Tài liệu Tự do hoá lãi suất ở Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp: ... Ebook Tự do hoá lãi suất ở Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp
59 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1464 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tự do hoá lãi suất ở Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế của hệ thống Ngân hàng Việt Nam là một vấn đề mang tính chiến lược và là xu thế phát triển tất yếu trong nền kinh tế hiện đại. Trong quá trình này lãi suất là biến số kinh tế quan trọng, biến động không ngừng và cần được “tự do hoá” trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Việc theo dõi và nghiên cứu về tự do hoá lãi suất là cần thiết trong thời điểm hiện nay khi nền kinh tế nước nhà đang đứng trước cánh cửa hội nhập. Thông qua đề tài “Tự do hoá lãi suất ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” xin được phản ánh một cái nhìn tổng quan về tiến trình này ở nước ta, những thành tựu cũng như thiếu sót. Đề tài mong đóng góp một phần nào đó kiến thức về tiến trình tự do hoá lãi suất cũng như những biện pháp để xây dựng một nền tảng lãi suất hoàn thiện hơn trong tương lai.
Bố cục của đề tài được chia làm 3 phần lớn :
_ Phần 1 đề cập tới cơ sở lý luận và những khái niệm cần biết về tự do hoá lãi suất
_ Phần 2 phản ánh thực trạng tiến trình tự do hoá lãi suất đã và đang được diễn ra ở nước ta
_ Phần 3 là giải pháp và đề xuất trong thời gian tới
Đề án được viết dựa trên kiến thức bản thân cùng với tham khảo các loại tài liệu nhưng chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót, mong nhận được sự góp ý để đề án được hoàn thiện hơn.
Xin trân thành cảm ơn cô giáo Lê Phong Châu đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này
PHẦN I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT
Lãi suất là một trong những biến số kinh tế được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong nền kinh tế. Diễn biến của lãi suất có tác động rất lớn tới sức khoẻ của nền kinh tế. Nó ảnh hưởng tới quyết định tài chính của các cá nhân trong xã hội, các quyết định đầu tư….Lãi suất cũng được đánh giá là một trong những công cụ hữu hiệu trong chính sách tài chính tiền tệ của quốc gia. Trong thời đại mới đòi hỏi các nền kinh tế phải mở cửa hội nhập trong đó tự do hoá tài chính là tất yếu trong đó tự do hoá lãi suất chính là một trong những nội dung quan trọng. Để tìm hiểu rõ về vấn đề này và cụ thể là thực trạng tự do hoá lãi suất đã và đang diễn ra ở nước ta, chúng ta hãy bắt đầu từ những vấn đề cơ bản về lãi suất.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT
KHÁI NIỆM
Trong hoạt động ngân hàng tài chính, chúng ta sẽ thấy một khái niệm được gọi là “lãi suất hoàn vốn”, đây chính là thước đo chính xác nhất của “lãi suất ”. Khi dùng đến thuật ngữ lãi suất có nghĩa là chúng ta ám chỉ do là lãi suất hoàn vốn.
Có nhiều phương pháp chung để tính toán lãi suất nhưng quan trọng nhất là lãi suất hoàn vốn, một lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh toán nhận được theo một công cụ nợ với giá trị hôm nay của công cụ đó. Vì khái niệm tiềm ẩn trong việc tính lãi suất hoàn vốn có một ý nghĩa tốt về mặt kinh tế, các nhà kinh tế coi nó là phép đo lãi suất chính xác nhất. Ở phạm vi đề tài này chúng ta tạm thời không bàn đến các phương pháp đo lãi suất mà xin được làm rõ các khía cạnh về phân loại lãi suất và các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất để làm cơ sở cho việc nghiên cứu tự do hoá lãi suất.
PHÂN LOẠI LÃI SUẤT
Có rất nhiều cách phân loại lãi suất, dưới đây xin được đi vào một số cách phân loại chủ yếu:
2.1 Phân loại theo nguồn sử dụng :
Theo tiêu thức này lãi suất được chia làm 2 loại
_ Lãi suất huy động: là loại lãi suất quy định tỉ lệ lãi phải trả cho các hình thức nhận tiền gửi của khách hàng. Để đảm bảo sự công bằng, trong nền kinh tế thị trường, về mặt kinh tế, việc xác định các loại lãi suất huy động khác nhau chỉ căn cứ vào đối tượng huy động (tiền hay vật đảm bảo có giá trị) và thời hạn huy động.
_ Lãi suất cho vay: là loại lãi suất quy định tỷ lệ lãi mà người đi vay phải trả cho người cho vay.
Về lý thuyết, các mức lãi suất cho vay khác nhau được căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận bình quân của đối tượng đầu tư và thời hạn cho vay. Tuy nhiên, với ý nghĩa là một công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, điều đó không phải bao giờ cũng đúng, vì nó còn tuỳ thuộc vào mục tiêu chính trị, xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.
Công thức lý thuyết:
Lãi suất cho vay
Lợi nhuận
Rủi ro tối thiểu
Chi phí
Lãi suất huy động
+
+
+
=
2.2 Phân loại theo giá trị thực:
Theo tiêu thức này lãi suất chia làm 2 loại:
_ Lãi suất danh nghĩa: là loại lãi suất được xác định cho một kỳ hạn gửi hoặc vay, thể hiện trên quy ước giấy tờ thoả thuận trước.
Theo Frederic S.Miskin, trong điều kiện có lạm phát, lãi suất danh nghĩa không phản ánh giá trị thật của số lãi nhận được hoặc trả. Trong điều kiện có lạm phát cao, thời gian càng dài thì sức mua của các khoản lãi càng giảm đi một cách vô hình.
_ Lãi suất thực: là loại lãi suất xác định giá trị thực của khoản lãi được trả hoặc thu được.
Theo Irving Fisher, một chuyên gia kinh tế lớn của thế kỷ XX cho rằng:
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa - Tỷ lệ lạm phát dự đoán
Các nhà kinh tế học thường sử dụng 2 phương pháp để dự đoán về lạm phát.
+ Phương pháp 1: Lạm phát được dự đoán trên cơ sở xem xét tỷ lệ lạm phát trong quá khứ
+ Phương pháp 2: Lạm phát được dự đoán trên cơ sở phân tích và vận dụng thực tế.
Sự phân biệt giữa lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi lẽ, đối với người có tiền, nhờ đoán biết được lãi suất thực mà họ quyết định nên gửi tiền vào ngân hàng hay mang đi kinh doanh trực tiếp. Còn đối với người cần vốn, nếu dự đoán được tương lai có lạm phát và trong suốt thời gian đó lãi suất cho vay không đổi hoặc có tăng nhưng tốc độ tăng không bằng lạm phát thì họ có thể yên tâm vay để kinh doanh mà không sợ lỗ vì trượt giá khi trả nợ.
Chính sách lãi suất thực chứ không phải lãi suất danh nghĩa ảnh hưởng đến đầu tư, đến việc tái phân phối thu nhập giữa con nợ và chủ nợ, sự lưu thông về vốn ngắn hạn giữa các nước khác nhau.
Ngân hàng chỉ thực sự thúc đẩy tích luỹ khi đưa ra được chính sách lãi suất thực dương. Lãi suất như vậy mới có thể khuyến khích người ta tiết kiệm, hạn chế tiêu dùng hiện tại, mặt khác làm cho tài sản ít sinh lợi trở nên kém hấp dẫn và ít được ưa thích hơn. Nhờ đó nguồn vốn tiềm tàng trong xã hội dễ được huy động và biến thành khoản đầu tư thực sự thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế, đẩy lùi lạm phát.
_
_
=
Tỷ lệ lạm phát được dự đoán
Thuế thu nhập biên tế
Lãi suất danh nghĩa
Lãi suất thực sau khi đóng thuế
2.3 Phân loại theo độ dài thời gian:
Cơ sở của cơ chế lãi suất này là ở chỗ thời gian thuê vốn (cả huy động và cho vay) càng dài thì lợi nhuận làm ra càng nhiều, đồng thời tính rủi ro mất vốn cũng càng cao. Vì vậy, mối quan hệ giữa các loại lãi suất này như sau:
_ Lãi suất huy động dài hạn cao hơn lãi suất huy động ngắn hạn.
_ Lãi suất cho vay trung hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn, lãi suất cho vay dài hạn cao hơn lãi suất cho vay trung hạn.
Tuy nhiên trên thực tế, chính phủ cũng dùng công cụ lãi suất để góp phần điều chỉnh cơ cấu nền sản xuất xã hội trong những giai đoạn nhất định Chẳng hạn, đối với những nước mới thoát khỏi chiến tranh, kinh tế khủng hoảng, Chính phủ ban hành một chính sách lãi suất trong đó lãi suất cho vay dài hạn lãi thấp hơn lãi suất cho vay ngắn hạn nhằm khuyến khích việc xây dựng cơ sở hạ tần, kiến thiết nền sản xuất xã hội nhanh hơn.
2.4 Phân loại theo loại tiền:
Đó là lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ. Mối quan hệ giữa lãi suất ngoại tệ có ảnh hưởng đến việc khuyến khích xuất khẩu hay nhập khẩu.
Để khuyến khích xuất khẩu, người ta thường áp dụng cơ chế lãi suất ngoại tệ trong cho vay thấp hơn, trong huy động cao hơn so với lãi suất nội tệ và ngược lại.
Tuy nhiên, vấn đề xuất khẩu mạnh hay nhập khẩu mạnh còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác, trong đó có chính sách tỷ giá chi phối.
2.5 Phân loại theo phương pháp tính lãi:
Theo cách phân loại này lãi suất được chia làm 2 loại
Lãi đơn (Simple interest rate)
Là tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền lãi so với số tiền vay ban đầu không gộp lãi vào tiền vay ban đầu để tính lãi thời hạn kế tiếp.
F = P (1 + n.i)
P : Số tiền vay ban đầu
F : Số tiền vốn và lãi thu về trong tương lai
n : Thời hạn tín dụng
i : Lãi suất đơn (trên đơn vị thời hạn tín dụng)
Lãi suất kép (Compuond Interest)
Là tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền lãi so với số tiền vay, số tiền vay này tăng lên do có gộp lãi qua từng thời kỳ cho vay (lãi mẹ đẻ lãi con)
Fn = P . (1 + i) n
P : Số tiền vay ban đầu
Fn : Số tiền vốn và lãi thu về trong tương lai
n : Thời hạn tín dụng
i : Lãi suất đơn
I : Lãi suất kép
Tính I : Lãi suất kép
Fn – P
I =
P.n
(1 + i)n - 1
I =
n
Hay :
Ngoài ra chúng ta còn quan tâm tới lãi suất hoà vốn bình quân
LÃI SUẤT HOÀ VỐN BÌNH QUÂN
Lãi suất hoà vốn bình quân là mức lãi suất cho vay chung mà tại đó tổng số lãi thu được từ việc cho vay nhiều nguồn khác nhau theo các mức lãi suất hoà vốn tương ứng khác nhau sẽ vừa đủ để trả tổng số lãi phải trả từ các nguồn huy động.
Trong những điều kiện bình thường, người ta thường áp dụng phương pháp bình quân gia quyền để tính lãi suất hoà vốn bình quân.
å Ai . ri
Rbq =
å Ai
Li
ri =
Ai
Với :
Ai : Các loại vốn huy động từ 1 đến i
ri : Lãi suất hoà vốn của loại i
Rbq : Lãi suất hoà vốn bình quân
Li : Lãi huy động nguồn i
(i =1®n)
Trong thực tế, lãi suất hoà vốn bình quân (Rbq) thường cao hơn theo công thức trên vì lý do số vốn huy động được (các Ai) không phải được cho vay hoàn toàn do 2 nguyên nhân:
_ Thứ nhất, phải nộp một tỷ lệ nhất định trên toàn bộ số vốn huy động vào NHTW theo quy định về nộp dự trữ bắt buộc, đồng thời còn phải để lại tại quỹ một tỷ lệ nhất định phòng bất ổn trong cán cân thanh toán của TCTD đó.
_ Thứ hai, không phải ngân hàng nào và không phải lúc nào toàn bộ số vốn khả dụng đều được cho vay hết, do việc cho vay còn lệ thuộc vào nhu cầu vay vốn của xã hội.
Lãi suất hoà vốn bình quân chịu ảnh hưởng của 4 nhân tố:
+ Mức lãi suất huy động từng nguồn
+ Cơ cấu nguồn vốn huy động
+ Tỷ lệ số vốn khả dụng
+ Nhu cầu vay thực tế của nền kinh tế
Trong phân tích tài chính của các TCTD, việc nghiên cứu xác định lãi suất hoà vốn bình quân có ý nghĩa thực tiễn về nhiều mặt: làm cơ sở tính toán mức lãi suất cho vay tối thiểu, giảm bớt lãi suất cho vay bằng cách giảm lãi suất huy động từ nguồn huy động hoặc chủ động điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn huy động để giảm bớt số lãi phải trả, mở rộng phạm vi tín dụng, tận dụng cho vay hết số vốn khả dụng…
PHÂN LOẠI LÃI SUẤT TÍN DỤNG
Lãi suất tín dụng là một bộ phận quan trọng trong hệ thống các công cụ chính sách và vì vây phân loại lãi suất tín dụng có ý nghĩa về mặt thực tế. Căn cứ vào nhiều tiêu thức khác nhau có thể phân chia lãi suất tín dụng thành các nhóm sau:
_ Căn cứ vào nghiệp vụ Huy động vốn:
+ Lãi suất tiền gửi không kỳ hạn
+ Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn
+ Lãi suất tiết kiệm
+ Lãi suất các loại giấy tờ có giá
_ Căn cứ vào nghiệp vụ Sử dụng vốn:
+ Lãi suất chiết khấu các giấy tờ có giá
+ Lãi suất cầm cố
+ Lãi suất cho vay bằng tiền
+ Lãi suất cho vay ưu đãi
_ Căn cứ Quan hệ điều tiết vốn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng
+ Lãi suất cơ bản: là lãi suất do NHTW công bố làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh. Dựa trên lãi suất cơ bản và biên độ do NHTW ấn định, các TCTD xác định mức lãi suất kinh doanh phù hợp. Điều này tạo nên lợi thế cạnh tranh và giải quyết hợp lý mối quan hệ lợi ích giữa các chủ thể tham gia, vừa bảo đảm ngân hàng kiểm soát được lãi suất thị trường.
+ Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất cho vay ngắn hạn mà NHTW áp dụng với NHTM thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu giấy tờ có giá.
+ Lãi suất thị trường liên ngân hàng: là lãi suất cho vay giữa các NHTM trên thị trường tiền tệ.
_ Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất thì có hai loại là lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa như đã nêu ở trên
5.CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LÃI SUẤT
Mức cung cầu tiền tệ
Cung tiền tệ là tổng thể tiền tệ được sử dụng để giao dịch thanh toán trên thị trường. Các nhà kinh tế đã định nghĩa M là tiền giao dịch bao gồm: M1 là tổng số tiền kim khí và tiền giấy lưu thông bên ngoài ngân hàng cộng với tiền gửi ngân hàng có thể rút ra bằng séc và định nghĩa rộng hơn M2 bao gồm những tài sản như tài khoản tiền gửi tiết kiệm ngoài tiền kim khí, tiền giấy và tiền gửi ngân hàng có thể rút ra bằng séc.
Quyền kiểm soát mức cung tiền tệ được dành riêng cho Chính phủ, bởi vì hạn chế mức cung tiền tệ là điều cần thiết để tiền có giá trị.
Nhân dân và các doanh nghiệp cần tiền để làm phương tiện giao dịch, trao đổi mua bán hàng hoá, dịch vụ…Các nhân tố này hợp thành mức cầu về tiền tệ để giao dịch.
Cung cầu tiền tệ ảnh hưởng đến lãi suất nào điều này được minh hoạ ở đồ thị dưới đây (H1)
Đường thẳng đứng SS biểu thị NHTW giữ cung cấp tiền tệ ở một lượng nhất định trước gọi là M. Đường cong về mức cung tiền tệ được vẽ thẳng đứng vì việc cung cấp tiền tệ được định ra ở M cho mọi lãi suất.
Công chúng muốn giữ lượng tiền M1 khác nhau ở mức lãi suất khác nhau, lãi suất thấp thì số tiền dôi ra lớn hơn.
Giao điểm giữa cung và cầu trên đồ thị xác định lãi suất cân bằng. Đây là mức lãi suất ở điểm số lượng tiền do NHTW đề ra làm mục tiêu phù hợp với số tiền mà công chúng muốn nắm giữ.
Sự thay đổi cung cầu tiền tệ sẽ ảnh hưởng tới lãi suất .
(H1): Đồ thị biểu diễn mối quan hệ cung cầu tiền tệ và lãi suất
D
S
P
Lãi suất
(%năm)
M
Tiền tệ (M1)
Khi NHTW muốn kiềm chế lạm phát, sẽ thực hiện một chính sách thắt chặt tiền tệ thông qua các công cụ của nó (thay đổi tăng mức dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất chiết khấu, giảm hạn mức tín dụng). Mức cung tiền tệ sẽ giảm đi, đường SS dịch chuyển sang trái S’S’, lãi suất tăng. Trên đồ thị lãi suất từ (i) chuyển sang (iA).
Lãi suất tăng, mức đầu tư sẽ giảm, mức cầu tiền tệ giảm, các nhà doanh nghiệp và các gia đình sẽ cắt giảm lượng tiền mặt và tài khoản séc của họ, đường DD sẽ dịch chuyển về bên trái tạo thành D’D’. Điểm giao nhau giữa S’S’ với D’D’ tại điểm A’’ với mức lãi suất cân bằng mới (iA’).
A
A’
S’
M’
M
A’’
(iA)
(i)
(iA’)
Tiền
Lãi suất
(%năm)
(H2): Ảnh hưởng cung cầu tiền tệ đến lãi suất
Ngược lại, khi NHTW lo sắp có suy thoái, sẽ tăng mức cung cầu tiền tệ bằng việc bơm tiền ra lưu thông qua các công cụ chính sách tiền tệ. Lãi suất có xu hướng giảm xuống. Tín dụng trở nên dồi dào hơn, lãi suất trên đồ thị chuyển từ (i) sang (iB). Kết quả là việc tiến hành các dự án đầu tư mới trở nên có lợi hơn, số tiền chi tiêu về nhà máy, thiết bị, kho hàng tăng lên, người tiêu dùng có khuynh hướng mua nhiều hàng hơn, chính quyền địa phương tăng ngân sách xây dựng trường học, đường xá. Vốn đầu tư tăng tổng mức cầu tăng lên, dịch đường DD sang phải tạo ra thăng bằng trên thị trường mới (H3).
Ngoài ra những thay đổi dự định trong tổng cầu tiền tệ (không phải do sự thay đổi trong mức giá cả, tổng sản phẩm, hoặc lãi suất gây nên), cũng ảnh hưởng dến lãi suất cân bằng. Ví dụ một cuộc sụp đổ tài chính hàng loạt xảy ra làm cho nhiều công ty phá sản, trái khoán trở thành một tài sản bị nhiều rủi ro nhiều hơn, dân chúng muốn chuyển từ việc giữ trái khoán sang giữ tiền, họ sẽ giữ nhiều tiền hơn với mọi lãi suất và mọi sản phẩm. Kết quả cầu tiền tệ tăng lên, đường DD dịch chuyển sang phải trên đồ thị, lãi suất tăng lên và ngược lại
(iB)
(i)
(i’B)
Lãi suất
(%năm)
Tiền
M”
M
S”
S
A
B”
D
D”
B’
S”
S
D
D”
(H3): Ảnh hưởng cung cầu tiền tệ đến lãi suất
Nghiên cứu nhân tố cung cầu tiền tệ tác động qua lại đến lãi suất có một ý nghĩa quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách tiền tệ. Khi nào thì NHTW bơm tiền ra lưu thông về để điều chỉnh lãi suất thị thị trường một cách hợp lý, trên cơ sở đó ổn định thị trường, thúc đẩy sự tăng trưởng cuẩ nền kinh tế, giảm lạm phát.
Lạm phát
Chúng ta hãy sử dụng đồ thị để giải thích sự biến động của lạm phát ảnh hưởng tới lãi suất như thế nào.
Trước tiên hãy giả định, mức giá cả ổn định và dự tính về lạm phát trong tương lai là không đáng kể, cung quỹ cho vay được biểu hiện bằng Do và io.
Khi lạm phát tăng, dù ở từng mức lãi suất riêng lẻ hay ở tất cả mọi lãi suất, yếu tố kích thích làm tăng cung quỹ cho vay gần như triệt tiêu bởi giá trị thực tế của vốn gốc và tiền lời thu được đã hao mòn do tác động của lạm phát. Trong tình hình ấy những người có khả năng cho vay không muốn giữ tiền mặt, đổ xô đi mua hàng hoá dự trữ vàng, ngoại tệ. Điều đó dẫn đến cung quỹ cho vay giảm, đường So chuyển về bên trái tạo thành S1, lãi suất tăng.
Lạm phát tăng, không chỉ làm giảm độ lớn của cung mà còn kéo theo việc tăng thêm quy mô về cầu quỹ cho vay. Bởi vậy lãi suất danh nghĩa cho trước, khi lạm phát dự tính tăng lên, chi phí thực của việc đi vay tiền giảm xuống, kích thích người ta di vay hơn là cho vay.
Người đi vay sẽ kiếm được khoản thu lợi do giá hàng hoá được mua bằng tiền đi vay sẽ tăng lên, đường Do dịch chuyển sang phải tạo thành D1. Do cầu quỹ cho vay tăng, lãi suất tăng.
Một sự giảm xuống của cung và một sự tăng lên của cầu đối với quỹ cho vay sẽ đẩy lãi suất tăng từ io đến i1.
Theo Friedman, ông cho rằng trong mọi trường hợp tỷ lệ lạm phát của một nước là cực kỳ cao trong bất cứ thời kỳ kéo dài nào, thì tỷ lệ tăng trưởng của cung ứng của cung ứng tiền tệ là cực cao.
Lãi suất
S1
So
i1
D1
io
Do
Tiền vay
(H4): Mối quan hệ giữa lạm phát ảnh hưởng đến quỹ cho vay và lãi suất
Tóm lại: khi lạm phát dự tính tăng, lãi suất tăng. Điều này có một ý nghĩa quan trọng trong việc dự đoán lãi suất khi nền kinh tế có xu hướng lạm phát tăng. Trên cơ sở đó có một chính sách lãi suất hợp lý. Khi lạm phát cao, Nhà nước cần phải nâng lãi suất dang nghĩa, đảm bảo cho lãi suất thực dương, hoặc Nhà nước tung vàng và ngoại tệ ra bán để kiềm chế lạm phát.
Nhiều nhà kinh tế đã khuyến nghị rằng cuộc chiến chống lạm phát nhất định sẽ thất bại nếu chúng ta muốn hạ thấp lãi suất.
Bài học kinh nghiệm ở Việt Nam vào những năm 1985 – 1988 khi lạm phát đã ở mức ba con số song lãi suất danh nghĩa vẫn còn rất thấp, đã ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế và càng đẩy lạm phát tăng nhanh.
Sự ổn định của nền kinh tế
_Ảnh hưởng đến cung tiền vay: khi nền kinh tế ổn định và phát triển, của cải tăng lên, công chúng chỉ muốn giữ một số tiền giao dịch đủ cho nhu cầu sử dụng, họ muốn đầu tư vào những tài sản thay thế có lợi tức dự tính cao, như việc đầu tư vào trái khoán công ty. Bởi vì nền kinh tế ổn định, thị trường trái khoán trở nên ổn định hơn, rủi ro trái khoán giảm, trái khoán trở thành một tài khoản hấp hẫn hơn, vì vậy cung tiền vay tăng lên, đường cung dịch chuyển về bên phải, lãi suất có xu hướng giảm.
_ Ảnh hưởng đến cầu tiền vay: khi nền kinh tế đang phát triển nhanh, nhất là trong giai đoạn phát đạt của một chu kì kinh doan, các công ty càng có nhiều ý định vay vốn và tăng số dư nợ nhằm tài trợ cho các cuộc đầu tư được trông đợi là sinh lợi. Cầu tiền vay tăng lên, đường cầu dịch chuyển về bên phải, lãi suất có xu hướng tăng lên.
_ Khi đường cung và đường cầu tiền vay dịch về bên phải, sẽ đạt một điểm cân bằng mới trên sơ đồ về phía bên phải (H5). Tuy nhiên, nếu đường cung dịch chuyển nhiều hơn đường cầu thì lãi suất cân bằng mới có xu hướng giảm xuống. Ngược lại, nếu đường cầu dịch nhiều hơn đường cung thì lãi suất cân bằng mới tăng lên.
Lãi suất
So
S1
i1
io
D1
Do
Quỹ cho vay
(H5): Mối quan hệ giữa ổn định kinh tế với lãi suất
Ý nghĩa khi nghiên cứu ảnh hưởng của nhân tố trên:
Trong nền kinh tế ổn định và có xu hướng phát triển, Nhà nước nên sử dụng các công cụ lãi suất để tăng vốn đầu tư vào những lĩnh vực cần phát triển cho sự cân đối của nền kinh tế, đặc biệt từ các nguồn vốn trên thị trường trái khoán.
Các chính sách của Nhà nước
Mục tiêu của một nền kinh tế phát triển là:
_ Tạo ra sản lượng cao, tăng nhanh chóng tổng sản phẩm quốc dân.
_ Đạt tỷ lệ người có công ăn việc làm cao, tỷ lệ thất nghiệp.
_ Đảm bảo ổn định giá cả trong điều kiện thị trường tự do hoạt động.
_ Cân bằng xuất nhập khẩu.
Để đạt được mục tiêu trên, Nhà nước phải sử dụng các công cụ bằng các chính sách có thể điều chỉnh tốc độ và phương hướng của hoạt dộng kinh tế
Quá trình thực hiện các chính sách của Nhà nước, đều tác động lãi suất cân bằng trên thị thị trường.
Chính sách tài chính
Chính sách tài chính bao gồm chi tiêu của Chính phủ và thuế khoá. Chi tiêu của Chính phủ là một nhân tố then chốt định mức tổng chi tiêu.
Khi Nhà nước thực hiện một chính sách tài chính bành trướng (tăng chi tiêu Chính phủ và giảm thuế) sẽ ảnh hưởng đến thăng bằng của thị trường hàng hoá và thị trường tiền tệ, từ đó ảnh hưởng đến lãi suất.
Khi chi tiêu của Chính phủ tăng trực tiếp làm tăng tổng cầu, đường cầu dịch chuyển về bên phải, khi Chính phủ giảm thuế, làm cho nhiều thu nhập hưon được sẵn sàng để chi tiêu và làm tăng tổng sản phẩm bằng cách tăng chi tiêu tiêu dùng. Mức cao hơn của tổng sản phẩm làm tăng lượng cầu tiền tệ, đường cầu dịch chuyển về bên phải, lãi suất tăng.
Ngoài ra thuế còn có thể tác động đến mức sản lượng tiềm năng, chẳng hạn việc giảm thuế đánh vào thu nhập từ đầu tư mới làm cho cácc ngành tăng đầu tư vào máy móc, nhà máy, tổng sản phẩm tiềm năng được tăng lên, tăng lượng cầu tiền tệ, đường cầu dịch chuyển về bên phải, lãi suất tăng lên.
Chính sách tiền tệ
Với tư cách NHTW của các ngân hàng, NHTW thực hiện vai trò chỉ huy đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng của một quốc gia. Với công cụ lãi suất, NHTW có thể điều tiết nền kinh tế vĩ mô bằng các phương pháp sau:
_Ngân hàng có thể quy định lãi suất cho thị trường, chủ động điều chỉnh lãi suất để điều chỉnh tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, hạn chế hoặc mở rộng hoạt động tín dụng nhằm đạt được mục tiêu giảm lạm phát và tăng trưởng kinh tế theo từng thời kỳ.
_ NHTW thực hiện chính sách lãi suất tái chiết khấu: NHTW tái chiết khấu các chứng từ do NHTM xuất trình với điều kiện ngân hàng phải trả một lãi suất nhất định do NHTW đơn phương quy định.
Mỗi khi lãi suất chiết khấu thay đổi đều có xu hướng làm tăng hay giảm chi phí cho vay của NHTW đối với các NHTM và do đó khuyến khích hoặc cản trở nhu cầu xin vay. Vì vậy thông qua việc điều chỉnh lãi suất chiết khấu, NHTW có thể khuyến khích mở rộng hay làm giảm khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cấp cho nền kinh tế. Do thay đổi lãi suất chiết khấu NHTW có thể tác động gián tiếp vào lãi suất thị trường.
Một lãi suất chiết khấu cao hơn hay thấp sẽ làm thay đổi lượng vay của ngân hàng, tức lượng tiền cung ứng của ngân hàng cho nền kinh tế và cuối cùng sẽ làm thay đổi mức lãi suất thị trường.
_ NHTW thực hiện chính sách thị trường mở: có nghĩa là NHTW thực hiện việc mua bán giấy tờ có giá trên thị trường chứng khoán. Nhiệm vụ của chính sách thị trường mở là điều hoà cung cầu về các chứng phiếu có giá để tác động vào các NHTM trong việc cung ứng tiền tệ, cung ứng tín dụng.
Khi nền kinh tế đình đốn, sản xuất phát triển chậm, ngân hàng mua các chứng khoán, tức bơm tiền vào lưu thông, lượng tiền lưu hành trên trên thị trường xã hội tăng lên tạo ra các động lực gây giảm lãi suất, vì vậy kích thích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất do tăng khả năng vay vốn. Ngược lại, khi nền kinh tế đã phát triển đủ mạnh, ngân hàng bán các chứng khoán ra và thu tiền vào. Do lượng tiền trong lưu thông giảm, lãi suất lại tăng lên, nên nhiều xí nghiệp hạn chế vay đầu tư, kinh tế phát triển chậm lại.
_ Ngân hàng tăng hoặc giảm mức dự trữ bắt buộc:
Khi tỷ lệ dự trữ tăng lên tức là NHTW quyết định giảm bớt vốn khả dụng cuẩ ngân hàng kéo theo những khó khăn ngân quỹ cho các ngân hàng, hạn chế tín dụng của ngân hàng và ngược lại. Do đó cũng ảnh hưởng gián tiếp đến lãi suất trên thị trường
Chính sách thu nhập
Đó là chính sách về giá cả và tiền lương
Nếu mức giá cả giảm mà cung tiền tệ không thay đổi, giá trị của đơn vị tiền tệ theo giá trị thực tế tăng, bởi vì nó có thể dùng để mua nhiều hàng hoá và dịch vụ hơn. Do vậy cũng giống như ảnh hưởng của một sự tăng lên trong cung tiền tệ khi mức giá được cố định, làm lãi suất giảm.
Ngược lại một mức giá cả cao hơn làm giảm cung tiền tệ theo giá trị thực tế, làm tăng lãi suất.
Như vậy một sự thay đổi về chính sách giá cả cũng làm thay đổi lãi suất.
Yếu tố cấu thành quan trọng nhất của chi phí sản xuất là chi phí tiền lương, khi tiền lương tăng làm chi phí sản suất tăng, làm giảm lợi nhuận theo đơn vị sản phẩm tại mỗi mức giá cả, giảm nhu cầu đầu tư, cầu tiền tệ giảm, lãi suất giảm.
Chính sách tỷ giá
Chính sách tỷ giá bao gồm các biện pháp liên quan đến việc hình thành quan hệ về sức mua giữa tiền của nước này so với ngoại tệ khác, nhất là đối với các ngoại tệ có khả năng chuyển đổi.
Tỷ giá sẽ tác động đến các quá trình sản xuất kinh doanh ca xuất nhập khẩu hàng hóa cảu một nước. Khi Nhà nước tăng tỷ giá ngoại tệ sẽ làm tăng giá hàng nhập khẩu, dẫn đến tăng chi phí đầu vào của các xí nghiệp, giá hàng hoá trong nước tăng lên, lợi nhuận giảm, nhu cầu đầu tư giảm, cầu tiền tệ giảm, lãi suất giảm. Mặt khác, khi tỷ giá ngoại tệ tăng, lượng tiền cung ứng để đảm bảo cân đối ngoại tệ cần chuyển đổi tăng lên, lãi suất giảm.
Vì vậy , khi thấy đồng tiền nước mình sụt giá, NHTW sẽ theo đuổi một chính sách tiền tệ thắt chặt hơn, giảm bớt cung tiền tệ, nâng lãi suất trong nước, làm cho đồng tiền của mình vững mạnh.
Khi tỷ giá ngoại tệ giảm, đồng tiền tăng giá, không kích thích xuất khẩu, nên công nghiệp trong nước có thể bị cạnh tranh của nước ngoài tăng lên, kích thích nhập khẩu. Lượng cầu tiền tệ tăng do với một tỷ giá thấp, với một lượng vốn đầu tư nhất định, tài sản đầu tư sẽ nhiều hơn, kích thích đầu tư vào sản suất, lãi suất tăng lên. Như vậy khi có một sự cạnh tranh giữa nền công nghiệp trong nước với công nghiệp nước ngoài tăng lên, có thể sẽ gây áp lực buộc NHTW phải theo đuổi một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao hơn nhằm hạ thấp tỷ giá.
Cân đối ngân sách Nhà nước :
Những khoản thu của NHNN bắt nguồn chủ yếu từ nền kinh tế quốc dân và trở lại phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Những khoản mục thu chi ngân sách là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất.
Mối quan hệ tác động theo hai hướng sau:
_ Khi thâm hụt (bội chi) ngân sách tăng sẽ dẫn đến tăng lãi suất.
Thâm hụt ngân sách thường dưới hai hình thức: thâm hụt cơ cấu (chủ yếu do chính sách chủ động tuỳ ý của Nhà nước) và thâm thụt theo chu kỳ (thâm thụt do đình trệ kinh tế qua khủng hoảng).
Để bù vào số thâm hụt ngân sách, Nhà nước sẽ phát hành trái phiếu làm cho cầu quỹ cho vay tăng, lãi suất tăng.
Mặt khác, những người tham gia thị trường tài chính có thể tin rằng, do thâm hụt ngân sách lớn hơn sẽ có nhiều khả năng dẫn đến lạm phát cao và trực tiếp gây sức ép lớn hơn về cầu quỹ cho vay, đẩy lãi suất tăng lên.
_ Ngược lại khi ngân sách bội thu sẽ làm cho lãi suất giảm.
Các nhân tố khác
_ Tỷ suất lợi nhuận bình quân
Lãi suất tín dụng là một bộ phận của tỷ suất lãi suất bình quân, vì vậy:
0 < Lãi suất tín dụng < Tỷ suất lợi nhuận bình quân
Nếu lãi suất tín dụng > Tỷ suất lợi nhuận binh quân thì sẽ không có ai muốn để đầu tư sản suất, sản xuất kinh doanh bị đình đốn, kinh tế sẽ bị suy thoái. Mặt khác, khi lãi suất tín dụng lớn hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân, người đi vay sẽ tăng cường gửi tiền vào ngân hàng để tìm kiếm lợi nhuận, ngưng ngay các khoản đầu tư khác, vì thế lợi ích kinh tế của xã hội bị giảm sút.
Lãi suất trần của lãi suất tín dụng chính là tỷ suất lợi nhuận bình quân. Do đó, sự tăng giảm tỷ suất lợi nhuận bình quân sẽ tạo điều kiện mở rộng hay thu hẹp khoảng dao động của lãi suất tín dụng.
Ngoài ra còn các nhân tố khác như: khả năng tiêu thụ vốn ngân hàng trên thị trường tiền tệ, rủi ro tín dụng, thuế, chi phí hoạt động của ngân hàng cũng ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng.
LÍ LUÂN VỀ TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT
CÁC CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT
Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền tệ, trong việc điều khiển mức cung tiền cho nền kinh tế. Sở dĩ nói rằng lãi suất là công cụ gián tiếp, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông nhưng sự tăng giăm lãi suất có thể kích thích sản xuất hay kìm hãm sản xuất. Vì vậy nó là một công cụ rất lợi hại, có sức phản công ghê gớm. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những trủ trương, chính sách và giải pháp cụ thể của NHTW nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong thời kì nhất định.
Việc điều hành lãi suất chủ yếu được thực hiện thông qua hai cơ chế và các mức lãi suất thường được công bố như sau:
Cơ chế điều hành gián tiếp:
Thông qua cơ chế tái cấp vốn (chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay cầm cố chứng từ có giá…) của NHTW đối với các TCTD, NHTW thực hiện quản lý gián tiếp lãi suất cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế.
Cơ chế này được thực hiện theo nguyên tắc: Trong điều hành chính sách lãi suất, NHTW chỉ công bố mức lãi suất áp dụng đối với các khoản vay tái chiết khấu hoặc cho vay cầm cố chứng từ có giá của mình đối với các TCTD. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể theo từng kỳ hạn, từng đối tượng của các TCTD đối với nền kinh tế sẽ do TCTD ấn định, dựa trên cơ sở cung-cầu về vốn và sự cạnh tranh trên thị trường.
Khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ từng giai đoạn, NHTW sẽ thực hiện qua việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu của mình đối với các TCTD. Từ đó tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Và cuối cùng sẽ tác động tới lãi suất kinh doanh của TCTD đối với vác chủ thể trong nền kinh tế.
Cơ chế điều hành lãi suất này được áp dụng phổ biến đối với các nền kinh tế có hệ thống tài chính phát triển. Cơ chế này cũng trở nên linh hoạt hơn khi bên cạnh các loại lãi suất trên, NHTW chấp nhận lãi suất do thị trường hình thành và tác động vào lãi suất này để duy trì ở mức mong muốn như lãi suất Repor của ngân hàng Anh, ngân hàng liên bang Đức, ngân hàng trung ương Châu Âu; lãi suất tiền gửi liên bang Cục dự trữ liên Mỹ….
Cơ chế điều hành trực tiếp
Thông qua các hình thức quản lý lãi suất của cac TCTD đối với nền kinh tế, như quy định các mức lãi suất tiền gửi, cho vay, khung lãi suất, trần lãi suất, biên độ chênh lệch lãi suất bình quân… Thực chất là NHTW quy định mức lãi suất cho vay tối đa hoặc tiền gửi tối thiểu của các TCTD đối với nền kinh tế. Trong phạm vi lãi suất cho phép, cac TCTD được quyền ấn định lãi suất cho vay phù hợp. Khi có các thay đổi vĩ mô, NHTW có thể xem xét để điều chỉnh giới hạn lãi suất tối đa hợp lý. Nhìn chung, trong các nền kinh tế phát triển, lãi suất ngày càng được tự do hóa, còn ở các nươc cớ hệ thống tài chính chưa phát triển, các quy định mang tính quản lý trực tiếp được áp dụng phổ biến hơn và xu hướng chung là ngày càng giảm dần sự quản lý trực tiếp này.
Các mức lãi suất thường._. được công bố
Một là, đối với các hoạt động liên quan đến vai trò NHTW, các mức lãi suất phổ biến được công bố và nền kinh tế quan tâm là lãi suất chiết khấu (như ở Mỹ, Nhật, Đức, ), lãi suất Repor (như Đức, Anh, Pháp), hoặc lãi suất can thiệp (như Pháp). Các mức lãi suất được hình thành trên thị trường tiền tệ như lãi suất tiền gửi liên bang (Mỹ), lãi suất cho vay qua đêm cũng được áp dụng ở tất cả các nước nói trên.
Hai là, các mức lãi suất của NHTW áp dụng đối với nền kinh tế mang tính quản lý trực tiếp của NHTW như khung lãi suất, trần lãi suất, lãi suất tiền gửi tối thiểu, chênh lệch lãi suất bình quân, được thể hiện ở các nước Trung Quốc, Thái lan, Malaysia, Việt Nam …
Ba là, các mức lãi suất thị trường mang tính tham khảo như: lãi suất liên ngân hàng thị trường LONDON (Libor), lãi suất ngoại tệ liên ngân hàng thị trường Châu Âu (Euribor)…Ngoài các mức lãi suất này ra, một số nước còn công bố mức lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến của các NHTM hàng đầu (lãi suất cơ bản của Việt Nam).
Bốn là, lãi suất thường được công bố theo năm, các mức lãi suất đối với từng kỳ hạn cụ thể theo tháng, ngày… được xác định trên cơ sỏ lãi suất năm.
THẾ NÀO LÀ TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT
Khái niệm
Cơ chế tự do hoá lãi suất là cơ chế trong đó nhà nước không ấn định các mức lãi suất, đồng thời cũng không khống chế lãi suất mà để lãi suất hình thành theo cơ chế thị trường, các ngân hàng được quyền xác định và công bố lãi suất kinh doanh của mình để áp dụng trong việc huy động vốn và cho vay.
Trong cơ chế tự do hóa lãi suất, nếu nhà nước hoàn toàn không can thiệp đến hệ thống lãi suất thị trường thì đó là cơ chế tự do hoá lãi suất hoàn toàn (thả nổi lãi suất hoàn toàn). Nếu nhà nước có tham gia can thiệp gián tiếp theo một định hướng xác định thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ thì đó là cơ chế tự do hoá lãi suất có quản lý.
Tự do hoá lãi suất là để cho lãi suất hình thành trên thị trường trên cơ sở cung cầu về vốn, mức tiết kiệm, thu nhập và chi tiêu của cá nhân và những nhân tố khác. Tự do hoá lãi suất được coi là hạt nhân của tự do hoá tài chính và làm cho các luồng tài chính lưu thông thông suốt và là một xu thế để góp phần thúc đẩy kinh tế - tài chính của một quốc gia hội nhập quốc tế.
Việc “tự do hoá” lãi suất cho phép các NHTM chủ động trong việc kinh doanh tiền tệ, tạo ra môi trường cạnh tranh, có lợi cho các nhà sản xuất kinh doanh vì lãi suất tín dụng sẽ giảm thấp. Điều đó sẽ kích thích các doanh nghiệp và cá nhân tích cực triển khai nhiều dự án sản xuất kinh doanh hơn.
Từ đó, sẽ tăng nhu cầu về tín dụng là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Khi các NHTM được quyền ấn định các lãi suất, họ sẽ có khả năng tìm ra phương án sử dụng vốn tốt nhất và tránh được rủi ro có thể gặp phải. Họ chủ động định ra lãi suất là bao nhiêu để có thể thu hút được nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu cho vay vốn của mình. Sự cạnh tranh trong hoạt động của các ngân hàng là nhân tố hình thành lãi suất thị trường.
Tuy nhiên, những tác động tích cực của tự do hoá lãi suất chỉ thực hiện được trong các trường hợp các NHTM cạnh tranh lành mạnh, nghĩa là cạnh tranh trong giới hạn nhất định, trên cơ sở tính toán chặt chẽ, khoa học để đảm bảo tính ổn định, phát triển. Nếu tiến hành cạnh tranh không lành mạnh có thể sẽ dẫn đến lũng đoạn thị trường, lãi suất trên thị trường sẽ bị nhiễu loạn. Do vậy tự do hoá lãi suất cần phải có những điều kiện tiền đề, những điều kiện này sẽ được trình bày ở phần kế tiếp.
CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT
Những cơ sở lý lụân và thực tiễn của các nước đã và đang thực hiện tự do hoá lãi suất theo cơ chế thị trường chính minh rằng: tuy mức độ, lộ trình, thời gian, biện pháp tiến hành ở mỗi nước khác nhau; thậm chí có nội dung tiến hành trái ngược nhau. Song những điều kiện cần thiết, chủ yếu, có tính nguyên tắc đều được tính toán, tôn trọng khi tiến hành tự do hoá lãi suất là:
Môi trường kinh tế vĩ mô tương đối ổn định: về nhịp độ tăng trưởng, phát triển kinh tế, giá cả, lạm phát… Bởi nếu, môi trường vĩ mô không ổn định do tác động nào đó sẽ ảnh hưởng tới tiến trình tự do hoá lãi suất. Đồng thời, các luật pháp, chính sách, nhất là các cơ chế chính sách có liên quan, tác động trực tiếp đến lãi suất, tỷ giá… phải thích ứng, đảm bảo việc điều hành linh hoạt, nhanh, kịp thời khi có tác động bất lợi đến lãi suất.
Hệ thống tài chính đủ mạnh thể hiện ở năng lực tài chính, khẳ năng thanh toán đảm bảo hoạt động có hiệu quả, an toàn, lành mạnh, có thể chủ động đối phó với diễn biến xấu có thể xảy ra khi thực hiện tự do hoá lãi suất, dù với bất luận là nguyên nhân chủ quan, khách quan do bên trong nước hay bên ngoài nước gây ra.
Hoạt động sản suất kinh doanh của các doanh nghiệp, cá nhân đảm bảo có hiệu quả; khả năng tài chính đáp ứng đến mức cần thiết cho các nhu cầu thanh toán, có thể đối phó, xử lý được khi có tác động bất lợi do lãi suất gây ra.
Dự trữ quốc gia về ngoại tệ cũng như nền tài chính công có đủ khả năng kịp thời tác đông, xử lý khi có diễn biến đột xuất do nền kinh tế gây ra.
Các công cụ, yếu tố thị trường hoạt động trong nền kinh tế thị trường được hình thành tương đối phong phú, đa dạng; vận động một cách minh bạch và cạnh tranh đã trở thành bình thường, không có gì xa lạ với các nhà kinh doanh trong thương trường.
Vai trò và khả năng điều hành, giám sát, tác động vào mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia ở mức có thể can thiệp kịp thời, nhanh hiệu quả khi có biến động bất lợi liên quan đến tự do hoá lãi suất.
PHẦN II: THỰC TRẠNG
A. QUÁ TRÌNH TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT
I. KHU VỰC TÀI CHÍNH VÀ TIẾN TRÌNH TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT TRƯỚC NĂM 2000
1. CẢI CÁCH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG HAI CẤP VÀ ĐỢT TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT ĐẦU TIÊN
Cải cách hệ thống ngân hàng
Trong hệ thống kế hoạch hoá tập trung ở Việt Nam, mọi hoạt động giao dịch tài chính chính thức đều do nhà nước độc quyền thực hiện thông qua NHNN (SBV). Hệ thống ngân hàng trước năm 1988 là hệ thống ngân hàng đơn cấp với NHNN thực hiện chức năng của cả NHTM và NHNN. Nhà nước sở hữu và trực tiếp kiểm soát hai ngân hàng chuyên doanh là ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Năm 1988 đánh dấu đợt cải cách mạnh mẽ đầu tiên trong hệ thống ngân hàngViệt Nam. Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988 do Hội Đồng Bộ trưởng ban hành mở đầu cho công cuộc cải tổ hệ thống ngân hàng ở Việt Nam với 3 nội dung quan trọng:
Thứ nhất, tách bộ phận quản lí quỹ ngân sách ra khỏi ngân hàng nhà nước để hình thành nên hệ thống kho bạc nhà nước.
Thứ hai, là tách chức năng kinh doanh ra khỏi hệ thống ngân hàng nhà nứoc và giao cho các ngân hàng chuyên doanh.-
Thứ ba, la thành lập hai ngân hàng chuyên doanh mới đó là Ngân hàng Công Thương và Ngân hàng Phát Triển Nông Nghiệp Việt Nam (bây giờ là đổi tên là Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn) cùng với hai ngân hàng trước đó là Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam và Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam đảm nhận chức năng kinh doanh thay cho hệ thống ngân hàng nhà nước.
Nỗ lực tự do hoá tài chính đầu tiên (1988)
Quyết định của Hội Đồng Bộ Trưởng 9/3/1988 cho phép tất cả các tổ chức khinh tế, bao gồm cả các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh, được vay tiền và huy động vốn từ công chúng. Có ba đặc điểm đáng lưu ý ở đây
Thứ nhất, giai đoạn 1986 – 1988 là thời gian mất ổn định kinh tế vĩ mô nhất mà nền kinh tế Việt Nam từng trải qua. Với việc chính phủ sử dụng in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách, lạm phát ở mức phi mã 3 chữ số trong cả 3 năm này.
Thứ hai, nỗ lực tự do hóa tài chính này được tiến hành trong khi hầu như chưa có cải cách trong khu vực công nghiệp, DNNN và hoạt động ngoại thương. Thực tế mới chỉ có khu vực nông nghiệp được tự do hoá, và rất nhiều loại giá vẫn bị biến dạng nghiêm trọng.
Thứ ba, tự do hoá đã đi quá xa đến mức cho phép tất cả các tổ chức kinh tế đều có thể kinh doanh tiền tệ, trong khi hệ thống điều tiết tài chính thì hoàn toàn không tồn tại. Các tổ chức huy động vốn từ công chúng dưới dạng tiền gửi tiết kiệm để cho vay không phải tuân thủ các quy định truyền thống của ngân hàn, như dự trữ bắt buộc và tỷ lệ vốn/dư nợ vay.
Bảng1: Tình hình biến động lãi suất giai đoạn 1989-94 (%tháng)
1989
1990
1991
1992
1993
1994
Tiền gửi không kỳ hạn (cá nhân)
5,0
2,4
2,1
1,0
0,7
0,7
Tiền gửi tiết kiêm 3T (cá nhân và tổ chức)
7,0
4,0
3,5
2,0
1,4
1,4
Lãi suất cho vay
Nông nghiệp
3,7
2,4
3,3
2,5
...
...
Công nghiệp và GTVT
3,8
2,7
3,0
2,0
...
...
Thương mại và dịch vụ
3,9
2,9
3,7
2,7
...
...
Vốn cố định
...
0,8
0,8
1,8
1,2
1,7
Vốn lưu động
...
...
...
2,7
2,1
2,1
Chênh lệch lãi suất
-3,3
-1,3
-0,5
0,5
0,7
...
Lạm phát
2,7
7,7
4,8
1,1
1,2
0,9
Lãi suất thực
Tiền gửi TK 3t (cá nhân)
4,3
-3,7
-1,3
0,9
0,2
...
Cho vay công nghiệp& GTVT
1,1
-5,0
-1,8
0,9
...
...
Nguồn NHNN
Trong thời gian này, các quỹ và hợp tác xã tín dụng mọc lên rất nhiều. Đến cuối thập niên 80, tổng số quỹ và hợp tác xã tín dụng lên tới 7.180. Hàng loạt các quỹ tín dụng ở thành thị đua nhau tăng lãi suất để huy động vốn. Cả hệ thống rơi vào vòng xoáy của lựa chọn bất lợi và và tâm lý ỷ lại. Việc theo đuổi lợi nhuận của các quỹ tín dụng (và sau đó là sự nhập cuộc của các tổ chức kinh tế) bằng cách huy động vốn với lãi suất trong bối cảnh không có quy định và giám sát đã nhanh chóng dẫn đến sự sụp đổ của hàng loạt các tổ chức tín dụng. Cho tới cuối năm 1990, tổng số quỹ tín dụng và hợp tác xã tín dụng chỉ còn 160. Bên cạnh sự mất mát về tiền cuộc khủng hoảng tín dụng năm 1990 còn tạo ra một tác động tâm lý sâu rộng với sự sụt giảm lòng tin nghiêm trọng của nguời dân đối với hệ thống ngân hàng.
Tự do hoá lãi suất bước 1: 6/1992 Chuyển lãi suất thực âm sang lãi suất thực dương
Bắt đầu từ tháng 6/1992, NHNN thực hiện bước chuyển đổi căn bản từ cơ chế lãi suất thực âm sang lãi suất thực dương - bước khởi đầu để thực hiện mục tiêu tự do hoá lãi suất, tạo đòn bẩy cho các NHTM chuyển hoạt động kinh doanh từ thua lỗ sang có lãi. Những điểm cơ bản của chính sách lãi suất mới là như sau:
_ Một là, NHNN quy định khung lãi suất của NHTM đối với nền kinh tế (lãi suất tối thiểu đối với tiền gửi và lãi suất tối đa đối với tiền cho vay)
_ Hai là, lãi suất cho vay bình quân phải lớn hơn lãi suất huy động bình quân, chấm dứt sự bao cấp về vốn qua kênh tín dụng ngân hàng.
_ Ba là, đối với lãi suất ngoại tệ, NHNN quy địng lãi suất cho vay tối đa bằng ngoại tệ. Lãi suất huy động bằng ngoại tệ do các NHTM quyết định trên cơ sở lãi suất thị trường tiền tệ quốc tế và cung-cầu vốn ngoại tệ trong nước.
Từ tháng 6/1992 đến cuối năm 1993, NHNN đã 5 lần điều chỉnh giảm lãi suất cho phù hợp với chỉ số lạm phát và hiệu quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Lãi suất cho vay tối đa bằng ngoại tệ được điều chỉnh tăng từ 6,5% năm lên tới 7,5% năm, phù hợp với lãi suất trên thị trường quốc tế. Trong hai năm 1994-1995, cơ chế lãi suất tiếp tục được điều chỉnh theo hướng thích ứng với cơ chế thị trường, phù hợp với quan hệ cung cầu vốn, đồng thời hạn chế sự can thiệp trực tiếp của NHNN vào hoạt động kinh doanh của các TCTD. NHNN chỉ khống chế mức lãi suất cho vay tối đa của các TCTD đối với nền kinh tế. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể do TCTD ấn định. Cho phép các TCTD điều chỉnh lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế lên sát gần với mức lãi suất tiền gửi dân cư. Tăng lãi suất cho vay trung và dài hạn lên 1,7% tháng. Lãi suất ngoại tệ được điều chỉnh 3 lần từ 7,5% năm lên 9,5% năm phù hợp với sự biến động của lãi suất thị trường quốc tế.
Cho đến hết năm 1995, NHNN vẫn thực hiện kiểm soát cả sàn lãi suất tiền gửi (tiết kiệm của dân cư và tiền gửi của doanh nghiệp) và trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. Do cơ chế lãi suất trần bộc lộ một số bất cập, Thống đốc NHNN cho phép các TCTD cho vay theo lãi suất thoả thuận với nguồn vốn huy động dưới hình thức kỳ phiếu, nhằm khai thác khả năng tiếp cận thị trường của các TCTD trong thời gian kinh tế chuyển đổi. Trong thời gian này, tỷ trọng huy động kỳ phiếu đạt khoảng 23% tổng số vốn huy động bằng đồng Việt Nam, như vậy có thể nói 23% thị trường thị trường đã được tự do hoá lãi suất. Tuy nhiên, do NHNN chưa có công cụ kiểm soát gián tiếp mức lãi suất thoả thuận cùng với việc thị trường tín dụng chưa được tự do hoá và các DNNN còn hoạt động trong cơ chế bao cấp đã dẫn đến thực trạng việc cho vay thoả thuận đã đẩy mặt bằng lãi suất trên thị trường nông thôn lên quá cao, chênh lệch quá nhiều so với lãi suất quy định. Mặt khác nhiều DNNN vay lãi suất thoả thuận không tính đến hiệu quả kinh doanh nên khó có khả năng trả nợ. Do vậy, NHNN đã chấm dứt cho phép các TCTD được cho vay thoả thuận từ nguồn vốn huy động kỳ phiếu từ 1/1/1996.
Ngân hàng Nhà nước đã gắn lãi suất danh nghĩa với chỉ số giá để đảm bảo lãi suất thực dương. Bảng 1 cũng cho thấy bắt đầu từ năm 1992, lãi suất cho vay đã được nâng lên cao hơn lãi suất tiền gửi - một yêu cầu thiết yếu cho sự hoạt động thông thường của các ngân hàng. Vào năm 1993, việc phân biệt lãi suất cho vay theo khu vực kinh tế được loại bỏ và chỉ còn được phân biệt theo cho vay đầu tư cố định và cho vay vốn lưu động. Tuy vậy, lãi suất cho vay đầu tư vốn cố định lại thấp hơn cho vay vốn lưu động, tạo ra một cơ cấu lãi suất không phù hợp. Tức là, lãi suất dài hạn thấp hơn lãi suất ngắn hạn. Chính sách này làm cho các ngân hàng không không hề có động cơ khuyến khích cho vay dài hạn. Mãi cho tới năm 1996, lãi suất cho vay ngắn hạn mới giảm xuống thấp hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn. NHNN tiếp tục duy trì trần lãi suất cho vay. Từ năm 1995, NHNN cho phép các ngân hàng thương mại được tự do định mức lãi suất tiền gửi với mục tiêu tăng cường cạnh tranh trong huy động vốn. Tuy nhiên, mức chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi tối đa được phép là 0,35% tháng. Như vậy, về một khía cạnh nào đó, các ngân hàng vẫn phải chịu cả lãi suất tiền gửi và cho vay, cho dù mức chênh lệch lãi suất thực tế có thể khác nhau giữa các ngân hàng tuỳ thuộc vào cơ cấu chi phí cụ thể. Chính sách này giúp các ngân hàng thương mại có thể duy trì một tỷ lệ lợi nhuận, nhưng không có lợi cho người gửi tiền. NHTG (1995) lập luận rằng đó chính là nguyên nhân giải thích cho sự tăng trưởng chậm chạp của tiền gửi ngân hàng và tỷ lệ tiền mặt cao trong tổng cung tiền (Trong đầu thập niên 90, tăng trưởng tiền mặt có tốc độ cao hơn tăng trưởng tiền gửi ngân hàng. Vì thế mà tỷ lệ tiền mặt trong tổng cung tiền M3 của Việt Nam lại gia tăng từ 31,7% năm 1989 lên mức đỉnh cao là 43,3% vào năm 1994. Chỉ từ năm 1995 trở lại đây , tỷ lệ tiền mặt/M3 của Việt Nam mới giảm xuống or mức 23% năm 2001. Trong khi đó, vào năm 2001 tỷ lệ tương ứng của Trung Quốc là 11,2% và của Thái Lan là 9,5%)
2. CẢI CÁCH TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT BƯỚC HAI
Diễn biến bước thay đổi cơ chế điều hành linh hoạt theo trần lãi suất cho vay
Từ 1/1/1996 – 8/2000, NHNN thực hiện bước thay đổi căn bản cơ chế điều hành lãi suất VND theo hướng điều hành linh hoạt trần lãi suất cho vay.
Những thay đổi chủ yếu bao gồm:
_ Áp dụng cơ chế trần lãi suất cho vay thay thế khung lãi suất trước đó. Có sự phân biệt trần lãi suất cho vay ngắn hạn và trung hạn, dài hạn ; có sự phân biệt giữa lãi suất cho vay khu vực thành thị, nông thôn (quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn thấp hơn cho vay trung hạn, trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn cao hơn thành thị).
_ Khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân và lãi suất tiền gửi bình quân ở mức 0,35% tháng, theo Nghị quyết Quốc hội khóa 9 kỳ họp thứ 8, tháng 10/1995.
_ Bỏ quy định về sàn lãi suất đối với tiền gửi của các tổ chức kinh tế và dân cư tại TCTD. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể do TCTD tự ấn định trên cơ sở trần lãi suất cho vay, chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi bình quân 0,35% tháng và cung-cầu vốn của từng TCTD.
_ Trần lãi suất cho vay bằng ngoại tệ được điều chỉnh phù hợp với biến động lãi suất trên thị trường quốc tế và cung-cầu ngoại tệ ở trong nước.
_ Điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu đối với các TCTD một cách linh hoạt, phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ hàng năm.
Theo cơ chế điều hành lãi suất tín dụng nói trên từ năm 1996-7/2000 NHNN liên tục điều chỉnh trần lãi suất cho vay của TCTD đối với nền kinh tế phù hợp với chỉ số lạm phát và cung-cầu vốn từng thời điểm cụ thể:
Trong năm 1996, NHNN đã 4 lần điều chỉnh trần lãi suất bằng đồng Việt Nam, lãi suất huy động vốn cuối năm 1996 giảm 8,4% năm, lãi suất cho vay giảm 10% năm so với năm 1995. Với lãi suất cho vay khu vục nông thôn được quy định cao hơn một chút so với lãi suất cho vay khu vực thành thị. Điều này đã có tác dụng điều chuyển các luồng vốn dư thừa từ thành thị về nông thôn. Cơ chế lãi suất mới đã rút ngắn chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ
Bảng 2: Trần lãi suất cho vay năm 1996 (VND % tháng, USD % năm)
Tháng
1
7
9
10
I- Cho vay VND:
1- Trần lãi suất cho vay khu vực thành thị
-Cho vay ngắn hạn
1,70
1,60
1,50
1,25
-Cho vay trung và dài hạn
1,75
1,65
1,55
1,35
2- Trần lãi suất cho vay khu vực nông thôn
2,00
1,80
1,70
1,50
3- Cho vay HTXTD và QTDND
2,50
2,20
2,10
1,80
II- Cho vay ngoại tệ
9,50
9,50
9,50
9,50
III- Chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động bình quân
0,35
0,35
0,35
0,35
Nguồn NHNN
Bảng 3: Trần lãi suất cho vay các năm 1997-1999
1997
1998
1999
1
9
1
9
I- Cho vay VND:
1- Trần lãi suất cho vay khu vực thành thị
-Cho vay ngắn hạn
1%
1,2
1,2
1,1
0,85
-Cho vay trung và dài hạn
1,1%
1,25
1,25
1,15
0,85
2- Trần lãi suất cho vay khu vực nông thôn
1,2%
1,25
1,25
1,20
1,00
3- Cho vay HTXTD và QTDND
1,5%
1,5
1,5
1,5
1,5
II- Cho vay ngoại tệ
8,5%
8,5
8,5
8,5
8,5
III- Chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động bình quân
0,35%
Nguồn NHNN
Năm 1997, là năm có nhiều biến động đối với nền kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt là khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á được khởi đầu bằng sự thả nổi đồng Bạt của Thái lan. Cơ chế điều hành lãi suất tiếp tục được điều chỉnh theo hướng huy trì lãi suất cho vay ở mức thấp, tạo điều kiện mở rộng tín dụng đối với nền kinh tế.
Tiếp đến từ năm 1998, trong mối quan hệ hài hoà với tỷ giá nhằm hạn chế những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Á 1997/1998 đến Việt Nam, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN có một số thay đổi cơ bản, đó là tự do hoá hoàn toàn lãi suất huy động (không còn quy định biên độ) và tiếp tục điều chỉnh linh hoạt trần lãi suất cho vay.
Năm 1999 là một năm đánh dấu mốc quan trọng trong hoạt động ngân hàng, là thời điểm bắt đầu thực hiện Luật NHNN và Luật các TCTD. Đồng thời, từ tháng 6/1999 – 3/2000, NHNN chỉ quy định một trần lãi suất cho vay áp dụng cho cả cho vay ngắn hạn và cho vay trung hạn, nhưng vẫn giữ quy định trần lãi suất cho vay khác nhau giữa thành thị và nông thôn để đảm bảo chi phí hoạt động của các NHTM trên địa bàn nông thôn.
Về cơ bản, cơ chế lãi suất của NHNN trong thời kỳ này đã góp phần đạt được mục tiêu duy trì tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị VND trong tương quan mất giá của các đồng tiền trong khu vực. Tuy nhiên, so với yêu cầu đổi mới của nền kinh tế, yêu cầu phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn... , cơ chế lãi suất trần đã trỏ nên không còn thích hợp, làm méo mó sự phân bổ nguồn vốn trong xã hội và hạn chế khả năng cạnh tranh giữa cac TCTD, hạn chế sự luân chuyển vốn trong xã hội, cũng như sự phát triển các công cụ thị trường tiền tệ. Đặc biệt, trong tình hình diễn biến lãi suất trên thị trường quốc tế trong năm 200 có xu hướng ngày càng tăng, việc thực hiện cơ chế lãi suất trần cho cả VND và ngoại tệ đã cản trở việc huy động vốn từ nước ngoài, gây thua thiệt cho DN cũng như các TCTD.
Lí do căn bản của lãi suất trần là để hạn chế vấn đề lựa chọn bất lợi; tức là hạn chế xu hướng các ngân hàng nâng lãi suất để cạnh tranh huy động vốn rồi cho vay rủi ro, một tình trạng đã xảy ra trong cuộc đổ vỡ quỹ tín dụng vào năm 1990. Tuy vậy, trong trường hợp của Việt Nam, chính sách trần lãi suất là một bộ phận không thể thiếu của hệ thống áp chế tài chính (ít nhất là trong thập niên 90) và sự kết hợp với sự chỉ định tín dụng nhằm đảm bảo các khu vực ưu tiên của chính phủ được nhân vốn vay với lãi suât vừa phải. Một minh chứng cho nhận định này là các ngân hàng có thể huy động và cho vay với lãi suất vượt trần đối với “huy động vốn cho mục tiêu cụ thể” (purposeslinked mobilized funds). Tức là đối với những dự án đã xác định, ngân hàng có thể huy động tiền gửi với lãi suất cho vay cao hơn lãi suất trần. Nếu ngăn chặn lựa chọn bất lợi là lý do chính yếu để áp đặt lãi suất trần thì kiểu “vốn huy động cho mục tiêu cụ thể” không bao giờ được phép.
Hệ thống ngân hàng và chính sách lãi suất trong hai năm 1998-99 chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á
Với đồng tiền chưa có khả năng chuyển đổi, tài khoản vốn đóng, và giá trị tiền cùng với tài sản nợ chính M3 còn nhỏ so với GNP, hệ thống ngân hàng Việt Nam không phải chịu các tác động trực tiếp từ cuộc khủng hoảng châu Á. Chính vì vậy, trong năm 1997 và đầu năm 1998 NHNN đã không siết chặt kiểm soát lãi suất mà thậm chí còn nới lỏng. Trần lãi suất được nâng lên để các NHTM (đặc biệt là các ngân hàng cổ phần) có thể tăng lãi suất tiền gửi để huy động vốn trong năm 1997. Trong bối cảnh bắt đầu có sự cạnh tranh lãi suất giữa các ngân hàng, quy định giới hạn chênh lệch lãi suất cho vay và tiền gửi trong khoảng 0,35% tháng dần dần không còn tác dụng và cuối cùng được huỷ bỏ.
Tuy nhiên, trái với nhiều dự đoán của chính phủ, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu chịu tác động khá mạnh (mặc dù gián tiếp) của cuộc khủng hoảng từ giữa năm 1997. Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, chất lượng tài sản có của các ngân hàng suy giảm khi các doanh nghiệp vay nợ gặp khó khăn do tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài suy giảm. Nhiều khoản cho vay DNNN của các ngân hàng thương mại quốc doanh trở thành nợ khó đòi. Đặc biệt, các doanh nghiệp nhập khẩu mở một khối lượng tín dụng thư trả chậm (deffered L/Cs) lớn trong hai năm 1995, 1996 và đáo hạn vào cuối năm 1997, đầu năm 1998. Việc nhiều doanh nghiệp trong số này không có khả năng thanh toán (mà tình hình còn trầm trọng hơn sau khi đồng nội tệ được phá giá 10% vào tháng 8 năm 1998) buộc các ngân hàng phải chịu gánh nặng chi trả cho phía nước ngoài. Một số ngân hàng cổ phần vì thế rơi vào tình trạng gần như phá sản.
Từ cuối năm 1998, Chính phủ đã đưa ra một loạt các biện pháp nhằm giảm nhẹ khó khăn cho các DNNN bao gồm việc hạ lãi suất tiền gửi và nới lỏng tín dụng Tác động của việc làm này được đánh giá như sau:
_Thứ nhất, lãi suất giảm nhưng lượng tiền gửi tại ngân hàng vẫn ổn định
_ Thứ hai, tín dụng nội địa tăng nhưng không hoàn toàn do lãi suất giảm. Hầu hết sự gia tăng tín dụng nằm ở hạn mức tín dụng chỉ đạo bao gồm tín dụng cho các DNNN, chương trình mía đường, cơ sở hạ tầng, nông nghiệp và khắc phục hậu quả thiên tai.
_ Thứ ba, gia tăng tín dụng trong khu vực nhà nước trong khi tiền gửi không tăng lên, nên các NHTM giảm dự trữ phụ trội cũng như tăng vay vốn từ NHNN. Đặc biệt, khi dự trữ phụ trội cạn kiệt, NHNN đã ra quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho các ngân hàng từ 10% xuống 7% lượng tiền gửi ngắn hạn vào tháng 2/1999.
Một tình trạng xảy ra trong năm 1999 là trong khi tiền gửi ngoại tệ tăng cao thì tăng trưởng dư nợ cho vay ngoại tệ lại không theo kịp. Theo quy định của NHNN, các DN chỉ được vay ngoại tệ để thanh toán các hợp đồng nhập khẩu máy móc. thiết bị hay chi trả dịch vụ phí mua từ các tổ chức nước ngoài. Hạn chế này tới tháng 9/2000 mới được tháo gỡ, từ đó cho phép các NHTM mở rộng đối tượng khách hàng vay ngoại tệ. Tiền gửi ngoại tệ gia tăng và các NHTM chuyển số tiền này vào các tài khoản tiền gửi ở nước ngoài để hưởng chênh lệch lãi suất.
Đánh giá của cơ chế điều hành lãi suất theo trần
Ưu điểm
Lãi suất tín dụng được gắn chặt với chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như lạm phát, tăng trưởng kinh tế, tỷ giá và quan hệ cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ, tín dụng; lãi suất cho vay được xác định phù hợp nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao; lãi suất tiền gửi được tự do hoá.
Lãi suất cho vay được quy định theo trần, có sự phân biệt giữa trần lãi suất cho vay : ngắn hạn và trung hạn, dài hạn; cho vay khu vực thành thị và khu vực nông thôn; cho vay các NHTM và hệ thống QTDND. Nhìn chung, trần lãi suất cho vay của các TCTD giảm dần qua các năm từ 1996 đến thời điểm 7/2000.
Lãi suất ngoại tệ được điều chỉnh phù hợp kịp thời với lãi suất thị trường quốc tế giảm thiểu chênh lệch lãi suất cho vay nội tệ và lãi suất cho vay ngoại tệ.
Hạn chế
Cơ chế trần lãi suất là một biện phap can thiệp hành chính của Nhà nước, làm cho lãi suất đôi khi không phản ánh đúng quan hệ cung-cầu vốn trên thị trường, hạn chế mức độ cạnh tranh, hạn chế việc huy động và cho vay vốn dài hạn (do bị khống chế bởi trần); việc phân bổ các nguồn tín dụng theo lĩnh vưc kinh tế và địa bàn lãnh thổ gặp khó khăn.
Có nhiều mức lãi suất trần, vấn đề này xuất phát từ điều kiện khách quan là sự phát triển không đồng đều giữa các khu vực thị trường tiền tệ, sự chênh lệch về quy mô và năng lực tài chính giữa các TCTD.
Trần lãi suất đã gò bó tính chủ động linh hoạt trong kinh doanh của các TCTD, khó xử linh hoạt, hài hoà mối quan hệ về lợi ích giữa người gửi tiền và người đi vay.
Cơ chế trần lãi suất làm hạn chế việc hình thành và phát triển của các công cụ tài chính trên thị trường, vì các TCTD áp dụng phổ biến là lãi suất cố định, chưa có thước đo để áp dụng lãi suất linh hoạt.
Trần lãi suất được điều chỉnh theo xu hướng giảm thấp để hỗ trợ cho hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh nhưng lại làm cho chênh lệch giữa lãi suất cho vay và huy động của các TCTD bị giảm thấp (dưới 0.2% tháng), nhiều tổ chưc tín dụng gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh.
Cơ chế trần lãi suất áp dụng cho cả đồng Việt Nam với lãi suất ngoại tệ trong nước, lãi suất ngoại tệ trong nước với lãi suất trên thị trường quốc tế trỏ nên kém linh hoạt, cản trở việc huy động vốn từ nước ngoài và sự thua thiệt cho doanh nghiệp và TCTD Việt Nam.
II. TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT TỪNG BƯỚC TỪ NĂM 2000 ĐẾN 2002
CẢI CÁCH TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT BƯỚC BA: CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CƠ BẢN THAY CHO LÃI SUẤT TRẦN
Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản
Để phù hợp với xu hướng đổi mới hoạt động ngân hàng và trên cơ sở luật Ngân hàng nhà nước từ tháng 8/2000-5/2001, NHNN đã thực hiện cơ chế điều hành lãi xuất theo luật NHNN (cơ chế điều hành lãi suất cơ bản) thay cho cơ chế lãi suất trần. Theo cơ chế này, NHNN công bố lãi suất cơ bản hằng tháng.
+ Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay của các NHTM áp dụng đối với khách hàng tốt nhất và một biên độ thích hợp thể hiện bằng số phần trăm tuyệt đối. Lãi suất cho vay và huy động của TCTD gắn với lãi suất cơ bản của NHNN.
+ Biên độ trên được quy định hợp lý để đảm bảo cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện kinh doanh và mức độ rủi ro cụ thể, đồng thời NHNN kiểm soát được lãi suất cho vay. Biên độ trên phân biệt đối với lãi suất áp dụng giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn, giữa các loại hình TCTD (trừ QTDND cơ sỏ) mà chỉ quy định có sự phân biệt giữa lãi suất ngắn hạn và lãi suất trung hạn, dài hạn. Biên độ trên bao gồm cả các khoản phí liên quan đến khoản vay nhằm tránh việc TCTD lợi dụng thu phí để nâng lãi suất cho vay lên quá mức biên độ cho phép.
Trên nguyên tắc trên, các TCTD được phép cộng thêm biên độ, đối với cho vay ngắn hạn cộng 0,3% tháng, cho vay trung và dài hạn cộng 0,5% tháng, đối với lãi suất ngoại tệ theo lãi suất SIBOR cộng với biên độ. Và đến tháng 6/2001, lãi suất ngoại tệ đã được tự do hóa, mức cho vay và huy động ngoại tệ đều do các NHTM tự quyết định theo cung vốn trên thị trường, riêng lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ của các DN tại NHTM, và tiền gửi ngoại tệ của các NHTM tại NHNN chưa được tự do hoá mà nhằm khuyến khích các DN bán ngoại tệ cho các NHTM không gửi ngoại tệ ra nước ngoài.
Bảng 4: Mức lãi suất cơ bản 8/2000 – 7/2002
Thời điểm
Mức lãi suất cơ bản
8/2000 – 2/2001
0,750
3/2001
0,725
4-5/2001
0,700
6-9/2001
0,650
10/2001 – 7/2002
0,600
Nguồn NHNN
Cơ chế giới hạn biên độ lãi suất so với lãi suất cơ bản về bản chất không khác gì so với trần lãi suất áp dụng trước đây. Tuy nhiên, trên thực tế mức trần (lãi suất cơ bản cộng biên độ) được định ở mức cao hơn so với trần lãi suất theo cơ chế cũ rất nhiều.Thực tế lãi suất cho vay của ngân hàng luôn thấp hơn giới hạn biên độ cho phép. Trước thời điểm áp dụng lãi suất cơ bản, lãi suất cho vay bình quân của bốn NHTM quốc doanh đã kịch trần (0,85% tháng). Thực tế là trong năm 1999, các NHTM không theo kịp 5 đợt hạ trần lãi suất của NHNN, lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân vượt trên trần lãi suất.
Từ tháng 8/2000, lãi suất cơ bản được đặt ở mức mà khi cộng biên độ 0,3% tháng đã cao hơn hẳn lãi suất cho vay thực tế. Như vậy, từ khi có cơ chế lãi suất cơ bản, các ngân hàng đã bắt đầu ấn định lãi suất trên cơ sỏ thoả thuận với khách hàng (Biên độ lãi suất cơ bản không hạn chế lãi suất , ít nhất là ở khu vực thành thị. Còn ở khu vực nông thôn, việc áp dụng lãi suất thoả thuận giữa các tổ chức tín dụng và khách hàng đã được thực thi trong thời gian dài).
Một điểm đáng chú ý nữa là lãi suất cho vay của các NHTM, mặc dù luôn cao hơn lãi suất cơ bản, nhưng thay đổi theo lãi suất cơ bản. Trong năm 2000 và 2001, cả hai mức lãi suất này đều giảm. Nhưng trong thời gian đó, lãi suất tiền gửi lại tăng lên. Cạnh tranh giữa các ngân hàng đã dẫn tới gia tăng lãi suất huy động vốn, nhưng lãi suất chovay vẫn không tăng và nằm trong biên độ lãi suất cơ bản. Chênh lệch lãi suất, do vậy, đã giảm đi rõ rệt.
Ý kiến bình luận
Có ba ý kiến khác nhau bình luận về cơ chế điều hành lãi suất bằng lãi suất cơ bản của NHNN. Ý kiến thứ nhất cho rằng lãi suất cơ bản cộng với biên độ không khác gì với trần lãi suất trước đây và, do vậy, sẽ không tạo ra tác động gì nhiều tới các mức lãi suất cũng như hành vi huy động và cho vay vốn của các ngân hàng. Đặc biệt, chính sách này cũng như trần lãi suất, hoàn toàn lo._.về lãi xuất giữa hai bộ phận thị trường này và làm giảm mức độ nhay cảm của mặt bàng lãi xuất trước những thay đổi của CSTT.
Tính cấp thiết của việc hình thành một cơ chế kiểm soat lãi suất thich hợp là vấn đề không cần bàn cãi. Tuy nhiên, để có một cơ chế kiểm soát lãi xuất đầy đủ hiệu lực tác động của nó lại là một vấn đề cần có một sự quan tâm thích đáng. Trước hết là việc lựa chọn và xác đinh mức lãi xuất mục tiêu phù hợp và sau đó là thiết kế cơ chế sử dụng phù hợp với các công cụ CSTT để duy trì mức lãi xuâts mục tiêu đó.Cải cách hoạt động thị trường tín dụng theo hướng hạn chế sự phân cách trong phạm vi thị trường được coi là giải pháp quan trọng nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh giữa các NHTM và đảm bảo hiệu lực chuyển tải những ảnh hưởng của mức lãi xuất mục tiêu tới mặt bằng lãi xuất thị trường.
III. NHỮNG THÁCH THỨC ĐẶT RA TRÊN CON ĐƯỜNG TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM SAU KHI THỰC HIỆN CƠ CHẾ LÃI SUÂT THOẢ THUẬN
Trong thời điểm hiện nay chúng ta đang áp dụng thực hiện cơ chế “lãi suất thoả thuận” trong hoạt động tín dụng thương mại, đó là một bước chuyển đổi quan trọng và mạnh mẽ về chính sách lãi suất và chính sách tín dụng theo nguyên tắc thị trường. Lãi suất thoả thuận, về bản chất kinh tế, chính là lãi suất thị trường. Vì vậy, nó chỉ hoạt động và phát huy tác dụng trong điều kiện thị trường tài chính phát triển. Những điều kiện cơ bản bao gồm:
Thị trường tài chính phát triển có chiều sâu
Hệ thống NHTM hoạt động trên nguyên tắc thị trường và hiệu quả
NHTƯ có đủ năng lực điều hành chính sách tiền tệ và kiểm soát thị trường tài chính.
Với những điều như vậy việc thực hiện lãi suất thoả thuận hiện nay ở Việt nam đặt ra không ít thách thức:
1/ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM VỐN CÒN HẾT SỨC KÉM PHÁT TRIỂN VÀ LẠC HẬU SO VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC
Xét về độ sâu tài chính, mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế, thị trường tài chính Việt Nam vẫn còn lạc hậu so với hầu hết các nước trong khu vực. Sự nông cạn của thị trường sẽ làm cho các công cụ thi trường kém phát huy tác dụng, trong đó bao gồm cả lãi suất. Sự yếu kém của thị trường tài chính Việt Nam được phản ánh các chỉ số tài chính cơ bản: các chỉ số M2/GDP, tín dụng/GDP, tiền gửi/GDP… đều ở mức thấp so với các chỉ số của các nước trong khu vực. Sự lạc hậu, sơ khai của thị trường tài chính Việt Nam cũng bao gồm cả tình trạng các công cụ tài chính còn nghèo nàn về chủng loại và nhỏ bé về lượng giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và trên thị trường mở- thij trường tiền tệ trong những năm qua.
2./ CƠ CHẾ LÃI SUẤT THỊ TRƯỜNG HAY LÃI SUẤT THỎA THUẬN ĐÒI HỎI MỘT CHẾ ĐỘ THÔNG TIN TƯƠNG XỨNG
Tại điều 1 của Quyết định 546/2002/QĐ-NHNN, quy định “Tổ chức tín dụng xác định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam, pháp nhân và cá nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam”. Đó là một quy định rất phù hợp với cơ chế thị trường và điều đó đặt ra yêu cầu về chế độ thông tin phù hợp nhằm đảm bảo để các NHTM có thể cho vay một cách độc lập với mức lãi suất phù hợp theo từng đối tượng khách hàng ở các thời điểm nhất định. Cũng có thể nói cách khác, các doanh nghiệp cần được định mức tín nhiệm một cách tương ứng để tránh tình trạng ”Bằng đầu như vại ”. Việc xác định đâu là doanh nghiệp có nhu cầu vốn thực sự cho sản xuất kinh doanh cũng đòi hỏi một chế độ thông tin, cập nhật và minh bạch như chế độ công bố thông tin tài chính, chế độ kế toán và kiểm toán chuẩn mực quốc tế… Doanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ…,đặc biệt là các trường hợp lừa đảo thường sẵn sàng chấp nhận vay “mọi giá”. Tình trạng khách hàng chấp nhận “vay với mọi giá” nhắc nhở các ngân hàng về lợi nhuận cao gắn với rủi ro cao và do đó hãy cảnh giác với các trường hợp này.
Xây dựng thể chế thị trường, như việc tăng cường công khai về thông tin, điều kiện bảo đảm an toàn và giám sát tài chính là việc cần thiết phải tiến hành song song với quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế về tài chính tiền tệ nhằm tránh những thất bại của thị trường, đảm bảo thị trường hoạt động hiệu quả. Sự chậm trễ của các nước Đông Á trong việc củng cố thể chế thị trường là một bài học quý giá cho Việt Nam. Tuy nhiên hiên nay Việt Nam chưa có cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng, hệ thống kế toán theo tiêu chuẩn, chuẩn mực Việt Nam là một trở ngại lớn và làm lệch lạc việc đánh giá hiệu quả kinh doanh và kiểm tra giám sát đối với hoạt động của các ngân hàng và doanh nghiệp trong nước. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của NHNN đã đi vào hoạt động nhưng vẫn còn trong giai đoạn thí điểm và do đó, chưa có cơ quan đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập. Điều này đưa đến khó khăn cho ngân hàng thương mại trong việc đưa ra một mức lãi suất thỏa thuận phù hợp vói mức độ tín nhiệm của từng doanh nghiệp và diễn biến thị trường. Hơn nữa đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng tín dụng ngân hàng hơn nữa theo cơ chế thương mại – lãi suất thương mại thực sự.
3. HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM CÒN NHIỀU YẾU KÉM CŨNG LÀ THÁCH THỨC CHO QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI SANG LÃI SUẤT THỊ TRƯỜNG
Chỉ có hệ thống ngân hàng lành mạnh mới có thể đưa ra hệ thống lãi suất phù hợp và hiệu quả. Điều này có thể đựơc lý giải như sau: khi ngân hàng hoạt động lành mạnh, có hiệu quả; có năng lực quản lý rủi ro; có khả năng đánh giá doanh nghiệp…thì ngân hàng mới có khả năng đưa ra một mức lãi suất cho vay thấp nhất ứng với một mức rủi ro nhất định. Ngược lại, khi các NHTM hoạt động kém hiệu quả (chi phí cao, quản lý rủi ro kém…) thường có khuynh hướng đưa ra mức lãi suất cao hơn bình thường. Đối với lãi suất huy động, các NHTM hoạt động yếu kém thường đưa ra mức lãi suất khá cao để huy động được nhiều tiền từ công chúng nhằm duy trì hoạt động cầm chừng của nó. Điều này nhắc nhở những người gửi tiền hãy cảnh giác vơi những ngân hàng chào lãi suất cao bất thường.
Giống như hệ thống ngân hàng ở các nước đang phát triển, hệ thống ngân hàng Việt Nam còn nhiều yếu kém trên các mặt: quản lý yếu kém (nhất là quản lý rủi ro lãi suất), dễ đổ vỡ do vốn thấp, nợ quá hạn cao, cạnh tranh và sinh lời thấp. Đây là những thách thức lớn đối với hệ thống NHTM Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang cơ chể thị trường, chấp nhận một cơ chế kinh doanh thực sử trên một sân chơi bình đẳng, đặc biệt là khi tiến tới tự do hoá lãi suất một các đầy đủ hơn nữa trong thời điểm hội nhập đang đến gần.
Tính cạnh tranh thấp trong hệ thống ngân hàng Việt Nam
Trong quá trình tự do hoá tài chính và hội nhầp quốc tế về ngân hàng, các NHTM trong nước sẽ phải cạnh tranh quyết liệt hơn, NHTM nào có đủ sức cạnh tranh làm ăn có lãi sẽ tồn tại, ngược lại ngân hàng nào làm ăn thua lỗ sẽ có thể bị đóng cửa. Trước sức ép của cạnh tranh, các ngân hàng không ngừng nâng cao năng lực quản lý, cắt giảm chi phí… để cho vay với lãi suất hấp dẫn nhất.
Ở Việt Nam hiện nay, hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm đa số cả về quy mô và thị phần: với 6 NHTM Nhà nước nhưng thị phần huy động và tín dụng đã chiếm trên 70%; tổng tài sản có của hệ thống NHTM quốc doanh cũng chiếm gần 80% tổng tài sản có của hệ thống NHTM Việt Nam; các NHTM quốc doanh lại cho vay DNNN là chủ yếu. Điều này gây khó khăn trong quá trình cải cách NHTM quốc doanh nhằm chuyển hoạt động của hệ thống ngân hàng này sang kinh doanh trên cơ sở thương mại thực sự, tạo lập một sân chơi bình đẳng trong lĩnh vực ngân hàng đồng thời cản trở việc phát huy tác dụng của quy luật kinh tế thị trường, vì vậy, tính cạnh tranh trong khu vực ngân hàng còn thấp.
Từ khi Việt Nam thực hiện cải cách kinh tế, việc cho phép thành lập các NHTM cổ phần, các chi nhánh NHTM nước ngoài, ngân hàng liên doanh đã phần nào giảm bớt tính độc quyền của các NHTM quốc doanh. Tuy nhiên, dường như tình hình thay đổi không nhiều bởi vì vốn của các NHTMCP quá nhỏ bé, dịch vụ đơn điệu, mạng lưới các chi nhánh không nhiều, năng lực cạnh tranh thấp; các hoạt động của các chi nhanh NHTM nước ngoài còn bị hạn chế về tiền Đồng (các chi nhánh NHTM nước ngoài chỉ được phép huy động vốn bằng VND không vượt quá 25% vốn được cấp, từ các cá nhân Việt Nam và pháp nhân Việt Nam).
Sự dễ tổn thương của hệ thống ngân hàng Việt Nam
Các NHTM Việt Nam có mức vốn rất thấp, nợ quá hạn cao (nhất là các NHTMCP). Sự dễ tổn thương của hệ thống NHTM Việt Nam có thể là thách thức lớn khi hệ thống này chuyển sang cơ chế thị trường thực sự, đặc biệt là sự tự do lãi suất, thả nổi tỉ giá trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Các NHTMCP Việt Nam là khu vực dễ tổn thương nhất. Các NHTMCP dường như được thành lập khá dễ dàng từ những năm 1993-1996 và phát triển vớI tốc độ khá nhanh. Từ 15 NGTMCP vào năm 1990, năm 1997 đã tăng lên 53 NHTMCP. Đến nay, một số ngân hàng cổ phần không đủ vốn điều lệ như quy định, quản lý yếu kém đã bị đóng cửa (bị sát nhập, bị mua lại…) và chỉ còn 43 NHTMCP.
Nợ quá hạn của hệ thống NHTM Việt Nam có chiều hướng gia tăng kể từ năm 1997. Hệ thống hạch toán, phân loại tài sản theo các quy định quốc tế về nợ quá hạn đã cho thấy các ngân hàng thương mại đã phải đối mặt với nhiều khó khăn theo tiêu chuẩn mới.
PHẦN III: BIỆN PHÁP
I. NHÓM BIỆN PHÁP VĨ MÔ
1. NGÂN HÀNG NÀH NƯỚC CẦN BAN HÀNH VĂN BẢN PHÁP LÝ TẠO ĐIỀU KIỆN CHO THƯƠNG PHIẾU LƯU HÀNH TẠI VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN
Hiện nay Việt Nam đã có pháp lệnh về Thương phiếu được ra đời năm 1999 nhưng cho đến nay thương phiếu trong nước vẫn chưa xuất hiện do nhiều lý do, một trong những lý do đó là môi trường pháp lý liên quan đến hối phiếu.
Do đó, cần nghiên cứu các Quy tắc thống nhất về nhờ thu và Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ trong thanh toán quốc tế để cải thiện phương thức uỷ nhiệm thu và thư tín dụng tại Việt Nam theo hướng đa dạng hoá các phương thức trên, cũng như gắn bó hối phiếu với các phương thức thanh toán. Khi hối phiếu có cơ sở phát sinh sẽ giúp cho ngân hàng hạn chế được rủi ro thông qua nghiệp vụ cho vay chiết khấu hối phiếu.
2. NHÀ NƯỚC CẦN SỚM BAN HÀNH LUẬT THANH TOÁN SÉC TẠO CƠ SỞ PHÁP LÝ VỮNG CHẮC CHO VIỆC MỞ RỘNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
Một trong những điều kiện để tiến tới “tự do hoá lãi suất ” là nền kinh tế phải đảm bảo nguồn cung ứng tín dụng dồi dào cho xã hội, bởi khi cung tín dụng không đủ đáp ứng cho nhu cầu tín dụng thì lãi suất khó có thể tự do hoá được. Muốn vậy, phải tạo điều kiện để mọi cá nhân và tổ chức kinh tế mở tài khoản và thanh toán không dùng tiền mặt trong lưu thông giảm, nguồn cung ứng cho tín dụng tăng. Bên cạnh đó việc nghiên cứu ban hành luật séc theo hướng khắc phục những bất cập trong quy định về thanh toán séc sẽ góp phần nâng cao tính pháp lý của thể thức thanh toán này cũng tạo ra nền tảng cho việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam.
3. NHÀ NƯỚC CẦN NGHIÊN CỨU SỬA ĐỔI QUY ĐỊNH VỀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Nhà nước cần sớm ban hành văn bản đánh giá lại tài sản cố định hiện có tại các hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, các NHTMQD cũng cần nhanh chóng cơ cấu lại nợ vay NH, đối với những khoản nợ vay không có khả năng thu hồi phải có biện pháp giải quyết dứt điểm bằng cách nhà nước bù lỗ, lấy vốn chủ sở hữu để bù đắp…Tách hẳn những loại cho vay thuộc diện chính sách sang cho NHCSXH. Tiếp đến cho phép các ngân hàng này phát hành cổ phiếu mới nhưng nhà nước vẫn là cổ đông lớn nhất của NH (nếu thấy cần thiết) trên số vốn đã được xác định lại. Chỉ có bằng cách này nhà nước chủ động giao quyền chủ động tài chính hoàn toàn cho các ngân hàng, chủ động trong điều hành về mọi mặt nâng cao khả năng cạnh tranh một cách lành mạnh với các hệ thống ngân hàng khác và với các ngân hàng nước ngoài, tạo tiền đề tốt cho tiến trình tự do hoá lãi suất.
4. XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT TRÊN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
Một trong những Chương trình hành động của NHNN thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 BCH TƯ Đảng khóa IX ngày 12/5/2004, việc nghiên cứu hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất thị trường của NHNN là một trong nhiều công việc trọng tâm của NHNN.
4.1 Lựa chọn lãi suất liên ngân hàng làm lãi suất mục tiêu trong từng thời kỳ
Lấy lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng là lãi suất mục tiêu cho từng thời kỳ.
Có 2 cách xác định lãi suất liên ngân hàng trên thế giới:
Một là, xác định lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng dựa trên cơ sở tính bình quân lãi suất chào hàng của một số ngân hàng lớn.
Hai là, xác định lãi suất giao dịch bình quân thực tế dựa trên giao dịch bình quân thực tế của các ngân hàng qua các mạng trực tuyến giữa NHTW và các NHTM.
Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, cách tính toán thứ nhất tỏ ra phù hợp hơn trong việc xác định lãi suất liên ngân hàng mà trước hết là lãi suất tiền gửi liên ngân hàng. Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa hiệu quả của lãi suất liên ngân hàng phù hợp với cung cầu thị trường, chúng ta phải đổi mới cách tính toán:
_ Các ngân hàng tham gia chào lãi suất:
Mở rộng hơn số lượng và cơ cấu các ngân hàng tham gia chào lãi suất, bao gồm các NHTMNN, các NHTMCP đô thị và nông thôn lớn, các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng này phải đáp ứng các điều kiện sau:
+ Có khả năng tài chính mạnh, tỷ lệ nợ quá hạn dưới 5%, hệ số an toàn vốn năm sau cao hơn năm trước.
+ Thường xuyên tham gia các thị trường liên ngân hàng thông qua hệ thống giao dịch điện tử có trung tâm điều hành tại NHNN, không có nợ quá hạn trên thị trường liên ngân hàng.
+ Có trách nhiệm cao trong việc chào lãi suất trên thị trường.
Để hỗ trợ cho các ngân hàng này, NHNN có những chế tài cần thiết như: quy định rõ ràng quyền lợi của họ trong các hoạt động tái cấp vốn, thị trường mở, cung cấp thông tin, xếp hạng tín nhiệm…Các ngân hàng này có trách nhiệm đưa ra lãi suất chào chính xác và xác thực với với quan hệ cung cầu vốn trên thị trường. Ngược lại, các ngân hàng có thể bị loại vai trò này nếu như không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình.
NHNN có thể đưa ra các giới hạn về giá trị và thời hạn của khoản vay trên thị trường liên ngân hàng để ngăn chặn tình trạng vay/ cho vay quá mức, đi vay ngắn hạn để cho vay dài hạn của các ngân hàng.
_ Căn cứ vào lãi suất bình quân đầu vào của từng ngân hàng, vào nhu cầu vốn khả dụng của ngân hàng và cung cầu vốn trên thị trường, các ngân hàng thành viên đưa ra lãi suất chào hàng của mình trên thị trường liên ngân hàng.
Các ngân hàng căn cứ vào lãi suất liên ngân hàng và các chi phí có liên quan về giấy tờ, chi phí ngân hàng…;các đặc điểm kinh tế-xã hội ở từng địa bàn, vào mức độ tín nhiệm của khách hàng để làm cơ sở đưa ra lãi suất vay/ cho vay đối với khách hàng của mình.
Đây sẽ là lãi suất cho vay và đi vay bình quân trên thị trường liên ngân hàng, được công bố theo từng thời hạn khác nhau và dao động xung quanh lãi suất thị trường mở. Ở đây, lãi suất được xác định trong nghiệp vụ thị trường mở chính là cơ sở để xác định lãi suất lãi suất ngắn hạn, vì lãi suất của các khoản vay đều xuất phát từ lãi suất tín phiếu chính phủ và cộng thêm các phụ phí có liên quan.
Căn cứ vào dự báo các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ mà NHNN tính toán và công bố lãi suất mục tiêu (thay thế cho lãi suất cơ bản) để định hướng cho thị trường.
Sử dụng các công cụ điều hành CSTT để điều chỉnh lãi suất thị trường mục tiêu của NHNN.
4.2 Xây dựng mô hình kiểm soát lãi suất của NHNN
Xây dựng mô hình lãi suất chuẩn của thị trường
Lãi suất chuẩn của thị trường được xây dựng dựa trên lãi suất của tín phiếu kho bạc vì đây là loại chứng khoán có độ an toàn và tính lỏng cao nhất. Để có thể xây dựng được lãi suất chuẩn trong thời gian tới thì cần phải chú ý một số vấn đề:
_Loại bỏ lãi suất chỉ đạo của kho bạc nhà nước hiện nay đối với đấu thầu tín phiếu và trái phiếu kho bạc vì nó mang tính hành chính không mang tính thị trường. Nên sử dụng đấu thầu lãi suất trong các phiên đấu thầu trái phiếu.
_ Mở rộng và tạo điều kiện cho các thành viên tham gia thị trường thường xuyên trên thị trường đấu thầu với số lượng tiền đấu thầu lớn. Để tạo ra tính sôi động của thị trường thì cần phải có khoảng 10-15 thành viên thường xuyên tham gia thị trường. Có thể là số lượng này không dễ đạt tới trong thời gian trước mắt, nhưng đó là con số phải đạt tới để có thể tạo ra tính thị trường của bản thân thị trường tiền tệ và của lãi suất.
_ Đa dạng hoá các kỳ hạn của tín phiếu kho bạc: hiện nay kỳ hạn của trái phiếu kho bạc ở Việt Nam vẫn còn đơn điệu và thường là 364 ngày, 2 năm, 3 năm, 5 năm. Để có thể xây dựng đường cong lãi suất chuẩn thì tất yếu phải đa dạng hoá các kỳ hạn của trái phiếu kho bạc, ví dụ là 1 tuần, 2 tuần, 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm. Khi đó đường cong lãi suất dựa trên các giao điểm giữa thời hạn và lãi suất tương ứng mới chính xác.
Xây dựng hành lang lãi suất
NHNN thực hiện điều hành lãi suất theo hướng tự do hoá có sự điều tiết gián tiếp của NHNN thông qua lãi suất định hướng. Lãi suất chủ đạo này sẽ tác động tới lãi suất thị trường thông qua thị trường liên ngân hàng để định hướng lãi suất biến động phù hợp với các mục tiêu của CSTT. Nên xây dựng một hành lang lãi suất hẹp hoặc một lãi suất kỳ vọng trong từng thời kỳ. Lãi suất kỳ vọng này sẽ thay đổi trong từng thời kỳ để đạt tới các mục tiêu CSTT tốt nhất. NHNN sẽ can thiệp kịp thời để lãi suất thị trường dao động xung quanh lãi suất kỳ vọng này.
Vì vậy, NHNN nên bỏ hình thức chiết khấu và lãi suất chiết khấu mà tập trung sử dụng lãi suất tái cấp vốn, thay vào đó là lãi suất tiền gửi của các TCTD tại NHNN. NHNN có thê sử dụng một hành lang lãi suất mà trong đó, trần lãi suất nên là lãi suất tái cấp vốn hoặc lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng, tức là loại lãi suất của những giao dịch chiếm tỷ trọng lớn trên thị trường. Sàn lãi suất là lãi suất tiền gửi của các TCTD. Lãi suất thị trường dao động xung quanh lãi suất thị trường mở. Lãi suất thị trường mở sẽ đóng vai trò điều chỉnh lãi suất thị trường cho phù hợp với lãi suất mục tiêu của NHNN.
NHNN thay việc công bố lãi suất cơ bản hiện nay bằng việc công bố lãi suất mục tiêu của NHNN (có thể lấy lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng làm lãi suất mục tiêu). Như vậy, lãi suất cơ bản vẫn được sử dụng như luật NHNN đã quy định, song nó được thay đổi hoàn toàn về cách thức tính toán.
Trong điều hành lãi suất thị trường tiền tệ, NHNN phải gắn chặt với điều hành các công cụ thị trường tiền tệ. Tuỳ theo tình hình thực tế mà NHNN sử dụng các công cụ gián tiếp như thị trường mở, tái cấp vốn dưới dạng tái chiết khấu, cầm cố, hoặc SWAP, trong đó chú trọng nghiệp vụ thị trường mở.
4.3 Quản lý các loại lãi suất thị trường
Bỏ lãi suất cơ bản của NHNN theo cách tính toán hiện nay
Lãi suất cơ bản được NHNN áp dụng từ tháng 8/2000 cho đến nay. Lãi suất này được xác định hàng tháng dựa trên cơ sở tham khảo lãi suất cho vay của 15 NHTM áp dụng với khách hàng tốt nhất. Tuy có những ưu thế so với các cơ chế lãi suất trần trước đây, song nó vẫn thể hiện sự can thiệp hành chính của NHNN, các TCTD không thể phản ứng kịp thời để phòng tránh rủi ro lãi suất và thanh khoản. Còn quá nhiều loại lãi suất cho vay ưu đãi, cạnh tranh không lành mạnh về lãi suất giữa các TCTD. Dường như lãi suất cơ bản thoát ly lãi suất cho vay bình quân của các TCTD, tính tham khảo đối với TCTD hầu như không còn nữa. Hiện nay, với những biến động về lạm phát và diễn biến sức mạnh của thị trường tiền tệ trong nước và ngoài nước, lãi suất cơ bản chưa phản ánh đúng tình hình thị trường. Nó chủ yếu mang tính định hướng mà NHNN muốn đưa ra cho các TCTD tham khảo khi thực hiện chính sách lãi suất của mình. Vì vậy, việc xoá bỏ lãi suất cơ bản theo cách tính hiện nay vào thời điểm này là cần thiết để NHNN chuyển sang cơ chế điều hành lãi suất khác.
Loại bỏ bớt các loại lãi suất ưu đãi
Theo kinh nghiệm tự do hoá lãi suất trên thế giới, việc xoá bỏ các mức lãi suất ưu đãi thường được tiến hành vào thời kỳ đầu của quá trình tự do hoá lãi suất để không làm ảnh hưởng tới các loại lãi suất cho vay của các TCTD. Ở Việt Nam , theo dõi tiến trình chuyển biến của lãi suất, ta thấy việc xoá bỏ các loại lãi suất ưu đãi muộn hơn so với các nước và ngược lại các nước. Điều này gây ảnh hưởng xấu tới các hoạt động tín dụng của NHTM, đến hạnh toán tài chính của các ngân hàng về chi phí đầu vào và tính toán lợi nhuận. Do đó chúng ta phải loại bỏ bớt các loại lãi suất ưu đãi, trừ lãi suất vay vốn đối với các đối tượng chính sách trong xã hội và các chương trình kinh tế - xã hội của Chính phủ. Điều này có thể thực hiện bằng cách tách toàn bộ các hoạt động cho vay chính sách ra khỏi các hoạt động tín dụng thương mại, xoá bỏ bao cấp đối với các doanh nghiệp nhà nước dưới các hình thức cho vay chỉ định, bảo lãnh vay, khoan nợ, giãn nợ, bù lỗ, từng bước xoá bỏ việc chỉ định các NHTM bảo lãnh cho doanh nghiệp nhà nước. Có thể là, lãi suất ưu đãi đối với các đối tượng chính sách bằng khoảng 60% - 70% lãi suất thị trường liên ngân hàng. Các loại lãi suất ưu đãi nên tập trung vào Ngân hàng Chính sách Xã hội.
Quản lý các loại lãi suất của các tổ chức khác
Hiện nay, chúng ta có nhiều tổ chức tài chính vi mô hoạt động ngân hàng, họ tự định ra lãi suất của mình nên có lúc lãi suất nơi này cao hơn lãi suất thị trường và lãi suất do NHNN công bố. Điều này làm ảnh hưởng đến cơ chế lãi suất thị trường nói chung. Do đó, các hoạt động ngân hàng của các tổ chức phi ngân hàng phải được quản lý chặt chẽ theo Luật các TCTD và lãi suất của các tổ chức này cũng phải tuân theo cơ chế lãi suất chung. Đó là dựa vào lãi suất ngắn hạn liên ngân hàng cộng thêm các khoản chi phí khác để tính ra lãi suất cho vay đối với các hoạt động tín dụng trong cộng đồng.
Đối với lãi suất tín dụng nhà nước của Kho bạc Nhà nước
Việc hoàn thiện cơ chế lãi suất thị trường tiền tệ chịu ảnh hưởng rất lớn từ lãi suất huy động vốn từ các tổ chức thuộc Bộ Tài chính. Để tạo ra sự hỗ trợ tốt hơn đối với cơ chế lãi suất thị trường tiền tệ, ngoài ra việc phải bảo đảm lãi suất thực dương, lãi suất tín dụng nhà nước (tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu địa phương, trái phiếu công trình…) nên được xác định thông qua đấu giá lãi suất hoặc bảo lãnh.
II. NHÓM CÁC BIỆN PHÁP VI MÔ
XÂY DỰNG VÀ TỪNG BƯỚC HOÀN THIỆN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin tài chính
Xây dựng thể chế thị trường, tăng cường tính công khai về thông tin, điều kiện bảo đảm an toàn và giám sát tài chính tiền tệ nhằm tránh những thất bại của thị trường. Có như vậy thị trường mới bảo đảm hoạt động hiệu quả. Không những vậy phải xây dựng hệ thống kế toán kiểm toán theo tiêu chuẩn quốc tế. Phát triển các công ty đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp là một việc làm cần thiết trong hoàn cảnh hiện nay. Bên cạnh đó dần dần hoàn thiện và đưa vào hoạt động trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của NHNN.
Trong điều kiện hội nhập hiện nay, phải tăng cường học hỏi các đối thủ cạnh tranh về nhiều mặt nhưng đồng thời cũng phải xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn theo thôngn lệ quốc tế, ứng dụng linh hoạt theo từng thời điểm cụ thể của chúng ta.
Xây dựng và phát triển thị trường tài chính
Thị trường tài chính của chúng ta còn rất non trẻ nhưng được đánh giá là đầy tiềm năng. Để khai thác triệt để tiềm năng này thì cần phải phát triển thị trường tài chính một cách đầy đủ và lành mạnh. Phát triển các công cụ tài chính
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
Xu thế hội nhập quốc tế, NHTM Việt Nam phải cạnh tranh với các chi nhánh NH nước ngoài với sức mạnh về nguồn vốn, về kinh nghiệm, công nghệ…có lợi thế hơn hẳn.
Do vậy, “tự do hoá lãi suất ” chỉ nên xuất hiện trong một môi trường cạnh tranh lành. Muốn vậy, các NHTM phải từng bước củng cố, hoàn thiện và phát triển hoạt động kinh doanh của mình một cách vững chắc để có thể đủ sức mạnh cạnh tranh một cách bình đẳng với NHTM trong nước và nước ngoài bằng các biện pháp cụ thể sau:
NHTM cần mở rộng hình thức cạnh tranh chủ động thông qua việc nâng cao chất lượng phục vụ và dịch vụ ngân hàng.
Đây là một biện pháp rất hiệu quả mà sự vươn tới không có giới hạn, là sân chơi lành mạnh cho các NHTM dùng hết khả năng của mình để cạnh tranh. Cạnh tranh bằng nâng cao chất lượng dịch vụ chỉ có tác dụng tốt cho các NHTM và mang lại lợi ích cho dân chúng và cho các doanh nghiệp.
Chất lượng phục vụ bao gồm rất nhiều lĩnh vực có liên quan đến khách hàng, chẳng hạn như: thủ tục giấy tờ gọn nhẹ, thời gian xử lý nghiệp vụ nhanh chóng, tư vấn cho khách hàng hiệu quả, thái độ giao tiếp tốt đối với khách hàng, nơi đón tiếp sạch sẽ, thuận tiện…
Nâng cao chất lượng phục vụ và dịch vụ ngân hàng chính là quan tâm va nâng cao lợi ích của khách hàng. Trong đó, lợi ích về kinh tế thể hiện qua chi phí vay vốn là quan trọng nhất. Nó không chỉ thể hiện trực tiếp qua lãi suất vay vốn mà còn các chi phí về thủ tục giấy tờ, thời gian đi lại…Vì với các doanh nghiệp thời gian là tiền bạc.
Ngoài lợi ích kinh tế, việc cạnh tranh nâng ao chất lượng phục vụ và dịch vụ ngân hàng còn đảm bảo cho khách hàng được hưởng các lợi ích tốt hơn như sự tôn trọng, sự thoải mái, thuận tiện…
Mở rộng tín dụng đến nhiều đối tượng khách hàng như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ, cá nhân vay sản suất, tiêu dùng…cũng như đa dạng hoá các loại hình cho vay.
NHTM cần quan tâm đến cách công tác tiếp thị, thiết lập bộ phận nghiên cứu và thực thi các biện pháp tiếp thị cho phù hợp với từng loại khách hàng để có hiệu quả tốt nhất.
NHTM cần thực hiện tốt công tác cân đối tín dụng
Thực hiện tốt công tác cân đối tín dụng sẽ tạo điều kiện cho tăng trưởng tín dụng cân bằng với tăng trưởng huy động vốn, muốn vậy các NHTM cần:
_ Tổ chức tốt công tác điều hoà vốn trong nội bộ hệ thống ngân hàng để đảm bảo nguồn vốn không bị ứ đọng.
_ Tăng cường đầu tư vào các hoạt động kinh doanh khác: góp vốn, mua cổ phần của cac doanh nghiệp, tham gia thị trường tiền tệ…
_ Tham gia các hoạt động cung ứng dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ, bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán, bất động sản theo quy định của pháp luật nhằm hỗ trợ cho việc tăng trưởng tín dụng.
_ NHTM cần quan tâm đến việc nâng cao chất lượng của công tác quản lý nguồn nhân lực.
Bất kỳ tổ chức nào kể cả ngân hàng chỉ có thể thực hiện thành công mục tiêu hoạt động của mình đều phụ thuộc vào việc ngân hàng có thể tổ chức, phát triển và quản lý nguồn nhân lực của mình có hiệu quả hay không.
Ngân hàng phải phát triển một cơ cấu tổ chức nhằm đạt được chiến lược và thực hiện kế hoạch hoạt động của mình. Từ cơ cấu tổ chức này sẽ giúp ngân hàng xác định nhu cầu nhân sự theo những tiêu chí cơ bản như số lượng, trình độ và kỹ năng của nhân viên và có thể thay đổi việc bố trí, đào tạo và huấn luyện nguồn nhân lực.
Ngân hàng cũng cần xác định trách nhiệm cụ thể rõ ràng cho kết quả, cấu trúc công việc cá nhân nhằm đáp ứng yêu cầu của công việc và phân bổ nhân viên trong các phòng ban với số lượng cần thiết kèm theo các kỹ năng phù hợp để đáp ứng yêu cầu của từng bộ phận
Nhân viên ngân hàng sẽ làm việc không hết năng suất khi công việc nhàm chán, không có hứng thú cũng như khi công việc không xác định hay xác định mơ hồ. Vì vậy, công việc của nhân viên cần được mô tả chi tiết v nếu có thể được cần đo lường kết quả đạt được cụ thể của từng cá nhân, từng phòng ban sau mỗi kỳ.
Ngân hàng cũng cần quan tâm đến việc xây dựng kế hoạch đào tạo thường xuyên, định kỳ đến từng cán bộ, nhân viên ngân hàng để thúc đẩy, nâng cao trình độ của họ trong nhận thức va trong công việc
NHTM cần quan tâm đến việc nâng cao chất lượng của công nghệ thông tin ngân hàng, xây dựng một hệ thống công nghệ đảm bảo thu thập những thông tin quản trị cần thiết cho ngân hàng kịp thời để làm cơ sở cho những quyết định kinh doanh ngân hàng.
KẾT LUẬN
Lãi suất là vấn đề liên quan tới mọi vấn đề tài chính tiền tệ. Tầm quan trọng của nó được càng được khẳng định khi chúng ta đang trong tiến trình hội nhập kinh tế, để chuẩn bị thật tốt cho tương lai chúng ta đang cố gắng nỗ lực từng bước để có thể đạt tới tự do hóa lãi suất.
Tiến hành tự do hoá lãi suất trong thời điểm hiện nay là tất yếu nhưng nó phải được thực hiện khi các điều kiện đã chín muồi. Để chuẩn bị được những điều kiện đó phải có sự cải tổ phối hợp đồng bộ cả vi mô và vĩ mô trong các lĩnh vực. Trong thời gian tới nên chăng chúng ta phải kết hợp đồng bộ các biện pháp nhằm xây dựng một trình tự hợp lý để đạt được hiệu quả như ý muốn.
Có thể nói những điều chúng ta đã đạt được là những thành tựu đáng ca ngợi nhưng tiến trình tự do hoá lãi suất thời gian qua cũng đã cho thấy những bài học kinh nghiệm đáng quý cho bước đường tiếp theo để chúng ta thực sự đạt được “tự do hoá lãi suất”. Đây chắc chắn sẽ là tiền tốt cho quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập sau này. Con đường đi đến tự do hóa hoàn toàn lãi suất còn ở phía trước và chắc chắn sẽ mang lại cho chúng ta nhiều thành quả xứng đáng.
Lời cuối cùng xin được trân thành cảm ơn thầy cô và bạn bè đã giúp em hoàn thành đề án này
MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tài chính Tiền tệ Ngân hàng (Frederic S.Mishkin)
2. Giáo trình Ngân hàng Thương mại (NXB Thống kê)
3. Giáo trình Tài chính Tiền tệ (KTQD)
4. Cải cách Ngân Hàng Thương Mại
5. Bàn về các công cụ của CSTT ở Việt Nam hiện nay
6. Kỷ yếu hội nghị khoa học: Tiến trình Tự do hóa tài chính ở Việt Nam hiện nay
7. Nghiên cứu tình huống: Việt Nam con đường đi đến tự do hóa lãi suất
8. Tạp chí Ngân hàng
_Số 8/2002: + Lãi suất thỏa thuận - những thách thức trên con đường chuyển đổi cơ chế lãi suất ở Việt Nam
_Số 10/2003: + Hiệu quả cơ chế kiểm soát lãi suất của ngân hàng nhà nước thực trạng và nhân tố ảnh hưởng
+ Một số ý kiến góp phần hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất và phát triển thị trường tiền tệ
_Số 1/2004: + Một vài ý kiến về việc xây dựng lãi suất liên ngân hàng Việt Nam
_ Số 11/2004: + Những tác động chủ yếu của tiến trình hội nhập đến hoạt động của Ngân hàng Nhà nước
_Số 12/2004: + Về điều hành lãi suất thị trường tiền tệ của NHNN Việ Nam trong thời gian tới
+ Bàn về tự do hóa lãi suất ở Việt Nam
_ Số 1/2005: +Tiến trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực Ngân Hàng ở Viêt Nam
_ Số 9/2005: +Diễn biến lãi suất thị trường và điều hành lãi suất của Ngân hàng nhà nước trong 8 tháng đầu năm 2005
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0726.doc