Lời nói đầu
Trong cơ chế thị trường, lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong nền kinh tế. Diễn biến của nó được đưa tin hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng. Sự dao động của lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định của cá nhân, doanh nghiệp cũng như hoạt động của các tổ chức tín dụng và toàn bộ nền kinh tế. Chính sách lãi suất là một trong những công cụ quan trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, nhằm thúc đẩy tăng t
27 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1573 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tự do hoá lãi suất ở nước ta & cơ chế lãi suất thoả thuận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rưởng và kiềm chế lạm phát. Một mặt, lãi suất được sử dụng đúng đắn uyển chuyển, linh hoạt cần phù hợp với những điều kiện, tình hình kinh tế trong từng thời kỳ nhất định sẽ có tác động tích cực tới các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Ngược lại, nếu sử dụng công cụ lãi suất một cách cố định thì rất có thể chỉ có tác dụng tích cực ở thời kỳ này nhưng chuyển sang thời kỳ khác với những điều kiện kinh tế xã hội thay đổi lại trở thành vật cản cho sự phát triển của nền kinh tế.
Việt Nam qua hơn 10 năm thực hiện đổi mới kinh tế toàn diện, chính sách lãi suất đã có những bước chuyển biến cơ bản - được cải cách đáng kể theo định hướng thị trường. Cơ chế điêù hành lãi suất được thay đổi theo từng thời kỳ phát triển kinh tế, ngày càng trở nên linh hoạt, góp phần ổn định thị trường tiền tệ bình ổn giá cả, đẩy lùi và kiềm chế lạm phát. Những chính sách lãi suất ngân hàng nhà nước (NHNN) sử dụng đã có tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế nói chung, đặc biệt là hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp nói riêng. Để có chính sách lãi suất phù hợp với nguyên tắc thị trường, đảm bảo nguồn lực tài chính được sử dụng và phân bổ một cách hiệu quả hơn, thì VN luôn phải linh động với các chính sách lãi suất, để có được chính sách lãi suất phù hợp với từng giai đoạn ngắn của nền kinh tế.
Bố cục của đề tài được kết cấu bởi hai phần lớn.
Phần I : Một số Lý luận cơ bản về lãi suất
Phần II: Quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất ở nước ta và cơ chế lãi suất thoả thuận.
Do thời gian và kiến thức hiểu biết của chúng em còn nhiều hạn chế nên khó tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được sự chỉ bảo của thầy giáo
Nội dung
Phần I
Một số Lý luận cơ bản về lãi suất
I. Một số khái niệm về lãi suất
Lãi suất là một trong những vấn đề hết sức phức tạp. Nó là một công cụ rất nhạy cảm trong điều hành chính sách tiền tệ của mọi NHTW đặc biệt ở những nước đang phát triển. Vì vậy, có rất nhiều cách hiểu về lãi suất, trong đó chúng ta có thể đưa ra một số khái niệm cơ bản về lãi suất như sau:
- Lãi suất là giá cả sử dụng tiền vốn, gắn liền với hoạt động tín dụng ngân hàng, đồng thời gắn liền với hoạt động kinh tế liên quan đến hoạt động gửi tiền và vay tiền. Đồng thời, lãi suất còn là công cụ điều hành chính sách tiền tệ của NHTW mỗi nước.
- Lãi suất danh nghĩa là lãi suất được ấn định trên thị trường, không được điều chỉnh theo sự thay đổi của mức giá.
- Lãi suất thực là lãi suất được điều chỉnh cho đúng theo những thay đổi dự tính về mức giá, do đó nó phản ánh chính xác hơn chi phí thật của việc vay tiền. Theo Fisher, lãi suất danh nghĩa (i) bằng lãi suất thực (r) cộng với mức lạm phát dự tính: i= r+ lạm phát.
- Lãi suất hoàn vốn: là một lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh toán nhận được theo một công cụ nợ với giá trị hôm nay của công cụ đó. Đây là phép đo được các nhà kinh tế coi là phép đo lãi suất chính xác nhất.
- Lãi suất tái chiết khấu: là hình thức tái cấp vốn được áp dụng khi ngân hàng nhà nước tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác cho các tổ chức tín dụng.
- Lãi suất tái cấp vốn: là lãi suất do ngân hàng Nhà nước áp dụng khi tái chiết khấu.
- Lãi suất liên ngân hàng: là mức lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, nơi các ngân hàng thực hiện việc cho vay và cho vay lẫn nhau, nó chỉ chính xác hơn về chi phí vốn vay của ngân hàng và cung cấp vốn trên thị trường.
II. Vai trò của lãi suất
. Lãi suất tác động tới sự phân bổ các nguồn lực
Tất cả mọi nguồn lực đều có tính khan hiếm. Vấn đề là xã hội phải phan bổ và sử dụng các nguồn lực sao cho có hiệu quả. Nghiên cứu trong nền kinh tế thị trường cho thấy, giá cả đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phân bổ các nguồn lực giữa các ngành kinh tế.
Như chúng ta đã biết, lãi suất là một loại giá cả, nghĩa là lãi suất có vai trò phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của xã hội. Để quyết định đầu tư vào một ngành kinh tế , một dự án hay một tài sản nào đó chúng ta đều phải quan tâm đến sự chênh lệch giữa giá trị tỷ suáat lợi tức thu được từ ngành kinh tế đó, dự án đó hay tài sản đó với chi phí ban đầu. Điều này có nghĩa là phải xem xét một ngành, một dự án kinh doanh có đem lại lợi nhuận, đảm bảo hiệu quả kinh doanh và đủ để trả khoản tiền lãi của số tiền vay cho chi phí ban đầu hay không. Ngành nào, dự án nào có tỷ suất lợi tức lớn hơn lãi suất thì nguồn lực sẽ được phân bổ tới đó và đó là hiệu quả của sự phân bổ hiệu quả.
Thông qua lãi suất, các doanh nghiệp có thể lựa chọn những ngành sản xuất khác nhau để đầu tư nhằm thu tỷ suất lợi nhuận cao.Như vậy lãi suất là tín hiệu, là căn cứ để có sự phân bổ hiệu quả của các nguồn lực khan hiếm trong xã hội, lãi suất là yếu tố cần thiết ban đầu trước khi đi đến quyết định đầu tư.
2.2. Lãi suất với lạm phát
Lý luận và thực tiễn đã thừa nhận mối qua hệ chặt chẽ giữa lãi suất và lạm phát. Fisher chỉ ra rằng lãi suất tăng cao thời kỳ lạm phát cao, Những nước trải qua lạm phát cao cũng chính là những bnước có mức lãi suất cao.Lạm phát là hiênh tượng mất giá chung của đồng tiền; là tình trạng tăng liên tục của mức giá chung của nền kinh tế do nhiều nguyên nhân khác nhau. Do vậy cũng có nhiều biện pháp khác nhau để kiểm soát lạm phát, trong đó giải pháp về lãi suất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trong thời kỳ lạm phát, tăng lãi suất sẽ cho phép hệ thống ngân hàng có thể thu hút phần lớn số tiền có nhiều trong lưu thông khiến cho đồng tiền trong lưu thông giảm, cơ số tiền và lượng tiền cung ứng giảm, lạm phát được kiềm chế. Như vậy, lãi suất cũng góp phần chống lạm phát.
Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ lãi suất trong chống lạm phát không thể duy trì lâu dài vì lãi suất tăng sẽ làm giảm đầu tư, giảm tổng cầu và làm giảm sản lượng. Do vậy lãi suất phải được sử dụng kết hợp với các công cụ khác thì mới có thể kiểm soát được lạm phát ổn định giá cả, ổn định đồng tiền. Một chính sách lãi suất phù hợp là sự cần thiết cho sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế.
2.3. Lãi suất tác động tới tiêu dùng và tiết kiệm.
Thu nhập của các hộ gia đình thường được chia làm hai bộ phận: tiêu dùng và tiết kiệm. Tỷ lệ phân chia nàyphụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập, vấn đề hàng lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm trong đó tiền tệ và lãi suất có tác dụng tích cực tới các nhân tố khác.
Khi lãi suất thấp, chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay nhiều hơn cho việc mua sắm các hàng hoá, nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn. Ngược lại, khi lãi suất cao đem lại thu nhập từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, do đó tiết kiệm tăng.
2.4. Lãi suất tác động đến đầu tư.
Hoạt động đầu tư chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều nhân tố như thu nhập, chi phí kỳ vọng trong kinh doanh. Trong đó lãi suất thể hiện chi phí đầu tư là yếu tố quan trọng quyết định đầu tư.
Khi lãi suất ở mức cao, ít khoản đầu tư vào vốn hiện vật sẽ mang lại thu nhập nhiều hơn chi phí lãi trả cho các khoản đi vay, do vậy chi tiêu cho đầu tư giảm, ngược lại khi lãi suất giảm các doanh nghiệp sẽ quyết định đầu tư cho vốn hiện vật nhiều hơn, chi tiêu đầu tư sẽ tăng.
Ngay cả khi một doanh nghiệp có dư thừa vốn và không muốn vay để đầu tư vào vốn hiện vật thì chi tiêu đầu tư vẫn bị ảnh hưởng của lãi suất do doanh nghiệp có thể mua chứng khoán. Lãi suất cao, chi phí cơ hội của khoản đầu tư sẽ cao, chi tiêu đầu tư giảm do doanh nghiệp mua chứng khoán sẽ tốt hơn vào đầu tư vốn hiện vật. Khi lãi suất chi phí cơ hội của đầu tư giảm, chi tiêu đầu tư sẽ tăng lên vì đầu tư vào vốn hiện vật rất có thể đem lại thu nhập lớn hơn cho doanh nghiệp so với mua chứng khoán.
Đối với đầu tư hàng dự trữ, chi phí của việc gửi hàng dự trữ là khoản lãi trả cho khoản tiền đáng lẽ thu được do bán nhượng hàng hoá này đi hay khoản vay để mua hàng. Lãi suất làm việc tăng lên, chi phí biên của việc giữ hàng dự trữ so với lợi ích biên đã giả định trước làm cho đầu tư vào hàng dự trữ giảm. Như vậy lãi suất là nhân tố chủ yếu quyết định đầu tư của các doanh nghiệp vào vốn hiện vật và hàng dự trữ.
2.5. Lãi suất tác động tới tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu.
Tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước khác. Tỷ giá do quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như giá cả, thuế quan, sự ưa thích hàng nội, hàng ngoại, năng suất lao động ....Ngoài ra tỷ giá trong ngắn hạn còn chịu ảnh hưởng của lãi suất: lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ. Sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ ở đây là sự thay đổi lãi suất danh nghĩa. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do lãi suất tăng do tỷ lệ lạm phát dự tính tăng( lãi suất thực không đổi) thì tỷ giá giảm. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do lãi suất thực tế tăng (tỷ lệ lạm phát không đổi) thì giá đồng tiền trong nước tăng, tỷ giá tăng. Khi lãi suất tiền gửi ngoại tệ tăng, đồng nội tệ giảm giá (tỷ giá giảm) và ngược lại.
Tỷ giá rất quan trọng trong hoạt động xuất nhập khẩu. Nếu lãi suất tăng làm tăng tỷ giá sẽ làm cho hoạt động xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng và ngược lại. Như vậy thông qua tỷ giá hối đoái, lãi suất có ảnh hưởng lớn tới xuất nhập khẩu , xuất khẩu ròng của một quốc gia.
Phần II
Quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất ở nước ta và cơ chế lãi suất thoả thuận
Ngày 30/5/2002. thống đốc NHNN Việt Nam đã ban hành quyết định số 546/2002/QĐNHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Rõ ràng, đây là một bước chuyển đổi quan trọng, mạnh mẽ và cần thiết trong chính sách tín dụng, phù hợp với nguyên tắc thị trường nhằm đảm bảo nguồn lực tài chính được sử dụng và phân bổ một cách có hiệu quả hơn. Tuy nhiên trong điều kiện Việt Nam hiện nay thì việc áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận đã thực sự thích hợp hay chưa? cũng là một câu hỏi cần đặt ra. Để làm rõ vấn đề này, trước hết chúng ta sẽ nghiên cứu quá trình điều hành lãi suất của NHNN nhằm hướng tới tự do hoá lãi suất trong thời gian qua.
I. Cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam trong thời gian qua:
1.1 Trước năm 1989: nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp dẫn đến khủng hoảng về mọi mặt, tài chính, tiền tệ,... Thời kỳ này là thời kỳ mà lãi suất được điều hành theo cơ chế lãi suất âm, chính sách lãi suất cứng nhắc bị áp đặt theo kiểu hành chính, khiến cho các ngân hàng (NH) làm ăn thua lỗ, nền kinh tế thì trì trệ kém phát triển, thâm hụt ngân sách nặng nề,...
1.2. Từ năm 1989 đến năm 1992 là quá trình chuyển dần từ chế độ lãi suất âm sang chế độ lãi suất dương, từng bước xoá bỏ bao cấp qua lãi suất. Năm 1991, hệ thống NH chuyển sang mô hình hai cấp: NHNN thực hiện chức năng NHTW và quản lý nhà nước, hệ thống NHTM thực hiện chức năng của NHTM là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ NH theo cơ chế thị trường. Trong giai đoạn này, NHNN quy định các mức lãi suất tiền gửi, cho vay với mục tiêu là chống khủng hoảng, chống lạm phát.
1.3. Từ 1992 đến 1995: là giai đoạn thực hiện cơ chế lãi suất thực dương. NHNN vừa quy định sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi cho vay ngắn và trung hạn, không phân biệt lãi suất cho vay đối với các thành phần kinh tế, cho phép các tổ chức tín dụng tự ấn định mức lãi suất huy động băng nhiều hình thức, chấm dứt bao cấp tín dụng thông qua lãi suất, lãi suất huy động bằng lãi suất thực cộng với chỉ số trượt giá bình quân trên thị trường. Lãi suất cho vay bằng lãi suất huy động bình quân cộng thêm tỷ lệ chi phí hợp lý của NH, lãi suất phải bảo toàn được vốn cho cả người vay, người gửi và có lãi thực.
Đối với lãi suất ngoại tệ, NHNN quy định trần lãi suất cho vy, còn lãi suất huy động do các NHTM tự quyết định trêncơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung câù vốn ngoại tệ trên thị trường tiền tệ trong nước.
1.4. Thời kỳ từ năm 1996 đến tháng 7/2000: Đến cuối năm 1995, chính sách lãi suất đã bộc lộ nhiều tồn tại không phù hợp với yêu cầu phát triển của thị trường tiền tệ. Vì vậy NHNN đã ban hành chính sách lãi suất mới theo hướng nới lỏng hơn so với trước đây. Cụ thể là NHNN bỏ quy định sàn lãi suất tiền gửi chỉ quy định trần lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất xho vay ngắn hạn, trần cho vay ở khu vực thành thị thấp hơn khu vực nông thôn.
Trần lãi suất cho vay bằng ngoại tệ được điều chíh phù hợp với biến động lãi suất trên, thị trường quốc tế và cung cầu vốn ngoại tệ thị trường tiền tệ trong nước.
1.5. Thời kỳ từ tháng 7/2000 đến tháng 5/2002:
Xuất phát yêu cầu đổi mới hoạt động NH phù hợp với nhịp độ và mục tiêu phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, thực hiện theo luật NHNN, chính sách lãi suất cơ bản.
Lãi suất cơ bản được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn trên thị trường nhưng vẫn có sự khống chế của NHNN bằng việc quy định biên độ nhất định để các NHTM xác địng lãi suất cho vay. Lãi suất cơ bản được NHNN thông báo hàng tháng dựa trên các nhân tố chủ yếu sau:
Tham khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường áp dụng đối với khách hàng có uy tín của NHTM lớn, diễn biến về lãi suất và tiền tệ, diễn biến kinh tế vĩ mô; quan hệ tỷ giá với chính sách tiền tệ.
Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ , bỏ quy định trần lãi suất cho vay, mà áp dụng lãi suất linh hoạt theo tiền tệ quốc tế. Thời gian đầu còn bị khống chế với giới hạn không vượt quá lãi suất Sibor cộng thêm tỷ lệ nhất định. Tuy nhiên sau một thời gian thực hiện, NHNN đã tự do hoá lãi suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ.
II. Tính tất yếu của viêc chuyển sang một cơ chế lãi suất theo hướng thị trường :
Trong khoảng thời gian từ tháng 7/2000 đến tháng 5/2002, lãi suất cơ bản được điều chỉnh tương đối phù hợp với việc thực thi chính sách lãi suất tiền tệ nới lỏng một cách thận trọng, với biên độ khá rộng, tạo điều kiện cho các TCTD ấn định lãi suất cho vay phù hợp với quan hệ cung cầu vốn ở thị trường thành thị và nông thôn.
Tuy nhiên, việc thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản tự nó đã bộc lộ nhiều nhược điểm làm hạn chế quá trình phát triển của hoạt động kinh doanh NH và không thích hợp với nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Cụ thể, mục đích đưa ra trần lãi suất để hạn chế các NHTM cho vay với lãi suất cao tránh ảnh hưởng hơn, vì bản thân các NHTM đã hoạt động trong môi trường cạnh tranh tương đối quyết liệt mà bản thân lãi suất là công cụ quan trọng để tìm kiếm khách hàng và nâng cao thị trường tín dụng trong nền kinh tế. Mặt khác nhu cầu của nền kinh tế trong những năm tới sẽ còn tiếp tục tăng cao đã đặt ra một yêu cầu bức xúc đối với các NHTM phải huy động thêm nhiều nguồn vốn, mà muốn vậy thì lãi suất cũng phải sử dụng như một công cụ đòn bẩy quan trọng. Qua một năm thực hiện cơ chế tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ cũng đã cho thấy tỷ gía và thị trường ngoại hối vẫn ổn định và hoạt động bình thường, không có tác động xấu đối với nền kinh tế. Đồng thời tạo điều kiện cho các NHTM ấn định lãi suất huy động cho vay phù hợp với khả năng của NH, với nhu cầu vốn của nền kinh tế.
Trên thế giới, các nước đang trong quá trình phát triển theo kinhtế thị trường đều phấn đấu để tiến tới tự do hoá lãi suất, bởi vì tự do hoá lãi suất có tác động mạnh mẽ tới toàn bộ nền kinh tế quốc dân, có khả năng quyết định nhịp độ của tăng trưởng kinh tế. ở Việt Nam, việc chuyển đổi lãi suất theo hướng thị trường có nhiều tác động tích cực đối với kinh tế vĩ mô và thị trường tài chính, cụ thể như sau:
Một là, việc nới lỏng cơ chế điều hành lãi suất theo hướng thị trường đã tạo khả năng cho thị trường tài chính phát triển theo chiều sâu.
Hai là, sự thay đổi chính sách lãi suất là phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, nhưng cũng chính yêu cầu phát triển kinh tế, tiền tệ hoá các mối quan hệ kinh tế và sự hình thành các nhân tố thị trường đã buộc chính sách lãi suất phải có sự nới lỏng để chuyển dần sang cơ chế lãi suất thoả thuận nhằm tạo điều kiện cho việc huy động tối đa nguồn lực trong nước phục vụ cho đầu tư phát triển và đồng bộ với tổng thể chính sách kinh tế - tài chính - đối ngoại.
Ba là, việc nới lỏng cơ chế lãi suất, làm cho lãi suất tự điều chỉnh linh hoạt và phù hợp hơn với quan hệ cung cầu vốn thị trường, các nguồn vốn được lưu chuyển đến nơi có lợi nhuận cao cới mức rủi ro thấp, nâng cao hiệu quả đầu tư thúc đẩy các NHTM phát triển nhanh chóng mạng lưới chi nhánh ở thành thị, nông thôn, đưa ra các mức lãi suất, sản phẩm dịch vụ thích hợp với khách hàng. Nếu không, việc kiểm soát lãi suất bằng biện pháp hành chính sẽ rất hạn chế, như thực tế năm 1991 - 1995, NHNN khống chế chặt chẽ mức trần lãi suất cho vay ở mức thấp đã khuyến khích sự vay mượn lòng vongf, trốn tránh sự kiểm soát, lãi suất tiền gửi tăng, nhưng lãi suất cho vay lại không tăng được và chênh lệch lãi suất chỉ đủ bù đắp chi phí kinh doanh, lợi nhuận rất thấp, khả năng tài chính của NHTM bị yếu đi, dễ gây xáo trộn tổn thương cho thị trường tài chính.
Bốn là, quá trình chuyển dịch sang cơ chế lãi suất thoả thuận đi liền với quá trình nới lỏng kiểm soát ngoại hối và thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt làm chi lãi suất trong nước bám sát hơn lãi suất quốc tế, việc huy động vốn trong nước và vốn từ nước ngoài tăng lên để tài trợ cho nhu cầu tín dụng trong nước.
Năm là, quá trình chuyển dần sang cơ chế lãi suất thoả thuận làm cho mức biến động ngày càng tăng của các luồng vốn đầu tư, NHNN phải sử dụng và phát huy nhiều hơn các công cụ gián tiếp để điều hành chính sách tiền tệ, tăng cường kiểm soát rủi ro tín dụng và phát triển đồng đều các bộ phận của thị trường tiền tệ.
Sáu là, sau mỗi giai đoạn nới lỏng cơ chế điều hành lãi suất, việc huy động vốn và mở rộng cho vay của TCTD được thuận lợi hơn, người sản xuất và tổ chức kinh tế ở nông thôn được vay vốn nhiều hơn do khối lượng vốn chuyển về đầu tư cho khu vực nông thôn tăng lên (tín dụng đối với với khu vực nông thôn 5 năm gần đây tăng bình quân 23% đến 25%/năm, lớn hơn mức bình quân chung.
Bảy là, NSNN có điều kiện huy động được tối đa nguồn lực trong nước để bù đắp thâm hụt, thay vì đi vay nước ngoài quá lớn hoặc sử dụng tiền phát hành.
Xuất phát từ những nhận định nêu trên và đối chiếu với các điều kiện để các nước có thể tự do hoá lãi suất, chúng ta có thể thấy đây cũng là thời điểm thích hợp để thực hiện tự do hoá lãi suất.
Về kinh tế vĩ mô: trong những năm qua, chúng ta đã duy trì được một nhịp độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao và ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, thâm hụt ngân sách luôn ở dưới mức 5% so với GDP, bội thu cán cân thanh toán: đây là điều kiện tiền đề và có ý nghĩa quan trọng để chọn thời điểm tự do hoá lãi suất. Hệ thống các TCTD đã và đang được củng cố, sắp xếp lành mạnh hoá và khả năng ngày càng được nâng cao. Các công cụ của chính sách tiền tệ ngày càng được hoàn thiện và vận hành linh hoạt theo cơ chế thị trường.
Như vậy tự do hoá lãi suất là việc tất yếu cần phải tiến tới. Tuy nhiên, việc chuyển sang áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận có phù hợp với điều kiện của nước ta hiện nay hay không? Chúng ta sẽ tiến hành lãm rõ điều này qua sự phân tích dưới đây.
III. Những thách thức đặt ra đối với việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận:
Trước hết, ta cần phải hiểu lãi suất thoả thuận là gì? Cơ chế lãi suất thị trường mà theo đó, lãi suất được hình thành và biến động chủ yếu do hệ cung cầu vốn thị trường, sự kiểm soát lãi suất của NHNN được thcj hiện thông qua việc điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ tác động lên cung cầu vốn để hướng lãi suất thị trường biến động phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Theo quyết định số 546/QĐ-NHNN, kể từ ngày 1/6/2002, chính thức thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận bằng đồng VN của các TCTD theo quyết định này, các TCTD được quyền chủ động xác định lãi suất cho vay nội tệ trên cơ sở cung cầu vốn và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng. Tuy nhiên hàng tháng, NHNN vẫn tiếp tục công bố lãi suất trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối khách hàng tốt nhất của nhóm TCTD được lựa chọn, để các TCTD tham khảo và định hướng lãi suất thị trường. Đồng thời, NHNN chủ động á dụng các biện pháp để kiểm soát biến động lãi suất thị trường, đảm bảo yêu cầu là mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
Rõ ràng, thực hiện cơ chế lãi suất thị trường trong hoạt động tín dụng thương mại rõ ràng là một bước chuyển đổi quản trọng, mạnh mẽ về chính sách lãi suất và chính sách tín dụng theo nguyên tắc thị trương hơn. Lãi suất thoả thuận về bản chất kinh tế chính là lãi suất thị trường. Vì vậy nó chỉ hoạt động và phát huy tác dụng trong điều kiện thị trường tài chính phát triển. Những điều kiện cơ bản bao gồm:
- Thị trường tài chính phát triển có chiều sâu.
- Hệ thống NHTM hoạt động trên nguyên tắc thị trường có hiệu quả.
- NHNN có đủ năng lực điều hành chính sách tiền tệ và kiểm soát thị trường tài chính.
Với những điều kiện như vậy, việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận hiện nay ở Việt Nam đặt ra không ít thách thức, cụ thể như sau:
3.1. Thị trường tài chính Việt Nam vốn còn hết sức kém phát triển và lạc hậu so với các nước trong khu vực.
Xét về độ sâu tài chính, mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế thị trường tài chính Việt Nam vẫn còn lạc hậu so với các nước trong khu vực. Sự nông cạn của thị trường làm cho các công cụ thị trường tài chính Việt Nam được phản ánh qua các chỉ số tài chính cơ bản, các chỉ số M2/GDP, tín dụng/GDP, tiền gửi/GDP,... đều ở mức thấp so với các chỉ số của các nước trong khu vực. Điều đó được thể hiên qua bảng sau:
M2/GDP(%)
1993
1994
1995
1996
1997
Việt Nam
23,6
25,3
23,7
25
25,3
Trung Quốc
101,3
110,7
107,1
-
-
Indonesia
45,8
45,6
49,1
54,3
57
Malaysia
78,3
89,9
89,1
96
105
Hàn Quốc
40
42
43,5
43,8
46
Phillipins
36,2
42,1
45,7
50,3
43
singapo
93,5
87,1
86,8
84,5
86
Thailan
74,9
79,2
78,7
79,5
90
Sự lạc hậu, sơ khai của thị trường tài chính Việt Nam bao gồm cả tình trạng các công cụ tài chính còn nghèo nàn về chủng loại và nhỏ bé về lượng giao dịch tại trung tâm giao dich chứng khoán thành phố HCM và trên thị trường mở - thị trường tiền tệ trong những năm qua.
3.2. Cơ chế lãi suất thị trường hay lãi suất thoả thuận đòi hỏi một thông tin tương ứng.
Tại điều 1 của quyết định 546/2002/ QĐ-NHNN quy định TCTD xác định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam trên cơ sở cung cầu vốn trên thị trường và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng vay là các tổ chức pháp nhân và cá nhân Việt Nam, pháp nhân và cá nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Đó là một quy định rất phù hợp với cơ chế thị trường và điều đó đặt ra yêu cầu về chế độ thông tin phù hợp nhằm đảm bảo để các NHTM có thể ra quyết định cho vay một cách độc lập với mức lãi suất phù hợp theo từng đối tượng khách hàng ở các điểm nhất định. Cũng có thể nói một cách khác, các doanh nghiệp cần được định mức tín nhiệm một cáhc tương ứng để tránh tình trạng "bằng đầu như vại". Việc xác định đâu là DN có nhu cầu vốn thực sự cho sản xuất kinh doanh đòi hỏi một chế độ thông tin cập nhật và minh bạch như chế độ công bố thông tin tài chính, chế độ kế toán và kiểm toán chính mức quốc tế,...; DN yếu kém và làm ăn thua lỗ; đặc biệt là các trường hợp lừa đảo thường sẵn sàng chấp nhận vay với mọi giá. tình trạng khách hàng hcấp nhận vay với mọi giá nhắc nhở các NH lợi nhuận cao thường gắn với rủi ro cao, và do đó, hãy cảnh giác với các trường hợp này.
Xây dựng thể chế thị trường như việc tăng cường tính công khai về thông tin, điều kiện đảm bảo an toàn và giám sát tài chính là việc làm cần thiết phải tiến hành song song vơí quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế về tài chính tiền tệ nhằm tránh những thất bại của thị trường, đảm bảo thị trờng hoạt đọng hiệu quả. Sự chậm trễ của các nước Đông á trong viêc củng cố thể chế thị trường là bài học quý báu cho Việt Nam. Tuy nhiên hiện nay, Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về DN và NH; Hệ thống kế toán theo tiêu chuẩn Việt Nam là một trở ngại lớn và làm lệch lạc tới đánh giá hiệu quả kinh doanh và kiểm tra giám soát đối với hoạt động của các NH và DN trong nước. Trung tâm thông tin tín dụng NH (CIC) của NHNN đã được đi vào hoạt động nhưng vẫn còn trong giai đoạn thí điểm và do đó, chưa có cơ quan đánh giá tín nhiệm DN một cách độc lập. Điều này đưa đến khó khăn cho các NHTM trong việc đưa ra một mức lãi suất thoả thuận phù hợp với mức đọ tín nhiệm của từng DN và diễn biến thị trường hơn nữa, đó cũng là thách thước cho hệ thống NH trong việc mở rộng tín dụng NH hơn nữa theo cơ chế thương mại - lãi suất thương mại thực sự.
3.3. Hệ thống NH Việt Nam còn nhiều yếu kém cũng là thách thức cho quá trình chuyển đổi sang lãi suất thị trường:
Chỉ có hệ thống NH lành mạnh mới có thể đưa ra hệ thống lãi suất phù hợp và hiệu quả. Điều này có thể được lý giải như sau: Khi NH hoạt đọng lành mạnh, có hiệu quả, có năng lực quản lý rủi ro; Có khả năng đánh giá DN thì NH mới có khả năng đưa ra một mức lãi suất cho vay thấp nhất ứng vơí một mức rủi ro nhất định; Ngược lại, khi các NHTM hoạt động kém hiệu quả (chi phí cao, khả năng quản lý rủi ro kém,...) thường có khuynh hướng đưa ra lãi suất cho vay cao hơn bình thường. Đối với lãi suất huy động, các NHTM yếu kém thường đưa ra các mức lãi suất khá cao để huy động được nhiều tiền từ công chúng nhằm duy trì hoạt động cầm chừng. Điều này nhắc nhở những người gửi tiền hãy cảnh giác với những NH chào với lãi suất huy động cao một cách bất thường.
Giống như hệ thống NH ở các nước đang phát triển, hệ thống NH Việt Nam còn rất nhiều yếu kém trên các mặt: quản lý yếu kém (nhất là quản lý rủi ro), dễ đổ vỡ do vốn thấp, nợ quá hạn cao, tính cạnh tranh và sinh lời thấp. Đây là những thách thức lớn đối với hệ thống NH Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường, chấp nhận một cơ chế kinh doanh thực sự trên một sân chơi bình đẳng, đặ biệt là khi tiến tới tự do hóa lãi suất một cách đầy đủ hơn nữa.
* Tính cạnh tranh thấp trong hệ thống NH Việt Nam
Trong quá trình tự do tài chính và hội nhập quốc tế về NH, các NHTM trong nước sẽ phải cạnh tranh quyết liệt hơn, NHTM nào có đủ sức cạnh tranh, làm ăn có lãi sẽ tồn tại, ngược lại, NH nào ăn thua lỗ sẽ có thể bị đóng cửa. Trước sức ép của cạnh tranh, các NH phải không ngừng nâng cao năng lực quản lý, cắt giảm chi phí để cho vay với lãi suất hấp dẫn nhất ở Việt Nam hiện nay, hệ thống NHTMQD chiếm đa số cả về quy mô và thị phần: với 6 NHTMNN nhưng thị phần huy động và tín dụng đã chiếm trên 70%, tổng tài sản của hệ thống NHTMQD cũng chiếm gần 80% tổng tài sản có của hệ thống NHTM Việt Nam, các NHTMQD lại cho vay các DNNN là chủ yếu. Điều này gây khó khăn trong quá trình cải cách NHTMQD nhằm chuyển hoạt động của hệ thống này sang kinh doanh trêncơ sở thương mại thực sự, tạo lập một sân chơi bình đẳng trong lĩnh vực NH, đồng thời cản trở việc phát huy tác dụng của quy luật kinh tế thị trường, vì vậy tính cạnh tranh trong khu vực NH còn thấp. Ta có thể thấy rõ điều đó qua bảng sau:
Số lượng các tổ chức tín dụng ở Việt Nam.
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
NHTMCP
51
50
48
48
43
43
NH Liên doanh
4
4
5
5
5
5
Chi nhánh NH nước ngoài
24
25
26
26
26
26
NHTMQD
6
6
6
6
6
6
Thị phần của các ngân hàng Việt Nam cuối năm 2000
Khoản mục
Số lượng định chế
Huy độngvốn
(% cả hệ thống)
Tín dụng
(% cả hệ thống)
NHTMCP
6
73
71,2
NH liên doanh
48
10,6
10,5
Chi nhánh NH nước ngoài
30
15
16,5
Quỹ tín dụng nhân dân
948
1,4
1,8
Từ khi Việt Nam thực hiện cải cách kinh tế, việc cho phép thành lập các NHTM cổ phần còn quá nhỏ bé, dịch vụ đơn điệu, mạng lưới các chi nhánh không nhiều, nămg lực cạnh tranh thấp; các hoạt động của các chi nhánh NH nước ngoài còn hạn chế về tiền đồng (các chi nhanhd NH nước ngoài chỉ được phép huy động vốn bằng đồng Việt Nam không vượt quá 25% vốn được cấp, từ các cá nhân Việt Nam và pháp nhân Việt Nam).
* Sự dễ tổn thương của hệ thống NH Việt Nam:
Các NHTM Việt Nam có mức vốn rất thấp, nợ quá hạn cao (nhất là các NHTMCP). Sự dễ tổn thương của hệ thống NHTM Việt Nam có thể là thách thức lớn khi hệ thống này chuyển sang một cơ chế thi trường thực sự, đặc biệt là khi tự do hoá lãi suất, thả nổi tỷ giá trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Các NHTMCP Việt Nam là khu vực dễ bị tổn thương nhất. Các NHTMCP dường như được thành lập khá dễ dàng từ năm 1993 đến năm 1996 và phát triển với tốc độ khá nhanh. Từ 15 NHTMCP vào năm 1990, năm 1997 tăng lê 53 NHTMCP, đến nay một số NHTMCP không đủ vốn điều lệ theo quy định, quản lý yếu kém đã bị đóng cửa và chỉ còn là 43 NHTMCP.
Nợ quá hạn của hệ thống NHTM Việt Nam tăng nhanh từ năm 1997. Mặc dù tỷ lệ này không quá cao so với thế giới nhưng chế độ hạch toán kế toán phân loại không theo tiêu chuẩn quốc tế, ngoài ra một số nợ khó đòi của một số vụ án không được hạch toán vào khoản nợ khó đòi, chế độ báo cáo làm cho con số nợ quá hạn bị bóp méo rất nhiều.
Tóm lại, việc chuyển sang một cơ chế lãi suất mang tính thị trường hơn ở Việt Nam là rất cần thiết và phù hợp. Nhưng trong điều kiện nước ta hiện nay thì việc áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận đặt ra không ít những thách thức. Do đó chúng ta cần có những giải pháp hữu hiệu để phát huy hiệu quả của cơ chế lãi suất này.
IV. Các giải pháp để lãi suất thoả thuận phát huy hiệu quả kinh tế
4.1. Lành mạnh hoá và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống NH Việt Nam:
Hệ thống NHTM là một kênh truyền dẫn quan trọng để các công cụ gián tiếp của chính sánh tiền tệ tác động vào lãi suất thị trường, mức cung tiền tệ và qua đó thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ. Các công cụ này phát huy tác dụng đến đâu hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ ứng xử cũng như chất lượng hoạt động của hệ thống NH. Với một hệ thống NH yếu kém, khả năng cạnh tranh thấp, tình hình tài chính hạn hẹp, chất lượng hoạt động chưa cao, nợ quá hạn lớn ... thì việc áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận không phát huy được tác dụng. Do đó cần phải cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống NH.
Khẩn trương thực hiện các chương trình cơ cấu lại, làm trong sạch, làm lành mạnh hoá hệ thống tài chính; tăng năng lực tài chính xử lý dứt điểm các tồn đọng cũ; trước hết là đối với các NHTM Nhà nước.
Xây dựng và phát triển, mở rộng hệ thống thanh toán hiện đại, các dịch vụ ngân hàng, các dịch vụ ngân hàng; nâng cao trình độ kỹ thuật, thình độ quản lý theo cơ chế thị tr._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0597.doc