do hoá lãi suất
Chương 3: Một số giải pháp tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt nam.
Chương 1
Lí luận chung về lãi suất
Các khái niệm về lãi suất
Khi nói đến lãi suất, có rất nhiều khái niệm được sử dụng để giải thích về vấn đề này. ở giác độ này hay giác độ khác, lãi suất được hiểu như sau:
Theo John Maney Keynes, lãi suất là sự trả công cho số tiền vay, nó là phần thưởng cho sở thích chi tiêu hay sở thích thanh khoản.
Theo trường phái Keynes, lợi tức coi như phần lời phải trả cho các chi phí ứng trước. Lợi tức tuỳ thuộc vào mối quan hệ cung - cầu về tiền, về quĩ cho vay, về trái khoán.
Theo trường phái chính hiện đại, lãi suất là giá cả của việc sử dụng tiền hay vốn cho vay trong một thời gian nhất định. Lãi suất phản ánh tính khan hiếm về vốn. Lãi suất cũng là tiền trả cho việc dám chấp nhận rủi ro và lãi suất như một công cụ quan trọng để điều tiết kinh tế vĩ mô, tác động đến đầu tư, phân bổ nguồn vốn.
Theo David Cox, lãi suất biểu hiện giá cả khoản tiền mà người cho vay đòi hỏi khi tạm thời trao quyền sử dụng khoản tiền của mình cho người khác. Người đi vay coi lãi suất như khoản chi phí phải trả cho nhu cầu sử dụng tạm thời tiền của người khác.
Như vậy, điều không thể tránh là lãi suất đã hàm chứa một mâu thuẫn: người đi vay muốn có lãi suất thấp nhất trong khi người cho vay muốn có lãi suất cao nhất. Vì vậy, như mọi loại hàng háo khác, lãi suất chủ yếu được xác định bởi cung và cầu về vốn. Tất nhiên không có sự bắt buộc nào với người có tiền dôi dư phải kiếm lãi trên số tiền dôi dư đó. Nhưng khi tiền tiết kiệm không được đầu tư sẽ không sinh lời vì nó không được ai sử dụng. Và vì thế, lãi suất còn có thể được gọi là chi phí cơ hội của việc giữ tiền hay nói khác, chi phí cơ hội của việc giữ tiền là khoản lợi tức mất đi khi người ta giữ tiền chứ không phải các trái khoán.
Các loại lãi suất chủ yếu
Khi phân chia lãi suất thành các loại khác nhau, chúng ta thấy có rất nhiều loại lãi suất, tùy theo đặc điểm và cách phân loại mà lãi suất có các tên gọi khác nhau, cụ thể:
Phân chia theo giá trị thực, ta có
Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất không tính đến tác động của lạm phát, hay nói cách khác là lãi suất ghi trên hợp đồng tín dụng, hay các chứng chỉ tiền gửi. Thông thường, nó được công bố trên báo chí.
Lãi suất thực: là lãi suất được loại bỏ tỉ lệ lạm phát. Nó gần đúng bằng chênh lệch giữa lãi suất danh nghĩa và tỉ lệ lạm phát (trong trường hợp lạm phát thấp).
Phân chia theo sự điều chỉnh hay không điều chỉnh:
Lãi suất thả nổi: Là lãi suất có thể thay đổi lên hoặc xuống và có hoặc không báo trước.
Lãi suất cố định: Là mức lãi suất trả cho khoản tiền gửi (hay tiền vay) dài hạn
phân chia theo nguồn và sử dụng vốn:
Lãi suất tiền gửi: Là tỉ lệ số tiền lãi so với số tiền gốc mà người huy động vốn phải trả cho các hình thức nhận tiền gửi của khách hàng.
Lãi suất cho vay: Là tỉ lệ số tiền lãi so với số tiền gốc người vay phải trả cho người cho vay.
Phân chia theo thời gian:
Lãi suất ngắn hạn: là lãi suất các khoản cho vay có thời hạn ngắn (thường từ 12 tháng trở xuống),.
Lãi suất trung và dài hạn: là lãi suất các khoản vốn cho vay có thời hạn dài hơn (thường trên 12 tháng).
Khung lãi suất: là qui định của ngân hàng trung ương để chỉ đạo, điều hành lãi suất huy động tiền gửi và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại.
Lãi suất cho vay liên ngân hàng: là mức lãi suất trên thị trường tiền tệ ngân hàng, nơi các ngân hàng thực hiện việc vay và cho vay lẫn nhau, nó chỉ dẫn chính xác hơn về chi phí vốn vay của các ngân hàng và cung - cầu vốn trên thị trường.
1.2.7. Lãi suất hoà vốn bình quân: là mức lãi suất cho vay chung mà tại đó, tổng số lãi thu được từ việc cho vay nhiều nguồn vốn khác nhau theo các mức hoà vốn tương ứng khác nhau sẽ vừa đủ để trả số lãi phải trả từ các nguồn vốn huy động.
1.2.8. Lãi suất hoàn vốn: là một lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh toán nhận được theo một công cụ nợ với giá trị hôm nay của công cụ đó. Đây là phép đo được các nhà kinh tế cho là phép đo lãi suất chính xác nhất.
1.2.9. Lãi suất tái cấp vốn: là lãi suất do ngân hàng nhà nước áp dụng khi tái cấp vốn
1.2.10. Lãi suất tái chiết khấu: Là hình thức lãi suất tái cấp vốn được áp dụng khi ngân hàng nhà nước tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá trị ngắn hạn khác cho các tổ chức tín dụng.
Giấy tờ ngắn hạn là giấy tờ có thời hạn dưới một năm.
Các chức năng của lãi suất trong nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất thường thực hiện các chức năng quan trọng sau đây:
Thứ nhất, giúp cho việc bảo đảm tiền tiết kiệm sẽ được chuyển vào đầu tư và kích thích tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, lãi suất sẽ đem lại sự cân đối cung cầu tiền tệ với nhu cầu tiền tệ.
Thứ ba, lãi suất là công cụ quan trọng trong chính sách kinh tế của chính phủ, qua đó ảnh hưởng đến tiết kiệm và đầu tư.
Các mục tiêu của lãi suất
Trong một nền kinh tế cơ cấu và các mức lãi suất nhằm hỗ trợ cho ba mục tiêu chính sau:
Thứ nhất, khuyến khích việc tiết kiệm và sự phát triển của các trung gian tài chính.
Thứ hai, hướng các nguồn lực tài chính vào các lĩnh vực hoạt động có tỉ suất lợi nhuận cao nhất, có hiệu quả kinh tế cao nhất.
Thứ ba, mang lại mức chênh lệch đủ để các tổ chức tài chính trang trải các chi phí hoạt động, chi phí vốn, chi phí chấp nhận rủi ro và lợi nhuận trên vốn tự có.
Để đạt được các mục tiêu trên, lãi suất phải đảm bảo thực dương và thống nhất đối với những giao dịch tài chính có tính chất giống nhau (về kì hạn và rủi ro). Tại một số nước, lãi suất tiền gửi không kì hạn được duy trì ở mức thấp, vì cho rằng chúng thể hiện số dư giao dịch chứ không phải là khoản tiết kiệm. Nhưng thực tế gần đây cho thấy, xu hướng trả lãi suất thực dương với cả tiền gửi không kì hạn để phát triển hệ thống tài chính theo chiều sâu và để huy động các nguồn lực.
Nếu lãi suất thực là âm, thì khuyến khích việc tích trữ hàng hoá và tự đầu tư thay cho tiết kiệm tài chính và từ đó dẫn đến sự kìm hãm phát triển hệ thống tài chính theo chiều sâu, huy động nguồn lực bị hạn chế.
Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất
Cung - cầu về vốn
Lãi suất thường cho ta thấy hàm chứa một mâu thuẫn: đó là người cho vay luôn muốn có lãi suất cao nhất, trong khi người đi vay luôn muốn có lãi suất thấp nhất. Vì vậy, như giá cả của mọi loại hàng hoá khác, lãi suất chủ yếu được xác định bởi cung cầu.
Cung của vốn có được chủ yếu từ các khoản tiết kiệm của dân chúng và lượng vốn được cung cấp phụ thuộc nhiều vào lãi suất. Nếu lãi suất quá thấp, dân chúng sẽ quyết định không cho vay các khoản tiết kiệm của mình, họ sẽ giữ lại các khoản tiết kiệm dưới dạng khả dụng. Khi lãi suất tăng, lượng tiết kiệm dân chúng sẵn sàng cho vay tăng lên, khối lượng cung sẽ lớn hơn.
Mọi sự thay đổi về các điều kiện cung và cầu về vốn đều tác động đến lãi suất. Chẳng hạn, tăng tiết kiệm sẽ dẫn đến tăng cung vốn, và nếu cầu vốn không tăng tương ứng để cân bằng được cung cầu thì sẽ làm cho lãi suất giảm đi. Ngược lại, sự tăng lên về cầu của vốn không tương ứng sự tăng lên của cung vốn sẽ làm cho lãi suất tăng lên.
Mức độ rủi ro
Bất kì lãi suất nào cũng được hình thành từ hai nhân tố, thứ nhất là phần trả cho người vay khi họ trao lại quyền sử dụng nguồn vốn của mình, thứ hai là phần tiền trang trải yếu tố rủi ro trong trường hợp vốn không được hoàn trả.
Rủi ro trong việc hoàn trả vốn càng cao thì người cho vay sẽ tính lãi suất càng cao và ngược lại. Do vậy, đối với các loại cho vay khác nhau thường có các mức lãi suất khác nhau.
Thời hạn
Khi thời hạn vốn huy động cho vay càng dài thì càng đòi hỏi một mức lãi suất cao hơn, với thời hạn ngắn thì thường có mức lãi suất thấp hơn.
Yếu tố lạm phát
Trong một thời gian, nếu tỉ lệ lạm phát cao, người cho vay thường muốn có một mức lãi suất cao hơn để bù đắp cho sự hao hụt vốn gốc dự kiến của họ, khi lạm phát thấp thì lãi suất giảm đi.
Khả năng thanh toán
Nếu khả năng thanh toán của vốn thấp hơn vì khó chuyển đổi ra tiền mặt (tính thanh khoản không cao) thì đòi hỏi mức lãi suất cao hơn, ngược lại khả năng thanh toán cao, khi đó nó có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt thì thường đòi hỏi mức lãi suất thấp hơn.
Chi phí quản lí
Trong trường hợp chi phí quản lí NH càng lớn thì mức lãi suất càng cao và ngược lại, chi phí càng giảm thì mức lãi suất sẽ thấp hơn.
Sự ảnh hưởng của lãi suất trên các trung tâm tài chính quốc tế khác hay trong khu vực kinh tế, ví dụ lãi suất thường bị ảnh hưởng trên phạm vi toàn thế giới bởi sự phát triển của nền kinh tế Hoa Kì.
Khi có một sự thay đổi về mức lãi suất chung sẽ có tác động lớn đến nền kinh tế của một nước trên phạm vi tổng thể. Lãi suất cao sẽ làm giảm nhu cầu vay, cùng lúc đó, hoạt động kinh tế giảm sút và công chúng sẽ giảm nhu cầu chi tiêu. Vì vậy, làm giảm cầu hàng hoá ngành công nghiệp, đến lượt nó lại kìm hãm các khoản đầu tư máy móc nhà xưởng và ảnh hưởng đến công ăn việc làm. Khi hạ thấp lãi suất sẽ có tác động ngược lại.
Các nguyên tắc xác định lãi suất
Theo quan điểm phát triển, chính sách lãi suất cần phải được đảm bảo một mức lãi suất thực dương để khuyến khích người dân gửi tiền vào các tổ chức tài chính. Mức lãi suất thực dương gắn liền với mức lạm phát trong nước.
Lãi suất được xác định trên cơ sở kì hạn. Kì hạn cho vay, gửi tiền càng dài thì lãi suất càng cao.
Trong trường hợp nếu chương trình ổn định kinh tế đòi hỏi phải tăng lãi suất cho vay thì cần phaỉ tăng lãi suất tiền gửi vì lãi suất chịu ảnh hưởng bởi hành vi tiêu dùng của xã hội và nếu tăng lãi suất cho vay mà không tăng lãi suất tiền gửi thì sẽ không khuyến khích tính hiệu quả của ngân hàng.
Nếu nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi, lãi suất cần tính toán , cần cân nhắc tới tỉ suất lợi nhuận bình quân để mở rộng cho vay, giải phóng năng lực sản suất của xã hội.
Thực hiện lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất huy đông bình quân, đảm bảo lãi suất dương.
Lãi suất bù đắp được rủi ro mà người cho vay phải gánh chịu. Mặt khác, lãi suất cần tính toán đến chi phí quản lí khác nhau.
Lãi suất điều chỉnh linh hoạt, tránh điều chỉnh đột ngột.
Trong nền kinh tế thời mở cửa hay nền kinh tế chuyển đổi ngày càng gắn chặt với nền kinh tế thế giới thì không nên duy trì mức lãi suất khác (thường là cao hơn) so với thị trường thế giới.
Lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ không nên để khoảng cách bất hợp lí.
Mặt bằng lãi suất trên cùng một địa bàn phải thống nhất với nhau và thống nhất đối tượng.
Chương 2
Tự do hoá lãi suất
2.1. Khái niệm về tự do hoá lãi suất
Tự do hoá lãi suất về cơ bản được hiểu là lãi suất hoàn toàn được điều chỉnh theo yêu cầu của thị trường, do thị trường quyết định. Hay nói cách khác, lãi suất được điều chỉnh theo tín hiệu của thị trường. Cụ thể, lãi suất được điều chỉnh theo quan hệ cung cầu đầu tư, mức tiết kiệm và thu nhập trong nền kinh tế.
Khi tự do hoá lãi suất sẽ giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước. Sự can thiệp của nhà nước lúc này chỉ mang tính gián tiếp và dừng lại ở mức bảo đảm cho tự do hoá lãi suất được an toàn, trôi chảy và có hiệu quả.
Khi tự do hoá lãi suất sẽ góp phần làm cho các dòng vốn được tự do lưu chuyển đến bất cứ đâu, tuỳ thuộc theo ý muốn của nhà đầu tư mà không gặp bất cứ sự ngăn cản phi kinh tế nào. lãi suất khi đó sẽ tự điều chỉnh linh hoạt và nhạy cảm phản ánh theo đòi hỏi của thị trường, nâng cao hiệu quả đầu tư và khi tự do hoá lãi suất sẽ đẩy mạnh quá trình tự do hoá tài chính.
2.2. Biểu hiện của tự do hoá lãi suất
Tự do hoá lãi suất được biểu hiện cụ thể như sau: trong điều hành lãi suất, Ngân Hàng TW chỉ qui định các mức lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay tái chiết khấu của Ngân Hàng TW đối với các tổ chức tín dụng. Tự do hoá lãi suất, khi đó cơ cấu và các mức lãi suất (bao gồm lãi suất cho vay và huy động vốn) của các tổ chức tín dụng với nền kinh tế (khách hàng) do các tổ chức tín dụng tự qui định, dựa trên cơ sở cung - cầu về vốn và sự cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng với nhau trên thị trường, từ đó hình thành nên các mức lãi suất phản ánh đúng yêu cầu của thị trường.
Mối dây liên hệ giữa lãi suất chi vay và lãi suất tiền gửi trong nền kinh tế thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường, các ngân hàng thương mại xác định các mức lãi suất cho vay dựa trên cơ sở mức thị trường sẽ chịu được, còn thông thường lãi suất tiền gửi sẽ phụ thuộc vào lợi nhuận của ngân hàng khi cho vay. Mức chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay được xác định bằng sự cạnh tranh trên thị trường đối với tiền vay và tiền gửi.
2.3. Tự do hoá lãi suất với các quá trình tự do hoá khác của nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, có 3 qua trình tự do hoá cơ bản đó là:
Tự do hoá giá cả
Tự do hoá tài chính thương mại
Tự do hoá tài chính
Trong 3 xu hướng tự do hoá cơ bản trên của nền kinh tế, thì tự do hoá tài chính thường là bước cuối cùng, khó khăn nhất, lâu dài nhất và cũng nguy hiểm nhất nếu xét về khía cạnh rủi ro và các cú sốc đối với nền kinh tế.
Tự do hoá tài chính có thể phân chia thành hai cấp độ, đó là:
Thứ nhất, tự do hoá tài chính nội địa: tức là xoá bỏ sự kiểm soát về lãi suất và phân bổ tín dụng.
Thứ hai, tự do hoá tài chính quốc tế: tức là xoá bỏ kiểm soát về vốn và sự hạn chế trong quản lí ngoại hối (chuyển đổi tiền tệ).
Trong qua trình tự do hoá tài chính, tự do hoá lãi suất được coi là hạt nhân của quá trình tự do hoá tài chính. Lãi suất phải do thị trường quyết định, nó phụ thuộc vào cung cầu đầu tư, mức tiết kiệm và thu nhập của nền kinh tế và thông thường, tự do hoá lãi suất thường gắn liền với tự do hoá tỉ giá hối đoái.
2.4. Tính tất yếu của tự do hoá lãi suất trong nền kinh tế thị trường
Trước hết chúng ta đều biết, trong nền kinh tế có 3 loại giá là giá hàng hoá và dịch vụ, giá vốn (lãi suất), và giá ngoại tệ (tỉ giá hối đoái) nên tự do hoá lãi suất (thường gắn với nó là tự do hoá tỉ giá hối đoái) tác động mạnh mẽ tới toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quyết định tốc độ và tính chất của tăng trưởng kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường thường thực hiện tự do hoá lãi suất vì như đã nêu trên, tự do hoá lãi suất là hạt nhân của tự do hoá tài chính mà tự do hoá tài chính thành công là bộ phận cấu thành quan trọng trong chiến lược tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia.
So sánh giữa tự do hoá lãi suất và kiểm soát lãi suất cho thấy:
Thứ nhất, kinh nghiệm cho thấy trong nền kinh tế thị trường khi tự do hoá lãi suất đúng hướng và theo đúng trình tự sẽ có những ưu việt cơ bản sau đây:
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện trở lại để ổ định kinh tế vĩ mô.
Góp phần làm cho các dòng vốn được tự do luân chuyển đến bất kì đâu tuỳ thuộc theo ý muốn của nhà đầu tư mà không gặp phải bất cứ một sự ngăn cản phi kinh tế nào.
Tăng vốn đầu tư phát triển sản xuất
Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển mạnh có hiệu quả.
Thâm hụt ngân sách giảm
Lãi suất khi đó tự điều chỉnh linh hoạt và nhạy cảm phản ánh theo đòi hỏi của thị trường, hay nói cách khác, nó phản ánh chính xác gia svốn trên thị trường, nâng cao hiệu quả đầu tư.
Đẩy mạnh quá trình tự do hoá tài chính.
Góp phần làm cho thị trường tài chính chính thức phát triển và thị trường tài chính ngầm không có điều kiện phát triển.
Kích thích cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt sự cạnh tranh của các tổ chức tài chính, cải thiện chất lượng cung ứng các dịch vụ tài chính.
Thứ hai, khi lãi suất bị kiểm soát quá chặt chẽ trong một thời gian dài sẽ gây ra những thiệt hại tổng thể cho nền kinh tế, khuyến khích sự vay mượn lòng vòng, trốn tránh sự kiểm soát, dẫn tới không hiệu quả, cụ thể:
Trong trường hợp các ngân hàng buộc phải cho vay với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường dưới một sức ép nào đó và phải huy động với lãi suất cao thì chênh lệch lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra sẽ không đẩm bảo bù đắp chi phí hoạt động của ngân hàng. Từ đó tính bền vững (đặc biệt bền vững về mặt tài chính) không đảm bảo. Như thế, các ngân hàng sẽ không phát triển. Mặt khác, khi phải cho vay với lãi suất thấp và huy động vốn cho vay với mức lãi suất thấp để đẩm bảo bù đáp chi phí, lãi suất thấp sẽ không khuyến khích được người dân duy trì nguồn vốn tiết kiệm của mình ở trong nước, dễ xảy ra tình trạng Đô La hoá ... và cuối cùng kìm hãm sự tăng trưởng các khoản tiết kiệm và giảm hiệu quả đầu tư.
Kinh nghiệm cho thấy, ở những nước có hệ thống ngân hàng bị kiểm soát một cách chủ quan thì lãi suất cho vay thường tăng nhưng lãi suất tiền gửi lại không tăng và phần chênh lệch lại bị ngay tính kém hiệu quả của hệ thống ngân hàng ngốn hết.
Khi kiểm soát lãi suất quá chặt chẽ sẽ khuyến khích sự hình thành những công cụ tài chính và các trung gian tài chính không chính thức phát triển (và không bị kiểm soát) để cạnh trạnh với các công cụ tài chính và các trung gian tài chính chính thức bị kiểm soát.
Trong trường hợp lãi suất tăng ở mức quá cao, tuy tiết kiệm tăng lên nhưng sẽ làm đầu tư của nền kinh tế giảm xuống, từ đó tổng cầu của nền kinh tế sẽ giảm và lạm phát cũng có thể sẽ giảm nhưng đi liền với nó là công ăn việc làm sẽ giảm và thu nhập cũng giảm theo bởi vì khi lãi suất tăng, ngân hàng sẽ làm tăng chi phí và giảm nhu cầu trong nước trực tiếp, dòng vốn từ bên ngoài đổ vào nhiều do kết quả của việc tăng lãi suất, từ đó làm tăng giá đồng tiền trong nước. Bởi vậy, làm giảm nhu cầu bên ngoài đối với hàng hoá và dịch vụ trong nước và các khu vực bị ảnh hưởng tiêu cực của chính sách này tăng lên.
Ngược lại khi duy trì lãi suất cho vay quá thấp sẽ làm giảm lãi suất tiền gửi (trong đó có tiết kiệm), từ đó không khuyến khích tiết kiệm và kéo theo hạn chế nguồn tài trợ lớn. Như vậy dẫn đến sai lầm trong việc phân bổ nguồn lực, đồng thời tạo nhu cầu lớn về tín dụng, có thể có nhiều dự án không hiệu quả được lựa chọn đầu tư và tạo nên sự đầu tư vào nhiều lĩnh vực phi sản suất.
Nếu lãi suất thấp chỉ dành cho một đối tượng cụ thể nào đó, có thể có hiện tượng cho vay không đúng đối tượng vì khi đó có thể xuất hiện những thông tin sai lệch để được ưu đãi. Trường hợp có quá nhiều đối tượng được hưởng lãi suất ưu đãi thì sẽ không còn sự ưu đãi nữa.
Kinh nghiệm trước đây ở châu Mĩ La Tinh khi duy trì lãi suất quá thấp đã dẫn tới hiện tượng chảy máu vốn, thất thoát vốn vì dòng vốn luôn có xu hướng chảy vào nơi có lãi suất cao hơn.
Nếu xét theo khía cạnh cạnh tranh, một số đối tượng được hưởng lãi suất ưu đãi sẽ có lợi thế, những đối tượng khác bất lợi, từ đó không khuyến khích cạnh tranh và không khuyến khích tăng trưởng kinh tế.
2.5. Các điều kiện để thực hiện tự do hoá lãi suất thành công
Qua đúc kết các kinh nghiệm cho thấy, ở bất cứ đất nước nào, tự do hoá lãi suất chỉ thành công khi có các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, sự ổn định kinh tế vĩ mô đủ chắc chắn để chịu đựng được các tác động, các cú sốc từ bên ngoài đối với nền kinh tế có thể xảy ra khi tự do hoá hoàn toàn lãi suất.
Thứ hai, sự hiện diện đầy đủ các công cụ của chính sách tiền tệ hữu hiệu, sự hình thành các qui trình nghiệp vụ phù hợp đòi hỏi của nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, có môi trường pháp lí và thể chế hoàn thiện, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ kinh tế. Có qui chế phòng ngừa, bù đắp rủi ro hoàn thiện, hữu hiệu, đảm bảo hạn chế và bù đắp được những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của các trung gian tài chính.
Thứ tư, hệ thống các cơ quan tài chính phát triển lành mạnh, có uy tín. Các cơ quan này đòi hỏi không chỉ có công nghệ hiên đại (máy móc thiết bị) mà còn phải có sự phát triển về bề sâu, có kinh nghiệm lâu dài về quản lí ở nhiều khía cạnh.
Thứ năm, sự thanh tra giám sát chặt chẽ của Ngân Hàng TW đối với các tổ chức tín dụng trong hoạt động kinh doanh nói chung và thực thi chính sách tiền tệ nói riêng.
Thứ sáu, chọn thời điểm bắt dầu, tốc độ và lộ trình (trật tự sử dụng các công cụ) tự do hoá lãi suất phù hợp với bối cảnh của nền kinh tế. Kinh nghiệm về tự do hoá lãi suất ở một số nước vào những năm 80 cho thấy tự do hoá không đúng thời điểm sẽ làm tăng tính bất ổn định kinh tế vĩ mô thông qua việc làm tăng lạm phát và nợ nước ngoài, giảm sức sản suất trong nước .
Thứ bảy, tự do hoá lãi suất gắn liền với tự do hoá tỉ giá hối đoái.
2.6. Kinh nghiệm của một số nước khi tự do hoá lãi suất
Qua kinh ngiệm của một số nước cho thấy, tự do hoá lãi suất có xu hướng làm bộc lộ những yếu kém về thể chế và cơ cấu trong khu vực tài chính và có thể làm tổn hại đến hệ thống ngân hàng do những cơn sốc vĩ mô xuất phát từ bên ngoài và chính sách vĩ mô không thích hợp. Do vậy, cải cách lãi suất nhanh không gắn liền với việc củng cố qui chế phòng ngừa và khuôn khổ thanh tra thường kéo theo sự chấn động hệ thống tài chính. Cụ thể những yếu kém về thể chế và cơ cấu khu vực tài chính đó như sau:
Các ngân hàng mất khả năng thanh toán, đặc biệt các ngân hàng có vốn tự có thấp bởi vì chế độ lãi suất linh hoạt, do cố gắng bù đắp các khoản thua lỗ, các ngân hàng bị đe doạ về khả năng thanh toán có xu hướng phân bổ tín dụng vào những dự án có lãi suất cao nhưng nhiều rủi ro mà không chú trọng đúng mức tới việc thu hồi vốn, xảy ra sự lựa chọn đối nghịch (đối với cả hệ thống tài chính và người đi vay).
Hệ thống ngân hàng không đủ năng lực, thể chế và kĩ năng trong việc kiểm soát tiền tệ và kiểm soát rủi ro trong môi trường nới lỏng.
Qui chế an toàn và phòng ngừa rủi ro của các ngân hàng không thích hợp, đặc biệt là tỉ lệ vốn tự có trên tài sản có của các ngân hàng thấp.
Hệ thống thông tin, công tác kế toán không rõ ràng và không thích hợp, kiểm toán không được quan tâm đúng mức, việc kiểm soát nội bộ các tổ chức tài chính không đầy đủ, bởi vậy không đáp ứng được yêu cầu công tác thanh tra, giám sát và kiểm soát nội bộ.
Sự đánh giá không đầy đủ của công chúng với rủi ro các loại hình tổ chức tài chính khác nhau.
Khuôn khổ luật pháp không đầy đủ và không đủ sức cưỡng chế việc thực hiện các hợp đồng hay trong việc thực hiện luật phá sản, từ đó ảnh hưởng đến việc chấp hành kỉ luật tài chính của các bên vay.
Thị trường tài chính chưa phat triển và chưa đa dạng hoá, từ đó dẫn đến sự tập trung qua mức vào hệ thống ngân hàng. Mặt khác làm cho người vay chịu những rủi ro lãi suất quá mức , hoặc hạn chế họ tiếp cận với các nguồn vốn của các tổ chức tài chính chính thức.
Hệ thống thanh toán ở trình độ thấp làm cho công tác quản lí tiền tệ kém hiệu quả, từ đó làm giảm chức năng của lãi suất trong viêc phân bổ các nguồn lực.
Điều cần nhấn mạnh là kinh ngiệm quốc tế đã chứng minh rằng ở những nước chú trọng đến môi trường tài chính và thể chế hoạt động của tổ chức ngân hàng kể từ khi bắt đầu quá trình cải cách sẽ đề ra bước đi thích hợp trong cải cách lãi suất và đã đạt được những kết quả tốt hơn và tiến xa hơn rất nhiều so với các nước không làm như vậy.
Theo quan điểm của ngân hàng thế giới, trong vòng hai thập kỉ vừa qua, các nhà kinh tế đã nhấn mạnh vai trò sống còn của chính sách lãi suất trong quá trình phát triển. Kinh ngiệm của các nước đang phát triển cho thấy rằng chính sách này nên đánh giá lại trong bối cảnh các chương trình điều chỉnh kinh tế.
Chính sách lãi suất là một trong các vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất trong các chiến lược điều chỉnh kinh tế ở các nước đang phát triển. Trong các chương trình tự do hoá tài chính với mục đích là loại bỏ kiểm soát lãi suất, vẫn chưa có một sự thoả thuận nào về một chiến lược tốt nhất để đạt được mục tiêu này. lãi suất nên tự do hoá từ từ hay trong một khoảng thời gian ngắn ? Điều kiện cần có để tự do hoá lãi suất là gì ? trình tự chính sách cho các nước có mức lạm phát thấp có khác với các nước có mức lạm phát cao hay không ? công tác quản lí, giám sát các ngân hàng quan trọng như thế nào ?
Mặc dù không có một cơ chế cố định hay nói khác là một công thức để đạt được mục tiêu tự do hoá lãi suất, nhưng kinh nghiệm của các nước đang phát triển khi tự do hoá lãi suất cho thấy tầm quan trọng của trạng thái ban đầu của nền kinh tế, và qui chế thận trọng đối với hệ thống tài chính.
Qua kinh nghệm của các nước đang phát triển có thể xác định được 4 chiến lược chính sách, tuỳ thuộc vào môi trường kinh tế vĩ mô ban đầu có ổn định hay không ổn định, và sự giám sát ngân hàng có đầy đủ hay không. Có thể tóm tắt các chiến lược đó như sau:
Chiến lược 1: Trong đó sự bất ổn định kinh tế vĩ mô kết hợp với việc giám sát ngân hàng yếu kém
Chiến lược 2: Trong đó kết giữa bất ổn định kinh tế vĩ mô, sự mạo hiểm của ngân hàng (ngân hàng cho vay với độ rủi ro cao) và sự giám sát của hệ thống ngân hàng có hiệu quả.
Chiến lược 3: Trong đó nền kinh tế vĩ mô ổn định, nhưng tính mạo hiểm của các ngân hàng đã làm nảy sinh rủi ro do sự giám sát không đầy đủ.
Chiến lược 4: Trong đó nền kinh tế vĩ mô ổn định và hệ thống ngân hàng được giám sát đầy đủ.
4 chiến lược tự do hoá lãi suất ở các nước đang phát triển theo mô hình kinh tế vĩ mô ban đầu và việc giám sát ngân hàng
Trình tự cải cách
Điều kiện ban đầu trong nước
Sự bất ổn kinh tế vĩ mô kết hợp với giám sát ngân hàng yếu kém
Kết hợp giữa bất ổn định kinh tế vĩ mô và sự giám sát của ngân hàng có hiệu quả
Nền kinh tế vĩ mô ỏn định và hệ thống giám sát ngân hàng không đầy đủ
Nền kinh tế vĩ mô ổn định và hệ thống ngân hàng được giám sát đầy đủ
Bước thứ nhất
ổn định nền kinh tế và tăng cường giám sát ngân hàng trong khi điều chỉnh lãi suất
ổn định nền kinh tế và duy trì giám sát bắt đầu dần dần thả nổi lãi suất
Duy trì ổn định kinh tế và tăng cường giám sát, trong khi nâng cao giám sát, tạm thời điều chỉnh lãi suất
Duy trì ổn định kinh tế và giám sát, có thể đồng thời thả nổi lãi suất
Bước thứ hai
Thả nổi lãi suất
Thả nổi lãi suất
Thả nổi lãi suất
Nếu xét về lí thuyết, đối với tất cả 4 trường hợp phải đạt được sự ổn định kinh tế vĩ mô và việc giám sát ngân hàng chặt chẽ trước khi thả nổi lãi suất hoàn toàn. thả nổi hoàn toàn lãi suất và đồng thời chỉ có thể thành công trong một trường hợp duy nhất đó là: nền kinh tế vĩ mô ổn định và hệ thống ngân hàng được giám sát có hiệu quả. Trong 3 trường hợp còn lại, lãi suất được điều chỉnh và quản lí mềm dẻo nhằm đạt được mức lãi suất thực dương phải là qui tắc quan trọng trong việc dự đoán lợi ích đầy đủ từ ổn định kinh tế, cải tiến sự giám._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0867.doc