Truyện ngắn Việt Năm giai đoạn 1975 - 1985

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975-1985 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Thái Nguyên, 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975-1985 Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG

pdf125 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2416 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Truyện ngắn Việt Năm giai đoạn 1975 - 1985, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DẪN KHOA HỌC: PGS. TS PHAN TRỌNG THƯỞNG Thái Nguyên, 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Lời cảm ơn Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn : - Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên. - Các thầy cô giáo ở Viện Văn học, trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội đã trực tiếp giảng dậy trong suốt khoá học. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phó giáo sư - Tiến sĩ Phan Trọng Thưởng, người thầy đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều để luận văn có thể hoàn thành. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trường THPT Trần Quốc Tuấn (Nam Định) đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Minh Nguyệt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Mục lục Phần mở đầu 1. Lí do chọn đề tài.................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề........................................................................................ 3 2.1. Những bài nghiên cứu, những ý kiến về những vấn đề khái quát của truyện ngắn sau 1975................................................................................. 3 2.2. Những bài nghiên cứu về tác giả.................................................... 7 2.3. Những bài viết về tác phẩm............................................................ 8 3. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu........................................................ 9 3.1. nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................... 9 3.2. Đối tượng nghiên cứu.................................................................... 9 4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................... 10 5. Đóng góp của luận văn.......................................................................... 10 6. Cấu trúc của luận văn............................................................................ 10 Phần nội dung Chương I Bối cảnh lịch sử và diện mạo truyện ngắn Việt nam 1975- 1985 1. Bối cảnh lịch sử, xã hội........................................................................ 12 1.1. Tình hình đất nước sau chiến tranh...............................................12 1.2. Thống nhất về mặt nhà nước, khôi phục kinh tế, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội....................................................................................... 13 1.3. Đấu tranh bảo vệ Tổ quốc............................................................. 14 2. Tình hình phát triển của văn xuôi......................................................... 15 3. Diện mạo của truyện ngắn.................................................................... 19 3.1. Chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người......................................................................................................... 19 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3.2. Sự tiếp nối của những thế hệ nhà văn tài năng.............................35 3.3. Thành tựu của truyện ngắn.......................................................... 37 Những thay đổi về đề tài và cảm hứng trong truyện ngắn việt nam 1975-1985 1. Những thay đổi về đề tài ở truyện ngắn sau 1975..................... ........... 41 Sự tiếp tục đề tài chiến tranh.......................................................... 41 . Sự xuất hiện và chiếm lĩnh của đề tài thế sự, đời tư..................... 51 2. Sự chuyển đổi cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn 1975- 1985..... 62 2.1. Chuyển đổi từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự, đời tư...... 63 2.2. Cảm hứng đạo đức giữ vị trí quan trọng....................................... 65 2.3. Sự trở lại của cảm hứng bi kịch............................................... ... 69 2.4. cảm hứng phê phán........................................................................71 2.5. Cảm hứng nhân văn.......................................................................72 Chương III Những đổi mới bước đầu trong nghệ thuật truyện ngắn việt nam 1975-1985 1. Đặc điểm kết cấu cốt truyện.................................................................75 1.1. Khái niệm và vai trò của cốt truyện..............................................75 1.2. Sự vận động trong việc xây dựng cốt truyện của truyện ngắn sau 1975....................................................................................................76 1.3. Các đặc điểm kết cấu cốt truyện................................................. 80 2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn 1975-1985............ 87 Các kiểu nhân vật mới ............................................................. 89 1.5 . Những đổi mới bước đầu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật................................................................................................. 96 3. Nghệ thuật trần thuật...........................................................................103 3.1. Sự đa dạng về điểm nhìn trần thuật............................................ 103 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3.2. Sự đa thanh trong giọng điệu trần thuật..................................... 107 Phần kết luận.............................................................................. ........ 110 Tài liệu tham khảo ............................................................................ .. 113 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 Phần mở đầu 1. Lí do chọn đề tài 5 khẳng định thì giai đoạn sau 1975, đặc biệt từ đầu những năm 80 là thời kỳ chuẩn bị tích cực, là bước khởi động tạo đà cần thiết cho công cuộc đổi mới văn học. Có thể coi văn học giai đoạn 1975 -1985 là thời kỳ tiền trạm cho cái mới. Chính vì vậy, khi tìm hiểu tiến trình đổi mới của văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng không thể không tìm hiểu bước đầu xây nền đắp móng trong giai đoạn tiền đổi mới. Dẫu đó là sự chuẩn bị âm thầm nhưng rất tích cực và cần thiết, là bước tạo đà cho quá trình đổi mới văn học hôm nay.Truyện ngắn không phải là thể loại duy nhất nhưng lại tập trung nhiều nhất những yếu tố của một nền văn học đang đổi mới như văn học Việt Nam sau đại thắng mùa xuân năm 1975. Chính những điều đó đã giúp tôi lựa chọn đề tài : Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. 2. Lịch sử vấn đề. 2.1. Những bài nghiên cứu, những ý kiến về những vấn đề khái quát của truyện ngắn sau 1975. Trong bài “Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam từ sau 1975” (Văn học Việt Nam sau 1975- Những vấn đề nghiên cứu và giảng dậy, Nxb Giáo dục, 2006), tác giả Nguyễn Văn Long nhận xét : Từ 1975- 1985 là chặng đường chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến tranh sang văn học thời hậu chiến. Tính chất chuyển tiếp này thể hiện rõ ở cả đề tài, cảm hứng, các phương tiện nghệ thuật và cả quy luật vận động của văn học. Những tác phẩm văn xuôi giai đoạn này đã giúp thu hẹp bớt khoảng cách khá xa giữa văn học với đời sống, tác phẩm và công chúng, đồng thời cũng là sự chuẩn bị tích cực cho những chuyển biến mạnh mẽ của văn học khi bước vào thời kỳ đổi mới. Có thể coi đó là một nhận xét khái quát về đặc điểm của văn xuôi giai đoạn 1975- 1985, trong đó có truyện ngắn. Một thể loại luôn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 luôn có mặt nhiều, khi lại nhận lãnh trách nhiệm dò lối, mở đường (Vương Trí Nhàn) ở những giai đoạn lịch sử nhiều biến động. Đi sâu vào những vấn đề của thể loại truyện ngắn ở giai đoạn này, có nhiều ý kiến đánh giá trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Những năm liền ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, nền văn học cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo quán tính từ trong thời kỳ chiến tranh. Đề tài về chiến tranh và người lính vẫn bao trùm lên hầu hết các sáng tác.Tuy nhiên, trong truyện ngắn (và cả truyện vừa) thấy rõ nét một hướng đi vào những khoảnh khắc thưòng nhật của chiến tranh, đi sâu hơn vào diễn biến tâm lý của nhân vật, vào những cảnh ngộ và xung đột nội tâm: truyện ngắn cũng có ưu thế trong việc đặt nhân vật trong mối tương quan hôm qua và hôm nay, để làm nổi bật lên những vấn đề có ý nghĩa đạo đức nhân sinh (Nguyễn Văn Long, “Văn xuôi những năm 1975-1985 viết về cuộc kháng chiến chống xâm lược Mỹ”- Văn nghệ quân đội, tháng 4-1985). Cùng quan điểm với nhận định trên, tác giả Phan Cự Đệ (trong văn học Việt nam 1975 -1985, Tác phẩm và dư luận, Nxb Hội nhà văn, 1997) cho rằng cách khai thác những vấn đề chiến tranh trong mối tương quan quá khứ - hiện tại như thế làm cho truyện ngắn của ta sau 1975 có một bước phát triển mới, ngày càng hiện đại hơn, đáp ứng nhu cầu bạn đọc ngày càng tốt hơn. Bởi nó không dừng lại ở trực giác mà đi sâu vào tâm lý, tiềm thức. Nhà văn Nguyên Ngọc còn khẳng định vai trò hàng đầu của truyện ngắn trong quá trình tìm tòi thầm lặng mà quyết liệt của văn học giai đoạn này. Theo Nguyên Ngọc, truyện ngắn hiện nay đang vượt qua tiểu thuyết. Nó sớm đạt đến tính khách quan xã hội cao hơn, nó đi thẳng vào vấn đề thân phận con người, thế giới bên trong của con người, ý nghĩa nhân sinh, lẽ sống, con người ở đời sâu và sắc hơn (“Văn xuôi sau 1975 - thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển”, Tạp chí văn học số 4 -1991). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 Đó cũng là nhận xét của nhà nghiên cứu Nguyễn Tuấn Anh khi ghi nhận công lao của truyện ngắn trong thời kỳ đầu của quá trình đổi mới văn học. Truyện ngắn mở ra những mũi thăm dò, khai thác và đặt ra nhiều vấn đề đạo đức thế sự nhanh chóng đạt đến một độ chín cả trong hình thức và nội dung mà tiểu thuyết còn chưa kịp đạt đến (“Văn học Việt Nam hiện đại - Nhận thức và thẩm định”, Nxb Khoa học xã hội, 2001). Thật ra, nhận định của hai tác giả về vai trò hàng đầu của truyện ngắn chỉ đúng trong tình hình văn học ở giai đoạn đầu những năm 80 khi văn học thực sự bước vào giai đoạn đổi mới. Điều này cũng được tác giả Phạm Mạnh Hùng thừa nhận trong cuốn sách “ Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XX” (Nxb Đại học quốc gia Hà nội, H, 1999): Truyện ngắn vẫn xuất hiện đều đặn trong các báo, tạp chí văn nghệ trong Nam ngoài Bắc với một số lượng không nhỏ. Trong khoảng 5 năm đầu của thời kỳ hoà bình, truyện ngắn vẫn tiếp tục những đề tài và chủ đề, phong cách, bút pháp và các giọng điệu như đã thấy trong văn học trước đó. Nhưng từ những năm 80 bắt đầu xuất hiện nhiều truyện ngắn có dấu hiệu mới về tư tưởng, về nghệ thuật. Theo tác giả, cái mới trong những truyện ngắn này là việc đi vào những đề tài mới của cuộc sống sau chiến tranh, hay vẫn viết về chiến tranh nhưng với cách nhìn mới với những mối quan tâm, suy tư, trăn trở mới. Số phận con người trong cuộc sống được chú ý khai thác ở góc độ không chỉ ở cái phi thường mà còn ở cả cái bình thường. Xu thế mới này ở truyện ngắn giai đoạn 1975 - 1985 được tác giả Bùi Việt Thắng khẳng định và lý giải: truyện ngắn sau 1975 tập trung nghiên cứu hiện trạng tinh thần xã hội sau chiến tranh - đó là hiện trạng phức tạp và đa dạng đan xen các mặt tích cực và tiêu cực. Tính chất phức tạp của đời sống tinh thần xã hội là kết quả tất yếu của hậu quả chiến tranh, của đời sống kinh tế khó khăn, của sự xâm nhập các trào lưu tư tưởng từ bên ngoài vào. Nhìn chung các nhà văn đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, không né tránh và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 viết về sự thật. Chuyện đời thường vì thế nổi trội trong đa số truyện ngắn trong giai đoạn này, thậm chí đã hình thành một quan niệm văn học đời thường (“Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại”, Nxb Đại học quốc gia Hà nội, 2000). Về hình thức truyện ngắn 1975 - 1985 cũng có rất nhiều ý kiến. Tuy nhiên, mỗi ý kiến bước đầu đưa ra sự đánh giá về một hay một vài phương diện nghệ thuật. Tác giả Bích Thu trong bài “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975” (Tạp chí Văn học tháng 9 - 1996) cho rằng: trong một thời gian không dài truyện ngắn đã làm được nhiều vấn đề mà tiểu thuyết chưa kịp làm, đã tạo ra nhiều phong cách sáng tạo có giọng điệu riêng. Xét trong hệ thống chung của các loại hình văn xuôi, nghệ thuật truyện ngắn đã đạt được những thành tựu đáng kể trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, trong cách nhìn nghệ thuật về con người và trong sáng tạo ngôn từ. Theo tác giả, truyện ngắn có xu hướng tự nới mở, đa dạng hơn trong cách thức diễn đạt… Có sự tác động, hoà trộn giữa ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ người kể truyện. Lý giải về những thay đổi này, theo tác giả là do những biến động khác nhau trong đời sống xã hội, yêu cầu của thời đại, tính chất phức tạp của cuộc sống, sự đa dạng của tính cách con người, thị hiếu thẩm mỹ của công chúng đòi hỏi nhà văn phải tìm tòi những phương thức thể hiện nghệ thuật tương ứng với một thời kỳ đang chuyển biến. Chính những nhu cầu mới của con người khiến các thể loại của văn học có sự vận động và phát triển mà trong đó truyện ngắn có vai trò quan trọng, là loại hình nghệ thuật đáp ứng nhanh nhậy những chuyển biến của văn học từ thời chiến sang thời bình khi quy luật chiến tranh đã hết hiệu lực. Tác giả Nguyễn Văn Long (“Văn học việt nam sau 1975. Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy”. Nxb Giáo dục. H. 2006) khi đi sâu vào nghệ thuật trần thuật khẳng định từ bỏ sự áp đặt một quan điểm được cho là đúng đắn nhất vì đó là quan điểm của cộng đồng, ngày nay người viết có thể đưa ra Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 nhiều quan điểm khác nhau, chính kiến khác nhau. Để làm được điều đó, cách tốt nhất là chuyển dịch điểm nhìn vào nhiều nhân vật để mỗi nhân vật có thể tự nói lên quan điểm, thái độ của mình và để có các ý thức cùng có quyền phát ngôn, cùng đối thoại. Bên cạnh đó sự thay đổi vai kể, cách đưa truyện lồng trong truyện, sự đảo ngược và xen kẽ các tình tiết, sự việc không theo một thời gian duy nhất là những nét mới trong nghệ thuật biểu hiện. Tất cả những thủ pháp ấy đều nhằm tạo ra một hiệu quả nghệ thuật mới để đáp ứng xu thế của thời đại. Nhà văn Ma Văn Kháng lại rất chú ý đến ngôn ngữ của truyện ngắn. Theo ông, đó là thứ ngôn ngữ vừa dung dị, vừa ma quái thêm, nó sử dụng đến sức mạnh tổng hợp của câu chữ (“Truyện ngắn - nỗi run sợ”,Tạp chí Văn nghệ quân đội, Tháng 7,1992). Nhìn một cách tổng thể, truyện ngắn giai đoạn 1975 -1985 có xu hướng vươn tới sự khái quát, triết luận về đời sống, kể ít tả nhiều và sử dụng nhiều hình thức khác nhau để tái tạo đời sống.Vì thế, truyện ngắn ở giai đoạn tiền đổi mới này như một khúc chảy mạnh mẽ, tạo nên dòng chảy liên tục của truyện ngắn dân tộc suốt cả thế kỷ XX (Bùi Việt Thắng “Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H, 2000). 2. 2. Những bài nghiên cứu về tác giả Các tác giả được chọn nghiên cứu nhiều nhất giai đoạn này là: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Lê Lựu, Ma Văn Kháng. Bởi trong những điều kiện cực kỳ khó khăn của đất nước, sáng tác của họ đã đốt lên nhiệt tình tìm kiếm chân lý, báo trước khả năng tự đổi mới của nền văn học Việt Nam khi nó dám sòng phẳng với quá khứ bất chấp trở lực cản ngăn (Lã Nguyễn, “Nguyễn Minh Châu và những trăn trở trong đổi mới tư duy nghệ thuật”, Tạp chí văn học số 2-1989). Tuy nhiên các tác giả Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Ma Văn Kháng lại chủ yếu thành công ở thể loại tiểu thuyết. Với truyện ngắn, bên cạnh Nguyễn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 Minh Châu - người mở đường tinh anh và tài hoa - còn phải kể đến nhiều cây bút khác như: Thái Bá Lợi, Nhật Tuấn, Xuân Thiều, Trung Trung Đỉnh, Bùi Hiển, Dương Thu Hương, Khuất Quang Thuỵ, Nguyễn Kiên, Nguyễn Thành Long, Lê Minh Khuê... Những bài viết, những ý kiến đánh giá về các tác giả này rất nhiều. Đặc biệt đáng chú ý là các ý kiến đông đảo của các nhà phê bình, nhà nghiên cứu, các nhà văn như Phong Lê, Vân Thanh, Tôn Phương Lan, Huỳnh Như Phương, Tô Hoài, Hoàng Như Mai, Hà Minh Đức, Trần Đăng Xuyền, Lê Thành Nghị, Trần Đình Sử, Trần Cương, Ngọc Trai, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Thiếu Mai, Bích Thu, Vương Trí Nhàn... Hầu hết các ý kiến chỉ dừng lại ở mức độ phân tích đánh giá sự thành công của từng tác giả. ở giai đoạn đầu, có nhiều ý kiến đánh giá trái chiều nhau về cùng một tác giả, tiêu biểu là trường hợp của Nguyễn Minh Châu. Mặc dù hầu hết các ý kiến đều thừa nhận những đóng góp của Nguyễn Minh Châu trên hành trình đổi mới xong trong số đó vẫn còn ý kiến tỏ ra nghi ngại. Nhận xét một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, nhà văn Bùi Hiển băn khoăn về việc tác giả đẩy sự tìm tòi khám phá về nội tâm, tính cách về hình ảnh cuộc sống và ý nghĩa cuộc đời theo một hướng có vẻ phức tạp hơn nhưng chưa chắc đã là sâu sắc hơn (Nhiều tác giả, “Trao đổi về truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh Châu”, Văn nghệ 1985 số 27 và 28). Tác giả Hà Xuân Trường thì cho rằng ông chỉ thành công một nửa. Hay trường hợp của Dương Thu Hương, Lê Minh Khuê trong những truyện ngắn viết về những khía cạnh xấu của người đời có ý kiến cho rằng đã làm xô lệch đi vẻ tự nhiên bình thường của con người, dẫu đó là những mẫu hình tiêu cực trong đời sống chúng ta (Bích Thu, “Truyện ngắn Dương Thu Hương. Tạp chí Văn học . số 2. 1983) nhưng lại có ý kiến ủng hộ cách viết này dù cho ngòi bút của tác giả ở đây thật đã đi đến những chỗ cùng cực trong cách miêu tả thậm chí là có phần ác quá. Song ta đã chấp nhận phong cách này, thì Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 để cho nó đi hết sự phát triển vốn có, không dừng lại nửa vời (Vương Trí Nhàn trong “Văn học 1975-1985- Tác phẩm và dư luận”, Nxb hội nhà văn, 1997). Đúng là ở chặng đầu của hành trình đổi mới, các tác giả của văn xuôi nói chung và các cây bút viết truyện ngắn nói riêng mới chỉ khoan những mũi thăm dò đầu tiên trên những vùng đất mới. Có mũi thăm dò thành công nhưng cũng không ít thất bại. Song những nỗ lực của họ đã được ghi nhận. Vì chính họ đã góp phần chuẩn bị để tạo ra một vụ mùa lớn của thể loại ở giai đoạn sau. 2.3. Những bài viết về tác phẩm Trong khoảng 10 năm (từ 1975 đến 1985) số lượng truyện ngắn in trên các báo quả là không nhỏ. ở đây chúng tôi chỉ điểm qua tình hình nghiên cứu một số tác phẩm được giải trên các tạp chí, các tập truyện có tác động không nhỏ đến diện mạo văn học giai đoạn này hoặc đánh dấu sự đổi mới trong sự nghiệp của các cây bút viết truyện ngắn. Có thể kể đến các tập truyện của các tác giả: Nguyễn Minh Châu với Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985); Xuân Thiều với Gió từ miền cát (1985); Dương Thu Hương với Những bông bần li (1981); Ma Văn Kháng với Ngày đẹp trời (1986); Lê Minh Khuê với Đoạn kết (1983), Một chiều xa thành phố (1986)…và các tập truyện ngắn được giải thưởng của Tạp chí Văn nghệ quân đội: Có một đêm như thế (1981), Thời gian (1985)… Số lượng các bài viết này rất nhiều, đăng tải cả trên báo trung ương và báo địa phương dưới dạng thức điểm sách hoặc phê bình. Loại bài viết này phần lớn đều nêu lên những suy nghĩ, cảm nhận về nội dung hoặc nghệ thuật, về những phương diện đổi mới của từng truyện ngắn hay tập truyện ngắn cụ thể. Qua đó góp phần khẳng định xu thế đổi mới tất yếu của thể loại cũng như của nền văn học Việt Nam trong giai đoạn này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 Chung quy lại, qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu bao gồm các cuốn sách, các bài báo, các ý kiến trong các cuộc trao đổi, thảo luận, các cuộc hội thảo và một số luận văn, luận án đã có, chúng tôi thấy: nhìn chung việc nghiên cứu truyện ngắn giai đoạn sau 1975 đã lật xới lên được nhiều vấn đề. Đã có những công trình nghiên cứu sâu sắc về một số vấn đề như tác giả, tác phẩm tiêu biểu cụ thể nhưng chủ yếu nghiêng hẳn về giai đoạn từ sau 1986, giai đoạn phát triển rực rỡ của truyện ngắn. Còn với truyện ngắn ở giai đoạn 1975- 1985, các ý kiến đánh giá chủ yếu ở dạng phác thảo sơ bộ, hoặc là những nhận định khái quát hay đi vào từng khía cạnh cụ thể của thể loại. Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể sâu sắc những đặc điểm của truyện ngắn ở giai đoạn phôi thai của tiến trình đổi mới. Trên tinh thần tiếp thu ý kiến của những nhà nghiên cứu đi trước đã gợi ý cho chúng tôi lựa chọn đề tài Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. Trong luận văn này, chúng tôi sẽ đặt trọng tâm nghiên cứu vào việc khảo sát những dấu hiệu mới của truyện ngắn nói riêng đặt trong tiến trình phát triển của văn xuôi nói chung. 3. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu 3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn đi sâu tìm hiểu diện mạo và những đổi mới bước đầu của truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 trong quan hệ thống nhất giữa nội dung và hình thức biểu hiện. Từ đó thấy được sự vận động của truyện ngắn sau chiến tranh trong bức tranh chung của truyện ngắn hiện đại. 3.2. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung khảo sát các truyện ngắn trong giai đoạn từ 1975- 1985. Tuy vậy, truyện ngắn thực sự thay đổi là từ những năm 1980 trở đi. Hơn nữa số lượng truyện ngắn trong khoảng 10 năm này rất nhiều, luận văn sẽ không thể bao quát được hết. Để khoanh vùng phạm vi khảo sát, luận văn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 thống kê, nghiên cứu những truyện ngắn của một số tác giả đã định hình và có thể xem là tiêu biểu cho xu hướng đổi mới; những truyện ngắn được giải thưởng trong các cuộc thi ở các báo trung ương, những tập truyện ngắn có tiếng vang hoặc gây dư luận trong quần chúng. Tuy nhiên đó cũng chỉ là sự khoanh vùng có tính chất tương đối để luận văn có thể tập trung hơn vào những vấn đề đổi mới của truyện ngắn trong một giai đoạn khá phong phú và phức tạp này. 4. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp sau: - Phương pháp thống kê, phân loại. - Phương pháp so sánh - Phương pháp phân tích, tổng hợp 5. Đóng góp của luận văn: Luận văn cố gắng đi sâu làm nổi bật những dấu hiệu đổi mới của truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 trong cái nhìn tổng thể và toàn diện. Hy vọng luận văn sẽ góp phần vào việc nhìn nhận quá trình vận động của thể loại truyện ngắn trong đời sống văn học và là bước tạo đà, gợi mở cho việc nghiên cứu truyện ngắn ở những giai đoạn sau. 6. Cấu trúc của luận văn: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn chia làm ba chương: Chương I: Bối cảnh lịch sử và diện mạo truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. Chương II: Những thay đổi về đề tài và cảm hứng trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. Chương III: Những đổi mới bước đầu về nghệ thuật truyện ngắn 1975- 1985. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 Phần nội dung Chương I Bối cảnh lịch sử và diện mạo truyện ngắn Việt nam 1975 - 1985 1. Bối cảnh lịch sử xã hội: 1.1. Tình hình đất nước sau chiến tranh: Với thắng lợi lịch sử mùa xuân năm 1975, đất nước đã thu về một mối, Nam - Bắc một nhà. Khát vọng cháy bỏng của cả dân tộc về một nền tự do, độc lập phải trải qua ngót nửa thế kỷ chiến đấu kiên cường đã trở thành hiện thực. Chiến tranh khốc liệt đã qua đi, đất nước hào hứng bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, ngay sau niềm vui chiến thắng, cả dân tộc phải đối mặt với hàng loạt khó khăn chồng chất. Đó là thời kỳ chúng ta lâm vào khủng hoảng sâu sắc về kinh tế, xã hội. Cơ chế quản lý cũ bộc lộ nhiều bất cập đòi hỏi phải có sự đổi mới. Đất nước hoà bình nhưng cuộc sống lại vận hành một cách khó nhọc, nặng nề. ở miền Bắc, những cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân Mỹ đã tàn phá nặng nề, gây hậu quả lâu dài. Gần như toàn bộ các thành phố thị xã đều bị đánh phá. Thậm chí có thị trấn bị phá huỷ hoàn toàn. Tất cả các khu công nghiệp đều bị đánh phá, nhiều khu bị đánh tới mức huỷ diệt. Với miền Bắc, dù chiến tranh đã chấm dứt sau hiệp đinh Pari năm 1973 nhưng do bị tàn phá nặng nề nên nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế đến giữa năm 1976 mới căn bản hoàn thành. ở miền Nam, việc tiếp quản các vùng mới giải phóng được tiến hành hết sức khẩn trương. Việc thành lập chính quyền cách mạng và các đoàn thể quần chúng các cấp nhanh chóng được thực hiện. Chính quyền cách mạng kêu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 gọi những người từng làm việc trong bộ máy nguỵ quân, nguỵ quyền ra trình diện đồng thời kiên quyết trừng trị những kẻ ngoan cố chống đối. Các hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế, xã hội cũng được tiến hành khẩn trương. Đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, báo chí được sử dụng kịp thời vào công tác thông tin tuyên truyền cổ động. Những hoạt động trên ở hai miền Nam Bắc bước đầu đã ổn định tình hình khinh tế xã hội của đất nước ngay sau chiến tranh. 1.2. Thống nhất về mặt nhà nước, khôi phục kinh tế, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội Nhiệm vụ giành lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc đã hoàn thành. Nhưng về thể chế chính trị, chúng ta vẫn chưa có một nhà nước chung. Do đó yêu cầu hoàn toàn thống nhất đất nước về mặt Nhà nước được đặt ra một cách bức thiết. Ngày 25- 4- 1976, cuộc tổng tuyển cử Quốc hội chung được tiến hành trong cả nước. Ngay sau đó Quốc hội khoá VI đã họp kỳ họp đầu tiên tại Hà Nội. Quốc hội đã quyết định nhiều lĩnh vực quan trọng của đất nước trong thời kỳ mới. Từ đây, nhiệm vụ tiếp tục hoàn thành thống nhất đất nước trên các lĩnh vữc chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội sẽ gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong phạm vi cả nước. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng lao động Việt Nam lần thứ IV nêu rõ: Trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau và ở nước ta, khi giai cấp công nhân giữ vai trò vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều đó đã được cụ thể hoá trong hai kế hoạch nhà nước 5 năm 1976 - 1980 và 1981 - 1985. Việc thực hiện những kế hoạch này đạt được những kết quả nhất định tuy nhiên vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Đời sống của đại bộ phận Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 nhân còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều lao động chưa có việc làm. Nhiều nhu cầu chính đáng, tối thiểu của nhân dân về vật chất và văn hoá chưa được đảm bảo. Mặt khác các hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển, công bằng xã hội bị vi phạm. Những hành vi lộng quyền, tham nhũng của một sổ cán bộ chưa bị trừng trị nghiêm khắc, kịp thời. Thực trạng kinh tế xã hội đó đã làm lay động dữ dội mọi suy nghĩ, niềm tin của mọi tầng lớp nhân dân. Đúng như nhận xét của nhà văn Nguyễn Khải: Chiến tranh ồn ào, náo động mà lại có cái yên tĩnh giản dị của nó. Hoà bình yên tĩnh, thanh bình mà lại chứa chấp những sóng ngầm, những gió xoáy bên trong. Nhiều người không chết trong nhà tù, trên trận địa trong chiến tranh mà lại chết trong ao tù trưởng giả khi cả nước đã giành được tự do và độc lập [25]. 1.3. Đấu tranh bảo vệ Tổ quốc Sau 30 năm chiến tranh liên miên, khi đất nước vừa được độc lập tự do, chúng ta lại tiếp tục đối mặt với những cuộc xâm lược mới. Từ tháng 5- 1975 đến 1977, tập đoàn Pôn Pốt- Iêng Xari đổ bộ xâm lược nhiều vùng lãnh thổ nước ta từ Hà Tiên đến Tây Ninh. Chúng dần dần mở rộng thành cuộc chiến tranh lớn trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta. Tuy nhiên, hành động của chúng đã bị quân dân ta ngăn chặn và làm thất bại (năm 1978). Không những thế, chiến thắng biên giới Tây Nam của ta đã tạo thời cơ thuận lợi cho cách mạng Campuchia giành thắng lợi. ở biên giới phía Bắc, Trung Quốc đã có những hành động làm tổn hại đến tình cảm của hai nước như: cho quân khiêu khích quân sự dọc biên giới, rút chuyên gia… Nghiêm trọng hơn, tháng 2 năm 1975, Trung Quốc đã mở cuộc tấn công nước ta dọc theo biên giới từ Móng cái đến Lai Châu. Để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, quân dân 6 tỉnh biên giới phía Bắc đã chiến đấu buộc Trung Quốc phải rút quân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 Chấm dứt hai cuộc xung đột biên giới phía Bắc và Tây Nam, nước ta đã bảo vệ toàn vẹn lành thổ và khôi phục, giữ vững tình đoàn kết hữu nghị hợp tác với các nước láng giềng. Có thể nói, bối cảnh lịch sử xã hội đất nước 10 năm sau chiến tranh có nhiều chuyển biến phức tạp. Điều này có tác động không nhỏ đến đời sống của văn học nước nhà. 2. Tình hình phát triển của văn xuôi Sự phát triển của một nền văn học nói chung, văn xuôi nói riêng bao gồm nhiều vấn đề có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. ở đây chúng tôi chỉ đi vào lĩnh vực sáng tác của văn xuôi trong giai đoạn 1975 - 1985 để từ đó có được cái nhìn khách quan, tổng thể về diện mạo của truyện ngắn trong giai đoạn này. Với dân tộc Việt Nam, dấu mốc 1975 đánh dấu sự sang trang của lịch sử đất nước: chuyển từ thời chiến sang thời bình, từ cuộc sống với những quy luật không bình thường của chiến tranh sang cuộc sống bình thường, hàng ngày của nhân dân. Tuy nhiên, văn học lại không sang trang cùng lúc với lịch sử. Nền văn học về cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo những quy luật, những cảm hứng chủ đạo trong chiến tranh cho đến khoảng đầu những năm 1980. Điều này đúng với lý luận của Mác: ý thức thường chậm hơn so với thực tại xã hội. Sự chạy theo quán tính này của văn học dẫn đến tình trạng mất độc giả. Sau chiến tranh, các nhà văn có điều kiện, có nhiều thời gian hơn để viết thì bỗng dưng cái mối quan hệ vốn rất thắm thiết máu thịt giữa văn học và công chúng, giữa sáng tác và người đọc lạnh nhạt hẳn đi, hụt hẫng hẳn đi. Người đọc quay lưng lại với n._.hững sáng tác hiện tại. Đó cũng chính là khoảng thời gian mà Nguyên Ngọc gọi là khoảng chân không trong văn học. ở đó, âm không truyền đi được. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 Nền văn học chững lại, không ít người viết lâm vào tình trạng hoang mang, bối rối, không tìm thấy phương hướng sáng tác. Nhưng dần dần họ cũng tìm ra nguyên nhân: cuộc sống thay đổi rất nhiều mà văn học vẫn giữ nguyên bộ quần áo cũ. Đời sống hoà bình nhưng hoá ra lại phức tạp hơn trong chiến tranh rất nhiều. Bởi trong chiến tranh, mọi quan hệ xã hội và con người dồn lại trong một mối quan hệ duy nhất: sống - chết. Tất cả những quan hệ đời thường, riêng tư bị đẩy lại phía sau, thậm chí bị triệt tiêu để hướng đến mục tiêu duy nhất: chiến đấu để chiến thắng. Chính ngọn lửa chiến tranh đã thiêu cháy những sự nhỏ nhen, tính toán, bon chen của cuộc sống thường nhật. Nếu trong chiến tranh trăm người như một, đồng tâm nhất trí cho sự nghiệp chung thì hoà bình lại khác. Con người trở về với cuộc sống đời thường, đối mặt với những lo toan cá nhân, những mất mát trong chiến tranh, những khó khăn của cuộc sống kinh tế, mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa quyền lợi riêng và quyền lợi chung không hoàn toàn thống nhất như trước đây. Do đó tất cả đều cần một sự thay đổi mới để có một cách nhìn, một cách nghĩ mới với tinh thần trách nhiệm cao để đáp ứng được những điều kiện mà thực tế đặt ra. Trong những điều kiện lịch sử ấy, văn xuôi đầu năm 80 cũng đã trải qua những trăn trở cho một cuộc chuyển mình. Tuy nhiên sự vận động ấy còn do yêu cầu nội tại của chính nền văn học. Đó là sự phát triển của tư duy nghệ thuật ở một trình độ mới. Sự vận động của văn học giai đoạn này trước hết là ở khuynh hướng sáng tác, ở quan niệm về hiện thực và con người, ở phương thức tiếp cận và miêu tả thực tại. Đầu những năm 80 trong văn xuôi đã hình thành nhiều khuynh hướng khác nhau. Khuynh hướng sử thi, tiếp tục mạch chảy của nó trong sáng tác của nhiều nhà văn, đặc biệt ở đội ngũ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến. Nhiều cây bút văn xuôi hướng tới việc tạo dựng bức tranh toàn cảnh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 của cuộc kháng chiến ở tầm vóc và quy mô lớn như Ông cố vấn (Hữu Mai). Độ lùi của thời gian cũng đã cho phép các nhà văn đi vào những mặt trái, những góc khuất của chiến tranh. Đó là sự hy sinh mất mát, cả những lầm lạc, hèn nhát, phản bội của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ - những người trong văn học cách mạng thường chỉ được phản ánh ở sự dũng cảm, ở mặt tốt, mặt phi thường (Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh). Tuy nhiên do bối cảnh xã hội đã thay đổi, càng về sau, khuynh hướng sử thi càng có xu hướng co hẹp lại nhường chỗ cho sự phát triển của khuynh hướng thế sự. Lúc này, văn xuôi thực sự bước sang địa hạt của những vấn đề trong đời sống thường nhật. Đứng trứơc hiện thực này đòi hỏi người nghệ sĩ phải thay đổi cách nhìn nhận, cách tiếp cận cuộc sống. Nếu trong chiến tranh mọi việc đều được nhận thức theo một chiều (trắng - đen, tốt – xấu), ngay cả việc đánh giá con người cũng thông qua những chuẩn mực toàn dân thì giờ đây trong hoà bình, khi quy luật của chiến tranh đã hết hiệu lực, những chuẩn mực cũ không đáp ứng được hiện tại mới. Con người cần xây dựng những chuẩn mực mới. Trên mảnh đất sôi động của cuộc sống hiện thực sau chiến tranh, văn xuôi có những điều kiện để phát triển. Nguyễn Khải viết: Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ và màu đen, đầy rẫy những biến động, những bất ngờ, mới thật làmột mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thả sức khai vỡ[25/74-75]. Trong ngổn ngang hiện thực đó, nổi lên những vấn đề được nhiều cây bút quan tâm như: đạo đức xã hội, tiêu cực trong quản lí sản xuất, nhận thức lại một số vấn đề trong qúa khứ... Với Hai người trở lại trung đoàn (1976), Thái Bá Lợi là người mở đầu báo hiệu cuộc đấu tranh phức tạp chống lại sự sói mòn trong đạo đức của con người. Những bông bần li (1981) của Dương Thu Hương lại đặt ra vấn đề đạo đức và số phận con người trong một xã hội tiêu dùng. Sau những năm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 chiến tranh liên miên, mỗi người dường như phải gồng mình lên đối diện với hàng loạt khó khăn chồng chất, hướng về những nhu cầu thiết yếu (ăn ở mặc...) con người phát triển chưa thể cân bằng. Những khó khăn về đời sống ấy dễ gợi mở về một nhu cầu phiến diện. Chủ nghĩa thực dụng và văn hoá tiêu dùng hiện đại đã trở thành đối tượng có sức hấp dẫn đặc biệt[39/88]. Mặt khác ở cây bút đầy nữ tính này nhu cầu hạnh phúc riêng tư của con người cũng được diễn tả, bộc lộ một cách khẩn thiết. Giữa ranh giới buồn - vui, được - mất của cuộc sống thì khát vọng hạnh phúc của con người là khôn cùng. Bên canh đó, một số truyện của Nguyễn Minh Châu, Vũ Tú Nam, Ma Văn Kháng... lại tiếp cận vấn đề đạo đức từ góc độ gia đình. ở đó thường diễn ra hành trình tự ý thức, tự phán xét lương tâm của cá nhân xoay quanh trục thời gian hai chiều: quá khứ và hiện tại. Những năm sau chiến tranh, xã hội bắt đầu tỏ rõ sự trì trệ, yếu kém và có phần bế tắc. Những vấn đề bức xúc của đời sống kinh tế xã hội thời kì khủng hoảng cũng là mảng hiện thực nóng bỏng trong đời sống văn học. Khi tiểu thuyết Đứng trước biển (1982), Cù lao chàm (1985) của Nguyễn Mạnh Tuấn xuất hiện đã gây phản ứng khác nhau trong dư luận bạn đọc, làm xôn xao văn đàn, kéo độc giả đến gần với văn học. Bởi đó là một minh chứng hùng hồn cho quan điểm của Đảng ta: văn học là cuộc sống, là sự đấu tranh của những nhà văn cho một cuộc sống tốt đẹp, cuộc đấu tranh bằng tác phẩm văn học [81/439]. Nổi lên sóng gió dư luận hơn cả là khuynh hướng nhận thức lại một số vấn đề của thời kì chiến tranh. Nhận thức lại không đồng nghĩa với việc xét lại hay bắn súng đại bác vào quá khứ mà là nhờ vào kinh nghiệm, người ta gạt bỏ cái sai lầm khỏi cái chủ quan nó bao để đi đến chân lí. Thời xa vắng của Lê Lựu, Những tháng ngày đã qua của Xuân Thiều, Sống với thời gian hai chiều của Vũ Tú Nam, Nguời đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 Nguyễn Minh Châu... là những tác phẩm viết theo hướng này. Các tác phẩm đó đã đặt ra vấn đề nhận thức lại quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa con người và hoàn cảnh nhưng quan trọng hơn là con người tự nhận thức lại chính mình. Viết theo xu hướng này nhà văn cần có cái nhìn tỉnh táo, sáng suốt và một tấm lòng chân thành, như lời tâm sự của tác giả Võ Văn Trực viết lại chuyện cũ, tôi hoàn toàn không có ý đồ xấu xa moi móc những sai lầm chúng ta đã vấp phải để rồi đổ lỗi cho người này hay người kia mà cốt để chúng ta đừng lặp lại những sai lầm ấy[74/5]. Do đó, trên lối đi mới này, các nhà văn đã đem lại cho bạn đọc những kiến giải thú vị, có khả năng thanh lọc tâm hồn con người. Như vậy, thâm nhập vào đời sống văn xuôi giai đoạn 1975- 1985, đặc biệt từ nửa đầu những năm 80 trở đi có manh nha vật chất mới, còn rất loãng, tất nhiên, đang vận động, đang hình thành, đang tụ lại dần, khó nhọc, chậm chạp, nhưng về xu thế lâu dài là hứa hẹn[51/10]. Đó là sự đổi mới trong nhận thức về hiện thực theo hướng nhìn sâu hơn hiện thực ấy. Đó cũng là cảm hứng phân tích để chỉ ra nhiều mặt của hiện thực (bao gồm cả mặt sáng và mặt tối), là khát vọng dân chủ và nhân đạo, hướng sự quan tâm vào con người cá nhân. Những chuyển đổi trong nội dung phản ánh này cũng đòi hỏi sự đổi mới trong hình thức thể hiện. Sự khởi động của một thời kì văn học mới cũng ảnh hưởng bởi mảng văn học dịch. Trước năm 1975, văn học nước ngoài đương đại được dịch và giới thiệu ở Việt Nam chủ yếu là những sáng tác của các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Sau 1975, hoạt động dịch, giới thiệu nền văn học đương đại Âu- Mỹ diễn ra sôi nổi. Các tác phẩm đoạt giả Nôben, các tác phẩm thuộc nhiều trường phái nghệ thuật khác nhau như tượng trưng, siêu thực, hiện sinh, hiện đại, hậu hiện đại... được dịch rộng rãi. Ngay cả một số tác phẩm văn học các nước xã hội chủ nghĩa từng bị cấm như thơ Akhơmatôva, tiểu thuyết của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 Paxtécnác cũng được bày bán. Mảng văn học dịch này có tác động không nhỏ tới quá trình đổi mới văn học ở Việt Nam. Nó làm thay đổi thị hiếu nghệ thuật của thanh niên. Nhiều nhà văn từng sáng tác trong thời kì chiến tranh nhận ra rằng nếu tiếp tục sáng tác như cũ họ sẽ tự đánh mất độc giả. Nghĩa là văn học dịch đã làm cho các nhà văn Việt Nam thấy cần phải đổi mới cách viết[40/56]. Tuy nhiên, khoảng mười năm sau chiến tranh, trong lĩnh vực sáng tác việc đổi mới cách viết chưa trở thành một phong trào rầm rộ, chưa xuất hiện nhiều những cây bút trẻ có khuynh hướng đổi mới. Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn là những nhà văn đi tiên phong trong giai đoạn văn học tiền đổi mới này. Những sáng tác của họ góp phần mở đường cho văn học đổi mới mạnh mẽ và sâu sắc từ sau 1986. 3. Diện mạo của truyện ngắn 3.1. Chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người. 3.1.1. Quan niệm về hiện thực Theo Trần Đình Sử, thuật ngữ quan niệm trong nghệ thuật là một khái niệm về chủ thể, khái niệm về hệ quy chiếu, thể hiện tầm lí giải, tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm, nói tổng quát là tầm hoạt động của chủ thể. Quan niệm cung cấp một mặt bằng để trên đó diễn ra sự lựa chọn, khái quát, nhào nặn, tạo ra hình tượng nghệ thuật, thậm chí có thể biến đổi hình dạng sự vật hoặc miêu tả không chính xác về đời sống[77/8]. Do quan niệm thuộc về chủ thể sáng tạo nên mỗi nhà văn có quan niệm riêng về hiện thực. Đó là sự nhận thức, đánh giá về hiện thực cuộc sống của nhà văn theo một quan điểm thẩm mĩ nhất định. Như thế không có nghĩa là quan niệm nghệ thuật về hiện thực của nhà văn chỉ là nhận thức trừu tượng, lí thuyết, chung chung. Trái lại, đó là cách nhìn, là sự cảm nhận về Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 đời sống xã hội được nâng lên tầm khái quát nhưng vẫn mang hơi thở của cuộc sống và vẫn gắn bó máu thịt với cuộc đời thực. Quan niệm về hiện thực thể hiện sự khám phá, sự lí giải, trình độ chiếm lĩnh hiện thực của nhà văn. Và mỗi người thường có môt vùng đối tượng thẩm mĩ riêng mà tự nó đã ghi đậm dấu ấn của chủ thể sáng tác. Trong văn xuôi thời kì trước năm 1975, do yêu cầu của cách mạng nên hiện thực được phản ánh trong tác phẩm chủ yếu là hiện thực chiến tranh. Đó là hiện thực của cuộc sống chiến đấu họăc vừa chiến đấu vừa sản xuất nhiều khi được tráng một lớp men trữ tình hơi dày. Nói như Nguyễn Minh Châu hiện thực của văn học có khi không phải là hiện thực đang tồn tại mà là cái hiện thực mọi người đang hi vọng, đang mơ ước . Sau chiến tranh, khi hiện thực cuộc sống thay đổi, khi tư duy nghệ thuật cũng dân chủ hơn thì biên độ của hiện thực ngày càng được mở rộng. Đó không chỉ là hiện thực về đời sống chiến tranh được miêu tả dưới cái nhìn mới mà còn là hiện thực về số phận của một cá nhân, một gia đình, một dòng họ sau những tổn thất to lớn trong chiến tranh, hay là hiện thực cuộc sống trong thời kì khủng hoảng, bế tắc của xã hội. Cuộc sống được phản ánh vào trong tác phẩm không chỉ là cái phần anh hùng cao cả mà còn thấm thía nỗi buồn của con ngưòi phần hậu chiến, là cuộc sống với tất cả cái sôi động quyết liệt của cuộc đấu tranh cũng như cái đời thường vừa nhân hậu ấm áp, vừa nhếch nhác lấm lem[36/12]. Sự thay đổi trong quan niệm về hiện thực như vậy giúp nhà văn phản ánh cuộc sống một cách toàn vẹn hơn, chân thực hơn. Văn xuôi vượt qua tình trạng bị lệ thuộc vào đề tài, vào một cái nhìn đã định trước để mở ra khả năng phong phú vô tận trong việc khám phá và thể hiện đời sống. Nhà văn cũng có thể đi đến những miền khuất, những mặt trái của đời sống, đến với chiều sâu tâm tưởng, tâm linh của con người. Những nơi mà trước đây trong chiến tranh họ ít có điều kiện để khai vỡ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 Nhìn lại những sáng tác trong chiến tranh, chúng ta nhận thấy văn học đã cố gắng bám sát cuộc sống chiến đấu oanh liệt của dân tộc. Điểm mạnh trong những sáng tác của họ là giàu tính thời sự, có sức động viên và cổ vũ lớn lao. Tuy nhiên sau chiến tranh xuất hiện những yêu cầu mới, yêu cầu tái hiện lịch sử phải gắn liền với đòi hỏi đi sâu vào số phận và diễn biến của con người; viết về cuộc chiến tranh hôm qua phải đặt trong tương quan với những yêu cầu của cuộc sống hôm nay [39/209]. Với đặc thù của thể loại, truyện ngắn đã chưng cất những mảng hiện thực của cuộc sống chiến tranh. Mặc dù phần lớn truyện ngắn giai đoạn 1975 - 1985 viết về chiến tranh vẫn bám vào các sự kiện, vẫn lấy sự kiện làm trục chính song cách triển khai vấn đề ở những truyện ngắn này cũng không hoàn toàn giống trước. Những hoàn cảnh ngặt nghèo, những khúc bi thương nhất của chiến trận vẫn được khắc hoạ đậm nét trong nhiều truyện ngắn: Hai người trở lại trung đoàn của Thái Bá Lợi, Chuyến xe đêm của Ma Văn Kháng, Ngày không bình thường của Phạm Hoa, Người trong cuộc của Trung Trung Đỉnh... ở đó, những phẩm chất anh hùng sáng ngời của người lính vẫn được khẳng định. Tuy nhiên chiến tranh cũng là một cuộc kiểm nghiệm nghiêm khắc đối với con người, sàng lọc mọi giá trị con người. Có anh hùng nhưng cũng có những kẻ hèn nhát, sợ chết, phản bội hay gắng gỏi leo lên những bậc thang địa vị. Nhân vật Trí (Hai người trở lại trung đoàn) vừa là một con người dũng cảm, thông minh trong chiến trận nhưng lại là kẻ thủ đoạn trong tình yêu. Song khi có được tình yêu thì sẵn sàng rũ bỏ nó, rũ bỏ cả đứa con mình để leo lên địa vị trung đoàn trưởng. Bối cảnh chiến tranh ở truyện ngắn này không còn chiếm địa vị độc tôn mà luôn song hành, đan xen với hành trình đi tìm hạnh phúc của các nhân vật. Chiến tranh nhiều lúc chỉ là cái nền để nhân vật bộc lộ tính cách của mình. Tuy nhiên, cách xử lí vấn đề ở truyện ngắn này vẫn thiên về ca ngợi con người anh hùng. Vì thế, cho đến cuối truyện tác giả vẫn để cho nhân vật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 Trí sống yên ổn với cương vị trung đoàn trưởng của mình mà không hề phải nhận bất kì hình thức kỉ luật nào. Đưa nhân vật vào trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh để từ đó trình bày những diễn biến và số phận không giản đơn của con người là cách các nhà văn lựa chọn khi viết về mảng hiện thực chiến tranh. Âm hưởng chung ở những truyện ngắn như thế dù vẫn thiên về ca ngợi cái cao cả, cái anh hùng của con người nhưng đằng sau đó là hình ảnh của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh anh dũng, kiên cường. Truyện ngắn Chuyến xe đêm của Ma Văn Kháng kể về hai vợ chồng người phóng viên phương Tây được một người lính lái xe người Việt Nam đưa qua biên giới Campuchia. Hành trình tuy không dài nhưng họ luôn phải đối diện với những bất hạnh khôn lường bởi sự tấn công bất ngờ, hiểm ác của tàn quân Pôn pốt. Khi chiếc xe gần đến trạm gác cầu cuối cùng thì bị tấn công. Người lái xe bị trúng ba viên đạn ngay từ loạt tấn công đầu tiên. Trước khi bọn tàn quân sắp sửa phóng một quả B41 để huỷ diệt cả xe thì anh nghển lên giống như quằn quại...chân vẫn đặt hờ trên chân ga, tay vẫn nắm chặt vành tay lái[54/427] đưa chiếc xe vuợt qua cõi chết, cứu sống vợ chồng người phóng viên. Hành động của anh khiến họ hiểu ra rằng một dân tộc vị tha, sống chết vì người khác, điều đó đã trở thành một đạo lí, một nguồn năng lượng vô tận[54/428], một sức mạnh diệu kì để vượt qua mọi gian khổ. Điều mà nhà văn hướng đến không phải là sự mô tả chiến tranh thông thường mà là sự cắt nghĩa cội nguồn đã làm nên chiến thắng. Bảo Ninh lại xử lí hiện thực chiến tranh bằng cách đi vào những góc khuất của tâm trạng, những bi thương của chiến trận trong những hoàn cảnh đặc biệt. Tryện ngắn Trại bảy chú lùn viết về cuộc sống của những người lính hậu cần bị bỏ quên trong khi họ làm nhiệm vụ coi kho ở Trường Sơn. Môi trường chiến tranh ở đây không có tiếng súng, không có kẻ thù cụ thể nhưng giữa rừng già cô độc, họ đã phải chiến đấu với chính bản thân mình để Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 giữ vững tấm lòng nhân bản của người lính cũng như tâm hồn nhân văn của họ. Tư tưởng đó sau này còn được nhà văn tiếp tục ở một khía cạnh khác sâu sắc hơn trong Nỗi buồn chiến tranh. Chính cách nhìn chiến tranh bằng nhãn quan văn học một cách nhân bản như thế đã đem lại sự mới mẻ so với những tác phẩm viết về chiến tranh trước đây. Bên cạnh đó, nhiều truyện ngắn chỉ lấy việc mô tả chiến tranh làm tấm gương lớn để con người tự soi ngắm lại chính mình và những người xung quanh.Trong truyện ngắn Cơn giông, lí giải sự chiêu hồi kẻ thù của Quang, Nguyễn Minh Châu cho rằng y là một con người luôn luôn tìm cách thoả mãn mọi thèm khát của bản thân mình nên khi cách mạng gặp khó khăn, y thành kẻ chiêu hồi. Điều này dược nhà văn triển khai nhất quán trong mọi việc làm, mọi hành động suốt cuộc đời y. Nhưng chiến tranh chính là lúc y bộc lộ rõ nét nhất mặt thật của mình. Còn nữ phóng viên Nguyên Bình (Năm tháng đi qua của Nguyễn Thị Như Trang) khi đến với mặt trận Tây Nam, đến với những người lính dũng cảm mà giản dị, khiêm nhường lại giúp chị nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc đời. Là một phóng viên sống ở Hà nội, chị luôn khao khát được nếm trải nỗi vất vả của những chuyến đi thực tế, hoà cái riêng của mình vào ngàn mảnh đời chung để tạo nên những trang viết. Nhưng Văn, người yêu của chị, một nhà thơ trầm ngâm đi trên hè phố Hà Nội với những câu thơ viết về nỗi đau khổ, lại không đồng tình với suy nghĩ đó. Khi chứng kiến sự hi sinh của những người lính trong lòng chị cứ day dứt một câu hỏi Sống như thế tôi sẽ có ích gì cho cuộc đời này? Và hình ảnh của Văn bỗng nhoà đi rất nhanh. Như vậy, chiến tranh không chỉ là thước đo giá trị con người mà đồng thời cũng giúp con người nhận thức về cuộc sống và sống có ý nghĩa hơn. Trong những truyện ngắn như thế, chiến tranh được nhìn từ tiêu điểm con người với số phận cá nhân chứ không phải là dòng sự kiện. ở đó, con Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 người vừa chịu sự chi phối của hoàn cảnh, vừa tác động lên hoàn cảnh. Cái nhìn về hiện thực chiến tranh ở đây có nhiều thay đổi so với thời kì trong chiến tranh. Nhà văn không chỉ giúp người đọc hiểu rõ về chiến tranh hơn mà còn nhận thức sâu sắc cái giá của chiến thắng. Tái hiện quá khứ để hướng vào cuộc sống hiện tại cũng là một cách tiếp cận với hiện thực chiến tranh sau chiến tranh mà các nhà văn thường lựa chọn. Bởi các thế hệ hôm nay và mai sau tìm đến những tác phẩm này không phải chỉ để chiêm ngưỡng những vinh quang của chiến thắng mà còn để soi tìm trong đó những tấm gương tinh thần, đạo đức, nghị lực, để tìm lời giải đáp cho những vấn đề của cuộc sống con người trong nhiều thời đại. Cái hôm qua được nhận thức và lí giải từ chỗ đứng hôm nay, cái ánh sáng rạng rỡ của hôm qua vẫn tiếp tục chiếu rọi vào cuộc sống hôm nay. Song song với hiện thực chiến tranh là hiện thực về cuộc sống thường nhật sau cuộc chiến. Từ những năm 80 trở đi vùng hiện thưc thế sự, đời tư này chiếm một vị trí ngày càng quan trọng hơn trong đời sống văn xuôi. Nguyễn Minh Châu là nhà văn sớm có những tác phẩm thành công ở mảng hiện thực này. Qua hai tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê của ông người đọc có dịp nhân rõ hình ảnh của cuộc sống bình thường mà lấp lánh ánh sáng. Trong dòng sự kiện của cuộc sống, con người thường hướng tới những điểm nóng, những sự kiện lớn lại dễ bỏ sót những đốm sáng nhỏ nhoi nhưng chính nó lại là một phần của cuộc sống.Từ những truyện tưởng rất bình thường nhỏ nhặt không có gì đặc biệt như: Một lần đối chứng, Mẹ con chị Hằng, Hương và Phai, Đứa ăn cắp, Một người đàn bà tốt bụng, Sống mãi với cây xanh... Nguyễn Minh Châu vẫn tìm ra được các khía cạnh sắc sảo của thế thái nhân tình, của những vấn đề vừa nhỏ bé, vùa rộng lớn trong số phận cá nhân. Đúng là ông có khả năng nhìn đâu cũng ra truyện ngắn (Lê Lựu).Từ đó, nhà văn đã góp phần làm phong phú Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 thêm đời sống tinh thần cho mỗi người, bồi đắp thêm ý thức trách nhiệm với đồng loại và nhân lên lòng yêu cuộc sống. Mặc dù Nguyễn Minh Châu mới chỉ sống ở buổi đầu của thời kì đổi mới nhưng ông đã nhìn thấy những vấn đề của thời kinh tế thị trường: đó là sự phân hoá của các thế hệ trong mỗi gia đình (Giao thừa), là vấn đề môi trường sinh thái trong quá trình đô thị hoá (Sống mãi với cây xanh), là ý chí khát vọng làm giàu của người nông dân (Khách ở quê ra), là sự du nhập của lối sống phương Tây vào các gia đình truyền thống (Sắm vai)... Xã hội Việt Nam những năm 80 mới chỉ là thời điểm bắt đầu đổi mới, ở thời điểm này cái cũ chưa mất đi, cái mới cũng chỉ đang trong hành trình tìm tòi, thử nghiệm. Nguyễn Minh Châu như một người đi biển lành nghề đã nghe thấy trong hơi gió và tiếng sóng những điềm báo về một cơn lốc mới mà ảnh hưởng của nó đến các mặt sẽ trở thành phổ biển trong đời sống xã hội vào những năm chín mươi[35/67]. Cũng tiếp cận đời sống ở bình diện sinh hoạt thế sự, những sáng tác văn xuôi của Ma Văn Kháng ở buổi đầu những năm 80 lại thấy xuất hiện cái nhìn mới trong quan niệm về hiện thực. Với ông, hiện thực phức tạp, không thể biết trước, không thể biết hết, con người vẫn đang còn nhiều bí ẩn cần phải khám phá tìm tòi. Nhiều nhân vật của ông đã trực tiếp bày tỏ quan niệm này. Luận trong Mùa lá rụng trong vườn đã phát biểu Đời phức tạp là do nó vốn thế chứ ai bịa ra được[32/54] . Còn Cừ ở nơi đất khách quê người trong cuộc trả giá cuối cùng của cuộc đời đã nhận thức ra một điều Cuộc sống là một sự phát hiện liên tục[ (32/187]. Khi hướng sự quan tâm chú ý vào mảng hiện thực đời thường, Ma Văn Kháng cũng tìm thấy từ trong hiện thực muôn hình vạn trạng ấy những sắc thái trữ tình cùng những vẻ nhân sinh có sức toả sáng có khả năng thuyết phục con người. Trong tập truyện ngắn Ngày đẹp trời, nhà văn đã khắc hoạ nhiều vẻ đẹp khác nhau của con người trong cuộc sống. Đó là vẻ đẹp của chú bé Kiểm (Kiểm- chú bé- con người) dẫu bị thiếu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 thốn, dập vùi nhưng vẫn tràn đầy lòng yêu thương người khác. Là giọt nước mắt muôn màng nhưng đáng quý đáng trân trọng của ông Luyến (Mất điện). Giọt nước mắt ấy là sự chiến thắng cái trì trệ, thờ ơ, vô trách nhiệm của con người trước cuộc sống… Qua tập truyện ngắn này, tác giả cũng muốn nhắn nhủ với con người trong cuộc sống hiện tại: Hơn bao giờ hết cần phải giữ được cái mầm nhân bản, phải bảo tồn cho được cái khả năng yêu thương đồng loại ở mỗi con người. Yêu thương kẻ ngoài quan hệ huyết thống, yêu thương con người với tính cách đồng loại, một tình yêu ấy mới thật hiếm hoi và rất cần vun đắp[31/185]. Nhiều truyện ngắn của Lí Lan, Trần Thị Thuỳ Mai, Thuỳ Linh…cũng được triển khai theo hướng này. Sau đại thắng mùa xuân 1975 cả dân tộc vừa phải xây dựng nền móng của chủ nghĩa xã hội, vừa đối diện với những cuộc chiến tranh biên giới. Cuộc sống khó khăn lại chồng chất thêm bởi những tiêu cực trong quản lý kinh tế và tổ chức xã hội. Đứng trước hiện thực đó, nhiều nhà văn đi vào những khía cạnh xấu của đời sống hiện tại. Nguyễn Mạnh Tuấn, Dương Thu Hương, Lê Minh Khuê là những cây bút có nhiều truyện ngắn theo hướng phản ánh mặt trái của hiện thực. Trong tập truyện ngắn được giải thưởng của hội nhà văn Việt Nam năm 1987 Một chiều xa thành phố, Lê Minh Khuê đã phản ánh khá tinh tế sự chuyển động lúc âm thầm, lúc mạnh mẽ trong đời sống tinh thần của con người thời đại. Con người bị cuốn vào cơn lũ của đời sống tiện nghi, của tâm lí tiêu dùng, của thói lãnh cảm với quá khứ, với đồng loại. Sự phê phán của nhà văn với những thói hư tật xấu ấy của con người nhẹ nhàng mà thấm thía. Từ một cô gái nhiệt tình, hăm hở Tân (Một chiều xa thành phố) trở thành kẻ hưởng thụ và ích kỷ bởi sự nhập cuộc với hiện tại cuồng nhiệt nhưng sai đường. Cô sống thờ ơ với bạn cũ, cố chạy theo lối sống vật chất, khiến cho chồng cô phải thốt lên một cách khinh bỉ cái nông cạn của người đàn bà cũng như một thứ tội ác. Nếu lấy cách sống của Tân để minh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 chứng cho triết lý ấy thì chưa thực sự thoả đáng nhưng đó là một lời cảnh báo: con người tiếp cận với cuộc sống hiện đại, càng hiện đại mình thì càng trở nên vô cảm với xung quanh nếu anh ta không có được vốn văn hoá cần thiết. Và kết quả là những người như thế đã tự đẩy mình vào chỗ cô đơn. Hướng khai thác hiện thực này cũng được Dương Thu Hương triển khai một cách sâu hơn trong truyện ngắn Ban mai yên ả. Nhân vật chính trong truyện từ chiến trường trở về hòa nhập vào đời sống bình thường ở hậu phương đã vấp phải bao khốn khó. Lối sống tỉnh lẻ tuỳ tiện, lười biếng, một số cán bộ dửng dưng, vô trách nhiệm. Tất cả như một thứ keo đặc vây bủa lấy anh, khiến những ý định tốt lành của anh khi trở về không sao thực hiện được, Chỉ muốn sống cho lương thiện thôi anh đã phải làm phiền đến bao nhiêu người và gây cho họ không ít sự bực bội. Cách khai thác của Dương Thu Hương là nhìn thẳng vào đời sống, xé tuột cái vẻ bề ngoài để khơi thẳng vào những gì thuộc về thực chất của các hiện tượng cũng như các mối quan hệ. Chủ yếu để cho người đọc thấy rõ mặt trái, phần khuất lấp của cuộc sống con người. Cách lật tẩy cuộc sống như thế còn bắt gặp trong nhiều truyện ngắn của chị như: Loài hoa biến sắc, Ngôi nhà trên cát, Chuyện nghe thấy mà không nhìn thấy, Một khúc ca buồn... Trở lại với hiện thực đời thường, chọn những con người, những sự việc bình thường làm tiêu điểm, đặt nó vào quỹ đạo quan sát của văn học các nhà văn đã khơi vào nguồn mạch mới để làm giàu thêm cho nhận thức và sinh hoạt tinh thần của con người. ở các truyện ngắn này, văn học bỗng trở thành những vui buồn của đời người, là sự chiêm nghiệm về những gì được mất, là hồi ức về quá khứ và dự cảm về tương lai, là trầm tư về lẽ tồn vong của con người, trong mối quan hệ với xã hội, tự nhiên và vũ trụ[72/61]. 3.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 ở bất kỳ nền văn học nào, con người cũng là đối tượng trung tâm của phản ánh hiện thực. Quan niệm về con người trong văn học là quan niệm nghệ thuật được nhà văn nhận thức và phản ánh trên cơ sở hiện thực. Theo thi pháp học Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lý giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã được hoá thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp hình thức để thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hiện tượng nhân vật trong đó[78/43]. Tìm hiểu nghệ thuật về con người tức là tìm hiểu cách nhìn, chiều sâu của sự khám phá, sự lý giải, trình độ chiếm lĩnh con người của nhà văn. Quan niệm nghệ thuật về con người là cốt lõi tinh thần, là phương diện có tầm quan trọng hàng đầu để xác định những đặc trưng cơ bản, xác định trình độ, tài năng, sự đóng góp của nhà văn cho văn học và đời sống. Quan niệm về con người liên quan đến toàn bộ quá trình sáng tạo của nhà văn, đến tất cả các yếu tố nội dung và hình thức của tác phẩm. Nó đánh dấu sự thay đổi đáng kể của hệ hình tư duy trong sáng tác của nhà văn. Tuy nhiên không thể quy nó vào tinh thần đạo đức, chính trị, nhận thức cảm tính hay tư duy lý luận của họ. Tiến trình lịch sử văn học cũng cho thấy, sự đổi mới văn học thường gắn liền với sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người. Theo Trần đình Sử chừng nào chưa có sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người, thì sự tái hiện các hiện tượng đời sống khác nhau chỉ có ý nghĩa mở rộng về lượng trên cùng một chiều sâu[79/98]. Văn học Việt Nam trong giai đoạn 1945- 1975, gia tăng yếu tố xã hội, nhấn mạnh tính tư tưởng của con người. Yêu cầu với mỗi tác phẩm là hiện thực đời sống, là nội dung chính trị - xã hội - lịch sử. Con người trong văn học giai đoạn này được nhận thức đánh giá, khám phá chủ yếu và trước hết ở góc độ chính trị, trong quan hệ ta - địch. Niềm vui, nỗi buồn ở suy nghĩ của con người hoà trong niềm vui, nỗi lo của dân tộc, giai cấp. Ngòi bút của nhà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 văn thường tập trung ca ngợi chiến công của cá nhân, tập thể trong chiến đấu và sản xuất qua đó khẳng định tầm vóc lịch sử của con người, của những chiến công. Hình tượng trung tâm trong văn học giai đoạn này là người chiến sĩ - những người xả thân vì lí tưởng, gắn bó hết mình với sự nghiệp cách mạng, với quê hương đất nước. Sau 1975 khi chiến tranh kết thúc, bao khó khăn, thử thách mới đặt ra trong đời sống hoà bình. Sự phức tạp và bề bộn của cuộc sống thời hậu chiến đang diễn ra theo nhiều chiều, nhiều hướng, thực tế đòi hỏi phải có những tiếng nói thể hiện nhu cầu phong phú, đa dạng, phức tạp trong đời sống tinh thần của con người. Từ tâm lí tình cảm, đời sống riêng tư của từng cá nhân đến khát vọng vươn tới trong xu hướng phát triển của xã hội Việt Nam thời hiện đại. Tất cả những biểu hiện của con người trong đời sống từ lĩnh vực kinh tế đến chính trị, từ đạo đức xã hội phong tục tập quán đến tình yêu, hạnh phúc, đời sống tâm linh đều được các nhà văn quan tâm thể hiện. Sự tìm hiểu khám phá về con người ở nhiều chiều, nhiều hướng ở thế giới nội cảm là xu thế nổi bật của văn xuôi sau 1975. ở đó truyện ngắn đã phát huy được khả năng tiếp cận và phản ánh hiện thực con người trong giai đoạn mới một cách nhanh nhậy, sắc bén hơn bất kỳ thể loại nào khác. Từ một nền văn học phản ánh con người trong mối quan hệ với cộng đồng, con người thường mang trong mình những phẩm chất cao đẹp, có ý chí và sức mạnh phi thường, kết tinh cho những vẻ đẹp tinh thần và lí tưởng cao cả của dân tộc, văn học sau 1975 chuyển._.g lời nói cuối cùng của anh trước khi ra đi trong cuộc chiến đấu lâu dài này, tụi mình hi sinh phải lí hơn, tụi mình già rồi. Các cậu còn trẻ các cậu phải ở lại để đánh giặc cho tới lúc chiến thắng [67/153]như một sự thức tỉnh tâm hồn chị, giúp chị một lựa chọn đúng đắn trong cuộc sống hiện tại: Những bài học lịch sử…đó chính là luồng sáng lung linh nâng đỡ cuộc đời chị. Chị sẽ giáo dục các con chị, những học sinh nhỏ bé của chị, những thế hệ sau này biết rung động sâu xa trong đời sống chung, với những cội nguồn đem đến cuộc sống cho chúng[67/157]. Đúng như tên gọi của nó Sống trong thời gian hai chiều của Vũ Tú Nam lại như một bản kiểm điểm chân thành của nhân vật trước dòng chảy của thời cuộc. Tác giả đặt nhân vật ở thời điểm ngoái nhìn lại quá khứ sau khi đã từng kinh qua hai cuộc kháng chiến. Chỉ mấy ngày trở lại quê hương nhưng ông An đã sống trong hai chiều thời gian của mấy chục năm. Thời gian đã cật vấn ông, nhào nặn ông, phán xét và thúc đẩy ông[67/866]. Nếu thời trẻ khi đi vào cách mạng lòng ông luôn phơi phới, tưởng như cái gì cũng đơn giản, dễ dàng thì khi cuộc sống trở về hoàn cảnh bình thường lại đặt ông trước bao mối quan hệ mới mẻ buộc phải lựa chọn.Trước dòng đời, trước dòng thời gian, ông đã phải dừng lại để suy ngẫm: chúng nó (con cháu mình) đi xuôi thời gian, các cụ ngược về dĩ vãng, còn mình thì đứng giữa ư? Hay Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104 theo hướng nào ?[67/850] Sự đồng hiện về thời gian ở truyện ngắn này gúp nhà văn đi sâu hơn vào những diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật. Cái quá khứ trong veo, thoảng hương hoa loa kèn và âm hưởng của giọng nói vừa giễu cợt vừa trìu mến lại như một luồng gió tươi mát ùa vào tâm hồn mệt mỏi Miên (Có một đêm như thế- Phạm Thị Minh Thư). ở truyện ngắn này, cái ánh sáng rạng rỡ của ngày hôm qua vẫn tiếp tục chiếu rọi vào cuộc sống hàng ngày hôm nay như nâng bước cho con người trong cuộc sống hiện tại. Trong Khách ở quê ra (Nguyễn Minh Châu) thời gian hiện tại và quá khứ đan cài vào nhau theo dòng chảy tâm trạng của nhân vật Khúng. Nhiều truyện ngắn khác lại có cuộc hành trình ngược về quá khứ như tìm đến một nguồn sức mạnh tinh thần để đi tiếp hành trình đến tương lai (Tuổi thơ im lặng, Gió từ miền cát) . Có thể nói, trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945-1975, vấn đề thời gian chưa có nhiều ý nghĩa trong đời sống nội tâm con người như giai đoạn sau 1975. Đây không phải là thời gian của những sự kiện lớn lao hay thời gian vĩnh hằng trong dòng chảy của nó mà là thời gian trong ý thức của cá nhân, ý thức về từng khoảnh khắc đang sống. Đó là thời gian của những tâm trạng, gắn với những biến động trong đời sống mỗi con người cá nhân.Vì thế việc đặt nhân vật vào những chiều thời gian khác cũng là một cách để miêu tả sâu sắc hơn đời sống nội tâm của con người . 3.Nghệ thuật trần thuật Theo từ điển thuật ngữ văn học trần thuật là phương diện cơ bản của thể loại tự sự, là việc giới thiệu khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của chủ thể trần thuật. Nghệ thuật trần thuật là cả một hệ thống tổ chức phức tạp nhằm đưa hành động lời nói nhân vật vào đúng vị trí của nó để người đọc lĩnh hội theo ý định tác giả. Trong trần thuật có nhiều phương diện: điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ trần thuật…ở luận văn này chúng tôi chỉ khái quát những dấu hiệu đổi mới của nghệ thuật trần thuật trên các phương diện chính. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105 3.1. Sự đa dạng về điểm nhìn trần thuật Điểm nhìn văn bản là phương thức phát ngôn, trình bày, miêu tả phù hợp trong cách nhìn, cách cảm thụ thế giới của các tác giả. Khái niệm điểm nhìn mang tính ẩn dụ, bao gồm mọi nhận thức, đánh giá, cảm thụ của chủ thể đối với thế giới. Nó là vị trí dùng để quan sát, cảm nhận, đánh giá bao gồm cả khoảng cách giữa chủ thể và khách thể, cả phương diện vật lý, tâm lý văn hoá[78]. Khảo sát truyện ngắn giai đoạn 1975-1985 cho thấy, điểm nhìn trần thuật được tổ chức chủ yếu từ ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Trần thuật ở ngôi thứ nhất, là hình thức mới xuất hiện trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX. Đây cũng là hình thức nghệ thuật được truyện ngắn nói riêng và văn xuôi nói chung sử dụng chủ yếu ở hai dạng cụ thể: Trần thuật từ ngôi thứ nhất với vai trò người dẫn truyện hoặc trao cho nhân vật chức năng trần thuật từ ngôi thứ nhất (về hình thức nhân vật có thể xưng tôi nhưng không phải là tác giả). Trần thuật ở ngôi thứ nhất trong vai trò người dẫn truyện thực chất chủ thể trần thuật được nhân vật hoá để thực hiện vai trò dẫn truyện. Trước năm 1975, tuy chủ thể trần thuật cũng được nhân vật hoá nhưng thực chất vẫn là cái tôi hướng ngoại đại diện cho cộng đồng. Còn sau 1975, đó là cái tôi hướng nội, là sự trần thuật theo quan điểm cá nhân. Đó là nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, nhân vật tôi (Mặt trời bé con của tôi- Thùy Linh), nhân vật tôi (Hạnh Nhơn - Nguyễn Thành Long)...Với kiểu trần thuật này, người kể truyện thường xưng tôi đóng vai trò trung tâm, giữ quyền kể truyện từ đầu đến cuối chuyện. ở một số truyện hầu như tôi là nhân vật duy nhất, còn những nhân vật khác chỉ được miêu tả từ điểm nhìn của người kể truyện (Hạnh Nhơn). Qua hình thức kể truyện này, người kể truyện - tác giả - đã thể hiện tư tưởng tình cảm của mình một cách tự nhiên. ở truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa trong khi kể lại cảnh người chồng đánh vợ một cách tàn bạo, người kể truyện đã bộc lộ ngay thái độ của mình: Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106 đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi, chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới[11/336]. Còn ở truyện Hạnh Nhơn, trong tình huống nhận lầm cha của cô bé Hạnh Nhơn người kể chuỵện đã rất dễ dàng bộc lộ những băn khoăn suy nghĩ của mình: Cuộc đời của em như thế nào mà em phó thác giọt máu đó của em cho anh? Tôi rất bối rối trong tình huống khó xử đó…Vậy thì tôi giải quyết như thế nào ý muốn của người đã khuất[8/309]. Như vậy, qua hình thức trần thuật này, thường là những nhân vật hướng nội, có đời sống nội tâm phong phú, có quá trình diễn biến tâm lí phức tạp. Người trần thuật cũng là người tham gia vào câu chuyện và nhiều khi in đậm dấu ấn của chính tác giả với những trạng thái tâm hồn, cảm xúc hoặc cuộc đời, số phận riêng không phẳng lặng. ở dạng thứ hai trong cách trần thuật từ ngôi thứ nhất thường là các nhân vật được tác giả trao cho chức năng trần thuật. Đó là Quỳ (Người đà bà trên chuyến tàu tốc hành), là Miên (Có một đêm như thế) là Ngân (Những bông bần li)…Trao cho nhân vật nhiệm vụ trần thuật hoặc người kể truyện đứng đằng sau nhân vật, nhà văn không tham gia vào quá trình diễn biến câu chuyện mà để cho các nhân vật tự kể lại cuộc đời, số phận của mình. Cách trần thuật này giúp cho nhà văn có thể soi vào phần khuất lấp trong ý nghĩ của nhân vật vì người trần thuật vừa là nhân chứng vừa là nhân vật chính của câu chuyện. Với cách trần thuật từ ngôi thứ ba, chủ thể trần thuật là người biết hết mọi người, mọi việc và giữ vai trò duy nhất trong miêu tả, kể chuyện, dẫn chuyện. Trong truyện ngắn giai đoạn trước 1975, điểm nhìn trần thuật từ ngôi thứ ba thường tạo ra khoảng cách giữa người kể chuyện và đối tượng kể. Thời kỳ sau 1975, các nhà văn thường trần thuật từ ngôi thứ ba nhưng có sự hoà nhập song trùng chủ thể khiến cho khoảng cách giữa nhà văn và nhân vật được thu hẹp dần. Từ điểm nhìn bên ngoài để khẳng định cho một tư tưởng có sẵn, điểm nhìn trần thuật dịch chuyển vào bên trong ở lối trần thuật này, tác giả không chỉ kể mà còn đi sâu miêu tả tâm trạng bên trong nhân vật trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 107 những lời độc thoại, những hồi tưởng, nhận thức, suy tư, chiêm nghiệm. Những truyện ngắn về đề tài thế sự của Nguyễn Minh Châu thường được trần thuật từ điểm nhìn này (Đứa ăn cắp, Mẹ con chị Hằng, Hương và Phai, Lũ trẻ ở dãy K…) Trần thuật theo cách này, lúc đầu nhà văn trọn một điểm nhìn tương đối khách quan bên ngoài sau đó di chuyển điểm nhìn vào bên trong nhân vật. ở đó cái nhìn như xuyên qua nội tâm nhân vật trong một tính chất hoà nhập đậm nét đến mức tạo cho người đọc có cảm giác tác giả đã hoá thân vào nhân vật của mình, nhìn thế giới theo con mắt của nhân vật thâm nhập vào suy nghĩ và ấn tượng của nhân vật. Truyện Sống mãi trong cây xanh của ông tiêu biểu cho cách trần thuật này. Lúc đầu, khi miêu tả công việc của bác Thông tác giả tỏ ra khách quan như người đứng ngoài chứng kiến vừa miêu tả, vừa kể lại. Nhưng khi kể đến việc chặt cây sấu, người kể chuyện như nhập hẳn vào nội tâm nhân vật, sống trong những tâm trạng đau đớn xót xa như sắp phải đứng để cho người ta cưa tay cưa chân mình. Sự hoà nhập, thậm chí hoá thân đó đã giúp nhà văn đi sâu khám phá thế giới nội tâm phong phú, phức tạp, những diễn biến tâm lí tinh vi của nhân vật trong mối quan hệ với thế giới đa dạng, đa chiều . Truyện ngắn giai đoạn chiến tranh thường có một giọng, một điểm nhìn trần thuật. Nhưng trong các truyện ngắn sau 1975, xu hướng chung là có sự phối hợp các điểm nhìn trần thuật. Có điểm nhìn người dẫn truyện, điểm nhìn nhân vật, điểm nhìn bên trong, bên ngoài, điểm nhìn không gian thời gian, điểm nhìn đánh giá tư tưởng cảm xúc ...Tác giả để cho các điểm nhìn này đan cài vào nhau vì thế nhân vật được soi chiếu từ nhiều góc độ, được khắc hoạ toàn vẹn hơn về chân dung, tính cách, số phận để từ đó khái quát lên những vấn đề có tính triết lí. Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) là một trong những truyện ngắn tiêu biểu cho việc phối hợp các điểm nhìn. Số phận đầy bi kịch của người đàn bà làng chài được Nguyễn Minh Châu soi chiếu từ nhiều điểm nhìn khác nhau của các nhân vật. Mỗi nhân vật một cách nhìn. Với cái nhìn của trẻ con vô tư, yêu ghét rạch ròi thì thái độ của thằng Phác là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 108 giận giữ nhảy xổ vào người bố để chống trả lại những trận đòn bảo vệ mẹ nó. Còn chị nó đã đủ lớn khôn hơn để ngăn giữ nó lại. Vị chánh án thì một mực đưa ra giải pháp li hôn và cho đó là cách giải quyết duy nhất để giải thoát cho người đàn bà kia khỏi sự vũ phu của người chồng. Nhà nhiếp ảnh thì vô cùng phẫn nộ trước cảnh tượng hết sức vô lí. Nhưng người đàn bà, nạn nhân của tấn bi kịch, lại khiến người khác giật mình: lòng các chú tốt nhưng các chú đâu có phải người là làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc[11/343]. Một người đàn bà với lũ trẻ đâu có sống dễ dàng gì giữa mênh mông sông nước nếu thiếu đi bàn tay chèo chống của người đàn ông. Người đàn bà ấy không sống cho mình mà sống vì những đứa con kia. Với sự đa dạng về điểm nhìn như thế, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là sự phát hiện ra những vấn đề nhức nhối của đời sống con người, buộc người đọc phải trăn trở trong những câu hỏi không dễ tìm lời giải đáp . Như vậy sự đa dạng và sự chuyển dịch liên tục các điểm nhìn trần thuật đã tạo ra cho các tác giả nhiều cách thức khác nhau khi tiếp cận hiện thực và thể hiện tư tưởng nghệ thuật của mình. Đồng thời sự phong phú về điểm nhìn cũng là điều kiện quan trọng để hình thành giọng điệu . 3.2. Sự đa thanh trong giọng điệu trần thuật Từ giọng điệu chủ âm là ngợi ca trong văn xuôi giai đoạn chiến tranh, văn xuôi sau năm 1975 có sự đa dạng, phong phú hơn trong giọng điệu trần thuật. Mỗi nhà văn bộc lộ cá tính sáng tạo của mình ở một giọng điệu riêng khó trộn lẫn. Họ đã chú ý hơn trong việc miêu tả tâm lí con người, vì thế nhân vật thường bộc lộ những nét tính cách, phẩm chất qua sự chiêm ngưỡng, suy nghĩ đấu tranh trong chính bản thân mình. Điều này được thể hiện qua nhiều truỵên ngắn của Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Vũ Tú Nam, Xuân Thiều, Dương Thu Hương… Trong văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng từ sau năm 1975, người đọc nhận thấy sự đan xen của nhiều giọng điệu. Ngay ở một tác giả một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 109 tác phẩm tính chất đa dạng cũng ngày càng bộc lộ rõ. Nguyễn Minh Châu là trường hợp tiêu biểu về sự đa dạng trong giọng điệu trần thuật. Có thể coi Bức tranh là truyện ngắn thể hiện những thay đổi sớm nhất và rõ nhất về giọng điệu trong các sáng tác sau chiến tranh của ông. ở truyện ngắn này, giọng điệu tác giả và giọng điệu của nhân vật nhiều lúc khó mà phân biệt. Sự hoà quyện giọng điệu ấy vang lên trong cuộc đấu tranh nội tâm của nhân vật qua đó ghi lại những diễn biến tâm trạng một cách chân thực. Cuộc đối thoại khi thì mang giọng điệu mỉa mai giễu cợt thói đạo đức giả của chính nhân vật: A ha! Vì mục đích phục vụ số đông của người nghệ sĩ cho nên anh quên tôi đi hả…Có quyền lừa dối hả? Thôi, anh bước khỏi mắt tôi đi[11/127]; khi thì mang giọng tư biện: Tôi là một nghệ sĩ chứ có phải đâu là một anh thợ vẽ truyền thần…Anh chỉ là một cá nhân, với cái chuyện riêng của anh, anh hãy chịu khó để cho tôi quên đi, để phục vụ cho cái đích lớn lao hơn[11/127]; khi lại đanh thép kết tội mình là đồ dối trá. Những giọng này vừa đan xen, vừa luân chuyển theo những biến đổi tâm trạng của nhân vật. Nhưng nổi bật và xuyên suốt trong tác phẩm vẫn là một giọng điệu thâm trầm của một tâm hồn đang diễn ra những biến cố dữ dội. Tính chất đa giọng điệu ấy tiếp tục được sử dụng triệt để hơn trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành. ở thiên truyện này luôn vang lên nhiều tiếng nói khác nhau, nhiều cuộc đối thoại đan cài, xen kẽ vào nhau. Tiêu biểu là những đối thoại nội tâm của Quỳ trong những giằng xé trăn trở trong cơn mộng du để tìm đến trong chân lí của cuộc sống. Đó còn là cuộc đối thoại giữa nhân vật người dẫn chuyện với Quỳ, giữa Quỳ và anh ấy, rồi giữa Quỳ với vong linh những người lính đã từng yêu thương cô. Chính tính chất đa giọng điệu đã tạo ra sức gợi mở và tính tranh luận để kiếm tìm chân lí. Đó cũng chính là một trong những biểu hiện của xu hướng dân chủ hoá trong văn xuôi của Nguyễn Minh Châu đầu những năm 80. Khi đi vào cuộc sống của những con người đời thường, tuỳ theo từng kiểu người mà giọng điệu của nhà văn biến đổi linh hoạt cho phù hợp. ở Sắm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 110 vai, miêu tả sự lố bịch kệch cỡm trong hành động của nhà văn T, Nguyễn Minh Châu chủ yếu sử dụng giọng điệu hài hước. ở Mẹ con chị Hằng, Đứa ăn cắp là giọng nghiêm nghị, xót xa khi nói đến những sự vô tâm của con người trong cuộc sống. Còn ở Bức tranh và Dấu vết nghề nghiệp lại là giọng điệu trầm tĩnh, day dứt đầy triết lí. Với nhân vật Khúng trong Khách ở quê ra, nhà văn sử dụng giọng điệu suồng sã, đời thường . Sự thay đổi từ một giọng sang đa giọng trong truyện ngắn sau 75 có căn nguyên từ những đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người. Cuộc sống trong chiến tranh ồn ào náo động nhưng có cái đơn giản của nó còn cuộc sống trong hoà bình lại chất chứa nhiều sóng ngầm gió xoáy (Nguyễn Khải) bên trong. Đứng trước những vấn đề xã hội nhân sinh mới mẻ đòi hỏi nhà văn phải có những cách tiếp cận mới, những cách giải quyết mới khác với thời chiến. Trở về với đời thường để dẫn người đọc thâm nhập vào cái bên trong đầy bí ẩn, chứa đựng cái bản ngã của mỗi người trong những mặt đối lập, phức hợp trong tính cách của nó, các tác giả hầu hết đã thay đổi giọng điệu trần thuật và có bước tiến mới trong tổ chức giọng điệu trần thuật. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 111 PHẦN KẾT LUẬN 1. Nằm trong sự chuyển đổi nhiều mặt của xã hội sau khi chiến tranh kết thúc, nền văn học Việt Nam cũng có sự vận động, biến đổi để đáp ứng nhu cầu chung của con người thời đại. Truyện ngắn là thể loại đáp ứng nhanh và linh hoạt hơn các thể loại khác trong giai đoạn chuyển tiếp của nền văn học từ thời chiến sang thời bình. Sự vận động và phát triển của truyện ngắn Việt Nam trong giai đoạn 1975 - 1985 là một hiện tượng mang tính tất yếu. Một mặt, do những thay đổi trong đời sống xã hội với phức tạp trong cuộc sống đời thường và sự đa dạng trong tính cách con người là những nguyên nhân trực tiếp thôi thúc quá trình đổi mới của thể loại. Truyện ngắn đã bứt phá những quy phạm thể loại, những hạn hẹp trong phạm vi phản ánh hiện thực để đáp ứng kịp thời và toàn vẹn những vấn đề của thực tại sau chiến tranh. Mặt khác, từ sau năm 1975 (nhất là từ giữa những năm 80 trở đi) với chủ trương dân chủ hóa văn học và sự mở rộng giao lưu với văn học các nước trong khu vực và trên thế giới đã dẫn đến những biến đổi quan trọng, sâu sắc nền văn học Việt Nam, trong đó có truyện ngắn. Sự cách tân thể loại này bắt đầu từ quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người đến phương thức thể hiện, từ chức năng của văn học đến tư cách người nghệ sĩ, từ phương diện tư tưởng đến phương diện thi pháp. Tuy nhiên, những sự thay đổi đó mới chỉ là những dấu hiệu tiềm ẩn, chưa định hình rõ ràng, với những thể nghiệm, những bước dò tìm để chuẩn bị cho quá trình đổi mới sẽ diễn ra mạnh mẽ ở giai đoạn sau. Trong hướng đi mới này, nhiều truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn… như là khúc dạo đầu cho truyện ngắn nói riêng và cũng là cho cả một giai đoạn văn học mới. Tiếp sau họ xuất hiện một lớp nhà văn trẻ như Lê Minh Khuê, Phạm Thị Minh Thư, Hồ Anh Thái… Họ sẽ là lực lượng chính đưa văn xuôi Việt Nam đổi mới sau 1986 chính thức lên đường. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 112 Tất cả những dấu hiệu đổi mới trong các truyện ngắn mà luận văn khảo sát có thể xem như là những mũi khoan thử nghiệm của một hướng tìm tòi, đổi mới ban đầu của thể loại nằm trong quy luật vận động, phát triển không ngừng của nền văn học Việt Nam hiện đại trong sự giao lưu và tiếp xúc với văn học thế giới. Các sáng tác ấy chưa hẳn đã đạt đến chiều sâu của nhận thức cũng như sự kết tinh về nghệ thuật nhưng bước đầu có tác động khá mạnh mẽ đến tư duy sáng tạo của các nhà văn cũng như tâm lí tiếp nhận của bạn đọc. 2. Một trong những phương diện có nhiều dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng ở giai đoạn sau chiến tranh là phương diện đề tài. Đề tài chiến tranh tiếp tục là mảnh đất giàu tiềm năng cho các cây bút khai vỡ. Tuy nhiên khi đi vào đề tài này thấy sự trăn trở, tìm tòi những cách tiếp cận mới. Phần lớn các sáng tác về đề tài này chỉ lấy bối cảnh chiến tranh làm cái nền để bộc lộ những phẩm chất anh dũng, nhân văn của con người. Các tác giả đã cố gắng tạo ra sự hài hòa khi thể hiện sự khốc liệt của cuộc chiến tranh với tinh thần nhân bản của con người và tinh thần chiến đấu của dân tộc. Mặt khác, sự chú ý của các cây bút nghiêng về khai thác những hậu quả của chiến tranh, những sự lầm lạc phản bội, những cái giá phải trả cho chiến thắng. ở đó, con người cá nhân được thể hiện một cách sinh động, toàn vẹn, sâu sắc. Nhờ vậy, nhiều truyện ngắn giai đoạn này đã bộc lộ những vấn đề có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, góp phần làm cân bằng trở lại cách nhìn nhận con người trong văn xuôi thời kì chiến tranh. Cùng với đề tài chiến tranh là sự xuất hiện của đề tài thế sự, đời tư. Từ sau năm 1980 trở đi đây là đề tài giữ vai trò trung tâm của nền văn học. Truyện ngắn sau chiến tranh đã tạo được những hiệu quả cao khi đi vào một cảnh đời, một tâm trạng trong những tình huống tiêu biểu của cuộc sống thường nhật. Với ý thức nhạy bén và sự gắn bó với cuộc sống, các nhà văn đã xới lên những vấn đề của cuộc sống đương đại để vừa rung một hồi chuông cảnh tỉnh vừa khẳng định niềm tin vào con người. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 113 Trong giai đoạn chiến tranh, nền văn học gắn với cảm húng sử thi, với âm điệu ngợi ca và niềm lạc quan cách mạng. Sau khi chiến tranh kết thúc thấy rõ sự chuyển dịch từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự đời tư. Trong những truyện ngắn giai đoạn 1975-1985 không chỉ có một giọng là ngợi ca mà là sự đan cài của nhiều nguồn cảm hứng: cảm hứng đạo đức, cảm hứng bi kịch, cảm hứng phê phán… Nhưng tất cả đều mang cảm hứng nhân văn về số phận con người cá nhân. 3. Nhìn chung, truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 ngày càng xa đần lối kể lể dài dòng với những biến cố dữ dội mà ngắn gọn hơn, cô đúc hơn trong phương thức biểu hiện. Vai trò của cốt truyện chặt chẽ gay cấn có xu hướng nhường chỗ cho những cốt truyện tâm lí. Truyện ngắn có sức khái quát cao hơn vì đi vào chiều sâu thế giới bên trong tâm hồn con người để bộc lộ quá trình tự nhận thức. Đó là biểu hiện cho sự nhận thức về con người đã đạt đến một tư duy mới, gần với bản chất con người hơn. Đó cũng là kết quả của sự phối hợp của nhiều điểm nhìn trần thuật. Điểm nhìn người dẫn truyện, điểm nhìn của các nhân vật thường đan cài vào nhau làm nổi bật những chân dung, tính cách, số phận nhân vật trong chiều sâu triết lí. Cũng chính vì thế kiểu nhân vật tự nhận thức, nhân vật tính cách, số phận được nhiều nhà văn chú ý lựa chọn. Truyện ngắn cũng đang mở ra những con đường giao tiếp cởi mở hơn với độc giả. Nhà văn không phải là người độc tôn chân lí phán truyền mà tăng cường yếu tố đối thoại với người đọc. Điều đó có thể nhận thấy qua những cách kết thúc mở, những sự phức hợp của giọng điệu. Mười năm truyện ngắn 1975- 1985 là thời gian chuẩn bị tích cực cho sự định hình những nét mới, góp phần quan trọng làm nên một dòng chảy liền mạch cho văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 114 Tài liệu tham khảo 1. Tạ Duy Anh (2002), Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 2. Nguyễn Thị Vân Anh (1985), Hoa xương rồng (Tập truyện ngắn), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 3. Vũ Tuấn Anh (1995), “Đổi mới văn học vì sự phát triển”, Tạp chí Văn học, (4), trang 14-19. 4. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại- Nhận thức và thẩm định, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 5. Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới. Hà Nội. 6. Lại Nguyên Ân (1986), “Thử nhìn lại văn xuôi 10 năm qua”, Tạp chí Văn học, (1). 7. Nguyễn Thị Bình (1996), Những đổi mới văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 - Khảo sát trên nét lớn, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn. Đại học Sư phạm I, Hà Nội. 8. Bốn mươi lăm truyện ngắn 1975-1985 (1985), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 9. Nguyễn Minh Châu (1983), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (Tập tuyện ngắn), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 10. Nguyễn Minh Châu (1985), Bến quê (Tập truyện ngắn), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 11. Nguyễn Minh Châu (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội. 12. Có một đêm như thế (1981) (Tập truyện ngắn được giải thưởng tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1981), Nxb Văn nghệ quân đội, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 115 13. Cơ sở lí luận văn học (1985), Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, (2). 14. Trần Cương (1986), “Về một vài hướng tiếp cận với đề tài chiến tranh”, Tạp chí Văn học, (3). 15. Phan Cự Đệ (1986), “Mấy vấn đề lí luận của văn học hiện nay”, Tạp chí văn học, (5). 16. Phan Cự Đệ (Chủ biên) (2005), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 17. Phan Cự Đệ (Chủ biên) (2005), Truyện ngắn Việt Nam - Lịch sử - Thi pháp - Chân dung, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 18. Trần Thanh Địch (1985), Tìm hiểu truyện ngắn, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội. 19. Trung Trung Đỉnh (1986), Đêm nguyệt thực (Tập truyện ngắn), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 20. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2000), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. (Tái bản lần thứ 6) 21. Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình (1995), Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi từ sau cách mạng tháng tám đến nay, Hà Nội. 22. Bùi Hiển (1981), Nằm vạ (Tập truyện ngắn), Nxb văn học, Hà Nội. 23. Bùi Hiển (1985), Tâm tưởng (Tập truyện ngắn), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 24. Dương Thu Hương (1981), Những bông bần li (Tập truyện ngắn), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 25. Lê Thị Hường (1995), Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt nam giai đoạn 1975 -1995, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 116 26. Nguyễn Văn Kha (2006), Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt nam 1975- 2000, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. 27. Nguyễn Khải(1982), Gặp gỡ cuối năm, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 28. Phùng Ngọc Kiếm (2002), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945- 1975, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 29. Nguyễn Kiên (1986), Đáy nước (Tập truyện), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 30. Duy Khán (1985), Tuổi thơ im lặng (Tập truyện), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 31. Ma Văn kháng (1986), Ngày đẹp trời (Tập truyện),Nxb Lao động, Hà Nội. 32. Ma Văn Kháng(1985), Mùa lá rụng trong vườn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 33. Lê Minh Khuê (1981), Đoạn kết (Tập truyện), Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 34. Lê Minh Khuê (1986), Một chiều xa thành phố (Tập truyện), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 35. Tôn Phương Lan (2002), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. (Tái bản lần thứ nhất) 36. Tôn Phương Lan (2005), Văn chương và cảm nhận, Nxb Khoa h?c xã h?i, Hà Nội. 37. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới (Tiểu luận và phê bình), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 38. Phong Lê (1983), “Văn học những năm 80”, Tạp chí Văn học, (3). 39. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 40. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (Đồng chủ biên) (2006). Văn học Việt Nam sau 1975- Những vấn đề nghiên cứu và giảng dậy. Nxb Giáo dục, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 117 41. Thái Bá Lợi (1982), Vùng chân hòn tàu (Tập truyện), Nxb văn học, Hà Nội. 42. Mấy vấn đề văn hoá và phát triển ở Việt nam hiện nay, Bộ Văn hoá thông tin- Thể thao, Hà Nội. 43. Một thời đại văn học mới (Tiểu luận) (1987), Nxb Văn học, Hà Nội. 44. Mười bốn truyện ngắn (Nguyễn Khải, Phạm Hoa, Nhật Tuấn) (1982), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 45. Mười bảy truyện ngắn thành phố Hồ Chí Minh (1982), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 46. Năm mươi năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám (1996), Nxb Đại học quốc gia ,Hà Nội. 47. Bảo Ninh (1987), Trại bảy chú lùn (Tập truyện), Nxb Hà Nội. 48. Vương Trí Nhàn (1980), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 49. Trần Thị Mai Nhi (1994), Văn học hiện đại - Văn học Việt Nam - giao lưu gặp gỡ, Nxb Văn học, Hà Nội. 50. Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki (1998), Nxb Giáo dục, Hà Nội.(Tái bản lần 1) 51. Nguyên Ngọc, “Văn xuôi sau năm 1975. Thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển”, Tạp chí Văn học, (4). 52. Phạm Xuân Nguyên (1994), “Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay”, Tạp chí Văn học, (2), trang 26-31. 53. Huỳnh Như Phương (1991), “Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ hóa nền văn học”, Tạp chí Văn học, (4), trang 14-17. 54. Nguyễn Phương Tân, Nguyễn Thị Hạnh (tuyển chọn) (2002), Truyện ngắn xuất sắc về chiến tranh, Nxb hội nhà văn, Hà Nội. 55. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 118 56. Bùi Việt Thắng, Truyện ngắn - Những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 57. Nguyễn Quang Thân (1994), 15 truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội . 58. Thời gian (Tập truyện ngắn được giải thưởng tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1983 - 1984) (1985), Nxb Tổng cục chính trị, Hà Nội. 59. Thời gian và trang sách (Phê bình tiểu luận) (1987), Nxb Văn học, Hà Nội. 60. Xuân Thiều (1985), Gió từ miền cát (tập truyện), Nxb tác phẩm mới, Hà Nội. 61. Tinh tuyển Văn học Việt Nam (Giai đoạn 1945-2000) (2004), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, (8). 62. Bích Thu (1995), “Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau năm 1975 qua hệ thống môtip chủ đề”, Tạp chí Văn học, (4). 63. Bích Thu (1996), “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975”, Tạp chí Văn học, (9), trang 32-36. 64. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu - Tác phẩm và lời bình (2007), Nxb Văn học, Hà Nội. 65. Truyện ngắn Việt nam 1945-1985 (1985), Nxb Văn học, Hà Nội. 66. Truyện ngắn hay Việt Nam thời kì đổi mới (2000), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 67. Truyện ngắn Việt nam thế kỷ XX (2002), Nxb Kim đồng, Hà Nội, (3). 68. Trang giấy trước đèn (Phê bình - tiểu luận của Nguyễn Minh Châu) (1994), Nxb khoa học xã hội, Hà Nội. 69. Nguyễn Mạnh Tuấn (1985), Hành khúc ngày và đêm (Tập truyện ngắn), Nxb Lao động, Hà Nội. 70. Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải thưởng Hội nhà văn 1951- 1997. Nxb Hội nhà văn. Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 119 71. Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam chọn lọc (Thế kỷ 19-20) (1996), Nxb Văn học, Hà nội. 72. Lê Ngọc Trà. “Vấn đề con người trong văn học” in trong Lí luận văn học, (1990), Nxb Trẻ Tp. Hồ Chí Minh. 73. Lê Ngọc Trà. “Vấn đề văn học phản ánh hiện thực” in trong Lí luận văn học, Nxb Trẻ Tp. Hồ Chí Minh. 74. Võ Văn Trực (1993), Chuyện làng ngày ấy, Nxb Lao động, Hà Nội. 75. Từ điển thuật ngữ văn học (1992), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 76. Trần Đình Sử (1986), “Mấy ghi nhận về sự đổi mới tư duy và hình tượng con người trong văn học ta thập kỷ qua”, Tạp chí Văn học, (6). 77. Trần Đình Sử (1991), “Khái niệm quan niệm nghệ thuật trong nghiên cứu văn học Xô Viết”, Tạp chí Văn học, (1). 78. Trần Đình Sử (1999), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 79. Trần Đình Sử. “Khái niệm quan niệm nghệ thuật trong văn học Xô Viết” (1991), Tạp chí Văn học , (1). 80. Văn học Việt Nam 1975-1985-Tác phẩm và dư luận (1997), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 81. Việt Nam nửa thế kỷ văn học (Kỷ yếu hội thảo 26/9/1995) (1997), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 82. Văn học trong giai đoạn cách mạng mới (1984), Nxb Tác phẩm mới - Hội nhà văn, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA9553.pdf
Tài liệu liên quan