BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Phan Phương Uyên
TRUYỆN NGẮN TRANG THẾ HY
DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA
Chuyên ngành : Lý luận văn học
Mã số : 60 22 32
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. TS. HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, người viết được sự dạy dỗ, hướng
dẫn và giúp đỡ rất tận tình của Quý Thầy Cô Khoa Ngữ Văn,
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Đặc biệt
126 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2244 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Truyện ngắn Trang Thế Hy dưới góc nhìn văn hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, luận
văn này được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS
Huỳnh Như Phương, người đã nhiệt tình chỉ bảo, giới thiệu nhiều
tư liệu quý giá để người viết tham khảo, người đã góp nhiều ý
kiến bổ ích cho người viết trong suốt quá trình làm việc.
Nay người viết trước hết xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đối với tất
cả Quý Thầy Cô, đặc biệt là thầy Huỳnh Như Phương.
Người viết xin trân trọng cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của Cán bộ
Phòng KHCN& SĐH, Cán bộ quản lý Thư viện trường Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho người viết hoàn thành luận văn đúng quy định.
Luận văn này chắn chắn sẽ còn nhiều hạn chế, rất mong nhận
được sự lượng thứ, những ý kiến góp ý chân tình của Quý Thầy
Cô và bạn đọc.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 4 - 2011
MỤC LỤC
3TLỜI CÁM ƠN3T .............................................................................................................................................. 2
3TMỤC LỤC 3T .................................................................................................................................................... 3
3TMỞ ĐẦU3T...................................................................................................................................................... 5
3T1. Lí do chọn đề tài3T ................................................................................................................................... 5
3T2. Lịch sử vấn đề3T ....................................................................................................................................... 7
3T . Mục đích, phạm vi nghiên cứu3T ............................................................................................................ 13
3T4. Phương pháp nghiên cứu3T ..................................................................................................................... 14
3T5. Đóng góp của luận văn3T ........................................................................................................................ 15
3T6. Cấu trúc luận văn3T ................................................................................................................................ 15
3TChương 1: TRANG THẾ HY VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN VĂN HÓA HỌC TRONG NGHIÊN CỨU
VĂN HỌC3T .................................................................................................................................................. 17
3T1.1 Giới thiệu đôi nét về nhà văn Trang Thế Hy3T ...................................................................................... 17
3T1.1.1 Tiểu sử3T ....................................................................................................................................... 17
3T1.1.2 Quá trình sáng tác3T....................................................................................................................... 19
3T1.1.2.1 Các giai đoạn sáng tác3T ......................................................................................................... 20
3T1.1.2.2 Tác phẩm chính3T ................................................................................................................... 22
3T1.1.2.3 Một số giải thưởng đã đạt được3T............................................................................................ 23
3T1.1.3 Quan niệm nghệ thuật3T ................................................................................................................. 23
3T1.2 Phương pháp tiếp cận văn hóa học trong nghiên cứu văn học3T ............................................................ 27
3TChương 2: VĂN HÓA NAM BỘ TRONG TRUYỆN NGẮN TRANG THẾ HY3T ........................................ 36
3T2.1. Văn hóa ứng xử3T ............................................................................................................................... 36
3T2.1.1 Với môi trường tự nhiên3T ............................................................................................................. 37
3T2.1.2 Với môi trường xã hội3T ................................................................................................................ 43
3T2.2. Tiếp biến văn hóa3T ............................................................................................................................. 53
3T2.2.1 Yếu tố ổn định và kế thừa3T ........................................................................................................... 56
3T2.2.2 Yếu tố tiếp nhận và biến đổi3T ....................................................................................................... 61
3TChương 3: CON NGƯỜI NAM BỘ TRONG TRUYỆN NGẮN TRANG THẾ HY3T .................................... 70
3T .1 Một số đặc điểm của con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trang Thế Hy3T ........................................ 70
3T .1.1 Con người xả thân vì nghĩa, tranh đấu vì dân tộc3T ........................................................................ 71
3T .1.2 Con người nhân ái, giàu tự trọng, yêu cái đẹp3T ............................................................................. 75
3T .2 Những đặc điểm nghệ thuật góp phần biểu hiện văn hóa và con người Nam Bộ trong truyện ngắn
Trang Thế Hy3T ......................................................................................................................................... 87
3T .2.1 Nghệ thuật trần thuật với việc thể hiện văn hóa và con người Nam Bộ 3T ....................................... 88
3T .2.1.1 Cốt truyện đơn tuyến3T ........................................................................................................... 88
3T .2.1.2 Điểm nhìn trần thuật từ ngôi thứ nhất 3T .................................................................................. 90
3T .2.1.3. Giọng điệu trầm tĩnh, triết lí3T ................................................................................................ 92
3T .2.1.4. Lối viết ẩn dụ3T ..................................................................................................................... 97
3T .2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật với việc thể hiện văn hoá và con người Nam Bộ 3T ....................... 102
3T .2.2.1 Nghệ thuật xây dựng tính cách3T ........................................................................................... 102
3T .2.2.2 Nghệ thuật khắc hoạ tâm lí, thể hiện nội tâm3T...................................................................... 106
3T .2.3 Nghệ thuật sử dụng phương ngữ với việc thể hiện con người Nam Bộ 3T ...................................... 107
3TKẾT LUẬN3T .............................................................................................................................................. 113
3T ÀI LIỆU THAM KHẢO3T......................................................................................................................... 116
3TPHỤ LỤC3T ................................................................................................................................................. 123
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Có những nhà văn mà khi nhắc tới tên họ, người đọc sẽ nghĩ ngay đến những vùng
đất, những con người của một miền Tổ quốc. Trang Thế Hy là một nhà văn như thế, nhà văn
của Nam Bộ. Trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, Trang Thế Hy thuộc số những nhà
văn viết không nhiều. Nhưng tác phẩm của ông đã vượt qua được những thử thách của thời
gian, sự sàng lọc của công chúng và để lại ấn tượng bằng một vẻ đẹp riêng. Đó là vẻ đẹp của
một ngòi bút lặng lẽ, điềm tĩnh vô cùng, một ngòi bút viết rất tỉ mĩ và chắt lọc, thận trọng
chứ không cao giọng. Đọc tác phẩm của ông, ta có thể cảm nhận được một sự gắn bó tha
thiết, cao hơn là một sự trân trọng, niềm kính yêu của ông đối với vùng đất và con người
Nam Bộ đẹp đẽ, ân tình. Chính vốn sống sâu sắc, sự chân thành, cái nhìn nhân hậu của Trang
Thế Hy đối với con người, làng quê Nam Bộ đã tinh kết thành tác phẩm và tạo nên cái duyên
cho truyện ngắn Trang Thế Hy.
Vùng đất Nam Bộ đã cung cấp cho văn học Việt Nam hiện đại nguồn đề tài hấp dẫn.
Các nhà văn Nam Bộ thuộc nhiều thế hệ đều chú ý khai thác chất liệu sáng tác từ đất phương
Nam, từ Hồ Biểu Chánh, Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Đoàn Giỏi, Nguyễn Quang
Sáng, Anh Đức đến Nguyễn Ngọc Tư….Không chỉ các nhà văn sinh ra và lớn lên ở Nam Bộ,
các nhà văn từ những vùng miền khác cũng đều để lại những trang văn đặc sắc về đất và
người Nam Bộ như Trần Hiếu Minh (Nguyễn Văn Bổng), Nguyễn Thi,… Tác phẩm của họ
chính là “kho tư liệu sống” về con người, văn hóa, địa lý, lịch sử của vùng đất phương Nam.
Viết về mảnh đất và con người Nam Bộ, Trang Thế Hy đã chọn cho mình một lối rẽ riêng,
tạo nên một dấu ấn riêng, sức hấp dẫn riêng như lời nhận xét của Phạm Quang Trung trong
bài viết có tựa đề Bài học sáng tạo từ văn nghiệp của Trang Thế Hy :“ (...) so với nhiều
nhà văn Nam Bộ, ông tách riêng ra một cõi, vừa nghiêm cẩn vừa sâu lắng, vừa Nam Bộ vừa
Việt Nam, thậm chí có những nét gặp gỡ nhân loại bao la ở tầng thẳm sâu nhất” [41, tr.15].
Lúc Trang Thế Hy bắt đầu nặng nợ với văn chương cũng là lúc mảnh đất Nam Bộ
thân yêu đang rỉ máu dưới gót giày đinh của thế lực xâm lược và bán nước, cho nên cũng
như bao con người Việt Nam chân chính khác, văn chương Trang Thế Hy biểu lộ thái độ
bênh vực cho quyền sống của con người, chống lại sự bách hại, chà đạp con người. Dù là
viết truyện ngắn, tiểu thuyết hay những bài thơ tự do, những bài thơ dịch, Trang Thế Hy vẫn
bằng một cách riêng, rất thâm trầm và có phần lặng lẽ, luôn trăn trở, gìn giữ, đi tìm và góp
nhặt những vẻ đẹp bị khuất lấp của cõi người dẫu có trải qua bao thăng trầm, bất hạnh, khổ
đau. Dường như trong cuộc hành trình tìm kiếm và khám phá những cái đẹp ẩn giấu, ông
luôn giữ được sự điềm tĩnh, không bị đánh lừa bởi vẻ hào nhoáng bên ngoài, không bị
choáng ngợp bởi những vẻ đẹp rực rỡ mà ai cũng có thể nhìn thấy. Trang Thế Hy đã phát
biểu cái đẹp chính ở chỗ mà không ai ngờ tới, phát hiện cái đẹp kín đáo và che lấp của sự
vật, cho người khác một bài học trông nhìn và thưởng thức. Và cái đọng lại trên mỗi trang
viết của Trang Thế Hy là một niềm tin chắc chắn và mãnh liệt vào việc “Cái đẹp sẽ cứu rỗi
thế giới”, cái thiện sẽ phục sinh con người. Ông viết văn như là cách để níu giữ cái phần thủy
chung với tình người, thủy chung với niềm tin đạo lý thuộc về phía những người cùng khổ.
Sống và viết cho niềm tin ấy, ông đã dồn tất cả vốn sống, vốn văn hoá đặt vào những trang
văn mang đậm màu sắc Nam Bộ.
Thế nhưng giá trị văn chương Trang Thế Hy trong một thời gian dài vì những lí do,
những điều kiện nhất định của lịch sử, địa lí… chưa được nhìn nhận đúng với giá trị của nó.
Và những giá trị như thế rất cần được bổ khuyết trong bức tranh văn học nước nhà với những
hướng nghiên cứu khác nhau.
Bên cạnh đó, văn hóa đang là vấn đề được toàn nhân loại quan tâm. Văn hóa được
hiểu là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo, tích lũy, lưu truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác trong hoạt động sản xuất, nếp suy nghĩ, cách sống, và sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Ở chỗ nào, ở đâu, người ta cũng bàn đến
văn hóa. Hơn lúc nào hết, các quốc gia đang lo giữ cho mình cái bản sắc văn hóa dân tộc, nó
thấm sâu vào cội rễ dân tộc, nó là tinh hoa sâu lắng, ẩn hiện trong nếp sống đời thường và cả
nơi tâm linh sâu thẳm của con người. Tất cả những giá trị ấy chúng ta có thể tìm thấy trong
nhiều mảng khác nhau của đời sống dân tộc, trong đó văn chương giữ vai trò quan trọng.
Nghiên cứu “Truyện ngắn Trang Thế Hy dưới góc nhìn văn hóa” là cách mà chúng tôi
chọn để tiếp cận một trong những giá trị văn chương được nhận ra khá muộn mằn như một
sự cố gắng ghi nhận, trân trọng với những tác giả có cuộc đời lao động nghệ thuật nghiêm
túc, có nhiều cống hiến đáng trân trọng. Đồng thời đây là dịp để chúng tôi tìm hiểu, áp dụng
phương pháp văn hoá học trong nghiên cứu văn học. Qua việc làm này, chúng tôi hi vọng có
thể góp một phần nhỏ bé vào việc xác lập các mối liên hệ giữa hiện tượng văn học Trang Thế
Hy các yếu tố văn hoá cụ thể của vùng đất Nam Bộ.
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu về truyện ngắn và những vấn đề liên quan đến truyện ngắn Trang Thế Hy,
chúng tôi nhận thấy đã có những bài viết trên các sách nghiên cứu văn học và các trang web.
Những ý kiến đánh giá từ những khía cạnh khác nhau nhưng nhìn chung thống nhất trong
việc khẳng định những đóng góp của Trang Thế Hy ở thể loại truyện ngắn. Chúng tôi xin
điểm qua những công trình, bài viết tiêu biểu nghiên cứu về tác giả Trang Thế Hy như sau:
Năm 1988, các tác giả công trình Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh đã ghi
nhận những đóng góp của Trang Thế Hy cho phong trào đấu tranh ở nội đô Sài Gòn giai
đoạn kháng chiến chống Mỹ với thể loại truyện ngắn lẫn thể loại thơ. Tuy nhiên, đây mới chỉ
là những nét phác thảo sơ lược, chủ yếu dừng lại ở việc giới thiệu và ghi công nhà văn trong
phong trào đấu tranh chung [27, tr.256].
Năm 1991, trong cuốn Địa chí Bến Tre của Nhà xuấtt bản Khoa học Xã hội, Trang
Thế Hy xuất hiện với tư cách một nhà văn của địa phương, được giới thiệu về quá trình sáng
tác, quá trình hoạt động cách mạng và tác phẩm tiêu biểu [29, tr.189].
Trong những năm gần đây, hiện tượng Trang Thế Hy nhận được sự quan tâm của giới
nghiên cứu phê bình ngày càng nhiều hơn, sâu sắc hơn. Có lẽ, khi người ta bình tĩnh hơn,
thận trọng hơn... thì cũng là lúc người ta dễ nhận ra những giá trị đích thực mà trong khi vội
vã chưa kịp nhận ra.
Trên báo Văn nghệ số ra ngày 01- 6 - 2002 có trích giới thiệu những ý kiến của các
thành viên tham dự tọa đàm về tập truyện ngắn Nợ nước mắt của Trang Thế Hy. Cuộc tọa
đàm có một số tham luận dài ngắn khác nhau về tập truyện .
Trong bài viết Phong cách Trang Thế Hy, nhà văn Lê Minh Khuê đã có nhận định
khá tinh tế về dấu ấn riêng của truyện ngắn Trang Thế Hy: “Ông là tác giả Nam Bộ,
văn chương Nam Bộ dường như một mình ông một phong cách. Ông không bình dân, không
nhiều sôi nổi. Ông hiện lên trong các trang viết với sự tinh tường, thấu hiểu và điềm tĩnh
trước cuộc sống, trước cảnh sắc. (...) Ông viết về tâm sự của những con người bé nhỏ mà
trong sạch. (...) Họ cũng là con người không giản đơn. Nhân vật trí thức - nghệ sĩ chiếm
phần lớn trong tác phẩm của ông. Nhiều nhân vật sống qua các thứ “mốc” giữa hôm nay và
hôm qua. Bao giờ tác giả cũng lựa cho họ cách sống thanh thản nhất.
(...) Truyện ngắn của ông không có sự thay đổi hình thức. Các truyện kể với phương
pháp như nhau - dường như ông luôn có cách bắt đầu câu chuyện bằng giọng nhẩn nha,
nhưng luôn báo hiệu ngay từ những dòng đầu rằng đây là câu chuyện thú vị. (...) Truyện của
ông không có tình huống phức tạp. Tình huống ẩn chứa trong cảm xúc và chữ nghĩa. Nhiều
câu chuyện khiến ta hồi hộp. Đó là cách viết khó. Cách viết của một người trọng nghề, trọng
chữ...” [72, tr.143-144].
Tương tự, Trịnh Đình Khôi cũng nhấn mạnh nét độc đáo trong phong cách Trang Thế
qua bài viết Truyện ngắn của Trang Thế Hy toát lên vẻ đẹp văn hóa. Tác giả cho rằng:
“Văn Trang Thế Hy điềm đạm (...). Trang Thế Hy không cố ý triết lý. Tính triết lý toát
lên từ nhân vật, từ ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật”.
“Trang Thế Hy là một nhà văn hóa viết văn. Trong ông có văn hóa Á Đông kết hợp
với những ý tưởng phương Tây hiện đại” [72, tr.149]
Trong Ít có tập truyện ngắn nào được viết kỹ lưỡng như thế này, Nguyễn Khắc
Trường đã nhận xét về đề tài chiến tranh, con người và cảnh sắc Nam Bộ trong truyện ngắn
Trang Thế Hy như sau:
“Văn của Trang Thế Hy không đọc nhanh được, không đọc vội được. Ông viết bình
tĩnh, ngẫm ngợi, và ta cũng phải bình tĩnh đọc. Mỗi truyện của ông là một gửi gắm, một nỗi
niềm. Ông nặng lòng với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nặng lòng với những người
những cảnh vùng sông nước quê hương Bến Tre và những nơi ông đã qua của đồng bằng
Nam Bộ. (...) Ông viết, những hồi ức chiến tranh và thực tại bây giờ đan dệt vào nhau...”
[72, tr.146].
Trần Huy Quang cũng thống nhất với nhận định của nhà văn Nguyễn Khắc Trường
qua bài viết Tôi học được nhiều ở Trang Thế Hy về nghề văn với nhận xét khá ngắn gọn:
“Văn Trang Thế Hy kỹ càng, đẹp, đầy tính triết lý, nên đọc chậm thì mới hiểu hết, mới
hưởng hết được cái hay” [72, tr.149]. Trần Đình Sử thể hiện ấn tượng sâu sắc của
mình đối với truyện ngắn Trang Thế Hy qua bài viết Nên đọc kỹ để thấy công phu của tác
giả như sau:
“Truyện của Trang Thế Hy đề cao tình nghĩa, khẳng định tình nghĩa là giá trị lâu bền
nhất, nhắc người đời đừng quên tình nghĩa. (...) Truyện của Trang Thế Hy triết lý nhiều, cả
nhân vật bình thường cũng triết lý, đó là nét độc đáo. Đó là triết lý của nhân dân” [72,
tr.150].
Trong Bốn điều rút ra từ tập truyện ngắn, Hồng Diệu cho rằng truyện ngắn Trang
Thế Hy thường viết về hai mảng đề tài chính, đó là đời sống cách mạng và trách nhiệm của
nhà văn. Bên cạnh đó, tác giả còn bàn về phong cách nghệ thuật Trang Thế Hy:
“Văn của Trang Thế Hy phần nhiều là văn kể chuyện - hoặc do tác giả kể, hoặc do
nhân vật kể - Đó là những cách kể chuyện có duyên, nhiều khi hóm hỉnh, với những triết lý
giản dị, có sức thuyết phục (...)
Truyện Trang Thế Hy giàu lòng nhân ái. Văn ông hiểu rõ bản sắc của một vùng đất,
từ ngôn ngữ địa phương đến cảnh sắc thiên nhiên, cây cỏ, và con người ở đấy (...)” [72,
tr.151].
Nhà văn Trung Trung Đỉnh trong Mỗi truyện ngắn là một đoạn đời nặng nhọc của
nhà văn đã đề cập đến nét độc đáo trong nghệ thuật sử dụng ngôi thứ nhất của Trang Thế
Hy. Ông viết:
“Nhân vật của ông đều là chỗ bạn bè tình nghĩa. Họ là bạn đời của ông trước khi ông
nhập vào trang viết, cho nên tôi thấy ông dùng ngôi thứ nhất rất đắc địa” [72, tr.153].
Trung Trung Đỉnh cũng khẳng định ý thức trách nhiệm của Trang Thế Hy đối với
nghề viết. Trung Trung Đỉnh nhận thấy Trang Thế Hy là nhà văn luôn “đau đáu với nghề,
căm ghét thứ văn chương nghệ thuật bịa tạc khoa trương ồn ã. Các nhân vật là nghệ sĩ của
ông đều bộc lộ quan điểm sáng tác của ông rất rõ...” [72, tr.153].
Bùi Việt Thắng trong bài viết Trang Thế Hy kể chuyện có duyên cho rằng chính hiệu
quả của việc sử dụng ngôi kể thứ nhất đã mang lại cái duyên riêng cho truyện ngắn Trang
Thế Hy. Theo Bùi Việt Thắng thì:
“Đây là cách kể chuyện có hiệu quả mà nhà văn thường vận dụng vì đứng kể ở ngôi vị
ấy, người kể chuyện sẽ tự do hơn, dễ chân thành hơn. Tuy nhiên trong những truyện còn lại,
dù kể ở ngôi thứ ba và có khi “giả tên” “đóng vai khác” thì cái tôi vẫn cư ngụ trong đó”
[72, tr.155].
Những ý kiến được đưa ra trong buổi tọa đàm là những gợi ý quí báu đối với chúng tôi
khi thực hiện đề tài này.
Ngoài các bài viết kể trên còn có một số bài viết khác được tập hợp và in chung trong
cuốn sách có tựa đề Đi chỗ khác chơi. Đây là cuốn sách lưu hành nội bộ mừng nhà văn
Trang Thế Hy 80 tuổi do nhà thơ Cao Xuân Sơn tuyển chọn. Trong đó có một số bài viết
khác đáng chú ý như:
Trong bài viết Trang Thế Hy, nhà văn chắt chiu từng chữ từng câu, Nguyễn Quang
Sáng cũng đưa ra nhận xét về nhân vật xưng “tôi” trong truyện của Trang Thế Hy, ông viết:
“Cái “tôi” trong truyện của anh chính là anh, anh không né tránh, anh là nhà văn, là
nhà văn đối thoại với nhân vật của mình”. Ông cho rằng việc sử dụng cái “tôi” ấy cho phép
nhà văn toàn quyền với nhân vật của mình. Ngoài ra, Nguyễn Quang Sáng nhấn mạnh ngòi
bút của Trang Thế Hy thường nghiêng về những con người không may mắn và nhận thấy
tính dự báo trong văn của Trang Thế Hy. Ông cũng cho rằng đọc văn Trang Thế Hy để thấy
được cái hay, cái đặc sắc của mỗi câu, mỗi chữ cần phải đọc chậm rãi, kĩ lưỡng và nghiêm
túc [72, tr.12].
Tác giả Phạm Quang Trung trong bài viết có tựa đề Bài học sáng tạo từ văn nghiệp
của Trang Thế Hy đã rút ra bốn bài học cụ thể dành cho những người chọn nghiệp viết
thông qua một số truyện ngắn tiêu biểu của Trang Thế Hy. Đó là chữ “tinh” trong nghề viết;
là phải thấu hiểu đến tận gốc gác, ngọn nguồn bề sâu của bao tấn bi kịch mà con người trong
đời từng trải qua; là sự khám phá về mặt tư tưởng bộc lộ qua cách nhìn, cách nghĩ của nhà
văn; là việc giải quyết mâu thuẫn giữa tính chân thực của nghệ thuật và tính hiện thực của
đời sống trong giai đoạn chiến tranh vừa kết thúc. Rút ra được bốn bài học đó là nhà nghiên
cứu đã thấu hiểu tâm tư cũng như những tiêu chí “làm nghề” nghiêm túc của nhà văn [72,
tr.15].
Hoàng Đình Quang trong bài Trang Thế Hy - thầy tôi đã nhận xét về ấn tượng mà
câu văn của Trang Thế Hy mang lại cho độc giả:
“Đọc truyện ngắn của Trang Thế Hy thấy câu văn dài mướt như cả truyện chỉ có một
câu văn mà thôi. Cái lạ của câu văn ông là dài mà không khó hiểu, những mệnh đề rất rạch
ròi, đọc hết câu, ngẩn ra, đọc lại thấy hay hơn” [72, tr.91].
Hoài Anh với bài viết Người suốt đời lo trả nợ nước mắt, Hoài Anh nhận thấy Trang
Thế Hy thường tìm đến những cảnh đời của những con người kém may mắn nhưng luôn giữ
được lòng tự trọng qua việc khảo sát số truyện ngắn tiêu biểu của Trang Thế Hy. Theo Hoài
Anh, truyện của Trang Thế Hy thường kết hợp nhiều bình diện trong cùng một truyện nên
tạo được sự đa nghĩa, đa thanh, giàu sắc thái. Hoài Anh cũng nhấn mạnh vấn đề khá nổi cộm
trong truyện của Trang Thế Hy, đó là vấn đề phẩm chất của người nghệ sĩ trong đời sống
[72, tr.95].
Trong bài viết Trang Thế Hy qua tròng kính viễn của tôi, La Quốc Tiến đã khẳng
định tư tưởng hướng thiện trong sáng tác của Trang Thế Hy:
“Cái ác được Trang Thế Hy hình tượng hóa như là những “lỗ đen” của tâm hồn,
chứng “thiểu năng” của nhân cách, do vậy nên khoan thứ hơn là chấp nệ hoặc đòi hỏi trả
giá. Trong truyện ngắn của ông, cái thiện không hề được vinh danh ở bất kỳ mô-típ nào, ông
cũng không dám vạch nẻo thiên lương, thế nhưng người đọc vẫn cảm nhận được tiếng gọi
trầm thống của sự quay về với ĐẠO, vượt lên trên những điều răn thông tục mà phù phiếm”
[72, tr.139].
Nhà văn Nguyên Ngọc trong bài viết Người hiền của văn chương Nam Bộ đã khái
quát khá đầy đủ những điểm độc đáo về nội dung lẫn nghệ thuật của truyện ngắn Trang Thế
Hy. Bài viết còn thể hiện một cái nhìn tri âm đối với các truyện ngắn của Trang Thế Hy. Ông
đã chỉ ra sự gần gũi lẫn nét riêng biệt của Trang Thế Hy và Nguyễn Tuân trên hành trình đi
tìm cái đẹp :
(...) Có lẽ đọc thật kỹ Trang Thế Hy, sẽ thấy anh gần Nguyễn Tuân chính ở chỗ này.
Anh cũng là người chơi trò chơi thanh nhã ấy, (nghĩa là tiếp tục cái truyền thống của các
bậc tao nhân mặc khách xưa, cho nên, nhìn kỹ mà xem, ở Trang Thế Hy vừa có cái gì đó rất
hiện thực, hiện đại, vừa có cái gì đó rất xưa, thậm chí có phần cổ kính nữa)...
(...) Trang Thế Hy là người chăm chút đi tìm những cái đẹp nhỏ nhoi, lẫn khuất, bị bỏ
quên, hoặc ở trong những góc hẻo của cuộc đời, hoặc bị vùi trong bùn đất nghèo khốn...
(...) Và bây giờ, thử trở lại với so sánh ban đầu: Trang Thế Hy và Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân đi tìm cái đẹp ở chỗ cầu kỳ, (...), Trang Thế Hy, cũng tinh vi không kém, nhưng
anh đi tìm cái đẹp trong sự giản dị của cuộc đời thường, (...), ở những con người “thường”,
(...), và ở tận đáy nữa của cuộc đời ấy... Ở hai hướng khác nhau, nhưng đều vì cái đẹp, và
như vậy, họ khiến cho thế giới phong phú ra rất nhiều.
(…) Ta đã biết Nguyễn Tuân độc đáo trong ngôn ngữ Việt của ông như thế nào. Ông
“chơi” rất tinh, đến cầu kỳ nhiều khi, trên từng con chữ. Trang Thế Hy kỹ chẳng kém, tài
hoa chẳng kém, cũng chơi trên từng con chữ, nhưng ông rất Nam Bộ, rất “miền Tây” [ 41,
tr.1]
Trong bài viết Đọc Trang Thế Hy, bài viết có tính chất tổng hợp về các nét chính
trong quá trình sáng tác của Trang Thế Hy, Trần Hữu Tá đã đưa ra nhận định:
“(...) Tiếp nối Hồ Biểu Chánh, Phi Vân..., Trang Thế Hy đã dựng lên những cảnh trí
Nam Bộ với đặc trưng khó lẫn. (...) Khác với Hồ Biểu Chánh, Phi Vân..., cảnh trí và con
người Nam Bộ trong tác phẩm Trang Thế Hy đang bị quay cuồng trong dông bão, ngày ngày
rỉ máu do thế lực ngoại xâm...
(...) Cách viết kín đáo xa xôi, mượn xưa nói nay, mượn ngoài nói trong, thậm chí
mượn chuyện hoang đường hư huyễn để gửi gắm những ý tưởng cháy bỏng của mình, giai
đoạn sáng tác này của Trang Thế Hy (...) đã sử dụng rất nhuyễn, và đã tác động sâu sắc đến
tư tưởng người đọc thành thị miền Nam.”
(…) Rõ ràng, kêu gọi hướng thiện là tư tưởng nghệ thuật xuyên suốt các giai đoạn
sáng tác của Trang Thế Hy. Tư tưởng đó đã được tác giả chuyển tải bằng giọng điệu bình dị,
từ tốn, đôi khi pha chút hài hước kín đáo, thông minh, tạo nên cái duyên riêng, sức hấp dẫn
riêng. Sức hấp dẫn ấy không mãnh liệt nhưng thấm sâu, bền chắc” [72, tr.161].
Ngoài ra, ông còn đề cập đến một phương diện khá đậm trong sáng tác của Trang Thế
Hy. Đó là việc “ông trăn trở với nhiều vấn đề muôn thuở nhưng luôn có giá trị thời sự của
lĩnh vực nghệ thuật cao quý như nhân cách người cầm bút, khát vọng chân chính của người
nghệ sĩ…” qua truyện ngắn Tiếng hát và tiếng khóc, truyện ngắn được xem là tuyên ngôn
nghệ thuật của Trang Thế Hy.
Có thể nói đây là một bài viết có nhiều gợi ý quan trọng giúp cho chúng tôi tìm ra
hướng đi cơ bản trong việc nghiên cứu đề tài này.
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu về tác giả
Trang Thế Hy có tính chất chuyên sâu của các sinh viên, học viên chuyên ngành Ngữ văn ở
các trường Cao đẳng, đại học; đáng lưu ý có luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Thanh
Hoa, trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2007 nghiên cứu về “Đặc điểm
truyện ngắn Trang Thế Hy”. Trong luận văn này, tác giả đã chỉ ra những đặc điểm nội dung
và đặc điểm nghệ thuật của truyện ngắn Trang Thế Hy lần lượt xét từ bình diện quan niệm
nghệ thuật của nhà văn, đến bình diện nội dung tự sự, và xét cả trên bình diện phương thức
tự sự. Đây là những gợi ý hết sức quý báu đối với chúng tôi trong quá trình thực hiện luận
văn này.
Ngoài ra, chúng tôi còn thấy có những bài phỏng vấn nhà văn và một số bài viết
bày tỏ sự yêu mến, ngưỡng mộ dành cho ông như Trò chuyện với nhà văn Trang Thế Hy
(Phan Tấn Hà, báo Tuổi trẻ Chủ nhật, ngày 29/4/2001), Một buổi sáng Trang Thế Hy (Sa
Nam, báo Sài Gòn giải phóng online, ngày 12/5/2007), Trang Thế Hy: Tôi chung thuỷ
nhưng hờ hững... (Thuý Nga, báo Tuổi Trẻ online, ngày 11/3/2007), ... và một số bài viết
khác trên các trang web điện tử.
Tóm lại, qua việc tìm hiểu các công trình, các bài viết nghiên cứu về truyện ngắn
Trang Thế Hy, chúng tôi nhận thấy mặc dù mỗi bài viết có cách diễn đạt riêng, đi vào nhiều
khía cạnh khác nhau nhưng đều thống nhất ở những điểm như sau:
- Khẳng định Trang Thế Hy là nhà văn có tài năng, có những tìm tòi sáng tạo để tạo
nên dấu ấn riêng cho truyện ngắn của mình. Bao giờ ông cũng có cố gắng thay đổi ngòi bút
cho kịp bước đi của thời đại.
- Chỉ ra những nét nổi bật của ông về nội dung và nghệ thuật truyện ngắn. Về nội
dung, Trang Thế Hy đã đạt được những thành tựu xuất sắc ở mảng đề tài viết về những vẻ
đẹp bị bỏ quên trong góc hẻo của cuộc đời, về văn hoá, phong tục, cảnh trí, con người…của
vùng đất Nam Bộ. Về nghệ thuật, truyện ngắn của ông có cái độc đáo của lối kể nhẩn nha,
giọng điệu điềm tĩnh, không có những tình huống phức tạp mà dạt dào cảm xúc…
Nhìn chung, các bài nghiên cứu về truyện ngắn Trang Thế Hy trên đây là những tìm
tòi, những khám phá đáng trân trọng. Cho đến thời điểm này chúng tôi vẫn chưa tìm thấy
một chuyên luận về truyện ngắn Trang Thế Hy, những tài liệu tìm được chỉ dừng lại ở bài
nghiên cứu nhỏ. Trong số những vấn đề đã được tiếp cận về sáng tác của Trang Thế Hy thì
vấn đề “Truyện ngắn Trang Thế Hy dưới góc nhìn văn hóa” chưa được đề cập đến một cách
toàn diện và hệ thống. Vì thế đó là phần đất trống mà chúng tôi hy vọng có thể khai phá. Với
luận văn này, chúng tôi hy vọng phần nào góp thêm tiếng nói tìm hiểu một cách có hệ thống
về truyện ngắn của ông, chỉ ra nét đặc sắc của những truyện ngắn ấy dưới góc nhìn văn hoá.
Luận văn chúng tôi sẽ thừa hưởng những ý kiến quý báu mà công trình nghiên cứu trước đó
đã gợi ra. Đây là điều kiện thuận lợi để chúng tôi có được nền tảng ban đầu đi sâu hơn tìm
hiểu, khám phá thêm những đặc sắc của truyện của truyện ngắn Trang Thế Hy.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
Đề tài này nhằm hướng đến:
- Tìm hiểu các truyện ngắn tiêu biểu của nhà văn Trang Thế Hy dưới góc nhìn văn hóa để
soi chiếu và chỉ ra mối tương giao giữa văn hóa và văn học.
- Đặt truyện ngắn Trang Thế Hy trong quan hệ với văn hóa, trong cái nhìn văn hóa
nhằm bước đầu lí giải quá trình hình thành và sáng tạo những giá trị, những đóng góp của
nhà văn trong tiến trình vận động của văn học yêu nước thành thị miền Nam 1954-1965.
Hai vấn đề trên có mối quan hệ biện chứng, tương hỗ và giao thoa với nhau trong quá
trình khảo sát, lí giải, phân tích các vấn đề trong nội dung luận văn.
Vấn đề sáng tác của Trang Thế Hy cũng như văn hóa Việt Nam là những vấn đề khá
phức tạp. Cái “phức tạp” ở văn chương Trang Thế Hy có lẽ là ở cái lối viết văn “kén” người
đọc và đây cũng là nhà văn nằm trong số những giá trị được nhận ra muộn mằn, chỉ được
nhắc đến qua một số bài viết riêng lẻ, chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách hệ
thống, toàn diện. Cái “phức tạp” của văn hoá Việt Nam là ở chỗ đây là vấn đề có nhiều
luồng ý kiến không nhất quán, nhiều khuynh hướng nghiên cứu khác nhau. Do đó, chúng tôi
không có tham vọng chạm đến tận cùng của vấn đề. Chúng tôi chỉ hy vọng những vấn đề
được trình bày trong luận văn có thể góp một phần nhỏ bé mang đến một cách hiểu, một
cách nhìn nhận, thử nghiệm một hướng tiếp cận mới đối với sáng tác của Trang Thế Hy ở thể
tài truyện ngắn .
Đối tượng khảo sát của luận văn chủ yếu là các truyện ngắn của nhà văn Trang Thế
Hy (thuộc cả hai giai đoạn sáng tác). Vì nhiều lí do, một số truyện khác của nhà văn đã thất
lạc nê._.n chúng tôi chỉ có thể tìm hiểu 33 truyện ngắn được in trong tuyển tập Truyện ngắn
Trang Thế Hy (Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, 2006) và phần tuyển chọn của nhà nghiên
cứu Trần Hữu Tá trong chuyên luận Nhìn lại một chặng đường Văn học (Nhà xuất bản
TP.Hồ Chí Minh, 2000). Tuy thế, trong cuộc gặp gỡ với nhà văn vào tháng 2/2010 vừa qua,
nhà văn Trang Thế Hy đã khẳng định rằng những truyện ngắn in trong tuyển tập Truyện
ngắn Trang Thế Hy có thể được xem là phần tiêu biểu trong sự nghiệp văn chương của ông.
Vì thế, chúng tôi chủ yếu căn cứ vào 33 truyện ngắn này để lí giải các vấn đề đặt ra trong
luận văn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khi tiến hành thực hiện đề tài này, chúng tôi chọn phương pháp nghiên cứu văn học
theo văn hóa học là phương pháp chủ yếu. Đồng thời, chúng tôi sử dụng các phương pháp
khác như: phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh - lịch sử, phương pháp
thống kê để tiếp cận và bước đầu giải quyết các vấn đề mà đề tài đặt ra. Bên cạnh đó, chúng
tôi còn sử dụng phương pháp liên ngành vì đề tài nghiên cứu thuộc lĩnh vực văn học nhưng
có liên quan đến một số lĩnh vực khác như văn hóa, lịch sử, xã hội học, nên trong quá trình
thực hiện đề tài chúng tôi cũng sử dụng những thành tựu về phương pháp nghiên cứu của các
ngành khoa học đó.
5. Đóng góp của luận văn
Trong thời gian gần đây, vấn đề sáng tác của Trang Thế Hy bắt đầu xuất hiện với tần
số ngày càng cao trong các bài viết của nghiên cứu, phê bình văn học, trên các trang web báo
điện tử, đặc biệt là những chuyên trang văn học nghệ thuật và các trang web cá nhân hoạt
động trong lĩnh vực này. Ngoài ra còn có một số khoá luận, luận văn của sinh viên, học viên
Cao học chuyên ngành Ngữ Văn đi vào tìm hiểu, khám phá những đặc điểm nội dung và
nghệ thuật trong sáng tác của Trang Thế Hy. Với đề tài này, chúng tôi hi vọng bước đầu đề
cập đến một vấn đề khá mới mẻ và lí thú trong các sáng tác của ông qua cái nhìn văn hoá.
Qua đó góp phần làm phong phú hơn cách nhìn nhận, đánh giá về giá trị văn học của Nam
Bộ nói riêng và cả nền văn học dân tộc nói chung bằng việc:
- Phát hiện và lí giải những nét đặc trưng của văn hóa Nam Bộ trong truyện ngắn
Trang Thế Hy.
- Khám phá một số đặc điểm của con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trang Thế Hy.
- Chỉ ra một số nghệ thuật biểu hiện con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trang Thế
Hy .
Chúng tôi cũng hi vọng luận văn này được hoàn thành sẽ là nguồn tài liệu tham khảo
có ích cho việc nghiên cứu, giảng dạy về tác giả Trang Thế Hy nói riêng và mảng văn học
thành thị Miền Nam giai đoạn 1954 - 1965 nói chung.
6. Cấu trúc luận văn
Tương ứng với nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu
tham khảo, nội dung chính của luận văn được triển khai thành 3 chương như sau:
Chương 1: Trang Thế Hy và phương pháp tiếp cận văn hoá học trong nghiên cứu văn
học.
Chương 2: Văn hoá Nam Bộ trong truyện ngắn Trang Thế Hy.
Chương 3: Con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trang Thế Hy.
Chương 1: TRANG THẾ HY VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN VĂN HÓA HỌC
TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
1.1 Giới thiệu đôi nét về nhà văn Trang Thế Hy
1.1.1 Tiểu sử
Nhà văn Trang Thế Hy tên thật là Võ Trọng Cảnh (còn có một số bút danh khác như:
Văn Phụng Mỹ, Vũ Ái, Văn Minh Phẩm, Triều Phong, Phạm Võ…), sinh ngày 9 tháng 10
năm 1924 tại xã An Hội ( nay là xã Hữu Định), huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, miền đất
của phong trào Đồng Khởi, một vùng địa linh nhân kiệt với Nữ tướng rừng Dừa - Nguyễn
Thị Định và nhiều danh nhân văn hoá: Nguyễn Đình Chiểu, Võ Trường Toản, Ca Văn
Thỉnh, Lê Anh Xuân… Thời thơ ấu, Trang Thế Hy học trường tiểu học ở huyện nhà, sau lên
học trường Trung học Mỹ Tho… Trong những năm 1942-1943, cuộc sống đã khiến anh
thanh niên Võ Trọng Cảnh rời quê lên Sài Gòn kiếm sống bằng nhiều nghề khác nhau như
làm kiểm vé xe điện, làm thủ kho…Trang Thế Hy bước vào tuổi trưởng thành ngay thời
điểm chín muồi của cách mạng Việt Nam. Yêu nước và sớm giác ngộ cách mạng, sau khi
tham gia giành chính quyền tại Bến Tre, Trang Thế Hy thoát ly gia đình vào chiến khu. Sau
hiệp định Genève năm 1954, ông được phân công ở lại hoạt động hợp pháp ở nội thành Sài
Gòn trên lĩnh vực văn nghệ. Thời gian này, trong khi nhiều người chọn nguyện vọng tập kết
ra Bắc, Võ Trọng Cảnh xin được ở lại bám quê, mai phục đấu tranh chờ ngày thống nhất đất
nước. Cho đến năm 1956, tình hình bắt đầu cam go, cán bộ cách mạng bị địch săn đuổi rất
gắt gao. Lúc bấy giờ, tỉnh có chủ trương đưa những cán bộ bị truy đuổi ráo riết lánh đi, rồi
hoạt động công khai, tạo thế hợp pháp mới. Ông được lệnh đi “điều lắng” và được chọn Sài
Gòn là địa bàn hoạt động mới. Thời gian đầu, ông phải tự xoay sở kiếm sống. Đầu tiên là dạy
kèm trẻ tại tư gia, tiếp đó là sửa bản in ở các nhà xuất bản nhỏ. Nhờ những năm tháng dạy
học mà con người hiếu học, đầy ý chí phấn đấu ấy tiếp tục tự học (vì ông chưa học hết bậc
trung học) và tự học thêm tiếng Pháp. Ông đã tìm đọc, tìm mua nhiều sách cũ bằng tiếng
Pháp để nâng cao vốn ngoại ngữ của mình. Cũng chính từ đây, ông có cơ hội tiếp xúc với
các nền văn học thế giới, “gặp gỡ” được những nhà văn lớn của thế giới như Tshekov,
Gorki, Dostoievski, Hemingway, Lỗ Tấn…Công việc sửa chữa bản in cũng là một nhịp cầu
đầy duyên nợ kết nối ông với văn chương. Ông được đọc nhiều tác phẩm của các tác giả
đương thời và nhận ra được nhiều điều bổ ích. Chính từ đây, sự tự tin của một con người
ham học hỏi, sự quyết tâm của một cán bộ tuyên huấn đã khiến ông nảy sinh ý tưởng: mượn
văn chương để làm công tác tuyên truyền. Ông bắt đầu bén duyên với văn chương nhờ sự
động viên, khuyến khích của các đàn anh trong nghề như Viễn Phương, Sơn Nam, Lý Văn
Sâm….Truyện ngắn đầu tiên của ông đã ra đời và được đăng trên báo Nhân Loại với bút
danh Văn Phụng Mỹ (với ý nghĩa văn chương phụng sự cái đẹp). Năm 1959, ông chính thức
lấy bút danh Trang Thế Hy. Do những tác phẩm mang nội dung yêu nước nên ông bị bắt
giam năm 1962. Trong tù, con người ham học ấy lại tranh thủ học thêm chữ Hán từ các giáo
sư bị giam chung. Năm 1964, ông thoát ly ra vùng giải phóng và công tác ở Ban tuyên huấn
đặc khu Sài Gòn - Gia Định. Từ năm 1957 đến đầu năm 1962, bên cạnh Sơn Nam, Lê Vĩnh
Hòa, Viễn Phương, Bình Nguyên Lộc, Tiêu Kim Thủy… Trang Thế Hy cũng là cây bút chủ
lực trên tuần báo Nhân loại bộ mới. Thời gian sống ở Sài Gòn, ông còn viết cho các tờ Bách
Khoa, Vui Sống, Ngày Mới. Khi vào vùng giải phóng (1964), ông làm việc ở Ban Tuyên
huấn đặc khu Sài Gòn - Gia Định, sau chuyển sang tiểu ban Văn nghệ Giải phóng cho đến
ngày 30-4-1975. Từ 1975 đến 1990, ông là cán bộ biên tập tuần báo Văn nghệ Thành phố Hồ
Chí Minh. Năm 1992, ông lặng lẽ từ biệt Sài gòn phồn hoa đô hội, tự mình “đi chỗ khác
chơi”. Những người yêu mến Trang Thế Hy có nhiều cách nhìn, cách lý giải khác nhau về
việc ẩn cư của ông. Trang Thế Hy thì cho rằng việc này chính là..."đi chỗ khác chơi". Ông
cho biết: "Tôi có được suy nghĩ này từ lời khuyên của một nghệ sĩ già, ông bảo: khi nào con
viết hết được rồi thì nên biết đi chỗ khác chơi, đừng có bẹo hình bẹo dạng trong chốn trường
văn trận bút, nhất là đừng để cho những người yêu mến mình phải đọc những câu lếu láo”.
Với vầng trán rộng thông minh và mái tóc nghệ sĩ, nước da bánh ít, với vẻ bình dị, ít
nói khiến ai mới thoáng nhìn cũng có thể nghĩ Trang Thế Hy là người của vườn tược. Với
đôi mắt sâu hay nhìn xuống lúc đi lại, ông sống lủi thủi chỗ không ồn ào như người có tâm
sự thầm kín. Có thể nói ông là mẫu người hướng nội với tình cảm sâu lắng, không thường
biểu lộ ra ngoài bằng ngôn ngữ và hành động cụ thể…. Ông thích yên lặng, thích đằm mình
trong những suy tưởng riêng tư. Bởi đời sống, với ông, là một cái gì thiêng liêng, nên cách
sống của ông là cách sống của một người rất kỹ tính. Chẳng những mọi suồng sã trong tình
cảm, mọi xô bồ hỗn tạp trong giao tiếp xa lạ với ông, mà cả những lối sống, lối nghĩ hời hợt,
nhợt nhạt, theo ông đều là không thể chấp nhận được. Và đó cũng là hình ảnh của ông mà
người đọc tiếp nhận được qua tác phẩm. Trong chừng mực nào đó, hình ảnh con người Trang
Thế Hy hiện lên qua tác phẩm là một con người ý nhị nhưng buồn rầu, tốt bụng nhưng lạnh
lùng, luôn nhạy cảm với nỗi đau khổ của con người, làm say mê lòng người nhưng lòng
mình lại buồn chán. Sự buồn chán ở đây thật ra là đồng nghĩa với sự lương thiện. Sự buồn
chán mà với Trang Thế Hy chỉ có những người hết lòng với cuộc sống mới có thể cảm thấy
hết ý nghĩa buồn chán của nó.
Có dịp tiếp xúc, gần gũi với nhà văn Trang Thế Hy mới biết ông thông tiếng Pháp, đọc
nhiều tác phẩm của Anatole France, Guy de Maupassant, Gustave Flaubert… và Ernest
Hemingway, Lỗ Tấn… Với kiến thức rộng được tiếp thụ từ văn học thế giới, nhất là nền văn
chương Pháp, Trang Thế Hy có được một óc tưởng tượng phong phú và một văn phong
mượt mà giàu chất lãng mạn. Sức mạnh tinh kết từ ưu thế của ngòi bút tài hoa Trang Thế Hy
dường như được dàn trải đều đặn trong tác phẩm của ông. Dù sao thì con người Trang Thế
Hy, cũng như tác phẩm, là con người yêu sự thẳng thắn, chống bất công và những chuyện
bất bình, yêu sự thật, không quỳ lụy quyền hành dù là với những người bạn từng chung chiến
đấu thời kháng chiến.
1.1.2 Quá trình sáng tác
Hơn nửa thế kỷ sáng tạo, nhà văn Trang Thế Hy chỉ viết khoảng gần 50 truyện ngắn.
Tuy nhiên nhiều truyện ngắn của ông được in trong các tuyển tập và được đánh giá là những
truyện ngắn tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Điều này cho thấy sức hấp dẫn và sức
sống của truyện ngắn của Trang Thế Hy đối với thời gian và tâm hồn con người.
Trang Thế Hy bắt đầu bén duyên với văn chương từ năm 1956 và tiếp tục viết với một
tốc độ không nhanh nhưng bút lực sung mãn cho đến những năm 90 của thế kỉ XX. Văn
Trang Thế Hy cũng là con người Trang Thế Hy, một con người kiên nghị và trầm tĩnh. Mọi
thay đổi, biến thiên của cuộc đời đều được ông chế ngự được một cách dũng cảm.
Ông viết không nhiều về số lượng, không viết cho thị hiếu, thời thượng, chỉ viết cho
người đọc tự giác nhất và cho chính mình, bất kể qui luật cung cầu của thị trường chữ nghĩa.
Trong đời sống thường ngày cũng thế, ông không có cuộc sống nào khác ngoài sống với văn
chương và nhân thế, viết và sống đối với ông bao giờ cũng chỉ là một, chỉ có một.
Đọc truyện của ông, ta thấy ngập tràn sự sống - một sự sống đa dạng, phong phú. Phải
chăng đó là kết tinh từ những nỗi đau và hạnh phúc, từ nước mắt và nụ cười của bao con
người Nam Bộ trước những biến động vô thường của cuộc sống? Cuộc sống mà chính bản
thân nhà văn đã trải nghiệm. Và đằng sau những mảnh vụn, những lát cắt của cuộc sống ấy
thường toát lên những bài học nhân sinh, dù rất nhẹ nhàng nhưng có sức lay động sâu xa
những tâm hồn nhạy cảm. Những gì mà ông xây dựng, khám phá đều xuất phát từ trái tim
của một con người Nam Bộ có tình yêu nồng nàn với quê hương xứ sở, và trên hết là tấm
lòng của nhà văn đối với cuộc đời. Cho nên truyện ngắn Trang Thế Hy đến với người đọc
không ồn ào như một số hiện tượng văn học cá biệt, mà rất âm thầm, ý nhị và không biết tự
bao giờ đã len vào trái tim của nhiều độc giả rồi neo lại ở một góc nhỏ.
1.1.2.1 Các giai đoạn sáng tác
Có thể tạm chia quá trình sáng tác của Trang Thế Hy ra làm hai giai đoạn, thể hiện
được khá rõ sự chuyển biến và thay đổi về đặc điểm nội dung, đặc điểm nghệ thuật từ giai
đoạn này sang giai đoạn khác.
Giai đoạn thứ nhất : từ 1956 đến 1975
Cũng như phần lớn các nhà văn yêu nước và cách mạng vùng thành thị miền Nam,
trong thời gian này ông lấy nhiều bút danh khác nhau để tránh sự kìm kẹp và đàn áp của kẻ
thù, đó là các bút danh như: Phạm Võ, Văn Phụng Mỹ, Triều Phong, Vũ Ái, Văn Minh Phẩm,
Trang Thế Hy. Các sáng tác tiêu biểu của nhà văn trong giai đoạn này là: 1TNắng đẹp miền quê
ngoại1T, 1TAnh Thơm râu rồng. 1TNhững sáng tác của ông vào giai đoạn này thường sử dụng một
cách khá tinh tế và uyển chuyển lối viết mang tính ẩn dụ với lối biểu tượng hai mặt nhằm
“vượt qua” tình thế chính trị hết sức khó khăn tại thời điểm đó, vươn tới thể hiện tinh thần
yêu nước, ý chí căm thù giặc mãnh liệt.
Vào thời điểm này, bước vào thế giới truyện ngắn Trang Thế Hy, người đọc dễ thấy
nổi rõ lên trước hết là ánh sáng của chủ đề: lòng yêu quê hương tha thiết, đằm thắm, tình
cảm đồng bào chân thành, sâu nặng biểu hiện dưới nhiều hình thức trong một đất nước, xã
hội u ám rối ren vì khói lửa binh đao. Nhân vật xuất hiện thường gặp trong tác phẩm nói trên
là người dân lương thiện, người lao động nghèo đôn hậu mà tiến bộ, ý thức được trách nhiệm
của mình, những người công dân chân chính trong thời chiến. Để phác họa cảnh vật trong
truyện, Trang Thế Hy dùng lối văn trong sáng, trôi chảy mượt mà, trữ tình và lãng mạn.
Viết về chiến tranh, truyện ngắn Trang Thế Hy gợi sự xúc động mạnh mẽ trong lòng
người đọc về những uẩu khúc, những hiểu lầm, những mất mát cả tinh thần lẫn thể xác trong
hành trình gian nan đi tìm tự do, hạnh phúc của con người. Chiến tranh hiện lên với tất cả sự
tàn khốc của nó. Nhưng chính tình yêu đối với quê hương trong mỗi con người biến thành
sức mạnh giúp con người vượt lên những nỗi đau cá nhân.
Giai đoạn thứ hai: sau 1975
Sau năm 1975 là một giai đoạn sáng tác mới, rất có chất lượng của Trang Thế Hy.
Đối diện với hiện thực cuộc sống sau chiến tranh, những sáng tác của Trang Thế Hy vào giai
đoạn này thể hiện những trăn trở, day dứt kín đáo về thế sự, nhân sinh. Cuộc sống thời bình
bắt đầu phô bày những mặt trái, những toan tính, vụ lợi cá nhân, quan hệ của con người trở
nên lạnh lùng. Nhu cầu gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh là nhu cầu rất thực của nhà văn. Vì
vậy, truyện ngắn của ông trong giai đoạn này bộc lộ sự trăn trở, đau đáu trước những biến
đổi của cuộc đời, trước sự đa tạp, biến ảo của con người thường nhật. Truyện của ông vừa
giữ vẻ duyên dáng, dí dỏm đồng thời cũng mang vẻ thâm trầm, sâu lắng của một con người
từng trải. Mặc dù cảm xúc chiến tranh vẫn đầy ắp trong trái tim một con người trực tiếp tham
gia chiến trường nhưng cuộc sống phồn tạp vẫn cứ đập vào và tạo nên những trang viết về
đời thường sinh động, ngồn ngộn sự sống, đánh dấu những thành công mới của Trang Thế
Hy.
Nhu cầu của cách mạng không còn quá thúc bách, ông có điều kiện viết kỹ hơn, lượng
tác phẩm ít dần đi, mỗi năm dăm ba truyện ngắn. Chắc chắn không phải vì “lão lai tài tận”,
mà có lẽ ông chọn cách viết kiềm chế để chắt lọc từng dòng chữ, mang lại cho người đọc
những trang văn tinh khiết, thẳm sâu, giàu sức ám ảnh. So với những gì đã viết trong mấy
năm cộng tác với 1TNhân Loại1T, trong giai đoạn sáng tác mới này Trang Thế Hy đã tự đổi mới
rất nhiều trong sáng tác nghệ thuật. Vẫn nhất quán trong việc tìm cảm hứng từ những con
người và những cảnh đời quen thuộc quanh mình nhưng giờ đây ông bắt đầu chú ý đến vấn
đề nhiều hơn cốt truyện, quan tâm nhiều đến tâm trạng lẫn khắc họa tính cách. Không ít nhân
vật tâm trạng của Trang Thế Hy đã có sức khơi gợi sâu sắc.
Có thể nhắc đến một trong những truyện ngắn xuất sắc của ông được sáng tác trong
giai đoạn này, đó là 1TNợ nước mắt1T và một số truyện ký khác như: 1TChút hào quang từ mảnh vỡ
của một ngôi sao buồn, Tiếng hát và tiếng khóc, Một nghệ sĩ buồn thích đùa, Rác và hoa1T...
Ông trăn trở với nhiều vấn đề muôn thuở nhưng luôn có giá trị thời sự của lĩnh vực nghệ
thuật cao quí như nhân cách của người cầm bút, khát vọng chân chính của người nghệ sĩ...
Truyện ngắn 1T iếng hát và tiếng khóc1T có thể coi như tuyên ngôn nghệ thuật của ông.
Với Trang Thế Hy, sống là một sự tự thể nghiệm và quan sát. Từ những chuyện vui
đến chuyện buồn trong cuộc đời, từ những nỗi đau, mất mát trong chiến tranh đều được ông
cho nó đi vào trang viết của mình thật sống động và tự nhiên. Hiện thực cuộc sống đi vào
trong tác phẩm góp phần làm nên giá trị cho tác phẩm, nhưng giá trị của tác phẩm không
phải được quyết định bởi tính hiện thực mà quyết định ở tư tưởng, tình cảm của nhà văn.
Nếu thiếu cảm xúc hay chỉ bằng tình cảm hời hợt thì những trang viết chỉ là những trang khô
khan, thiếu chất sống. Từ đó, ta hiểu vì sao truyện ngắn Trang Thế Hy lại giàu chất sống và
gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc như vậy.
1.1.2.2 Tác phẩm chính
Trang Thế Hy viết nhiều thể loại nhưng truyện ngắn là phần nổi trội và thành công
nhất, là nơi thể hiện tập trung tư tưởng và phong cách sáng tác của nhà văn. 4TNhững truyện
ngắn của ông vừa lãng mạn vừa thâm trầm. Cứ thế, văn chương của ông phát triển lặng lẽ,
sâu thẳm và lắng đọng trầm tích4T.
Sự nghiệp sáng tác của ông bắt đầu với Nắng đẹp miền quê ngoại (1964) và sau đó
lần lượt là Mưa ấm (1981), Người yêu và mùa thu (1981), Vết thương thứ mười ba (1989),
Tiếng khóc và tiếng hát (1993), Nợ nước mắt và những truyện ngắn khác (2001). Truyện
ngắn cuối cùng mà Trang Thế Hy viết chính là truyện Hai người nhìn mưa dầm, truyện viết
về một người bạn mà ông mến yêu, về những kỷ niệm hằn sâu trong đời ông.
Ngoài viết truyện ngắn, Trang Thế Hy còn là một nhà thơ. Có thể kể tên một số bài
tiêu biểu: Dấu răng, Định lý và định lý, Tấm vé số và những thiên đường có sẵn, Người bạn
đường có tên là hy vọng, Bứt đứt sợi chỉ hồng…Trong số đó, bài thơ Lời nói dối nhân ái đã
được bình chọn là một trong 100 bài thơ hay của thế kỉ. Ngoài ra, Đắng và ngọt cũng là bài
thơ nổi tiếng của Trang Thế Hy được Phạm Duy phổ thành bài hát Quán ven đường và bị ghi
tên tác giả thơ là Vô Danh. Thật ra, Đắng và ngọt được ký tên Minh Phẩm (một bút danh
khác của Trang Thế Hy) đăng trên báo Vui Sống vào năm 1959. Vì Trang Thế Hy vào chiến
khu kháng chiến chống Mỹ nên bài hát muốn “sống” ở vùng tạm chiếm phải cải tên tác giả
thơ thành Vô Danh. Thơ của Trang Thế Hy chủ yếu viết theo thể thơ tự do, câu thơ giàu tính
triết luận và tư duy thơ vạm vỡ, khỏe khoắn. Trang Thế Hy thường đưa một vài yếu tố của
cốt truyện vào trong bài thơ tạo nên tính đối thoại giữa chủ thể trữ tình và các yếu tố trữ tình.
Trang Thế Hy say mê thơ Tagore, từng là một dịch giả khá thành công với những bài thơ của
thi hào Rabindranath Tagore. Có thể nhận ra nơi ông một tư duy thơ phảng phất tư duy thơ
vũ trụ của Tagore. Tính triết lý nhân sinh và phong cách thơ thâm trầm, sâu sắc đã tạo nên
sức hấp dẫn của thơ Trang Thế Hy đối với người đọc.
Bên cạnh đó, Trang Thế Hy còn viết tiểu thuyết. Tiểu thuyết của ông xuất hiện trên
báo Thủ đô và tuần báo Chị cùng em dưới hình thức feuilletons. Dù là truyện ngắn, tiểu
thuyết hay những bài thơ tự do, những bài thơ dịch, văn chương Trang Thế Hy vẫn toát lên
nét thâm trầm, sâu lắng của một ngòi bút luôn trăn trở tìm cách để bảo vệ, giữ gìn cái đẹp
của con người. Âm thầm sáng tạo, xa lánh mọi bon chen, cám dỗ của danh lợi, Trang Thế Hy
góp công lớn trong việc tiếp thêm sức sống và tạo nên sự dung chứa kỳ diệu của thể loại
truyện ngắn đối với hiện thực cuộc sống và sự bí ẩn của tâm hồn, tính cách con người. Hơn
nửa thế kỷ sáng tác, có thể nói nhà văn Trang Thế Hy đã tạo được "thương hiệu" và phong
cách riêng cho mình.
1.1.2.3 Một số giải thưởng đã đạt được
- Giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu của Hội Văn nghệ giải phóng miền Nam
(1960-1965) với truyện ngắn Anh Thơm râu rồng.
- Tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1994 với tập truyện Tiếng khóc và
tiếng hát.
- Tặng thưởng loại A của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt
Nam năm 2001 cho tập truyện Nợ nước mắt.
1.1.3 Quan niệm nghệ thuật
Nếu xem "Văn là người", có thể nói sự nghiệp văn chương của nhà văn yêu nước
Trang Thế Hy là chiếc lăng kính phản chiếu sắc thái tài năng và nhân cách của một nhà văn
luôn luôn ý thức về sứ mệnh và trách nhiệm của người cầm bút chân chính.
Hiểu về mình, không ai bằng mình; nhà văn Trang Thế Hy tự nhận xét về mình như
một lời tự bạch rằng: "Tôi tự đánh giá mình có được tạo hóa nhểu cho vài giọt năng khiếu
bẩm sinh về văn chương nhưng bản thân kém ý chí và thiếu sự đam mê nghề nghiệp nên
không có thành đạt đáng kể”, “Tôi cho rằng văn chương tuy không giải phóng được con
người nhưng đối với bản thân người viết văn, văn chương góp phần thanh lọc tâm hồn và
cung cấp cho người đó sự bình tĩnh và lòng can đảm”.
Tự nhận xét về đời mình, ông nói: “Má tôi không muốn đẻ một con cù lần đâu nhưng
cuộc sống do những người nhảy cao đá lẹ làm chủ đã biến tôi thành cù lần, biết làm sao?”.
Còn về văn mình, ông cũng nói: “Trong bài tựa tập Gào thét, Lỗ Tấn (1881-1936) viết:
“Biết mình có được vài ba độc giả, điều đó tạo cho tôi niềm vui lớn”. Nhà văn Nga Yury
Trifonov (1925-1981) thì khiêm nhường hơn, trong thư gởi những kịch tác gia Đức, đã viết:
“Chỉ cần biết có một người chịu khó đọc mình, cũng đủ thấy công sức mình bỏ ra trên trang
giấy đã được đền đáp tốt”.
Qua đó ta có thể thấy rõ hơn chân dung nhà văn Trang Thế Hy, trong đó có tác phẩm,
những đứa con tinh thần được ông cưu mang, nuôi dưỡng và trách nhiệm. Trò chuyện cùng
nhà văn Trang Thế Hy, những người sáng tác thường cảm thấy rất thú vị. Ông chỉ nói những
gì ông đã chiêm nghiệm, ấp ủ chín mùi nên những điều ông chia sẻ thường sâu sắc, ý vị và
mang ý nghĩa nhân sinh. Trang Thế Hy cho rằng ông không có năng khiếu về học thuật, lý
luận. Tuy vậy, theo ông, người sáng tác cần trang bị cho mình hệ thống lý luận về văn học,
nhân sinh và cần tự chiêm nghiệm, đúc kết những kinh nghiệm sáng tác cho bản thân. Gương
mặt, dáng dấp của Trang Thế Hy giống nhà hiền triết nhưng giọng nói của ông lại ấm áp như
người nghệ sĩ kể chuyện dân gian. Với vốn kiến thức uyên thâm về văn hóa Pháp cộng với
sự tích lũy và chắt lọc tinh hoa văn hóa Việt Nam, sự chiêm nghiệm về thân phận con người
và lao động nghệ thuật nghiêm túc đã tạo nên tâm hồn, tư tưởng và giá trị nghệ thuật độc đáo
trong các truyện ngắn của Trang Thế Hy.
Có thể nói một cách ngắn gọn về quan niệm nghệ thuật của Trang Thế Hy, đó là hành
trình viết văn để đứng về phía những người cùng khổ, bênh vực cho những số phận bất hạnh.
Trang Thế Hy là người chăm chút đi tìm những cái đẹp nhỏ nhoi, lẩn khuất, bị bỏ quên, hoặc
ở trong những góc hẻo của cuộc đời, hoặc bị vùi trong bùn đất của nghèo khốn. Trang Thế
Hy cho rằng, số đông những con người bất hạnh là những con người thầm lặng, họ biết nói
nhưng làm thinh không nói. Và bổn phận của chúng ta - những người cầm bút là phải nghe
cho được những điều mà họ không nói ra thành lời ấy. Kêu gọi hướng thiện là tư tưởng nghệ
thuật xuyên suốt các giai đoạn sáng tác của Trang Thế Hy. Trang Thế Hy cho rằng thuộc tính
của văn chương là vô mệnh (ý của Nguyễn Du trong bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký). Nhưng
ảnh hưởng của văn chương đối với vận mệnh của loài người là không nhỏ. Chức năng của
văn chương là thanh lọc tâm hồn người viết và cung cấp thuốc giảm đau cho người đọc “Cái
đẹp sẽ cứu rỗi thế giới”. Ông khẳng định bản thân vừa si mê vừa hoài nghi lời tiên tri ấy của
Dostoievky. Nhưng ông cả tin rằng nếu như cái ĐẸP cứu rỗi được thế giới thì trong cái đẹp
vĩ đại, mênh mông cao rộng không có đường biên ấy có cái đẹp của văn chương.Viết văn là
tu thân, là đương đầu với nhiều thứ. Với niềm vui phải trầm tĩnh tiếp nhận nó như một động
lực sáng tạo, đừng bị nó cám dỗ để trở thành người nhẹ dạ, cả tin. Với nỗi buồn, phải giữ thế
thượng phong, không biến được nó thành người bạn đường hữu ích, thì cũng đừng để nó
nhấn chìm mình trong trầm cảm. Trong cao hứng phóng bút, hư cấu nhưng phải nghiêm cẩn
tự dặn dò mình đừng bao giờ tùy tiện bịa đặt.
Ông trăn trở với nhiều vấn đề muôn thuở nhưng luôn có giá trị thời sự của lĩnh vực
nghệ thuật cao quí như nhân cách của người cầm bút, khát vọng chân chính của người nghệ
sĩ... Trong mối duyên nợ với văn chương, Trang Thế Hy khiêm tốn tự nhận mình là người
tình thuỷ chung nhưng hờ hững. Tuy vậy, hờ hững nhưng không cò nghĩa là bạ đâu viết đó.
Ông luôn tâm niệm, một tâm niệm nghiêm khắc với chính mình, dù trong hoàn cảnh nào vẫn
cố gắng để giữ những gì mình viết luôn chân thật. Nhà văn phải biết mình đang đứng ở đâu
giữa thời cuộc để viết bằng chính tinh hoa cảm nghĩ của mình, chứ không phải bằng kỹ xảo.
Bởi vì theo ông kỹ xảo chỉ để đánh lừa một bộ phận người đọc nhẹ dạ chứ không thay thế
được nghệ thuật chân chính. Nhà văn phải cảnh giác với chính mình, chớ để thế cuộc dẫn
mình đi vào con đường sa đọa, nhẹ hơn cũng trở thành kẻ giả dối, giả dối với mọi người và
giả dối với chính mình. Theo quan niệm của ông, nhà văn, nhà thơ không chỉ là người biết
ứng xử có văn hóa mà còn phải biết gìn giữ nhân cách của mình trên từng trang viết, từng tác
phẩm. Khi ngồi trước trang giấy, Trang Thế Hy luôn tự dặn dò mình: “Những điều mình
chưa yêu mến, hoặc chưa kịp yêu mến thì đừng giả bộ yêu mến nó”.
Trong Nguồn cảm mới, tác phẩm được xem là tuyên ngôn nghệ thuật của ông, ông đã
tự xác định ý thức trách nhiệm và nhân cách của người cầm bút là “chủ tâm xác định cái
chiến thắng tất yếu, sau cùng của đạo lí, trước cái chiến thắng tạm thời của dục vọng xấu
xa”[41, tr.25]. Trong Tiếng hát và tiếng khóc, Trang Thế Hy không quên nhắc nhở chính
mình cái điều mà người nghệ sĩ thấm thía: “Tôi nghe đó là lời răn dạy rất nghiêm, có giá trị
thức tỉnh cao của một hiện thực đau buồn, nhắc nhở người cầm bút đừng bao giờ đánh mất
điểm tựa đáng tin cậy của mình là nỗi đau khổ lớn nhất của một số đông thầm lặng”, “nếu
như em thật sự yêu nghề…thì em phải lắng nghe cho được ngôn ngữ lặng thầm của những
người đau khổ biết nói mà làm thinh không nói”[41, tr.450].
Đứng về phía số đông ấy, theo Trang Thế Hy thì cái đạo lý mà người nghệ sĩ cần có
trong cảnh nước mất nhà tan là phải dấn thân để hoàn thành sứ mệnh của một công dân chân
chính. Trong tranh đấu, người nghệ sĩ phải dùng tài năng của mình để hoàn thành sứ mệnh
ấy bằng cả trái tim sục sôi lửa chứ không phải bằng trí óc tỉnh táo của một con người luôn
toan tính thiệt hơn cho bản thân .
Nhân cách của người cầm bút còn là việc “Phải tự lượng sức mình và phải chân
thực”, nếu không sẽ rơi vào “nỗi cô độc bi thảm của người cầm bút nuôi nhiều tham vọng
lớn bằng một tài năng nhỏ và muốn thu hoạch sự mến mộ của người khác bằng những xúc
động giả của chính tâm hồn mình, nói nôm na là bằng sự lường gạt” [41, tr.371]. Người cầm
bút có nhân cách cũng là người không bao giờ “ tự huyễn hoặc rằng mình có những cống
hiến lớn trong khi những thành đạt của mình thực ra là hết sức nhỏ nhoi” [41, tr.371].
Theo Trang Thế Hy, nhà văn phải cảnh giác với chính mình, chớ để thời cuộc dẫn
mình đi vào con đường giả dối, lừa lọc. Người nghệ sĩ có nhân cách là một nghệ sĩ chọn cho
mình một cuộc sống như số đông vẫn sống, dù đó có thể là cuộc sống vất vả, nhưng nhất
định không chịu đem “chút đỉnh tinh hoa nghệ thuật” tìm cách bán, bởi “ trong văn học, sự
hẩm hiu chưa chắc là một điều bất hạnh” [41, tr.249] . Có thể ví Trang Thế Hy là người đi
tìm “chất ngọc” không phải giữa chốn phồn hoa đô hội, cũng không phải trong tỉ mẩn trà dư
tửu hậu, mà giữa cuộc đời nhọc nhằn, trần tục, ở nơi tận đáy cùng của xã hội. Và khi nhắc
đến Trang Thế Hy điều trước tiên người ta nhắc đến đó là một nhà văn có nhân cách đáng
quý trọng là vì những điều như thế.
Nếu Nguyễn Tuân đi tìm cái đẹp ở chỗ cầu kỳ, ở “Ấm trà trong sương sớm”, ở “Chữ
người tử tù”…thì trên trang viết của mình, Trang Thế Hy đi tìm cái đẹp trong sự giản dị của
cuộc đời thường, trong “Áo lụa giồng”, trong “Mỹ Tho - Mỹ Thơ”…, ở những con người
như “Anh Thơm râu rồng”, và cả những con người ở tận đáy của cuộc đời… Ở hai hướng
khác nhau, nhưng đều vì cái đẹp, và như vậy, họ khiến cho thế giới phong phú hơn rất nhiều.
Trang Thế Hy lặng lẽ phản ánh đời sống hết sức khốn khó của con người với cái nhìn
đôn hậu và đầy thương cảm. Ông đã tạo ra những trang văn đẹp giản dị nhưng vô cùng nhân
đạo. Những con người dù bị chà đạp vẫn cố gắng vươn tới vẻ đẹp thanh cao, những con
người dù khốn khó vẫn tự đấu tranh để vươn tới cái đẹp trong cuộc sống. Mỗi người một
hoàn cảnh, một cuộc sống riêng nhưng họ đều có chung tâm trạng dày vò, buồn rầu và lòng
khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn, cao quý hơn. Trang Thế Hy cũng rất mẫn
cảm và nhân hậu, ông đi sâu vào thế giới nội tâm con người, biết quan sát cái bên trong, biết
đi sâu vào những bí ẩn tâm lý. Tác giả đã hướng cái nhìn của mình vào những vùng khuất tối
nhất trong thế giới nội tâm con người: cái khoảng tối ẩn náu sự hèn hạ, yếu đuối, xấu xa
đáng loại bỏ để tìm ra những khoảng sáng thanh cao. Bởi với ông thiếu cái đẹp, cuộc sống
trở nên tầm thường biết bao.
Tư tưởng đó đã được tác giả chuyển tải bằng giọng điệu bình dị, từ tốn, đôi khi pha
chút hài hước kín đáo, thông minh, tạo nên cái duyên riêng, sức hấp dẫn riêng. Sức hấp dẫn
ấy không hiện diện bằng ngọn lửa đốt cháy dữ dội nhưng thấm sâu, bền chắc.
Và đứng ở góc nhìn của một người Nam Bộ, độc giả sẽ dễ dàng nhận ra dù là viết về
vấn đề gì thì Trang Thế Hy vẫn thuộc một trong số những nhà văn còn giữ được cốt cách
diễn đạt của một người Nam Bộ trong sáng tác văn chương. Chính văn hóa và làng quê Nam
bộ là tiền đề hình thành nên quan niệm nghệ thuật của Trang Thế Hy.
Được sinh ra và lớn lên trong một gia đình trung nông ở Bến Tre, trên chính vùng đất
phương Nam của tổ quốc. Vì thế, một trong những tiền đề quan trọng góp phần hình thành
nên quan niệm nghệ thuật của Trang Thế Hy có nguồn gốc và cơ sở sâu xa là những yếu tố
văn hóa mang đặc trưng riêng của vùng đất và con người nơi đây.
Từ đó, Trang Thế Hy đã tích luỹ được rất nhiều hành trang quý báu để có thể viết
nhiều, viết hay về miền đất dung dị mà chân chất tình người này. Có thể nói, vùng văn hóa
Nam Bộ là môi trường màu mỡ, là nguồn cung cấp tư liệu đáng quí và cũng là nguồn cảm
hứng mãnh liệt chi phối quá trình sáng tạo của nhà văn Trang Thế Hy. Vì thế, độc giả rất dễ
nhận ra nơi truyện ngắn Trang Thế Hy một mạch nguồn văn hóa bản địa âm thầm chảy, tạo
nên sở trường riêng cho những truyện ngắn viết về con người và vùng đ._.n (tới tấp, xối xả)…Đó là những tình thái từ có màu
sắc Nam Bộ: hen, nghen, vậy ta....
Bên cạnh đó, có rất nhiều yếu tố đi sau tính từ chỉ mức độ trong phương ngữ miền Nam
giàu sắc thái biểu cảm và chất tươi rói của cuộc sống được Trang Thế Hy đưa vào tác phẩm :
“Em run lập cập, quần áo ướt loi ngoi, óc tai rối bời, môi xanh lét” (Vừng trăng bên kia sông
- Văn Phụng Mỹ)
Hoặc việc nhà văn sử dụng các từ được tạo nên từ cách sắp xếp đặc trưng của người
Nam Bộ trong giao tiếp là: thường đưa những từ chứa thông tin quan trọng lên trước, từ ít
quan trọng hơn để sau. Ví dụ, trong cụm từ “sạch sẽ đứa” thì từ “đứa” có thể bỏ, nhưng từ
“sạch sẽ” thì dứt khoát phải có mặt bởi đó là thông tin chính; “sạch sẽ” là thông tin cần
quan tâm chứ không phải là “đứa”, với các cụm từ khác cũng vậy.
Nhóm từ, cụm từ này không nhiều trong truyện Trang Thế Hy nhưng nó cũng nói lên
được cách nói đặc trưng của người Nam Bộ. Người Nam Bộ vốn bộc trực và ưa ngắn gọn.
Có lẽ chính nét tính cách đó đã ảnh hưởng tới cách chuyển tải thông tin: thông tin nào quan
trọng hơn thì được đưa lên trước, những yếu tố ít quan trọng hơn thì để sau. Như vậy, nếu vì
lý do nào đó ảnh hưởng đến phát âm (chẳng hạn như đứt hơi, mất đi âm cuối …) thì nội dung
chính, quan trọng cũng đã được chuyển tải đến cho người nghe.
Nhìn chung, phương tiện tu từ đáng kể nhất là từ địa phương được nhà văn sử dụng
tinh tế nhằm tạo nên sắc thái địa phương của cảnh vật và con người trong truyện. Tuy vậy,
điều làm nên nét độc đáo ở truyện ngắn Trang Thế Hy là tính đặc sắc của những từ ngữ mà
ông dùng chứ không chỉ ở số lượng từ ngữ mang tính chất Nam Bộ.
Thử đọc một đoạn trong truyện ngắn Trong trắng để thấy sự thú vị của màu sắc địa
phương thể hiện như thế nào qua những từ ngữ ấy:
Hai cái khăn choàng tắm rằn ri, Unhớp nhúaU và Uchầm khíuU tứ tung vừa buông xuống thì
thằng Năm Cà Khêu đã bước ra chào khán giả. Nó hơi ngã về phía trước, khẽ cúi đầu và
Unhích mépU mỉm cười một cách khá dạn dĩ. Đoạn, trong khi chờ những tiếng vỗ tay và những
lời hoan hô dịu bớt xuống, nó dùng Ubàn tay mặtU vuốt mái tóc chải rẽ bảy theo kiểu lưỡi mèo
của nó cho đỡ ngượng [41, tr.98].
Chẳng hạn như đoạn văn sau trong truyện Trong trắng:
Khớp mốc xì gì mậy Tư! Utụi nó ở ngoài chợ mặc dầuU, chớ nó cũng ngán mình lắm,
phải chi mình ra ngoải, thì mày khớp đã đành. Cứ việc ra diễn tưới hột sen, coi như không
có tụi nó vậy [41, tr.101].
Qua đó, có thể thấy đặc điểm nổi bật của phương ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn
Trang Thế Hy đó là cách diễn đạt sống động và giàu sắc thái biểu cảm. Phương ngữ Nam Bộ
trong truyện ngắn Trang Thế Hy còn thể hiện cách diễn đạt dung dị, bình dân, nhiều yếu tố
từ ngữ giản dị và mộc mạc, phù hợp với đời sống và tính cách của con người Nam Bộ.
Nhà văn Nguyên Ngọc từng so sánh Trang Thế Hy với Nguyễn Tuân trong việc sử
dụng từ ngữ ở đặc điểm kỹ lưỡng, tài hoa. Nếu Nguyễn Tuân độc đáo ở nghệ thuật làm mới
ngôn từ, ở việc sử dụng từ láy và việc sáng tạo tổ hợp từ, ở nghệ thuật so sánh thì Trang Thế
Hy lại kỹ lưỡng, tài hoa ở chỗ ông viết dùng những con chữ “quê kiểng” đậm chất địa
phương, vẽ lên được thần thái của nhân vật, của cảnh tình, của sự việc một cách rất mới mẻ,
tạo được sự thú vị cho người đọc.
Những cây dừa rất cao nơi miền quê Nam Bộ chắc chắn không lạ gì đối với người đọc,
nhưng khi đi vào truyện của Trang Thế Hy, chúng lại khiến cho người đọc cảm thấy thú vị,
sự thú vị của sự phát hiện ra điều rất đỗi bình thường, rất đỗi quen thuộc mà mình lại không
nghĩ ra được, không nói lên thành lời cho hay, cho đặc sắc được, dù mình vẫn cảm được. Đó
là cảm giác thú vị khi đọc đến cảnh Trang Thế Hy tả những cây dừa “cao trật ót”, và do đó
mà có cái nghề hái dừa “hụt sào” bán mạng như chơi. Với những đứa trẻ nheo nhóc, suy
dinh dưỡng, nhà văn gọi đó là những đứa trẻ “èo uột như một trái cà đèo”. Trẻ con đi bú nhờ
người khác được gọi là đi “bú khính”. Những đứa trẻ bụ bẩm hay những người lớn khỏe
mạnh, vâm váp đều được gọi là “tốt đứa”. Tả vị chua, tác giả viết “chua quéo miệng”, còn
mặn thì “mặn quéo lưỡi”… Cái kiểu nói quá (cao trật ót, chua quéo miệng…) tạo cho người
đọc sự thú vị, ấn tượng khi tiếp xúc với phương ngữ Nam Bộ.
Chẳng hạn một đoạn sau đây trong truyện Anh Thơm râu rồng:
“Tôi không biết mặt má tôi, anh Thơm bắt đầu nói. Má tôi chết lúc tôi còn nhỏ lắm,
mới có hai ba tháng gì đó. Chết vì đẻ còn non ngày non tháng mà phải dầm mưa đi cấy trừ
nợ bị trúng nước. Tôi lớn lên bằng nước cơm quậy đường, lâu lâu mới được một người có
con nhỏ thấy tội nghiệp cho Ubú khính Umột lần. Sau này lúc tôi được năm sáu tuổi, khi có ai
khen tôi khỏe mạnh, Utốt đứaU ba tôi ưa vò đầu tôi mà nói: ”ờ bây giờ coi nó Usởn sơU vậy, chớ
hồi nhỏ nó U èo uột y như một trái cà đèo”U [41, tr127-128].
Đọc truyện ngắn của ông, chúng tôi nhận thấy ông đã sử dụng đúng mức những từ ngữ
đặc thù, lời ăn tiếng nói của người Nam Bộ. Ông không lạm dụng ngôn ngữ Nam Bộ và cũng
không làm loãng chất Nam Bộ trong ngôn ngữ mà ông vận dụng trong tác phẩm. Ngôn từ
nghệ thuật trong sáng tác của ông phảng phất sắc thái của ngôn ngữ dân gian bình dị, mộc
mạc song cũng mang dấu ấn sâu sắc của sự suy nghiệm. Đó là sự chừng mực đúng mức mà
nhà văn đã đạt được.
Trang Thế Hy tạo những không gian khác nhau cho chữ nghĩa của mình. Không gian
ấy ứng với tần số xuất hiện của những con người Nam Bộ. Khi nói về người, về cảnh, về sự
gắn liền với miền quê, tần số xuất hiện của những từ, cụm từ “đặc” Nam Bộ rất cao. Ngược
lại, khi viết về thành thị hay những con người nơi chốn thị thành đô hội, lượng phương ngữ
này lại ít hẳn đi. Điều này cho thấy ý thức của tác giả trong việc sử dụng phù hợp liều lượng
phương ngữ trong tác phẩm. Sau đây là các số liệu chúng tôi ghi nhận được trong quá trình
khảo sát ngẫu nhiên một số truyện ngắn của Trang Thế Hy:
- Ở mảng đề tài viết về nông thôn, chúng tôi chọn khảo sát ngẫu nhiên hai truyện và có
kết quả như sau:
Áo lụa giồng (1957): 98 lượt từ, cụm từ/10 trang in (khổ 14,5 x 20,5cm).
Nắng đẹp miền quê ngoại (1957): 97 lượt từ, cụm từ /13,5 trang in khổ (16 x 24 cm ).
- Ở mảng đề tài viết về thành thị, chúng tôi cũng chọn ngẫu nhiên hai truyện để khảo
sát và có kết quả như sau:
- Con mèo hoang và nhà thơ có gia cư (1987): 32 lượt từ, cụm từ/ 9 trang in khổ (14,5
x20,5 cm).
- Một thiếu nữ không đáng kể (1957): 27 lượt từ, cụm từ/ 7 trang in khổ (16 x 24 cm).
So với Sơn Nam trong Hương rừng Cà mau, tần số xuất hiện của phương ngữ Nam Bộ
trong truyện viết về nông thôn của Trang thế Hy cao hơn. Đây là một số dẫn chứng để chứng
minh cho nhận xét này:
- Chuyện năm xưa có 45 lượt từ, cụm từ/11 trang in khổ 14 x 20 cm, tức trên 4 lượt từ,
cụm từ trong mỗi trang.
- Đảng “Cánh buồm đen” có 36 lượt từ, cụm từ/9 trang in khổ 14 x 20 cm, tức 4 lượt
từ, cụm từ trong mỗi trang.
- Anh hùng rơm có 47 lượt từ, cụm từ/10 trang in khổ 14 x 20 cm, tức gần 5 lượt từ,
cụm từ trong mỗi trang.
Như vậy, có thể thấy trung bình mỗi trang viết của Trang Thế Hy về con người và
cảnh đời ở nông thôn Nam Bộ xuất hiện gần 10 lượt từ, cụm từ mang đặc trưng của phương
ngữ Nam Bộ. Còn mỗi trang viết về con người, cảnh đời ở thành thị chỉ có khoảng trên 3
lượt từ, cụm từ mang đặc trưng phương ngữ Nam Bộ. Nếu tần số xuất hiện của các từ ngữ
Nam Bộ trong truyện của Sơn Nam khá đều đặn thì tần số xuất hiện của từ ngữ Nam Bộ
trong các truyện của Trang Thế Hy lại có sự chênh lệch nhau khá rõ rệt tùy thuộc vào mảng
đề tài mà nhà văn phản ánh.
Qua so sánh này, chúng ta thấy Trang Thế Hy đã rất có ý thức trong việc sử dụng
phương ngữ Nam Bộ trong tác phẩm của mình để đạt hiệu quả nghệ thuật cao nhất. Ông biết
“điều tiết” tần số của phương ngữ, góp phần tạo cho các trang viết về nông thôn mang “đậm
chất quê”, các trang viết về thị thành lại đậm “chất phố xá”. Sự “điều tiết” ấy của Trang Thế
Hy luôn tạo cho người đọc cảm giác gần gũi, dễ chịu và dễ hiểu.
Để đạt đến ngưỡng ngôn từ vừa đậm chất Nam Bộ vừa không xa lạ với người đọc ở
các vùng miền khác phải là người có một sự am hiểu sâu sắc về ngôn ngữ tiếng Việt, đồng
thời phải có một năng lực tư duy ngôn ngữ, không phải nhà văn nào cũng làm được điều đó.
Quá trình sáng tạo tác phẩm là con đường sáng tạo nội dung đi qua sự sống của ngôn
ngữ trong tâm trí người viết. Trang Thế Hy đã để cho ngôn ngữ sống đúng cuộc sống của nó,
đúng “địa vị” của nó. Nhà văn đưa vào trong tác phẩm của mình phương ngữ Nam Bộ với
một dung lượng vừa phải, đồng thời có sự chọn lọc rất tinh tế. Điều đó góp phần tạo cho lời
văn một khả năng diễn đạt dễ hiểu, vừa tạo nét riêng không thể lẫn. Ông đã viết những dòng
chữ ăm ắp những khát khao giãi bày, ăm ắp hơi thở của cuộc sống. Nơi mảnh đất phương
Nam, ông đã tạo cho mình một lối đi riêng bên cạnh những cây bút gạo cội bằng chính nội
lực và thành ý của chính mình. Với cái “tạng” thầm trầm, điềm tĩnh, Trang Thế Hy đã góp
tiếng nói nghệ thuật độc đáo của mình làm giàu thêm cho kho tàng văn chương của dân tộc.
Tất nhiên, có thể có người không đồng tình với những nhận định này vì cho rằng,
trong tác phẩm văn chương mà sử dụng quá nhiều tự địa phương thì sẽ gây trở ngại cho
người đọc, hạn chế độc giả. Nhưng để có được những sáng tác phản ánh sinh động thực tại,
không gì tốt hơn là phải dùng được chất liệu ngôn từ của thực tại cần phản ánh. Bằng chính
trang viết của mình, Trang Thế Hy đã chứng minh rằng bản thân ngôn từ tự nhiên, giản dị
cũng là một vẻ đẹp và một cách biểu hiện nghệ thuật độc đáo, đó là vẻ đẹp của sự giản dị mà
phong phú.
KẾT LUẬN
“Văn hoá là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh
liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua biết bao sóng gió và thác ghềnh tưởng
chừng không thể vượt qua được, để không ngừng phát triển và lớn mạmh”.
(Phạm Văn Đồng)
Dân tộc Việt Nam ta từ xưa đến nay vốn có một truyền thống văn hoá lâu đời, đậm đà
bản sắc - phong vị quê hương. Mỗi miền quê, mỗi vùng đất đều tự nó mang trong mình dấu
ấn văn hoá riêng biệt, vừa có những nét đặc thù, lại vừa thống nhất trong tính chỉnh thể của
nền văn hoá dân tộc Việt Nam. Nam Bộ là một vùng đất mới, thậm chí còn rất mới so với
chiều dài lịch sử đất nước, và dân tộc người Việt xuất hiện ở đây chỉ mới năm ba thế kỉ. Trên
đường tha phương cầu thực, chắc chắn những di dân này đã mang theo di sản văn hóa của cả
mấy ngàn năm từ miền Bắc, miền Trung vào. Trong điều kiện thiên nhiên đặc thù tất nhiên
văn hóa ấy phải ứng biến cho phù hợp. Đi vào truyện ngắn Trang Thế Hy, có thể thấy được
những lát cắt đời sống của con người và vùng đất Nam Bộ với những sắc thái riêng được
chưng cất từ chồi lộc, hoa trái của hạt giống văn hóa Việt Nam. Và con người Nam Bộ với tư
cách là chủ thể sáng tạo văn hóa đã đi vào trang viết của Trang Thế Hy với những nét tính
cách đẹp đẽ, độc đáo. Cùng với các nhà văn Nam Bộ khác, Trang Thế Hy đã góp phần khắc
họa diện mạo văn hóa và con người Nam Bộ trong những ngày đen tối của lịch sử dân tộc
một cách đậm nét và toàn diện hơn.
Tác phẩm của ông ra đời trong những năm chiến tranh ở miền Nam đã đem đến cho
người đọc một chỗ dựa tinh thần vững chắc đó là cội nguồn dân tộc, làm chúng ta yêu quê
hương hơn và tin tưởng vào cuộc sống hơn. Tình yêu và niềm tin ấy không xuất phát từ quan
điểm chính trị hay giáo lý đạo đức mà chính là sự gắn kết tự nhiên với đất mẹ thiêng liêng,
với nơi mình sinh ra lớn lên, bao gồm cả những điều tưởng như vụn vặt, tầm thường nhất
như giọng nói, món ăn, nước uống, cỏ cây...
Con người và văn hoá Nam Bộ trong truyện ngắn Trang Thế Hy nói riêng và trong các
tác phẩm văn xuôi nói chung, một lần nữa đã chứng minh cho mối quan hệ nội tại của văn
học và văn hoá. Văn học vừa là một thành tố quan trọng của văn hoá vừa tác động đến sự
phát triển của văn hoá dân tộc. Với tư cách chủ thể tiếp nhận văn hoá đồng thời là chủ thể
sáng tạo, nhà văn chính là người lưu giữ qua văn chương mình những đặc trưng của văn hoá
dân tộc. Thể hiện bằng hình tượng và thông qua hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn
học, những nét riêng của văn hoá được người đọc cảm nhận sống động, tươi nguyên và cụ
thể hơn.
Dù tác phẩm của ông không nhiều về số lượng. Nhưng những đóng góp nghệ thuật của
nhà văn xứ Dừa này trong tiến trình vận động của văn học yêu nước thành thị miền Nam nói
riêng, văn học Nam Bộ nửa sau thế kỉ XX nói chung, thật đáng trân trọng. Trang Thế Hy là
một nhà văn Nam Bộ có phong cách. Mỗi nhà văn đều có một quan niệm nghệ thuật riêng
cho mình. Trang Thế Hy quan niệm rằng điểm tựa tin cậy của người cầm bút là nỗi đau khổ
của số đông thầm lặng.Và đương nhiên, thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của ông là thế
giới những con người đau khổ, “biết nói mà làm thinh không nói”. Trong dòng chảy chung
của văn chương Nam Bộ, Trang Thế Hy khác với những người cầm bút khác phải chăng
chính ở chỗ này.
Trang Thế Hy đã chứng tỏ một bút lực già dặn và tinh tế trong khi tạo dựng những
hình tượng nghệ thuật trong sáng tác của mình. Nhân vật của ông luôn là những con người
rất đời, rất gần gũi, mộc mạc mà bản lĩnh, lại chân chất, bộc trực, đúng với bản chất của con
người Nam Bộ. Nhà văn đã đẩy họ đến trước những lựa chọn quyết liệt để từ đó họ tỏ sáng
thứ ánh sáng của nhân phẩm, của tâm hồn, của lương tri.
Thiên nhiên Nam Bộ cũng là một mảng khá thú vị trong truyện của Trang Thế Hy.
Ông đã đem đến cho người đọc những kiến thức lý thú về tự nhiên Nam Bộ. Những dòng
những trang viết về thiên nhiên của ông là cả một sự thấu hiểu sâu xa, một sự mến yêu thắm
thiết đối với mảnh đất Nam Bộ trong những năm bị thế lưc ngoại xâm giày xéo. Viết về thiên
nhiên phong tục của người dân Nam Bộ trong những ngày như thế quả thực có ý nghĩa rất
lớn trong việc hướng về cội nguồn, thể hiện tình yêu với quê hương đất nước.
Truyện của Trang Thế Hy thuộc kiểu truyện ngắn trữ tình. Ngòi bút của ông luôn chú
trọng vào những vấn đề nhân bản của cuộc sống. Chọn kiểu tự sự phi cốt truyện, với ngôi
thứ nhất xưng “tôi”, Trang Thế Hy đã có nhiều cơ hội để bày tỏ quan niệm sống, quan niệm
nghệ thuật của mình một cách sâu sắc nhất. Với vốn ngôn ngữ Nam Bộ phong phú, hấp dẫn,
với dụng ý nghệ thuật riêng. Trang Thế Hy đã biết điều tiết vốn từ ngữ của mình để tạo nên
những đặc sắc trong những trang viết, đem đến cho người đọc những bất ngờ, thú vị trong
cách dùng phương ngữ của mình.
Văn của ông thật đẹp, đẹp từ ngôn từ đến giọng điệu, đẹp từ tâm hồn nhân vật đến
cách hành xử của họ. Nhà văn mải miết kiếm tìm những vẻ đẹp bị lãng quên trong cõi nhân
sinh, đem đến những góc khuất trong cõi thế này thứ ánh sáng của niềm tin, của ân tình,
chúng ta sẽ phải nhìn kĩ hơn những người những cảnh xung quanh để cuộc sống này bớt đi
những hớ hênh do sự vô tâm cố hữu của mỗi con người. Để rồi chúng ta sẽ thấy cuộc đời này
đáng sống hơn, những con người quanh mình cũng đẹp hơn nhiều lần so với trước.
Gamzatov từng nói:“Văn học không có ranh giới, nhưng nhà văn phải có quê hương”.
Và chính ông đã làm cho cả thế giới này biết đến cái làng Đaghextan nhỏ bé của ông.Với
những tác phẩm của mình, Trang Thế Hy đã tạo nên dấu ấn trong lòng bạn đọc cả trong và
ngoài nước, làm cho người ta biết đến có một vùng đất Nam Bộ như thế trên lãnh thổ Việt
Nam. Với tất cả những gì Trang Thế Hy thể hiện trên trang viết của mình đã là lời khẳng
định hùng hồn nhất, là niềm tự hào thành kính nhất trước vẻ đẹp đặc trưng của văn hóa và
con người Nam Bộ./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Ái (chủ biên) (2004), Từ điển phương ngữ Nam Bộ, Nhà xuất bản Thành phố
Hồ Chí Minh.
2. Nguyên An (2001), “Phác thảo văn chương Nam Bộ”, Tạp chí Nhà văn, ( số 11).
3. Hoài Anh (2001), Chân dung văn học, Nhà xuất bản Hội Nhà văn.
4. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (2006), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam, Tập 1, Nhà xuất
bản Giáo dục.
5. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (2006), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam, Tập 2, Nhà xuất bản
Giáo dục.
6. Vũ Tuấn Anh (2003), “Điểm tựa tin cậy của người viết là nỗi đau khổ của số đông thầm
lặng…”, Tạp chí Văn học (số 10).
7. Lại Nguyên Ân (biên soạn) 1999, 150 Thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Quốc Gia, Hà
Nội.
8. M. Bakhtin (1980), “Một số khía cạnh phương pháp luận cần lưu ý khi nghiên cứu văn học
quá khứ”, Vương Trí Nhàn dịch, Tạp chí Văn học (số 4).
9. Trần Lê Bảo (2009), “Giải mã văn hóa trong tác phẩm văn học”, Tạp chí Nghiên cứu
Trung Quốc (số 2).
10. Nam Cao (2001), Tuyển tập Nam Cao, Tập 1, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
11. Tân Chi (tuyển chọn) 1999, Thạch Lam - Văn và đời, Nhà xuất bản Văn học Hà Nội.
12. Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hoá học, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, Viện Văn hoá,
Hà Nội.
13. Lê Văn Chưởng (1999), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí
Minh.
14. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nhà xuất bản Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
15. Nguyễn Văn Dân (2004), “Tiếp cận văn học bằng văn hóa học”, Tạp chí Văn học (số 11).
16. Chu Xuân Diên (2002), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Thành
phố Hồ Chí Minh.
17. Chu Xuân Diên (2004), Mấy vấn đề văn hóa và văn học dân gian Việt Nam, Nhà xuất
bản Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
18. Trần Phỏng Diều (2007), “Hình tượng sông rạch trong truyện ngắn Sơn Nam”,
3TU
19. Trần Hữu Dũng (2003), Vốn Văn hoá, Tạp chí Tia sáng, Nhà xuất bản Trẻ Thành phố Hồ
Chí Minh.
20. Phạm Đức Dương, Từ văn hoá đến văn học, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, Hà Nội.
21. Nguyễn Văn Duy (2002), Văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, Hà Nội.
22. Nguyễn Đức Đàn (1972), “Chủ nghĩa nhân đạo và một số khuynh hướng văn học công
khai trong vùng tạm chiến miền Nam”, Tuyển tập 40 năm Tạp chí văn học 1960-1999,
Tập 3.
23. Hữu Đạt (2000), Văn hoá và ngôn ngữ giao tiếp của người Việt, Nhà xuất bản Văn hoá
Thông tin, Hà Nội.
24. Phan Cự Đệ (chủ biên), (2007), Truyện ngắn Việt Nam: Lịch sử - Thi pháp - Chân dung,
Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
25. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nhà xuất bản Văn học, Trung tâm
nghiên cứu Quốc học, Tp Hồ Chí Minh.
26. Hà Minh Đức (2001), “Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hoá văn nghệ”,
Tạp chí Văn học (số 5), trang 4-13.
27. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình (chủ biên) 1988, Địa chí Văn hoá
Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.
28. Nhiều tác giả (2002), Bản sắc dân tộc trong văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học,
Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Thành phố Hồ Chí Minh.
29. Nhiều tác giả (1991), Địa chí Bến Tre, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.
30. Nhiều tác giả (2006), Trò chuyện với 100 nhà văn Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hoá Sài
Gòn.
31. Nhiều tác giả (1988), Tuyển tập văn 1945 - 1975, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin
Thành phố Hồ Chí Minh.
32. Nguyễn Văn Hạnh (2007), “Văn hóa như là nguồn mạch sáng tạo và khám phá văn
chương”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (số 1).
33. Nguyễn Văn Hạnh, “Về khái niệm văn hoá - Vài khía cạnh lý luận và thực tiễn”, Tạp chí
Văn học (số 9), trang 60-63.
34. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lí luận văn học, vấn đề và suy nghĩ,
Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
35. Hoàng Ngọc Hiến (2006), Văn học…gần và xa (Tái bản lần thứ nhất), Nhà xuất bản Giáo
dục, Hà Nội.
36. Nguyễn Thị Thanh Hoa (2007), Đặc điểm truyện ngắn Trang Thế Hy, Luận văn Thạc sĩ văn
học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
37. Nguyễn Thái Hoà (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà
Nội.
38. Nguyễn Hữu Hiệp (2006), “Cần giữ gìn sự trong sáng vốn có của ngôn ngữ Nam Bộ”,
3TU
39. Đỗ Đức Hiểu (2004), Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (chủ biên) Từ điển
văn học (Bộ mới), Nhà xuất bản Thế giới.
40. Trang Thế Hy (1993), Tiếng hát và tiếng khóc (Truyện ngắn và hồi ức), Hội Văn học
Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu, Bến Tre.
41. Trang Thế Hy (2006), Truyện ngắn Trang Thế Hy, Nhà xuất bản Văn hoá Sài Gòn.
42. Vũ Minh Giang (2006), Lược sử vùng đất Nam Bộ - Việt Nam, Hội Khoa học Lịch sử
Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới.
43. Nguyễn Mộng Giác (1972), “Nhìn lại 15 năm văn nghệ miền Nam”, Bách khoa (361-
362).
44. Cao Huy Khanh (1974), “Vấn đề khuynh hướng trong tiểu thuyết miền Nam từ 1954 –
1973”, Thời Tập, ( số 4).
45. Cao Huy Khanh (1970), “Sơ khảo 15 năm văn xuôi miền Nam 1955 - 1969”, Khởi Hành,
( số 74).
46. Đinh Gia Khánh (1998), “Văn học góp phần tạo nên những giá trị văn hóa hàng đầu của
dân tộc”, Tạp chí Văn học (số 6).
47. M.B Khravchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, Nhà
xuất bản Tác phẩm mới, Hà Nội.
48. Tôn Phương Lan (2002), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nhà xuất bản Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
49. Trần Xuân Ngọc Lang (1995), Phương ngữ Nam Bộ, , Nhà xuất bản Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
50. Huỳnh Lứa (chủ biên) (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nhà xuất bản Thành
phố Hồ Chí Minh.
51. Phương Lựu (chủ biên), (2004), Lý luận văn học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
52. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nhà
xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
53. Nguyễn Đăng Mạnh (2005), Nhà văn Việt Nam hiện đại - Chân dung và phong cách,
Nhà xuất bản Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh.
54. Tôn Thảo Miên (1997), “Về khái niệm phong cách cá nhân của nhà văn”, Tuyển tập 40
năm Tạp chí Văn học 1960 - 1999, tập 3.
55. Sơn Nam (2006), Hương rừng Cà Mau, Nhà xuất bản Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh.
56. Sơn Nam (2007), Biên khảo Sơn Nam, nói về miền Nam, cá tính miền Nam, thuần phong
mỹ tục Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh.
57. Chu Nga (1974), “Lê Vĩnh Hoà - Vị trí của anh trong nền văn xuôi cách mạng miền
Nam”, Tuyển tập 40 Tạp chí Văn học 1960 - 1999, tập 3.
58. Vũ Thị Tố Nga (2006), “Khả năng của truyện ngắn trong việc thể hiện con người”, Tạp
chí Văn học, (số 5).
59. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, Hà Nội.
60. Phan Ngọc, Quan hệ giữa văn chương và văn hóa ở Việt Nam, 3TUwww.vienvanhoc.org.vnU3T.
61. Phan Ngọc, Thử xét văn hoá – văn học bằng ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà
Nội.
62. Phùng Quý Nhâm (2003), Văn học và văn hoá từ một góc nhìn, Nhà xuất bản Văn học và
Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Thành phố Hồ Chí Minh.
63. Phùng Quý Nhâm, Bản sắc dân tộc trong văn học, Bản sắc dân tộc trong văn hoá văn
nghệ, Nhà xuất bản Văn học - Trung tâm nghiên cứu Quốc học, trang 249 – 255.
64. Nhiều tác giả (2002), Bản sắc dân tộc trong văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học,
Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Thành phố Hồ Chí Minh.
65. Hoàng Phê (chủ biên), (2003), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng.
66. Huỳnh Như Phương (1994), Những tín hiệu mới, Nhà xuất bản Hội nhà văn.
67. Lữ Phương (1974), “Văn học nghệ thuật các thành thị miền Nam và con đường phát triển
của nó”, Văn nghệ ( số 553) (7 - 6 - 1974) và ( số 554) (14 - 6 - 1974), Hà Nội.
68. Thạch Phương - Đoàn Tứ (chủ biên) 1999, Địa chí Bến Tre, Nhà xuất bản Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
69. Vương Hiền Sển (1999), Tự vị tiếng nói miền Nam, Nhà xuất bản Trẻ Thành phố Hồ Chí
Minh.
70. Đặng Đức Siêu (2004), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà
Nội.
71. Lê Văn Siêu, Nếp sống tình cảm của người Việt Nam, Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, Thành
phố Hồ Chí Minh.
72. Cao Xuân Sơn (tuyển chọn) 2004, Đi chỗ khác chơi, Tài liệu lưu hành nội bộ mừng nhà
văn Trang Thế Hy 80 tuổi.
73. Trần Đình Sử ( 1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo dục và đào tạo, Vụ
giáo viên, Hà Nội.
74. Trần Đình Sử (2005), Trần Đình Sử tuyển tập, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
75. Trần Đình Sử (chủ biên) 2003, Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nhà xuất bản
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
76. Trần Hữu Tá (2000), Nhìn lại một chặng đường Văn học, Nhà xuất bản Thành phố Hồ
Chí Minh.
77. Trần Hữu Tá (1998), Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975, Nhà xuất bản Giáo dục,
Hà Nội.
78. Trần Hữu Tá (1998), Tư liệu truyện kí Việt Nam 1955 - 1975, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà
Nội.
79. Hồ Tĩnh Tâm (2005), “Từ phương ngữ Nam Bộ đến sáng tạo văn bản thành văn”, Tham
luận tại hội thảo khoa học về văn hóa văn nghệ dân gian đồng bằng sông Cửu Long lần
thứ nhất, Trường Đại học Cần Thơ.
80. Huỳnh Công Tín (2006), Cảm nhận bản sắc Nam Bộ, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin.
81. Huỳnh Công Tín (2007), Từ điển từ ngữ Nam Bộ, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
82. Đào Thản (1994), “Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi”, Tạp chí
Văn học, ( số 2), tr.13.
83. Nguyễn Phương Thảo (1994), Văn hoá dân gian Nam Bộ - Những phác thảo, Nhà xuất
bản Giáo dục, Hà Nội.
84. Bùi Thanh Thảo (2004), Cái đẹp trong văn xuôi nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước Cách
mạng tháng Tám, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh.
85. Nguyễn Quyết Thắng (1998), Tiến trình văn nghệ miền Nam, Nhà xuất bản Văn học.
86. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn - Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
87. Hồ Bá Thâm (2003), Văn hoá Nam Bộ vấn đề và phát triển, Nhà xuất bản Văn hoá thông
tin, Hà Nội.
88. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở Văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
89. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ
Chí Minh.
90. Trần Ngọc Thêm - Phạm Hồng Quang (1999), Văn hoá học và văn hoá Việt Nam, Nhà
xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội.
91. Trần Nho Thìn (2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá, Nhà xuất bản
Giáo dục.
92. Ngô Đức Thịnh (1993), Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá ở Việt Nam, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội.
93. Đỗ Lai Thuý (1999), Từ cái nhìn văn hoá, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
94. Đỗ Lai Thúy, Mối quan hệ văn hóa – văn học nhìn từ hệ thống lí thuyết,
3TUwww.vienvanhoc.org.vnU3T.
95. Đỗ Thị Minh Thuý, Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học, Nhà xuất bản Văn hoá thông
tin, Hà Nội.
96. Phan Trọng Thưởng (1991), “Đặc điểm cơ bản của sự phát triển văn học trong điều kiện
chiến tranh 1945- 1975”, Tuyển tập 40 năm Tạp chí Văn học, tập 3.
97. Lê Ngọc Trà (2005), Thách thức của sáng tạo - Thách thức của văn hoá, Nhà xuất bản
Thanh niên.
98. Lê Ngọc Trà (2002), Lý luận và văn học (tái bản lần thứ nhất), Nhà xuất bản Trẻ, Thành
phố Hồ Chí Minh.
99. Lê Ngọc Trà (tập hợp và giới thiệu), (2001), Văn hóa Việt Nam - đặc trưng và cách tiếp
cận, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
100. Lý Chánh Trung (2005), Một thời đạn bom - Một thời hoà bình, Tuyển tập, Nhà xuất
bản Tổng hợp Đồng Nai.
101. Đỗ Minh Tuấn (1996), Ngày văn học lên ngôi (Tiểu luận – phê bình), Nhà xuất bản Văn
học.
102. Trần Quốc Vượng (chủ biên), (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục,
Hà Nội.
103. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2004), “Đoàn Giỏi - Đất và rừng phương Nam”, Tiếng vọng
những mùa qua, Nhà xuất bản Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh.
PHỤ LỤC
TÁC PHẨM CỦA TRANG THẾ HY
I. TRUYỆN NGẮN
1. Anh Thơm râu rồng
2. Áo lụa giồng
3. Ba bốn câu thơ
4. Bà mẹ già và thúng khổ qua
5. Bây giờ là mùa thu
6. Bơ vơ
7. Cánh chim xuân trên đỉnh núi
8. Cành hoa sau cơn mưa
9. Cây bút máy của nhà thơ
10. Chất liệu
11. Chút hào quang từ mảnh vỡ của ngôi sao buồn
12. Con cá không biệt tăm
13. Con mèo hoang và nhà thơ có gia cư
14. Con người đã xuất hiện rồi
15. Cô gái Ô môi
16. Đường bay ngắn của một vòng luân hồi
17. Giả đò yêu
18. Giọt lệ tình trên dòng nước hôi tanh
19. Hai người nhìn mưa dầm
20. Hai người tàn tật
21. Hồng nhan và đồng xu
22. Lời thề bên vách lá
23. Màu áo người phương Bắc
24. Mớ tóc rối của người tình nghèo
25. Một ngày với người yêu
26. Một nghệ sĩ
27. Một thiếu nữ không đáng kể
28. Mùa xuân chưa đi qua
29. Mưa ấm
30. Mười ba con chim và mùa xuân
31. Mỹ Thơ
32. Nắng đẹp miền quê ngoại
33. Nghệ thuật làm bố dượng
34. Nguồn cảm mới
35. Người bào chế thuốc giảm đau
36. Người chị áo xanh
37. Người đẹp bán thơ
38. Người và trăng
39. Những người lấp hố bom
40. Nói về một người yêu
41. Nợ nước mắt
42. Nơi người yêu ở đẹp hơn cả
43. Nước mắt người yêu nghèo
44. Rác và hoa
45. Sách và chim
46. Sau trận giặc tình
47. Than thở
48. Thèm thơ
49. Tiếng hát và tiếng khóc
50. Tình chỉ nở một lần thôi
51. Tình trên xe buýt
52. Trả lại màu xanh cho tuổi xanh
53. Trị tội con hà bá
54. Trong trắng
55. Trời xanh như mắt em
56. Vầng trăng bên kia sông
57. Về nhà trước cơn mưa
58. Vết thương thứ 13
59. Vui nhỏ trên đường dây
60. Xứ xa và xứ mơ
II. TIỂU THUYẾT FEUILLETONS
1. Hoa tình chỉ nở một lần thôi ( được in trên Tuần báo “Chị cùng em”, do Lâm Xuân Mai
chủ biên)
2. Nét buồn bạc mệnh (được in Nhật báo “Thủ Đô”, do Trần Kiêm Uẩn chủ biên - In được
khoảng 10 kỳ thì tác giả phải rời Sài Gòn)
III. HỒI ỨC
Một nghệ sĩ buồn thích đùa
IV. THƠ
1. Bài thơ trên đống rác
2. Bối rối
3. Bứt đứt sợi dây chỉ hồng
4. Cuộc đời
5. Dấu răng
6. Định lí và định lí
7. Hoang tưởng trắng
8. Lời dạy của mẹ về thời gian và văn minh
9. Lời nói dối nhân ái
10. Người bạn đường có tên là hy vọng
11. Người mẹ + cô giáo
12. Tấm vé số và những thiên đường có sẵn
13. Thanh gươm tháng Tám
V. DỊCH THƠ
1. Cây đèn của tình yêu
2. Chết trong sự viên mãn
3. Đôi mắt của trái tim
4. Đường đi của người không thuộc đường
5. Hoa nở và trái chín
6. Người biết làm cho hoa nở
7. Những nụ hoa tình yêu chưa kịp nở
8. Niềm tin và lời hứa
9. Sự sống bên trong và bên ngoài tôi
Chín bài thơ trên đây của thi hào Rabindranath Tagore được trích từ tập thơ Giỏ trái
cây (La corbeille de fruits) do nữ dịch giả Pháp Hélène du Pasquier dịch sang tiếng Pháp,
nhà xuất bản Nouvelle revue francaise in năm 1921 tại Paris, được Trang Thế Huy dịch từ
tiếng Pháp.
Mỗi bài không có nhan đề riêng, chỉ được đánh dấu bằng con số La Mã. Nhan đề do
người dịch tự đặt.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5566.pdf