BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thị Thắm
TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM – TRUYỆN NGẮN
PAUXTỐPXKI: SỰ GẶP GỠ CỦA PHONG CÁCH
NGHỆ THUẬT
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM THỊ PHƯƠNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Phạm Thị Phương,
người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu,
thực hiện và hoàn th
126 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2124 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Truyện ngắn Thạch Lam - Truyện ngắn Pauxtốpxki: Sự gặp gỡ của phong cách nghệ thuật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành bản luận văn này.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Nguyễn
Nam Phong, người đã dịch và cung cấp nhiều tư liệu quý giúp cho tôi
có thể tìm hiểu vấn đề toàn diện hơn.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong tổ
Văn học Việt Nam, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ Văn, phòng Quản lí sau
đại học – trường Sư phạm TP. HCM, Ban giám hiệu nhà trường –
trường Dự bị đại học TP. HCM, tới gia đình, bạn bè đã luôn động viên,
giúp đỡ để tôi hoàn thành khóa học.
TP. HCM, ngày 02 tháng 12 năm 2010
Trần Thị Thắm
DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Quá trình toàn cầu hóa diễn ra từ cuối thế kỉ XX, đồng đều ở mọi lĩnh vực, hầu như đã
xóa bỏ sự ngăn cách giữa các nước, làm cho các dân tộc trên thế giới xích lại gần nhau
hơn. Trong bối cảnh ấy, văn học so sánh ra đời nhằm khám phá mối liên hệ văn học giữa
các quốc gia, bổ sung quan trọng cho hướng nghiên cứu văn học dân tộc biệt lập từ trước
đến nay.
Quả thật, ngôn ngữ và văn hóa của các dân tộc trên thế giới là khác nhau, nhưng tư
duy, tình cảm, tâm lí, thẩm mĩ lại có nhiều điểm tương đồng. Nghiên cứu văn học Việt
Nam trong mối tương quan với văn học thế giới giúp chúng ta ý thức về vị thế, thân phận,
tư cách của văn học dân tộc mình trong cộng đồng nhân loại. Đó còn là con đường khám
phá bản sắc dân tộc.
Một điều không thể phủ nhận là mặc dù cách xa nhau hơn “nửa vòng trái đất” nhưng
Việt – Nga có quan hệ “thâm tình”, gắn bó. Văn hóa của hai nước phương Đông –
phương Tây này có nhiều điểm tương đồng. Hơn nữa, cả hai dân tộc đều có số phận lịch
sử thật lắm thăng trầm: từng chịu nhiều khổ đau, mất mát, từng trải qua nhiều cuộc chiến
tranh để bảo vệ độc lập chủ quyền và cũng từng lập nên nhiều chiến thắng vẻ vang, ghi
dấu son chói lọi trong trang sử hào hùng của mỗi dân tộc. Vì thế mà mặc dù đến Việt
Nam muộn hơn văn học Trung Quốc và văn học Pháp, song văn học Nga vừa gặp đã trở
nên gắn bó, thân quen.
Trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam hiện đại, Thạch Lam đóng góp ở
nhiều thể loại. Mặc dù ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ, với một số lượng tác phẩm chưa đạt
đến mức “đồ sộ”, nhưng nhà văn đã sớm xác lập cho mình vị trí của một cây bút văn xuôi
có tầm vóc, một người viết truyện ngắn xuất sắc, không thể thay thế. Nhìn sang văn học
Nga, ta thấy có sự “hội ngộ bất ngờ” giữa Thạch Lam và Pauxtốpxki trong địa hạt văn
xuôi trữ tình, đặc biệt là ở thể loại truyện ngắn. Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều nổi
tiếng với những truyện ngắn “không có chuyện”.
Tác phẩm của Pauxtốpxki được đón nhận một cách nồng nhiệt ở Việt Nam. Bình minh
mưa và Bông hồng vàng trở thành tập sách gối đầu giường của độc giả yêu văn học, nhất
là giới trẻ. Truyện ngắn của ông đã đi vào thơ của nhiều cây bút người Việt, những tâm
hồn đã tìm thấy ở đây sự đồng cảm, chia sẻ, những rung động mãnh liệt, chẳng hạn Bằng
Việt, Thúy Toàn, Phạm Ngọc Lan… Với bản thân người viết, những trang sách của
Pauxtốpxki luôn là “áng mây ngũ sắc ngủ trong đầu” 1, là người bạn trong hành trình
tuổi trẻ và cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho những vần thơ viết về tình yêu và cuộc
sống.
Trong cuộc sống xô bồ, nhộn nhịp hôm nay, những truyện ngắn của Thạch Lam –
Pauxtốpxki vẫn luôn là những món ăn tinh thần quý giá, là bến nước trong êm ả, an lành
cho tâm hồn mỗi chúng ta tìm về neo đậu.
Đặt truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki bên cạnh nhau trong thế đối
sánh giúp ta có cái nhìn toàn diện, sâu sắc về hai tác giả, đồng thời vẻ đẹp văn hóa của
mỗi dân tộc cũng được phát hiện, tôn tạo thêm.
Trên đây là những lí do chính thôi thúc chúng tôi lựa chọn “Truyện ngắn Thạch
Lam – truyện ngắn Pauxtốpxki: sự gặp gỡ của phong cách nghệ thuật” làm đề tài
nghiên cứu cho bản luận văn này.
2. Lịch sử vấn đề
Thạch Lam và Pauxtốpxki lâu nay đã chiếm lĩnh được nhiều tình cảm của độc giả
Việt Nam. Từ những năm 30 trở đi, xuất hiện với 3 tập truyện ngắn Gió đầu mùa (1937),
Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942), Thạch Lam được coi như một trong những cây bút
truyện ngắn xuất sắc bậc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Từ thập niên 50, qua các
bản dịch của Vũ Minh Thiều, Bửu Kế, Cẩm Tâm, Kim Ân, Mộng Quỳnh, Phan Hồng
Giang…, bạn đọc Việt Nam biết đến Pauxtốpxki như một tài năng đoản thiên tự sự, làm
không ít người bất giác liên tưởng đến Thạch Lam.
Một thực tế rằng ở Việt Nam, từ trước 1945 đến nay, các công trình, bài nghiên cứu về
Thạch Lam khá đồ sộ. Khoảng mười năm trở lại đây, có nhiều công trình có quy mô, tầm cỡ
nghiên cứu về đặc trưng truyện ngắn của Thạch Lam. Truyện ngắn của ông đã được khám
phá từ mọi giác độ, mọi bình diện: tư tưởng, quan điểm của tác giả, nội dung phản ánh, nghệ
thuật thể hiện, phong cách văn xuôi nghệ thuật… Số lượng công trình, bài viết về
Pauxtốpxki, so với Thạch Lam, “mỏng” hơn nhiều. Những vấn đề liên quan đến đặc trưng
phong cách nghệ thuật Pauxtôpxki không phải là quá mới mẻ, ở những bài giới thiệu khái
quát, hầu hết các dịch giả trên đều đề cập đến. Riêng việc nghiên cứu truyện ngắn Thạch
1 Thơ Bằng Việt
Lam trong thế đối sánh với truyện ngắn Pauxtốpxki thì vẫn còn bỏ ngỏ. Chúng tôi xem vấn
đề này là một mảnh đất trống đầy hấp lực và thách thức trong việc tìm hiểu, khám phá nó.
Vì tránh sự trùng lặp không cần thiết với công việc nhiều nhà nghiên cứu đã làm, ở
đây chúng tôi xin phép không bàn đến những công trình nghiên cứu về truyện ngắn ở mỗi tác
giả (Thạch Lam hoặc Pauxtốpxki) mà chỉ quan tâm đến các tài liệu trực tiếp đề cập đến đề
tài.
Phan Hồng Giang, một trong những dịch giả có đóng góp rất lớn với việc đưa tác
phẩm của Pauxtốpxki đến với người đọc Việt Nam, trong bản dịch của tập tiểu luận Một
mình với mùa thu, đã có những nhận xét rất xác đáng về Pauxtốpxki: “Có thể coi là một tấm
gương cùng soi chung của tâm hồn hai dân tộc Nga – Việt. Ông đã là biểu hiện cụ thể cho
cái đồng cảm, đồng điệu giữa tâm hồn hai dân tộc vốn có rất nhiều điểm chung trong số
phận lịch sử hình thành và phát triển” (Chúng tôi nhấn mạnh) [64, tr. 325]. Bùi Việt Thắng
trong cuốn Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại cho rằng: “Đọc văn
Thạch Lam chúng ta thấy văn của ông tựa hẳn vào cảm giác mà sinh thành. Nhân vật của
ông nhận biết hết thế giới xung quanh và giao hòa được với người khác cũng chủ yếu nhờ
vào cảm giác. Đọc Thạch Lam ta nhớ tới A. Đôđê (Pháp), Pauxtốpxki (Nga), A. Môroa
(Pháp) – những nhà văn có sức mạnh của trực giác trong văn” (Chúng tôi nhấn mạnh) [
80, tr. 187]. Đó là những nhận xét mang tính mở đường, gợi dẫn mà chúng tôi tiếp tục
nghiên cứu trong bản luận văn.
Tóm lại, chưa có một công trình nào đi vào nghiên cứu truyện ngắn Thạch Lam trong
thế đối sánh với truyện ngắn của Pauxtốpxki. Tiếp thu, kế thừa những thành tựu của người đi
trước, vừa nỗ lực tìm kiếm một hướng khám phá mới, chúng tôi chọn đề tài Truyện ngắn
Thạch Lam – Truyện ngắn Pauxtốpxki: sự gặp gỡ về phong cách nghệ thuật với hi vọng
bổ sung vào phần khiếm khuyết, góp thêm một tiếng nói khiêm nhường trong việc nghiên
cứu truyện ngắn của hai tác giả này, tuy chắc chắn không thể toàn diện.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tiếp thu có chọn lọc thành quả nghiên cứu đã có, luận văn của chúng tôi nhằm tìm
hiểu và xác lập những đặc trưng thẩm mĩ của kiểu truyện ngắn “không có truyện” ở Thạch
Lam và Pauxtốpxki. Trên cơ sở đó, chúng tôi soi chiếu vào văn hóa của mỗi nước để thấy
được đâu là “phần giao thoa” văn hóa giữa hai quốc gia, đâu là bản sắc dân tộc của mỗi
nước.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki. Từ
những hiện tượng văn học gần gũi nhau, chúng tôi xác định đặc trưng thẩm mĩ của loại
truyện ngắn làm nên phong cách của hai nhà văn.
Về Thạch Lam, chúng tôi tìm hiểu và khảo sát 33 truyện ngắn của ông. Về
Pauxtốpxki, chúng tôi lựa chọn những truyện ngắn tiêu biểu đã được dịch, chọn lọc trong các
tập “Bông hồng vàng” và “Bình minh mưa”. Giữa các ấn phẩm của Thạch Lam và
Pauxtốpxki, chúng tôi tin tưởng chọn hai cuốn: Thạch Lam – 33 truyện ngắn, Nxb. Văn học,
2009 và cuốn Pauxtốpxki , Bông hồng vàng và Bình minh mưa (dịch giả Kim Ân và Mộng
Quỳnh dịch), Nxb Văn học, 2003 làm tư liệu khảo sát chính.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Bằng kết quả khảo sát, phân tích, người viết mong chỉ ra những
nét đặc sắc trong phong cách truyện ngắn ở hai tác giả, đặc biệt nhấn mạnh những chỗ tương
đồng và dị biệt, phần nào chỉ ra nguyên nhân và lí giải chúng. Luận văn cũng đặt ra một
hướng đi mới mẻ trong việc tiếp cận truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki
cũng như cung cấp một số kiến thức bổ ích về văn hóa của nước ta và nước bạn.
Ý nghĩa thực tiễn: Thêm một tiếng nói khiêm nhường đưa truyện ngắn của hai nhà
văn đến gần hơn với độc giả, góp phần vào việc tìm hiểu cũng như giảng dạy truyện ngắn
Thạch Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki trong trường phổ thông và đại học.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng tổng hợp các phương pháp sau:
– Phương pháp so sánh: đặt truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki trong cái
nhìn tương quan để tìm ra những nét tương đồng, dị biệt. Vì không tìm thấy mối quan hệ trực
tiếp giữa hai tác giả, chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh loại hình, lí giải các
tương đồng, dị biệt từ các hiểu biết về tiểu sử nhà văn cũng như đặc điểm xã hội, môi trường
văn hóa mà nhà văn sống. Bên cạnh đó, chúng tôi đặt hai tác giả này trong mối quan hệ với
một số nhà văn xuất hiện cùng thời hoặc trước và sau họ để thấy nét độc đáo trên cái nền
chung của thời đại cũng như trong tiến trình lịch sử văn học.
– Phương pháp thống kê, phân loại: dùng để thống kê các câu văn, các chi tiết nghệ
thuật, biện pháp tu từ thể hiện rõ đặc trưng thẩm mĩ trong truyện ngắn Thạch Lam và
Pauxtốpxki, sau đó hệ thống hóa, đặt chúng vào các nội dung chung phục vụ cho mục đích
nghiên cứu.
– Phương pháp phân tích – tổng hợp: được sử dụng xuyên suốt trong luận văn nhằm
kết hợp phân tích dẫn chứng với việc đưa ra những nhận định ở các chương, các phần.
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm có 167 trang. Ngoài phần Dẫn nhập (8 trang), Kết luận (3 trang), Phụ
lục (18 trang), Thư mục tham khảo (8 trang), phần nội dung chính của luận văn gồm 130
trang, được triển khai trong ba chương:
Chương 1: Thạch Lam – Pauxtốpxki: con người và quan niệm nghệ thuật
Ngoài phần giới thiệu cuộc đời, sự nghiệp, những tác phẩm chính, chúng tôi trình bày
sự gặp gỡ về quan niệm nghệ thuật của Thạch Lam và Pauxtôpxki ở các phương diện: đối
tượng của văn chương (cái đẹp), nghề văn, sứ mệnh nhà văn. Từ sự tương đồng về quan
niệm nghệ thuật, họ đã có sự gặp gỡ ở hình thức thể loại, cụ thể là loại truyện ngắn trữ tình
“phi cốt truyện”. Đây là tiền đề quan trọng của sự “giao thoa” về phong cách truyện ngắn
đặc sắc giữa họ.
Chương 2: Nội dung tự sự trong truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki
Từ những tiền đề của chương trước, chương này nhằm cụ thể hóa những vấn đề về nội
dung tác phẩm
Chương 3: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki
Tiếp theo chương 2, chương này chỉ ra sự giống và khác nhau ở những đặc điểm về
hình thức và kĩ thuật kiến tạo truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki.
Chương 1:
THẠCH LAM – PAUXTỐPXKI: CON NGƯỜI VÀ QUAN NIỆM NGHỆ
THUẬT
1.1. Thạch Lam – Pauxtốpxki: Con người
Thạch Lam (1910 – 1942) tên thật là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi là Nguyễn Tường
Lân. Ông sinh ra tại Hà Nội, trong một gia đình công chức quê gốc ở Quảng Nam. Còn
Kônxtantin Pauxtôpxki (1892 – 1968) sinh ra tại Mátxcơva, trong một gia đình gốc Côdắc
miền Dapôrôgiê. Giữa hai nhà văn thuộc hai quốc gia, hai nền văn hóa khác nhau lại có
những điểm gặp gỡ tình cờ trên những chặng đường đời.
1.1.1. Hoài niệm tuổi thơ
Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki cùng sinh trưởng trong gia đình yêu thích văn chương
nghệ thuật. Cả hai trải qua những năm tháng tuổi thơ khá êm đềm bên những người thân yêu
trong gia đình, nơi đã vun trồng nên nhân cách và tài năng cho họ. Thủa nhỏ, cậu bé Nguyễn
Tường Vinh (tên thật của Thạch Lam), chịu ảnh hưởng tích cực từ hai người anh trai học
giỏi, ngoan ngoãn (sau này là hai nhà văn nổi tiếng Nhất Linh, Hoàng Đạo). Khi lên bảy,
Tường Vinh mất cha nên cậu bé lớn lên hầu như trong sự yêu thương, chăm lo của bà nội và
mẹ. Hình ảnh người bà hiền từ, rất mực yêu thương con cháu và người mẹ đảm đang, tháo
vát với nghề buôn gạo nuôi con đã chạm khắc vào trái tim nhà văn từ tấm bé. Còn
Pauxtốpxki lại chịu ảnh hưởng nhiều từ người cha lãng mạn và vui tính, vốn là một người
thích “xê dịch” và giàu mơ ước. Cụ không bao giờ ngồi yên một chỗ. Sau khi làm việc ở
Matxcơva, cụ xin đổi đi Vinnô, rồi Pơxcốp và cuối cùng mới định cư tương đối lâu dài ở
Kiép. Nhà cậu bé Kôchia đông người, đủ mọi tính nết khác nhau nhưng đều là những người
yêu nghệ thuật. Cậu lớn lên trong những tiếng hát, những bản dương cầm, các cuộc tranh
luận về âm nhạc, hội họa, văn chương.
Cả hai nhà văn đều thông minh, nhạy cảm, có bản lĩnh độc lập và sớm phát lộ tài
năng bẩm sinh. Theo các tư liệu tiểu sử và hồi kí của những người thân trong dòng họ
Nguyễn Tường, tuổi thơ của Thạch Lam gắn với Cẩm Giàng quê ngoại – một phố huyện
nghèo đã in đậm bóng dáng trong những trang văn của ông. Khi lên sáu tuổi, Thạch Lam
theo gia đình rời Hàng Bạc (Hà Nội) về đây. Cũng từ đó, phố thị đông vui, huyên náo và đầy
ánh sáng chỉ còn là một nơi xa xăm trong miền kí ức đẹp đẽ mà tâm hồn trẻ thơ nhạy cảm
như Thạch Lam đôi lúc vẫn khao khát tìm về.
Thủa nhỏ, “người em thứ sáu” vốn là một đứa trẻ nhanh nhẹn, hoạt bát, dạn dĩ, “thông
minh và lãng mạn nhất nhà” [3, tr. 342]. Cậu bé có đôi mắt sâu trên gương mặt khôi ngô ấy
lại có một tâm hồn rất nhạy cảm, biết thương yêu, sẻ chia với những người nghèo khổ quanh
mình. Ngoài ra cậu còn học rất giỏi, từng khai tăng tuổi để học Ban thành chung. Tuy còn
nhỏ, Tường Vinh sớm có ý thức phụ giúp gia đình. Công việc trông coi cửa hàng tạp hóa
(cùng người chị gái) ngày ấy đã để lại những kỉ niệm khó phai mờ trong kí ức của nhà văn
Thạch Lam về sau.
Các tư liệu viết về Pauxtốpxki cho biết thủa nhỏ, cậu là đứa trẻ bản lĩnh, hoạt bát. Khi
đang học lớp 6, gia đình cậu bị khánh kiệt. Đó cũng là thời điểm mở đầu cho cuộc sống tự
lập của Pauxtốpxki. Việc làm nghề gia sư để tiếp tục con đường học vấn dang dở đã chứng
tỏ nghị lực và ý chí phi thường đang sục sôi trong trái tim non trẻ của cậu thiếu niên ham học
hỏi này.
Ngoài ra, cả Thạch Lam và Pauxtốpxki cùng ước mơ về những chuyến đi xa, khát
khao khám phá những chân trời mới mẻ. Ngoài thú vui “đi chơi chân không quanh quẩn
chỗ mẹ và bà ngồi” [3, tr. 342] trong những đêm sáng trăng hay “đi chơi quanh quẩn nơi
xóm chợ” [3, tr. 344], cậu bé Tường Vinh còn có một sở thích đặc biệt là “xem tàu hỏa, ngày
nào cũng ra đợi ngắm chuyến tàu kéo gạo hai giờ trưa” [3, tr. 344]. Với tính bạo dạn và hiếu
kì, cậu đã chui cả vào gầm toa, sờ tay vào những vành bánh sáng loáng mặc dù mọi người ở
ngoài được một phen thót tim. Còn cậu bé Kôchia vốn là một đứa trẻ ưa khám phá. Cậu say
mê bản đồ địa lí đến mức có thể ngồi hàng tiếng đồng hồ liền với chúng. Chính Pauxtốpxki
từng bộc bạch:“Tôi nghiên cứu dòng chảy của những con sông chưa bao giờ biết tới, những
bờ biển kì cục, đi sâu vào rừng Taiga, nơi những trạm không tên tuổi chuyên mua da, lông
thú của những người đi săn được đánh dấu bằng những vòng tròn tí xíu, hoặc nhắc đi nhắc
lại những tên đất kêu như những vần thơ: Quả cầu Iugor, quần đảo Ebriđơ, Guađagama và
Invécnetxơ, Onhêga và Koócđie. Dần dần tất cả những vùng đất đó sống dậy trong trí tưởng
tượng của tôi rõ rệt đến nỗi tôi tưởng có thể viết nổi những cuốn nhật kí hành trình bịa đặt
qua các lục địa và các xứ sở khác nhau.” [65, tr. 81].
1.1.2. Biến động cuộc đời
Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều là chứng nhân của một thời đại bão táp gắn với
những sự kiện trọng đại của lịch sử, bao đổi thay lớn lao của dân tộc. Mà ta biết, mọi ba
động của đời tất thảy đều vang lên khác lạ trong tâm hồn nhạy cảm của người trí thức, nhất
là những trí thức nghệ sĩ như họ.
Thạch Lam sinh ra và lớn lên trong tình cảnh “sự đã rồi” của đất nước. Sau khi tạm
“bình định” Việt Nam về mặt quân sự, từ đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp tiến hành khai thác
thuộc địa theo phương thức tư bản chủ nghĩa. Xã hội Việt Nam mặc nhiên phải chấp nhận
bao sự đổi thay, mà đổi thay lớn nhất là cuộc sống “buổi giao thời” dưới chế độ thực dân
thuộc địa. Bao làng quê yên ả, thanh bình với cốt cách “dĩ nông vi dân” nay bỗng chốc “làng
xoay ra phố”, dung nạp thêm lối sống thị thành. Tư tưởng, văn hóa phương Tây hiện đại
ngày càng có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt là giới trí thức. Được đào
tạo bài bản như một trí thức Tây học, nhưng trước sau Thạch Lam vẫn là “một người Việt
Nam sâu xa, một người Việt Nam thành thực” [3, tr. 357]. Còn Pauxtốpxki đến với cuộc đời
giữa lúc xã hội Nga đang trong bầu không khí sục sôi của đêm trước Cách mạng tháng Mười.
Ông là người đã kinh qua hai cuộc Thế chiến chấn động cả địa cầu, sống trong đói rách, giặc
giã, cách mạng, nội chiến, hòa bình.
Hai nhà văn có cách “ứng xử” khác nhau trước thời cuộc. Khi chiến tranh Thế giới
thứ nhất nổ ra, Pauxtốpxki rời ghế nhà trường và lao vào các công việc: làm nhân viên
đường sắt, phụ lái tàu điện, bán vé tàu điện, làm y tá trên các đoàn tàu cứu thương. Cuộc
cách mạng tháng Hai bùng nổ khi Pauxtốpxki đang ở Matxcơva, ông bước vào ngành báo.
Cũng ở đây, ông hạnh phúc được tham dự Cách mạng tháng Mười, nghe Lênin nói chuyện
và tiếp tục chứng kiến những sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Trong cuộc nội chiến,
Pauxtốpxki gia nhập Hồng quân, nguyện hiến thân mình cho Tổ quốc. Chiến tranh thế giới
thứ hai nổ ra, một lần nữa, hiện thực bề bộn ấy đã cuốn theo nhà văn trong vai trò phóng viên
mặt trận phía Nam. Nếu như Pauxtốpxki tích cực với các hoạt động chính trị, xã hội thì
Thạch Lam dường như không tham gia một tổ chức chính trị nào. Cuộc đời ngắn ngủi của
ông trôi qua trong bầu không khí tù đọng, bức bối của xã hội Việt Nam thời kì đêm trước
cuộc cách mạng tháng Tám. Bao cuộc khởi nghĩa chống Pháp diễn ra sôi nổi, tuy có thất bại
nhưng ngọn lửa đấu tranh vẫn âm ỉ cháy và được nhen nhóm để chờ thời cơ là bùng lên
mạnh mẽ. Hầu hết giới văn nghệ sĩ lúc bấy giờ đều mang tâm trạng cô đơn, bất lực trước thời
thế bởi họ chưa tìm thấy lối đi hay còn đang “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” 1. Có người cho
rằng tuổi đời Thạch Lam quá ngắn nên ông chỉ kịp sống trọn vẹn cuộc đời của một nghệ sĩ
chân chính. Lại có ý kiến nhận xét Thạch Lam đã chịu ảnh hưởng của nhà văn A. Gide với
một quan niệm tự do gần như tuyệt đối. Nếu Pauxtốpxki giống như cây kim bé nhỏ trước
thỏi nam châm cuộc đời thì Thạch Lam tựa sợi tơ giăng ngang giữa một trời bão táp.
Cả hai nhà văn đều có cuộc đời gắn với những chuyến đi. Trong cuộc đời “ở trọ trần
gian” thoáng chốc, Thạch Lam cũng nhiều lần “xê dịch” trong phạm vi của đất nước: từ Hà
Nội về Cẩm Giàng (Hải Dương), Tân Đệ (Thái Bình). Sau khi về lại Hà thành, Thạch Lam
sống ở phố Hàng Bún, phố cầu Gỗ, rồi lần lượt chuyển đến Giám, Đỗ Hữu Vị, Hàng Bè,
Quán Thánh… Ông cũng có vài năm theo Hoàng Đạo vào sống ở Sài Gòn. Thế nhưng ông
sống và sáng tác chủ yếu ở một lớp nhà gỗ nhỏ ven Hồ Tây, có cây liễu rủ bóng thướt tha
ngoài cửa sổ và khóm tre xanh mát đầu nhà, mộc mạc như ở chốn quê. Còn dấu chân
Pauxtốpxki đã in khắp mọi miền Tổ quốc Nga, từ bán đảo Cônxki đến những sa mạc miền
Trung Á, từ các thành phố băng tuyết miền cực Bắc đến bờ biển ấm áp vùng Krưm và những
khu rừng Taiga rậm rạp của Xibêri... Ông đã nghe giọng nói âm vang và du dương của người
Ôđétxa, ngỡ ngàng với những đêm trắng ở Karêli, uống nước của những hồ trong đầm lầy
đen kịt ở vùng Mêsora, rảo chân lang thang trên những nẻo đường vùng Mikhailốp… Giữa
những năm 50 của thế kỷ XX, Pauxtốpxki đã mở rộng biên độ xê dịch ra nước ngoài như đến
thăm Tiệp Khắc, Ba Lan, Bungari, đi du lịch vòng quanh Châu Âu.
1.1.3. Sáng tạo nghệ thuật
Thạch Lam và Pauxtốpxki là hai nhà văn đồng đại. Cùng được nuôi dưỡng với nguồn
sữa nghệ thuật từ gia đình và mạch nguồn văn hóa dân tộc, các ông đã đến với văn chương
như quy luật tất yếu của tình yêu và đam mê. Năm 21 tuổi, sau khi đỗ tú tài I, Thạch Lam
thôi học, bắt đầu làm báo, viết truyện ngắn, luận thuyết văn học, thời đàm. Khi Nhất Linh
sáng lập nhóm “Tự lực văn đoàn”, một tổ chức văn học nổi tiếng thời bấy giờ, Thạch Lam
nhanh chóng trở thành một cây bút chủ chốt của báo Phong hóa, rồi Ngày nay (cơ quan ngôn
luận của nhóm). Tuy cầm bút sáng tác theo tuyên ngôn của “Tự lực văn đoàn”, ông vẫn lặng
lẽ kiếm tìm cho mình một lối đi riêng. Kết quả là sách của ông bán ế nhất bởi nó luôn đi bên
lề của “mốt thời thượng”. Tuy vậy, thời gian – thước đo công bằng, khách quan nhất – đã trả
lại cho văn chương ông giá trị đích thực vốn có. Ngày nay, những truyện ngắn của Thạch
1 Thơ Tố Hữu
Lam vẫn là một thứ rượu quý, nhẹ nhàng thấm vào hồn người, ngọt ngào và say sưa. Bạn bè
của Thạch Lam còn nhớ như in một con người khiêm nhường, nhỏ nhẹ, ít nói ở ngoài đời
nhưng lại sâu sắc trong văn chương và rất nghiêm túc trong nghề nghiệp. Thạch Lam viết
một cách thận trọng, khó khăn bởi mỗi trang văn được viết ra đều “có rất nhiều Thạch Lam ở
trong đó” [3, tr. 148]. Năm 1940, khi đang ở vào thời kì sung sức nhất trong sáng tác, Thạch
Lam phát hiện mình mang trong người căn bệnh lao phổi quái ác. Nhà văn đã bình tĩnh đón
nhận điều không may và sống, làm việc như ngọn nến trong đêm cạn mình để cháy.
Còn Pauxtốpxki sớm bộc lộ lòng đam mê văn chương với những truyện ngắn được
đăng trong tạp chí Những ngọn lửa ở Kiép khi ông còn là học sinh năm cuối trung học, tuy
nhiên nó chẳng để lại tiếng vang gì đáng kể. Với mục đích “đặt cuộc đời lên trên trang viết”,
từ năm 1913 Pauxtốpxki đã thực hiện một cuộc sống lang thang gần như khắp nước Nga.
Những chuyến đi khắp các vùng miền Tổ quốc trong bối cảnh đất nước trải qua những biến
cố lớn đã cho Pauxtốpxki vốn sống phong phú, nguồn tư liệu đầy đặn, chân thực, đồng thời
cũng bồi đắp cho quan điểm nghệ thuật tiến bộ ở ông. Ngoài ra, Pauxtốpxki còn là tấm
gương tích cực học hỏi kinh nghiệm của thế hệ nhà văn tiền bối và các đồng nghiệp đương
thời.
Với tâm hồn nghệ sĩ bén nhạy như dây đàn, luôn sẵn sàng rung lên trước những xung
động của cuộc sống, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã dệt nên những trang văn nồng ấm hơi
thở đời thường. Tất nhiên, với tuổi đời, tuổi nghề lớn hơn, Pauxtốpxki đã mở rộng độ xê
dịch và để lại cho hậu thế khối lượng tác phẩm đồ sộ hơn. Với non mười năm cầm bút,
Thạch Lam đã xác lập cho mình vị trí của một cây bút văn xuôi có tầm vóc, một phong cách
truyện ngắn đặc sắc dù khối lượng tác phẩm chưa nhiều. Ông để lại các tập truyện ngắn: Gió
đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942); Tiểu thuyết: Ngày mới (1939), tập
tiểu luận phê bình: Theo dòng (1941); Bút kí: Hà Nội băm sáu phố phường (1943). Ngoài ra
còn có hai cuốn truyện viết cho thiếu nhi là Quyển sách, Hạt ngọc (1940), và một số truyện
dài còn đang ở dạng bản thảo như Thập niên đăng hỏa, Huyền… Đó là kết quả của một hành
trình miệt mài, cần mẫn chắt chiu cái đẹp bằng tất cả tấm lòng.
Cuộc hành trình chắt chiu từng mảy bụi vàng của Pauxtốpxki đã kết thành “trái ngọt
hoa thơm” – những tiểu thuyết, truyện dài, chân dung văn học, bút kí, tiểu luận, đặc biệt là
truyện ngắn. Ông để lại cho đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ: Những phác thảo biển khơi
(1925), Những đám mây lấp lánh (1929), Vịnh Kara – Bunga (1932), Số phận Sáclơ
Longxêvin (1933), Miền Cônkhiđa (1934), Hắc Hải (1936), Những ngày hè (1937), Ôrext
Kiprenxki (1937), Câu chuyện phương Bắc (1938), Miền rừng Mêsora (1939), Bông hồng
vàng (1955), Truyện cuộc đời (1967). Ở Việt Nam, những tác phẩm của Pauxtốpxki được
đông đảo bạn đọc biết đến qua các bản dịch: Bông hồng vàng (in 1961, tái bản 1982), tập
Truyện ngắn Pauxtốpxki (1962), Vịnh Mõm Đen (1978), Bình minh mưa (1982).
Những nét tương đồng giữa Thạch Lam và Pauxtốpxki ngoài đời là tiền đề cho cuộc
gặp gỡ thú vị trong nghệ thuật giữa họ mà chúng tôi sẽ trình bày trong phần tiếp theo của
luận văn.
1.2. Thạch Lam – Pauxtốpxki: Quan niệm nghệ thuật
Sáng tác văn học nghệ thuật thuộc lĩnh vực sản xuất tinh thần, theo phương thức “cá
thể”. Vì vậy, mỗi tác phẩm là một “chứng minh thư” tâm hồn của nhà văn, nó chịu sự chi
phối sâu sắc của quan niệm nghệ thuật của ông ta. Thuật ngữ quan niệm nghệ thuật có nội
hàm rộng, là “nguyên tắc cắt nghĩa thế giới và con người vốn có của hình thức nghệ thuật,
đảm bảo cho nó khả năng thể hiện đời sống với một chiều sâu nào đó” [25, tr.229]. Quan
niệm nghệ thuật của một nhà văn là một phương diện quan trọng góp phần định dạng phong
cách nghệ thuật của nhà văn ấy.
Ở Thạch Lam và Pauxtốpxki có sự gặp gỡ trong quan niệm nghệ thuật về tác phẩm
văn chương, về cái đẹp và vai trò của người nghệ sĩ. Những quan niệm ấy hé mở với người
đọc cái nhìn độc đáo của các ông về thế giới và con người.
1.2.1. Văn chương đòi hỏi “sự thật và giản dị”
Giá trị và ý nghĩa của nội dung tác phẩm văn học được đánh giá theo mức độ phản ánh
chân thật và sâu sắc hiện thực đời sống. Do vậy, tính chân thật, giản dị là những phẩm chất
không thể thiếu của một tác phẩm đích thực. Theo Thạch Lam, để có được điều đó, người
nghệ sĩ phải “bỏ hết những cái sáo, những cái kêu to mà trống rỗng, những cái giả dối đẹp
đẽ, tìm cái giản dị, sâu sắc và cái thật, bằng cách quan sát và rung động đúng” (Chúng tôi
nhấn mạnh) [43, tr. 322]. Thạch Lam từng nhắc lại câu nói của André Bellesort với sự chia
sẻ sâu sắc: “Không gì bằng sự thực; sự sống là cái chuẩn đích, là mực thước của mọi vật”
[43, tr. 328]. Quan niệm về tác phẩm văn học của Thạch Lam trực tiếp hé lộ mĩ cảm của nhà
văn: cái đẹp là sự sống được cảm thấy. Nhà văn đã đề cao tính chủ thể trong việc phát hiện,
thụ hưởng và miêu tả cái đẹp, cái thẩm mĩ. “Cái đẹp được cảm thấy” nghĩa là nó phải sống
động, tự nhiên, giản dị và chân thật. Nó hoàn toàn xa lạ với cái trơ cũ, đoán định, sáo mòn.
Nó là cái cốt lõi làm nên tác phẩm văn học. (Đành rằng văn chương không chỉ nói đến cái
đẹp). Điều đó có nghĩa là phẩm chất chân thật, giản dị của tác phẩm văn học chỉ có thể được
dưỡng nuôi từ tình cảm, sự rung động thành thực trong con tim tác giả. Đó là vì “cái gì nhà
văn không cảm thấy mà bịa ra, nó vẫn có vẻ một vật thừa, một vật vô ích” [43, tr. 311].
Thạch Lam lưu ý“sự rung động thật với sự văn chương”. Khi được khơi nguồn, hoài thai từ
cái đẹp được cảm thấy bởi tâm hồn nhà văn, tác phẩm tự bản thân nó đã mang một vẻ đẹp vô
cùng – vẻ đẹp của sự sống xanh non.
Thạch Lam thú nhận bản thân ông từng ca tụng hoa liễu, bắt chước những câu văn sáo
rỗng “như người ta thường vẫn làm” nhưng rồi nhà văn sớm nhận ra sự tẻ nhạt, giả dối trong
hành động đó. Không né tránh những mặt trái kém phần thi vị của cuộc đời, những góc khuất
tăm tối trong hồn người, nhưng Thạch Lam cũng không tô đậm hay bôi đen chúng mà
chuyển tải hiện thực đó lên trang văn của mình với thái độ chia sẻ, cảm thương. Cái đói khổ,
túng quẫn của kẻ làm thuê; sự cay cực vì miếng ăn của người trí thức; việc mưu sinh khó
khăn của người lao động nghèo… Tất cả hiện lên sống động, xác thực qua những truyện
ngắn như Nhà mẹ Lê, Cô hàng xén, Người bạn cũ, Đói, Người bạn trẻ… Không chỉ miêu tả
hiện thực đời sống con người, Thạch Lam còn đi sâu vào cái chân thật trong cảm xúc, tâm
trạng của họ. Đó là những tình cảm “phiền phức” nhưng hiện hữu ở con người: nỗi băn
khoăn khó hiểu khi lần đầu làm cha (Đứa con đầu lòng); niềm hạnh phúc say sưa của cô gái
lần đầu biết đến men say tình yêu (Tình xưa); cảm giác ngỡ ngàng khi suýt nữa chạm tay vào
việc xấu (Sợi tóc), hay ân hận, dày vò vì đã trót làm điều ác (Một cơn giận)…
Cùng quan niệm với Thạch Lam, Pauxtốpxki cho rằng tác phẩm văn học nói chung,
truyện ngắn nói riêng cần phải có “sự thật và giản dị” [65, tr. 45]. Ông chia sẻ kinh nghiệm
viết truyện ngắn đầu tiên của mình: “Tôi vật lộn mãi với truyện ngắn này và không hiểu
được vì sao khi viết ra nó lại cứ khô héo và nhợt nhạt mặc dầu nội dung câu chuyện thật thê
thảm” [65, tr. 44]. Để có một truyện ngắn đích thực, tác giả đã viết lại “và ngạc nhiên vì
không sao đặt được vào trong truyện những từ cầu kì và đẹp” [65, tr. 45]. Pauxtốpxki nhấn
mạnh: “Tôi viết không phải vì tôi đã đặt ra cho mình nhiệm vụ ấy mà là vì tâm hồn, trái tim,
khối óc tôi đòi hỏi phải làm như vậy” [65, tr. 47]. Do vậy, ông đã mạnh dạn đưa “những cái
tưởng chừng như vặt vãnh” vào truyện ngắn của mình và chúng đã phát huy hết nội lực. Một
món quà, một cuộc gặp gỡ tình cờ, thoáng qua mà đầy dư âm dư vị… đã được diễn tả chân
thực, cảm động qua các truyện ngắn Lẵng quả thông, Gió biển, Tuyết, Cây tường vi…
Mặt khác, cái đẹp được cảm thấy theo Thạch Lam và Pauxtốpxki là cái đẹp mới mẻ,
trong trẻo, thuần khiết như lần đầu được biết đến. Trong bài tiểu luận Chất thơ của văn xuôi,
Pauxtốpxki cho rằng người nghệ sĩ phát hiện ra cái đẹp ấy nhờ “khả năng nhìn cuộc sống lúc
nào cũng như mới, như lần đầu được thấy, trong tất cả dáng vẻ tươi nguyên và đầy ý nghĩa”
[64, tr. 10]. Trong truyện ngắn Thạch Lam, vẻ đẹp thanh tân, tràn đầy sức sống của các thiếu
nữ như Lan (Tình xưa), Hậu (Nắng trong vườn), Mai (Trăng sáng)… luôn được tác giả miêu
tả qua sự rung cảm của các chàng trai trẻ – những thanh niên đang sống trong men say của
mối tình đầu. Thạch Lam cũng nhiều lần nói đến cái sự sống bí ẩn mà thiêng liêng trong bản
thân mỗi sự vật: “Những cây lan trong chậu, lá rung động và hình như sắt lại vì rét” [44, tr.
88]; “Trong cái giờ khắc này, Tân như thấy cảnh vật đều có một tâm hồn, mà lớp sương mù
kia là tâm hồn của đất màu đã nuôi hạt thóc cần cho sự sống của loài người” [44, tr. 100];
“Bông hoa vừa hé nở, cánh nhỏ còn khép giữ một giọt sương l._.ong lanh trong như ngọc. Từ
đóa hoa bốc lên một mùi hương quen mến, mùi hương mộc mạc và đầm ấm của hồng nhà”
[44, tr. 250]. Cùng quan niệm với Thạch Lam, Pauxtốpxki tập trung mô tả những tình cảm
đột khởi trong tâm hồn con người: cái mới mẻ của tình yêu chợt đến (Tuyết, Suối cá hương,
Cầu vồng trắng…), sự rung cảm kì lạ trước sức lay gọi mãnh liệt của âm nhạc (Lẵng quả
thông, Người đầu bếp già)…v.v
1.2.2. Đi tìm cái đẹp tiềm tàng, khuất lấp
Có thể nói người nghệ sĩ là tín đồ của cái Đẹp. Cái đẹp, cái thẩm mĩ là đích đến trong
hành trình nghệ thuật của họ. Thế nhưng, quan niệm về cái đẹp của họ cũng muôn màu vạn
vẻ như chiếc kính vạn hoa. Có người say đắm với cái đẹp của những giá trị văn hóa tinh thần
một thời quá khứ huy hoàng đã qua, lại có kẻ thích cái đẹp ước lệ kiểu phong, hoa, tuyết,
nguyệt… hay đi tìm cái đẹp kì bí, siêu phàm. Với Thạch Lam, “nhưng cái đẹp chỉ cứ ở hoa,
ở liễu thôi đâu mà? Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm
tàng ở mọi vật tầm thường” (chúng tôi nhấn mạnh) [43, tr. 326]. Quan niệm về cái đẹp của
Thạch Lam tương đồng với quan niệm của Pauxtốpxki. Nhà văn xứ bạch dương cho rằng
trong mọi sự vật bình thường đều tiềm ẩn bụi quý:“Mỗi phút, mỗi lời tình cờ được nói ra và
mỗi cái nhìn tình cờ ta bắt gặp, mỗi ý nghĩ sâu sắc hoặc vui đùa, mỗi rung động thầm lặng
của con tim, cũng như cả đến một bông xốp của hoa hướng dương đang bay hay lửa sao
trong một vũng nước đêm – tất cả những cái đó đều là những hạt rất nhỏ của bụi vàng” [65,
tr. 20]. Đó chính là cái đẹp khuất lấp, tiềm tàng trong đời sống hằng ngày.
Quan niệm trên của Thạch Lam và Pauxtốpxki đã mở ra nguồn “chất liệu” phong phú
và vô tận của tác phẩm văn chương. Quả thật, cái đẹp là một trong những hiện tượng thẩm
mĩ phong phú nhất và phạm vi bộc lộ rất rộng rãi. Có cái đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp của
những sản phẩm do con người tạo ra, cái đẹp trong hoạt động của con người, cái đẹp của con
người và cái đẹp trong nghệ thuật. Những “mảy bụi vàng” ấy hiện diện quanh ta, kể cả
những nơi tưởng chừng khó tìm thấy nhất nhưng chúng vốn khuất lấp, ẩn chìm. Chúng đòi
hỏi người nghệ sĩ phải có con mắt tinh tường, sự dấn thân để khám phá và tâm hồn tinh tế,
nhạy cảm để phát hiện, lĩnh hội. Thạch Lam và Pauxtốpxki đã đề cao việc phát hiện nhân tố
mới của cái đẹp, cái thẩm mĩ. Ngược lại, chúng cũng xác lập vị trí, yêu cầu đối với nghề văn
– một hình thái lao động đặc thù – là “phát hiện cái đẹp ở chỗ mà không ai ngờ tới, tìm cái
đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, cho người khác một bài học trông nhìn, thưởng thức”
(chúng tôi nhấn mạnh) [43, tr. 26], hay: “Nghề văn không phải là một nghề thủ công và cũng
không phải là một thứ công việc”, đó chính là “cái lao động tuyệt mĩ nhưng cay cực” [65, tr.
24]. Quan niệm về nghề văn của Thạch Lam và Pauxtốpxki gần gũi với quan niệm của Nam
Cao. Cây bút truyện ngắn xuất sắc bậc nhất của văn học hiện thực phê phán ở Việt Nam cho
rằng: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa
cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những
nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”. 1
Thạch Lam đã phát hiện cái đẹp trong cái nên thơ, bình dị, yên ả của những làng quê,
phố huyện nghèo ở Việt Nam (Hai đứa trẻ, Dưới bóng hoàng lan, Tình xưa, Nắng trong
vườn), còn Pauxtốpxki thiết tha với vẻ đơn sơ, trong lành mà đầy quyến rũ của các làng mạc,
tỉnh lị xa xôi trên đất Nga (Tuyết, Bình minh mưa, Cây tường vi, Bình nguyên tuyết phủ).
Một buổi sớm mai tươi mát, trong lành, một con đường làng mấp mô bước chân trâu, cánh
đồng lúa rập rờn theo làn gió, khu rừng bạch dương màu trắng bạc, ngọn núi phủ tuyết khi
đông về… tất cả đều được các nhà văn khơi dậy cái chất sống tươi mới bên trong. “Bóng tối”
thường tạo ra một ấn tượng kinh hoàng, lo sợ cho con người, nhưng Thạch Lam tìm thấy vẻ
đẹp bí ẩn, mê hoặc của nó: “Trời đã bắt đều đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng
qua gió mát. Đường phố và các ngõ con chứa đầy bóng tối” (Hai đứa trẻ) [44, tr. 149]. Dưới
cái nhìn của Pauxtốpxki, bóng tối trở nên thân quen như một người bạn. Bóng tối trộn hòa
với mưa bụi, tạo ra một không gian êm dịu, những giọt âm thanh khẽ khàng, xôn xao (Bình
minh mưa). Bóng tối bao bọc và làm thăng hoa tình cảm thiêng liêng của con người (Suối cá
hương). Nếu như Thạch Lam phát hiện ra cái đẹp ở những đối tượng mà khi nhắc đến họ,
người ta nghĩ ngay đến cái xấu, cái ác như Huệ và Liên (Tối ba mươi), bà cả (Đứa con), bà
1 Theo sách Văn học 11, tập 2, Sách chỉnh lí hợp nhất 2000, trang 198.
đầm (Bà đầm), thì trong con người đại diện cho quyền lực quân đội, Pauxtốpxki tìm thấy
một tâm hồn nhạy cảm, khát khao tình yêu (Suối cá hương). Với Thạch Lam và Pauxtốpxki,
cái đẹp không chỉ toát ra ở những cô gái đôi mươi, trẻ trung, ngời ngời xuân sắc như Nga
(Dưới bóng hoàng lan), Hậu (Nắng trong vườn), Mai (Đêm sáng trăng), Đanhi (Lẵng quả
thông), Masa (Cây tường vi), Maria Tsernưi (Suối cá hương) mà ngay cả những phụ nữ đứng
tuổi, có vẻ ngoài thô kệch như mẹ Lê (Nhà mẹ Lê), Mađam Bôvê (Lời cầu nguyện của
Mađam Bôvê) cũng nổi bật với nét mặn mà, đằm thắm, đặc biệt là vẻ đẹp của lòng nhân hậu,
vị tha.
Quả thật, trong bất cứ hoạt động nào con người cũng đều sáng tạo “theo quy luật của
cái đẹp”,1 nhưng không ở đâu quy luật ấy lại bộc lộ rõ nét, không ở đâu việc tìm tòi và phát
hiện ra những nhân tố mới của cái đẹp lại chiếm một vị trí quan trọng đến như vậy trong
nghề văn. Những nhà văn tận tụy, tâm huyết với nghề sẽ biết cách chọn cho mình một đường
hướng phù hợp, tránh sa vào lối mòn và tạo ra “những đứa con tinh thần” xơ cứng, yểu
mệnh. Và nghề văn sẽ dẫn dắt người nghệ sĩ đến với chân trời vô tận của cái đẹp nếu họ có
năng lực nhìn cuộc sống bằng cặp mắt “xanh non”.
1.2.3. Chắt chiu “bụi quý”, đúc “bông hồng vàng”
Sứ mệnh cao cả của nhà văn là nghệ thuật hóa cái đẹp mà mình đã khổ công chắt chiu,
gom góp trong đời sống thường nhật, biến chúng thành những “bông hồng vàng” (theo cách
nói hình tượng của Pauxtốpxki). Một khi đã “tìm được hạt nhân tiêu biểu chứa đựng trong
từng điều vặt vãnh” [64, tr. 19], nhà văn làm đầy vốn sống của mình bằng sự cần mẫn chắt
chiu từng mảy “bụi vàng”. Với hoạt động sáng tạo nghệ thuật, chính họ đã làm cho cái đẹp
thăng hoa, bất tử. Bởi “nghệ thuật không phải là nơi độc quyền sản xuất ra cái đẹp, nhưng
nó là hình thức chuyên nghiệp, chuyên môn hóa cao nhất, tập trung nhất, lãnh trách nhiệm
nặng nề nhất trong việc thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của xã hội” [48, tr. 155], nên vai trò, vị
trí và tư chất của người nghệ sĩ luôn được đưa lên hàng đầu.
Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều nêu cao vai trò của nhà văn trong hành trình chiếm
lĩnh và sáng tạo cái đẹp. Dù Thạch Lam nêu ra trực tiếp: “Chúng ta không cần bắt chước ai
(mà công việc bắt chước không phải là công việc sáng tác). Chúng ta cứ việc diễn tả tâm
hồn (An Nam) của chúng ta, những tư tưởng, những ý nghĩ mà chúng ta ấp ủ trong thâm
tâm” [43, tr. 318] hay Pauxtốpxki phát biểu gián tiếp bằng hình tượng: “Chúng ta, những
1 Chữ dùng của Mác, dẫn theo Lê Ngọc Trà [ 48, tr. 155]
nhà văn, chúng ta bòn đãi chúng (bụi vàng) trong hàng chục năm, hàng triệu những hạt cát
đó, lặng lẽ thu góp lại cho mình, biến chúng thành một hợp kim rồi từ hợp kim đó ta đánh
‘bông hồng vàng’ của ta, truyện, tiểu thuyết hay là thơ” [65, tr. 20], thì sự sáng tạo của
người nghệ sĩ luôn được các ông đặt lên hàng đầu. Điều đó có nghĩa là từ vô vàn hạt bụi
vàng quý hiếm – nguồn chất liệu sống, cái “vốn” của nhà văn – sẽ có những “bông hồng
vàng” được khai sinh bằng tài năng và cảm xúc của họ. Mỗi nhà văn có những “bông hồng
vàng” – tác phẩm – của riêng mình. Chúng có số phận hoàn toàn khác nhau nhưng cái thành
quả ấy một mặt chứng tỏ nhà văn đã chạm đến “đích” của hành trình nghệ thuật, mặt khác
xác lập vị trí và sự đóng góp của họ đối với nền văn học nước nhà (và cả trên thế giới). Vì
vậy, sự sáng tạo là điều kiện tiên quyết để nhà văn sản sinh ra cái đẹp trong nghệ thuật. Ở bài
tiểu luận Niềm vui sáng tạo, Pauxtốpxki đã chia sẻ niềm hạnh phúc lớn lao của nhà văn khi
dấn thân trên hành trình nghệ thuật: “Nhà văn đi rất sâu vào mỗi cuốn sách của mình, như
các nhà thám hiểm và chinh phục đi đến miền đất bao la của xứ sở xa lạ. Nhà văn nhiều khi
không biết cái gì đang đợi anh, dòng sông, cánh rừng, dãy núi nào anh sẽ ghi lại trên bản
đồ, những con người bất ngờ nào anh sẽ gặp, những sự kiện nào anh sẽ may mắn chứng
kiến” [64, tr. 54]. Còn Thạch Lam chỉ rõ hậu quả của việc chạy theo lối mòn: “Những nhà
văn nào ồ ạt theo thời chỉ tạo ra được những số phận mỏng manh. Bởi họ chỉ nghe theo
tiếng gọi của sự háo hức, lòng hám danh, sự chiều lòng công chúng” [43, tr. 313].
Ngoài sự sáng tạo, bản lĩnh, cá tính là nhân tố không thể thiếu trong lao động nghệ
thuật của một nhà văn. Đó là “cái can đảm mình dám là mình” như Thạch Lam chia sẻ [43,
tr. 319] hay việc “thể hiện mình một cách đầy đủ nhất và rộng rãi nhất trong bất cứ tác
phẩm nào, dù chỉ ở một truyện ngắn nhỏ” [65, tr. 45] mà Pauxtốpxki tâm đắc tỏ bày. Nếu cá
tính nhà văn mờ nhạt, không tạo ra được tiếng nói riêng, giọng điệu riêng, thì đó là một sự tự
sát trong văn học. Bởi văn học làm giàu cho xã hội không phải ở số lượng của cải như sản
xuất vật chất mà ở những giá trị về mặt tinh thần. Nếu như chân lí mà khoa học mang lại chỉ
mang tính khách quan, duy nhất thì chân lí của văn học còn xuyên thấm những sắc thái chủ
quan. Quan niệm trên của Thạch Lam và Pauxtốpxki có sự gặp gỡ với quan niệm L. Tônxtôi.
Đại văn hào Nga vĩ đại này từng cho rằng: “Khi ta đọc hoặc quan sát một tác phẩm nghệ
thuật của một tác giả mới, thì câu hỏi chủ yếu nảy ra trong lòng chúng ta bao giờ cũng là
như sau: nào, anh ta là con người thế nào đây nhỉ. Anh ta có gì khác với tất cả những người
mà tôi biết, và anh ta có thể nói cho tôi thêm một điều gì mới mẻ về việc cần phải nhìn cuộc
sống chúng ta như thế nào” (dẫn theo Lê Ngọc Trà [48, tr. 204]).
Bên cạnh đó, hai nhà văn còn cho rằng sự sáng tạo trong nghệ thuật luôn song hành
với “tiếng gọi trái tim”. Bởi chỉ có dấn bước trên hành trình sáng tạo, trái tim người nghệ sĩ
mới đột khởi những tình cảm “phức tạp” trước những điều mới mẻ, kì lạ. Thạch Lam thường
lưu ý người cầm bút nên có thái độ quan tâm nhiều hơn đến những cảm giác và ý nghĩ của
mình. Còn Pauxtốpxki lí giải cụ thể “niềm xúc động” của nhà văn: “Lo âu và mừng vui – hai
tình cảm mạnh mẽ nhất ấy đã đi theo nhà văn trên suốt chặng đường” [64, tr. 54]. Nhà văn
lo âu “liệu có tìm ra được những từ ngữ rõ ràng, đầy sức thuyết phục để kể lại tất cả những
gì đã nhìn thấy, đã suy nghĩ, kể lại tất cả cho người dân, mà với nhà văn, thì anh luôn cảm
thấy nhân dân là bạn”, hay “cảm thấy niềm vui từ sự quan sát cuộc sống, từ những điều
nghiền ngẫm, từ tâm trạng căng thẳng và lặng lẽ đặc biệt bên trong vẫn thường thấy trước
khi cuốn sách ra đời” [64, tr. 55].
Với tư chất nghệ sĩ sẵn có, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã mang đến cho người đọc cái
đẹp của sự sáng tạo từ quá trình lao động nghệ thuật miệt mài, nghiêm túc. Với 32 năm
ngắn ngủi ở cõi đời, Thạch Lam đã khẳng định vị trí không thể thay thế của mình trong dòng
chảy của văn xuôi hiện đại Việt Nam, còn Pauxtốpxki cũng xác lập tên tuổi trên văn đàn bên
cạnh những trụ cột của dòng văn học Nga đương thời như M. Gorki, A. Tônxtôi, A. Fađêep,
M. Sôlôkhôp… Cuộc đời và hành trình nghệ thuật của hai nhà văn đã trở thành tấm gương
của người nghệ sĩ chân chính.
Cái đẹp của “sự thật và giản dị”, cái đẹp tiềm tàng khuất lấp, cái đẹp của sự sáng tạo
là những nét đặc sắc trong quan niệm nghệ nghệ thuật của Thạch Lam và Pauxtốpxki, hé lộ
cái nhìn độc đáo, tiến bộ của họ về thế giới và con người.
1.3. Thạch Lam – Pauxtốpxki: nhà văn của thể loại truyện ngắn
1.3.1. Sự gặp gỡ trong sở trường truyện ngắn
Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều cầm bút ở nhiều thể loại: tiểu luận phê bình, chân
dung văn học, bút kí, tiểu thuyết, truyện dài… nhưng có thể nói truyện ngắn mới là thể loại
“đo ni đóng giày” của hai nhà văn này, làm nên tên tuổi và thành công cho họ. Ngày nay,
nhắc đến Thạch Lam là người ta nghĩ ngay đến những truyện ngắn nhẹ nhàng mà ám ảnh,
chẳng hạn như Hai đứa trẻ, Dưới bóng hoàng lan, Nhà mẹ Lê, Gió lạnh đầu mùa… Một số
truyện ngắn của ông được xem là mẫu mực của thể loại này. Tương tự, ở Nga, Pauxtốpxki
được xưng tụng là bậc thầy về truyện ngắn, những đồng nghiệp đương thời và lớp nhà văn
hậu thế luôn xem ông là tấm gương để học hỏi, noi theo. Thế giới biết đến tên tuổi của
Pauxtốpxki cũng do bởi những câu chuyện ngọt ngào của ông trong tập Bông hồng vàng,
Bình minh mưa, Truyện ngắn chọn lọc Pauxtốpxki.
Để chuyển tải đến người đọc cái đẹp – những mảy bụi quý được chắt lọc từ những sự
vật bình dị, nhỏ bé của đời thường hay của tâm hồn con người, Thạch Lam và Pauxtốpxki
đều tâm đắc với hình thức tự sự cỡ ngắn. Gọn, cơ động, nhanh nhạy, cập nhật – những đặc
trưng và cũng là “lợi thế” của truyện ngắn – đã được hai nhà văn khai thác tối đa để khai sinh
những đứa con tinh thần, cho chúng đạt đến tầm cao và chiều sâu ý tưởng mà vẫn sống động,
tự nhiên.
Tìm tòi một đường hướng sáng tạo phù hợp với “điệu tâm hồn mình”, cả Thạch Lam
và Pauxtốpxki đều lấy thế giới tâm trạng của con người làm hướng khai thác chủ đạo,
quan tâm tới những cảm xúc đột biến, tức thì, thoáng qua, cỏn con. Truyện ngắn Thạch
Lam, Pauxtốpxki được khơi nguồn từ dòng chảy của văn xuôi trữ tình, xác lập một diện mạo
độc đáo: truyện ngắn trữ tình phi cốt truyện.
“Trữ tình” là một trong dãy khái niệm về “loại” trong văn học, gồm trữ tình, tự sự,
kịch. Đây là quan niệm của Châu Âu, nguồn gốc từ Aristote, du nhập vào phương Đông
(Đông Á) và vào Việt Nam thời hiện đại, ngày nay trở thành “chuẩn” của lí thuyết văn học
thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng. Nhắc đến thuật ngữ này, người ta thường nghĩ ngay
đến một thể loại của “loại trữ tình” là thơ. Truyện ngắn trữ tình là thuật ngữ chỉ một thể loại
của “loại tự sự” (văn xuôi) có sự kết hợp hài hòa giữa tố chất “tự sự” và “trữ tình”. Theo
M.Khrapchencô, dấu ấn chủ quan và chất trữ tình đậm đặc là hai đặc điểm nổi bật của truyện
ngắn trữ tình. G.N.Pospelov chỉ ra bản chất của văn xuôi trữ tình (cũng là của truyện ngắn
trữ tình) là “tự sự một cách trữ tình” [69, tr. 100]. Hoàng Ngọc Hiến cho rằng một trong
những đặc điểm quan trọng của truyện ngắn hiện đại là “gần với thơ” [30, tr. 113]. Phan
Quốc Lữ khẳng định sự ảnh hưởng của thơ với văn xuôi: “Tiến trình văn học hiện đại đã ghi
nhận sự thâm nhập của văn xuôi vào thơ ca và phá phách lãnh địa độc quyền của thơ ca.
Nhưng sự thâm nhập theo chiều ngược lại – tức là sự trộn hòa trở lại của thơ vào văn xuôi
cũng không phải là hiếm và điều này được xem như là một dấu hiệu biến đổi tất yếu của
truyện ngắn hiện đại” [46, tr. 51].
Mặt khác, tính chất “phi cốt truyện” ở truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki quy định
sự thưa thoáng, gọn nhẹ, ít sự kiện của câu chuyện. Mỗi truyện là một tâm tình, gây ấn tượng
mạnh bởi phong vị trữ tình và chất thơ bàng bạc, man mác tỏa ra từ những trang văn.
Khám phá truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki, người đọc như bước vào địa hạt
của chất thực và chất thơ, giữa tự sự và trữ tình, hiện thực và lãng mạn. Việc phân định rạch
ròi đường biên của các trào lưu, phương pháp, thể loại là không đơn giản bởi chúng có sự
trộn lẫn, chuyển hóa và xuyên thấm vào nhau.
1.3.2. Khái quát về truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki
1.3.2.1. Về chất thực
Hiện thực cuộc sống trong truyện ngắn Thạch Lam – Pauxtốpxki tuy chưa phải là bức
tranh toàn cảnh nhưng đó là những mảnh ghép của cuộc đời thực và chúng đủ sức tái tạo
hình ảnh một xã hội khá đầy đủ.
Chất thực trong truyện ngắn Thạch Lam bắt nguồn từ cuộc sống khổ cực của bao cảnh
đời, bao số phận trong cái “ao đời” phẳng lặng, mòn mỏi, đơn điệu. Thạch Lam thường đặt
các nhân vật trong không gian hiu hắt và ngập đầy bóng tối để cuộc sống tù túng, tẻ nhạt và
tình cảnh bế tắc, cùng quẫn của họ đồng hiện. Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh, mỗi con
người một duyên phận, nhưng mẫu số chung của cuộc đời họ là sự đói nghèo, bất hạnh. Mẹ
con bác Lê (Nhà mẹ Lê) phải đối diện với cảnh đói rét và chạy ăn hàng ngày như đó là một
phần định sẵn của cuộc đời họ. Mai, Sinh (Đói) vì cái đói hành hạ mà phải hành động theo
bản năng để rồi phải “hy sinh” cả nhân phẩm như một nỗi cùng đường tuyệt vọng. Bác Dư
phu xe và cái gia đình khốn khổ của mình sống trong “một dãy nhà lụp xụp và thấp lè tè,
xiêu vẹo trên bờ một cái đầm mà nước đen và hôi hám tràn cả vào đến thềm nhà” (Một cơn
giận) [44, tr. 32]. Vì vợ đau, con ốm, bác phải chạy một cuốc xe lậu và bị bắt, bị hành hạ,
thật là thân phận con ong cái kiến.
Không chỉ cái đói nghèo, thiếu thốn mà chính cái chất tù đọng, mỏi mòn trong cuộc đời
của những dân nghèo thành thị hay dân quê tỉnh lẻ này đã làm nên “hạt nhân” của chất thực.
Trong cái kiếp sống nhỏ nhoi giữa dòng đời xám nhờ, nhạt nhẽo, các nhân vật là nạn nhân
của thất nghiệp, của túng nghèo và hàng trăm thứ tai họa bỗng nhiên ập đến. Họ sống lay lắt
trong cái vòng đời luẩn quẩn, kéo lê từ ngày này sang tháng nọ cho hết kiếp người. Điều đó
còn nặng nề và cay cực hơn cả cái đói dày vò. Cuộc đời Tâm (Cô hàng xén) gắn liền với
chiếc đòn gánh trên vai – gánh hàng xén và cũng là gánh nặng cơm áo gia đình. Từ khi là
thiếu nữ cho đến lúc trở thành thiếu phụ, gánh hàng ấy vẫn đeo đẳng lấy Tâm và dường như
theo thời gian, nó càng oằn nặng trên vai nàng. Cuộc đời của những cô gái như Dung (Hai
lần chết), Liên (Một đời người) lại là những bức tranh sẫm màu hơn bởi họ không chỉ chịu
cảnh khổ về thân xác mà còn phải chịu sự đọa đày về tinh thần ở nhà chồng. Trong Hai đứa
trẻ, những mảnh đời lầm lụi như mẹ con chị Tý, chị em Liên, An, bác Siêu bán phở, bà cụ
Thi nghiện rượu hơi điên, gia đình bác xẩm… như ngọn đèn con trước cái tối tăm, mênh
mông của đất trời. Đọc truyện ngắn Thạch Lam, người ta không khỏi rùng mình, ám ảnh
trước cái đói nghèo và thực trạng trì trệ, tối tăm của xã hội Việt Nam thời bấy giờ.
Cũng như Thạch Lam, Pauxtốpxki không né tránh thực tại mờ xám, đói nghèo của bao
cảnh đời trong xã hội. Sự tàn tạ, túng thiếu của ông lão (Ông lão trong quán điểm tâm ngoài
ga); cảnh sống và chết trong đơn chiếc, tủi buồn của bà cụ Katêrina (Bức điện); cuộc đời cô
đơn, thiếu thốn, u buồn của Alan – một văn sĩ có tài (Bình nguyên tuyết phủ)… đã đi vào
trang văn của Pauxtốpxki thật chân thực, cảm động.(Trong văn học Xô Viết thời bấy giờ ít ai
đưa ra bức tranh hiện thực này). Thế nhưng, về nỗi khổ, niềm đau và sự bất hạnh của phận
người, Pauxtốpxki chỉ đề cập thưa thoáng, mờ nhạt trong một vài tác phẩm chứ không dành
nhiều bút lực như Thạch Lam. Có thể nói gương mặt chiến tranh là một hiện thực rộng lớn,
bao trùm lên không khí thời đại trong những truyện ngắn của Pauxtốpxki. Ở Trái tim nhút
nhát, chiến tranh hiện ra với những mảng màu đậm đặc khói súng. Chiến tranh mở đầu với
việc ngụy trang: “lấy bùn nâu màu đất chung quanh nhà để quét lên tường” [65, tr. 266];
tiếp diễn trong tâm trạng hoang mang, lo sợ của người dân: “lạnh toát người khi nhìn thấy
những con chim sắt khổng lồ gầm thét, lượn đi lượn lại trên thành phố và ở dưới chân
chúng, trên mặt đất bùng lên những cột lửa vàng” [65, tr. 268]. Bức tranh chiến sự có đầy đủ
cái ác liệt trong một trận đối đầu đầy căng thẳng giữa những chiếc phi cơ Xô Viết và trọng
pháo của quân Đức: “Đất rung chuyển theo mỗi tiếng nổ. Ngói rơi lả tả. Bụi bốc lên thành
những đám mây lớn bên trên thành phố. Súng cao xạ gầm thét hết giọng. Những cành da hợp
gẫy văng vào tường. Bọn lính mặc áo choàng xám xịt và chạy đi chạy lại, những mảnh bom
rú rít, những ngọn lửa của trận bom nhấp nhoáng liên hồi trong những đám mây đen. Còn ở
ngoài cảng, lửa đã cháy phần phật trong những kho hàng, làm bung những tấm mái kẽm”
[65, tr. 267]. Chiến tranh bộc lộ tính hai mặt, có sự mất mát, hy sinh: “một thiếu phụ còn trẻ
và ông lão chủ hiệu thuốc đang ốm bị chết bom” [65, tr. 268], anh phi công dũng cảm Ivan
Gêraximốp bị bắt và xử tử; có chiến công vang dội “Trọng pháo của Đức bị đánh tan tác,
đất cát phủ đầy. Ngôi nhà cổ có những cửa cuốn tò vò ngoài phố chính, nơi Bộ chỉ huy Đức
đóng, cháy rừng rực. Ngoài bến, chiếc tàu vận tải Rumani xanh lốm đốm như một con ếch,
bốc khói, chìm dần. Xác lính Đức ngổn ngang khắp phố” [65, tr. 268]. Bóng dáng chiến
tranh còn hiện ra ở các chi tiết rải rác trong phần lớn truyện ngắn của Pauxtốpxki: cuộc sống
tản cư của mẹ con ca sĩ Tachianna, công việc biểu diễn trong “các trạm quân y lưu động”
của cô, bức thư anh lính thủy Nicôlai Pôtapôp gửi cho người cha kính yêu (Tuyết); một
chuyến đi trên chiếc xe tải quân sự đầy bất trắc vì máy bay địch xả liên thanh, “đạn cày lên
từng cột bụi” (Trên thùng xe tải); anh thiếu tá Kuzmin chuyển giùm người bạn nằm cùng
quân y viện một bức thư cho người vợ anh ta nhân chuyến nghỉ phép (Bình minh mưa); anh
sĩ quan “bị thương vào đầu” được gửi đến một nhà nghỉ để hồi sức sau vết thương nặng nề
(Cầu vồng trắng); chú bé bỏ bức thư vào chai để gửi cho người cha ngoài mặt trận (Chú bé
chăn bò)… Hiện thực chiến tranh hiện lên qua trang viết của Pauxtốpxki mang màu sắc bi
tráng, trong đó chất “tráng” bao giờ cũng lấn lướt, nổi bật hơn “bi”.
Dù luôn nỗ lực chắt lọc lấy phần thi vị trong cuộc sống nghèo nàn, tối tăm nhưng ngòi
bút Thạch Lam, Pauxtốpxki không vì thế mà lãng quên những vấn đề có phần bi thảm, dữ
dội của hiện thực. Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều sống ở thời đại đất nước trải qua nhiều
biến cố lịch sử, bao cuộc “chuyển dạ” đớn đau. Hiện thực phản ánh của hai nhà văn khác
nhau vì họ có xu hướng phản ánh chính cái đời sống xã hội đã và đang diễn ra xung quanh
mình. Xã hội Việt Nam thời kì này đã bị Pháp “bình định”, mối xung đột giữa nông dân và
thực dân nằm ở bề sâu chứ không nổi lên ở bề mặt như giai đoạn trước đó. Bóng dáng thực
dân không hiện lên trực diện trong trang viết của Thạch Lam. Dưới sự khai thác bóc lột của
Pháp, xã hội Việt Nam bị phân hóa sâu sắc, cuộc sống người dân rơi vào thảm họa đói
nghèo, nhất là ở làng quê, tỉnh lẻ. Thực tại ấy đã phả vào truyện ngắn Thạch Lam tính chất
“âm âm, u u” của những số phận, kiếp người. Còn hiện thực mà Pauxtốpxki đắm mình trong
đó là những sự kiện long trời lở đất: chiến tranh thế giới, cách mạng, nội chiến, chiến tranh
vệ quốc. Đề tài chiến tranh trở thành đề tài quán xuyến toàn bộ văn học Xô Viết thời bấy giờ.
Do vậy, những trang viết của ông, dù ít dù nhiều, không thể thiếu mùi “khói súng”.
Tuy nhiên, Thạch Lam và Pauxtốpxki đều không chiếm lĩnh và đồng hóa hiện thực với
cái nhìn nghiêm nhặt, tỉnh táo như các cây bút của chủ nghĩa hiện thực cùng thời. Viết về
chiến tranh, Sôlôkhốp đã đào sâu tận cùng nỗi đau, sự mất mát của những con người chịu
nạn. Chất thực trong truyện ngắn Số phận con người của ông thật đậm đặc, xù xì với bi kịch
của người lính Anđrây Xôcôlốp và cậu bé Vanhia. Chiến tranh đã cướp đi của họ mái ấm gia
đình và tất cả những người thân, để lại cho họ sự cô đơn, trơ trọi với khoảng trống hun hút
trong tâm hồn. Còn chất thực trong truyện ngắn của Pauxtốpxki đã được giảm bớt chất “thô
mộc” của nó. Cùng viết về cuộc sống bế tắc của người dân nghèo trong xã hội thực dân bán
phong kiến, nếu Thạch Lam có phần “nâng đỡ” các nhân vật về đạo đức, phẩm chất thì Nam
Cao lạnh lùng phanh phui, mổ xẻ tính cách lưu manh hóa ở họ. Nhân vật Chí Phèo trong
truyện ngắn cùng tên của ông là một điển hình cho lớp người nông dân bị dồn đến bước
đường cùng, bị biến dạng về nhân hình (quỷ dữ), méo mó về nhân tính (lưu manh), rơi vào bi
kịch bị cự tuyệt quyền làm người và phải tìm đến cái chết như một hướng giải thoát duy
nhất. Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều lấy cuộc đời thường nhật làm điểm xuất phát để
vươn tỏa đến những ước mơ, khát vọng tươi sáng, điểm tô thêm cho những tin yêu, mong
mỏi ở lòng tốt, điều thiện của con người. Đó là cái nhìn hiện thực theo phương thức nội
cảm hóa. Tố chất hiện thực trong truyện ngắn Thạch Lam, Pauxtốpxki có màu sắc riêng bởi
nó được khúc xạ qua tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của tác giả với cái nhìn thương yêu, trìu
mến. Tuy chiều rộng của hiện thực có phần co lại nhưng chiều sâu và sức gợi của nó thì
thăm thẳm khôn cùng.
1.3.2.2. Về chất thơ
Với cái nhìn chuyên chú phát hiện cái đẹp, vẻ nên thơ giữa bộn bề cuộc sống, cả
Thạch Lam và Pauxtốpxki đều tạo nên những áng văn xuôi mượt mà, truyền cảm. Không
thiếu chất thực để neo giữ câu chuyện ở cõi đời, tránh sa vào “ánh trăng lừa dối” nhưng có
thể nói, mức độ, liều lượng dồi dào của chất thơ mới là phần nổi trội trong truyện ngắn
Thạch Lam, Pauxtốpxki, hình thành nên một phương thức chiếm lĩnh cuộc sống độc đáo.
Chất thơ trong truyện ngắn Thạch Lam, Pauxtốpxki, trước hết được chắt lọc từ cuộc
đời thường nhật. Dường như cả hai nhà văn đã gạn lọc đi nhiều “lớp váng” vẩn đục của cuộc
sống hàng ngày và phủ lên bao thứ vụn vặt, bình thường một chất thơ bàng bạc, một cảm xúc
trữ tình dồi dào, khiến nó có sức lay động mạnh mẽ, sâu xa. Điều này thì Thạch Lam và
Pauxtốpxki giống cách nhìn của Mácxim Gorki.
Dưới ngòi bút của Thạch Lam, cuộc sống hiu hắt, quẩn quanh vẫn toát lên vẻ lãng
mạn, thi vị từ những cảnh đời lam lũ, nhỏ nhoi. Đó là niềm hạnh phúc nguyên sơ được cất
lên từ những căn lều lụp xụp của một phố chợ tồi tàn.“Những ngày nắng ấm quanh năm”,
“những buổi chiều mùa hạ”, “những đêm sáng trăng” là thời khắc nhàn hạ, vui vẻ:“Dưới
bóng trăng, những đá rải đường trông đẹp và lấp lánh sáng. Đất hãy còn giữ cái nóng buổi
trưa và bốc lên một cái mùi riêng lẫn mùi rác bẩn và mùi cát. Mọi người họp nhau nói
chuyện, trẻ con nghịch chạy quanh các bà mẹ. Hình như quên cái khổ sở, hèn mọn, ai ai
cũng vui vẻ chuyện trò, tiếng cười to và dài của người lớn xen lẫn tiếng khúc khích của các
cô gái chúm chụm sát nhau trong bóng tối”[44. tr. 16] (Nhà mẹ Lê). Đó còn là một thiên
đường giữa cõi nhân gian xô bồ – ngôi nhà tuổi thơ thân quen với con đường gạch Bát Tràng
rêu phủ, bể nước giếng ngọt lành, giàn thiên lí tỏa bóng mát, hương thơm hoàng lan quyến
rũ… và nhất là người bà hiền từ và cô bạn gái xinh đẹp luôn chờ đợi, thương yêu (Dưới bóng
hoàng lan). Ở các truyện ngắn như Hai lần chết, Một đời người, Người bạn cũ, Người lính
cũ… Thạch Lam đã đánh thức ở người đọc nỗi niềm xao xác, da diết trước những số phận
mờ xám, tối mịt như bóng đêm.
Cùng lối khám phá đầy rung cảm, xôn xao trước thực tại, Pauxtốpxki đã tìm thấy chất
thơ từ những cuộc gặp gỡ vô tình mà như định mệnh giữa cõi đời. Mặc dù họ gặp nhau rồi
chia xa mãi mãi hay hứa hẹn cuộc hội ngộ đầy hạnh phúc về sau, thì cuộc đời của mỗi người
dường như đẹp hơn, có ý nghĩa hơn từ lần gặp ấy. Cuộc hội ngộ trong Bình minh mưa, Tuyết,
Gió biển, Chú bé chăn bò, Suối cá hương tựa như luồng gió lạ, làm dịu đi cái ác liệt, căng
thẳng của chiến tranh, thổi vào tâm hồn con người niềm tin yêu mãnh liệt vào ngày mai.
Chiến tranh dữ dội, mất mát là thế, nhưng Pauxtốpxki đã khéo léo khơi cái phần thi vị, nồng
ấm bị nhòe lẫn, khuất lấp trong đó, mang đến chất “tráng” cho những trang văn.
Một trong những ưu thế nổi trội, làm nên thế mạnh của ngòi bút Thạch Lam,
Pauxtốpxki chính là việc khám phá chất thơ của tâm hồn con người với tất cả chiều sâu, sự
tinh tế, vẻ phong phú vô tận của nó. Trước hết, đó là thái độ, cách nhìn đời đầy trân trọng,
nâng niu, soi chiếu tâm hồn giàu cảm xúc, nhân hậu của nhà văn. Các ông như trải lòng mình
lên những trang văn, những gì viết ra đều thấm đượm cái nhìn, nếp nghĩ và không ít máu thịt
của nhà văn trong đó. Ngoài ra, chất thơ còn được lắng lọc qua tâm hồn của nhân vật. Thạch
Lam bước vào tâm hồn trẻ thơ để khám phá lòng tốt thuần khiết, vô tư (Gió lạnh đầu mùa);
nỗi buồn thơ ngây (Hai đứa trẻ). Ông phát hiện những rung động khẽ khàng, tế vi trong tâm
hồn người con gái đang yêu (Bắt đầu, Tình xưa, Nắng trong vườn), hay vẻ đẹp ngời sáng của
đức hi sinh, lòng nhân hậu, vị tha của người phụ nữ Việt Nam (Nhà mẹ Lê, Hai lần chết, Một
đời người)…
Vẻ đẹp của lòng nhân ái là ngọn nguồn trong lành làm tuôn chảy chất thơ ngọt ngào,
tươi mát cho những trang viết của Pauxtốpxki. Qua những truyện ngắn như Lẵng quả thông,
Âm nhạc Vécđi, Bông hồng vàng, Người đầu bếp già, Chiếc nhẫn bằng thép… người đọc bắt
gặp vẻ đẹp của lòng tốt vô biên; nét trong trẻo của tâm hồn trẻ thơ hay xúc cảm mãnh liệt,
dạt dào của con người trước âm nhạc.
Mặt khác, thiên nhiên với gương mặt muôn màu muôn vẻ cũng là những nguồn thơ
phong phú, tạo cảm hứng cho Thạch Lam và Pauxtốpxki trong phần lớn truyện ngắn của các
ông. Thiên nhiên trong truyện của Thạch Lam là những bức tranh có hồn về cảnh sắc bình dị
của làng quê Việt Nam. Cảnh chiều tà ở một phố huyện nghèo gợi nhiều thi hứng, nhạc cảm
cho tâm trạng: “Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra
để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và đám mây ánh hồng như hòn than sắp
tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời” (Hai đứa trẻ) [44, tr.
149]. Đêm sáng trăng đẹp, yên ả, sắc sảo từng đường nét, chẳng khác gì một bức danh họa
chốn đồng nội: “Ngày chưa tắt hẳn, mặt trăng đã lên rồi. Mặt trăng tròn, to và đỏ từ từ lên ở
chân trời, sau rặng tre đen của làng xa. Mấy sợi mây còn vắt ngang qua, mỗi lúc một mảnh
dần, rồi đứt hẳn. Trên quãng đồng rộng, cơn gió nhẹ hiu hiu đưa lại, thoang thoảng dâng
hương thơm ngát. Sau tiếng chuông của ngôi chùa độ một giờ, thì thật là trăng sáng hẳn:
trời bấy giờ trong thăm thẳm và cao; mặt trăng đã nhỏ lại, sáng vằng vặc, du như sáo diều;
ánh trăng trong chảy khắp cả trên ngành cây, kẽ lá, tràn ngập trên con đường trắng xóa”
[44, tr. 196]. Cánh đồng quê, con đường làng mấp mô, mùi của cỏ, ao, bèo, rơm rạ, đất
ẩm…, tất cả quyện hòa vào nhau, k._.02.
103.
4nx3f91yic
104.
nvnvntnqn3n31n343tq83a3q3m3237nvn
PHỤ LỤC
1. Một số tài liệu về Pauxtốpxki
1.1 Паустовский Константин Георгиевич (1892 - 1968), прозаик.
Родился 19 мая (31 н.с.) в Москве в Гранатном переулке, в семье
железнодорожного статистика, но, несмотря на профессию, неисправимого
мечтателя. В семье любили театр, много пели, играли на рояле.
Учился в Киеве в классической гимназии, где были хорошие учителя русской
словесности, истории, психологии. Много читал, писал стихи. После развода
родителей должен был сам зарабатывать себе на жизнь и ученье, перебивался
репетиторством. В 1912 закончил гимназию и поступил на естественно-
исторический факультет Киевского университета. Через два года перевелся в
Московский на юридический факультет.
Началась первая мировая война, но его как младшего сына в семье (по тогдашним
законам) в армию не взяли. Еще в последнем классе гимназии, напечатав свой
первый рассказ, Паустовский решает стать писателем, но считает, что для этого
надо "уйти в жизнь", чтобы "все знать, все почувствовать и все понять" - "без
этого жизненного опыта пути к писательству не было". Поступает вожатым на
московский трамвай, затем санитаром на тыловой санитарный поезд. Тогда он
узнал и навсегда полюбил среднюю полосу России, ее города.
Паустовский работал на металлургическом Брянском заводе, на котельном заводе
в Таганроге и даже в рыбачьей артели на Азовском море. В свободное время
начал писать свою первую повесть "Романтики", которая вышла в свет только в
1930-х в Москве. После начала Февральской революции уехал в Москву, стал
работать репортером в газетах, оказавшись свидетелем всех событий в Москве в
дни Октябрьской революции.
После революции много ездил по стране, бывал в Киеве, служил в Красной
Армии, сражаясь "со всякими отпетыми атаманами", уехал в Одессу, где работал
в газете "Моряк". Здесь попал в среду молодых писателей, среди которых были
Катаев, Ильф, Бабель, Багрицкий и др. Вскоре им снова овладела "муза дальних
странствий": живет в Сухуми, Тбилиси, Ереване, пока наконец не возвращается в
Москву. Несколько лет работает редактором РОСТА и начинает печататься.
Первой книгой был сборник рассказов "Встречные корабли", затем повесть
"Кара-Бугаз". После выхода в свет этой повести навсегда оставляет службу, и
писательство становится его единственной любимой работой.
Паустовский открывает для себя заповедную землю - Мещеру, которой обязан
многими своими рассказами. Он по-прежнему много ездит, и каждая поездка - это
книга. За годы своей писательской жизни он объездил весь Советский Союз.
Во время Великой Отечественной войны был военным корреспондентом и тоже
изъездил много мест. После войны впервые был на Западе: Чехословакия, Италия,
Турция, Греция, Швеция и т.д. Встреча с Парижем была для него особенно
дорогой и близкой.
Паустовский написал серию книг о творчестве и о людях искусства: "Орест
Кипренский", "Исаак Левитан" (1937), "Тарас Шевченко" (1939), "Повесть о
лесах" (1949), "Золотая роза" (1956) - повесть о литературе, о "прекрасной
сущности писательского труда".
В последние годы жизни работал над большой автобиографической эпопеей
"Повесть о жизни".
К.Паустовский умер 14 июля 1968 в Тарусе, где и похоронен. {От редакции сайта
- ошибка в словаре ! Правильно: умер в Москве, похоронен в Тарусе}.
Русские писатели и поэты.
Краткий биографический словарь.
Москва, 2000.
1.2 Nguyên văn:
Родился и умер К. Паустовский в Москве.
Его отец, потомок запорожских казаков, был железнодорожным статистиком, мать
происходила из интеллигентной польской семьи среднего достатка.
Детство и отрочество его прошли в Киеве. Окончив первую киевскую гимназию
(1912), поступил на естественное отделение физико-математического факультета
Киевского университета. Проучившись первый курс, перешел на философское
отделение историко-филологического факультета. В 1914 году перевелся в
Московский университет.
К. Паустовский был неутомимым путешественником.
Он жил в шумной Москве и зеленом Киеве, слышал сочную и живописную речь
одесситов, был в Прибалтике и в Сибири, восхищался белыми ночами Карелии, пил
воду из черных болотных озер Мещорского края, благоговейно ходил по
Михайловскому.
Бывал он и за границей: посетил Чехословакию, Болгарию, Польшу, совершил
путешествие вокруг Европы, в 1965 году жил на острове Капри.
Его путешествия не проходили даром. Он возвращал их людям щедро и неутомимо
– новым рассказом, повестью, новой книгой.
В первые месяцы первой мировой войны работал кондуктором и вожатым
московского трамвая, а затем – санитаром на тыловом и полевом санитарных поездах.
Писать начал в последних классах гимназии. Это были стихи, часто
подражательные. Сочинив целый ворох стихов, Паустовский почувствовал искушение
попытать свои силы в прозе. Первые его рассказы «На воде» (1912), «Четверо». Затем
он вновь вернулся к поэзии.
Житейские обстоятельства – необходимость зарабатывать на хлеб – обратили
К.Паустовского к журналистике. Он перепробовал почти все газетные специальности.
Паустовский писал о самых разнообразных событиях и людях. Писал рассказы,
повести, романы.
В литературу Паустовский пришел в 20-е годы. Произведения Паустовского этого
периода отмечены абстрактностью; это объясняется мироощущением писателя.
Во второй половине 30-х годов взгляд Паустовского-художника обращен на
пленительную в своей скромной красоте природу. В восприятии и изображении
природы К.Г. Паустовский родственен И. Бунину и М. Пришвину.
Природа притягивала Паустовского как умиротворяющая, прекрасная в
неистощимом разнообразии среда, где человек освобождается от всего мелкого и
суетного и обретает душевное равновесие.
С севером К. Паустовский впервые встретился в 1925 году, когда он, сотрудник
газеты «На вахте», был командирован в Ленинград на проводы в кругосветное
путешествие первого советского парусного корабля.
Первая поездка писателя на север просто ошеломила его, здесь он узнал
пленительную власть севера. Первая белая ночь над Невой дала ему больше для
познания русской поэзии, чем десятки книг и многие часы размышлений над ними.
С тех пор писателя не покидало желание снова побывать на севере, ближе познать
его. «С давних пор, - признается он в «Книге скитаний», - Олонецкий край привлекал
меня. Мне давно хотелось попасть туда. Почему-то мне всегда казалось, что именно
там со мной случиться что-то очень хорошее». И такая возможность вскоре
представилась.
В 1931 году по предложению А.М. Горького в нашей стране создается «История
фабрик и заводов». Из множества предложенных заводов Паустовский выбирает
старинный завод в Петрозаводске. Весной 1932 года он отправляется на север.
Свою поездку Паустовский начинает с Мурманска, куда заехал по простому
любопытству. Прожив в Мурманске несколько дней, Паустовский уехал в
Петрозаводск. О том, что случилось с ним в этом городе, писатель рассказал в
«Золотой розе».
Сначала Паустовский жил в доме колхозника (теперь в этом здании находится
филармония), а затем снял комнату у бывшей учительницы Серафимы Ионовны.
У него долго не получалось работа по книге о заводе, что он даже хотел покинуть
город. Но старушка-учительница попросила его не горячиться и просто погулять по
городу.
В Петрозаводске в те годы было два так называемых «немецких кладбища». Одно
из них находилось на Зареке, через дорогу от церкви. Там были похоронены многие
иностранные специалисты, некогда служившие на Александровском заводе. Среди
всех могил выделялась одна надгробная плита. Она была обнесена чугунной оградой
великолепного тяжелого литья. К этому памятнику и пришел однажды Паустовский.
Надпись на памятнике заинтересовала его, и он стал собирать сведения об этом
человеке. Все это описано автором в его книге «Золотая роза» (гл. «Белая ночь»). Так
родилась его повесть «Судьба Шарля Лонсевиля», которую он начал писать в
Петрозаводске, а закончил в Мещорских лесах.
История Онежского, бывшего Александровского завода нашла отражение не только
в повести «Судьба Шарля Лонсевиля», но еще и в очерках «Онежский завод».
Несомненной заслугой Паустовского является то, что он по существу первым
обратился к истории одного из крупнейших в России «чугунопушечных и
железоделательных» заводов. Он собрал богатый, в том числе и архивный материал по
истории завода, использовал многие подлинные имена и события. Но до 1932 года,
когда писатель работал над этой темой, систематизированных исследований по
истории завода не имелось. По этой причине у автора имеются некоторые неточности.
Жанр повести, в отличие от очерка, дает писателю возможность творческого
вымысла и выхода за рамки фактографии события, и К. Паустовский использовал это
право.
Внимание автора к Карелии не ограничилось его интересом к Онежскому заводу. В
1933 году выходит в свет его историко-революционная повесть «Озерный фронт»
(впервые была опубликована в журнале «30 дней» под названием «Озерная война»). В
книге под пером художника оживают события гражданской войны в Карелии, «смелая
и блестящая Видлицкая операция» 1919 года.
Находясь в Карелии, Паустовский посетил водопад Кивач, Кижи, Пудож и
Заонежье, побывал на Ладожском и Онежском озерах.
В своих заонежских встречах писатель повествует в рассказе очеркового типа
«страна за Онегой» (1932).
Интерес Паустовского к Заонежью не случаен. Оно населено «потомками
новгородцев. Они сохранили чистый новгородский язык, сохранили старые сказания,
песни, былины». Также Заонежье привлекло его и народным искусством северного
старинного зодчества. Паустовский видит истоки богатств русского языка в народной
поэзии. Вот почему с такой теплотой рассказывает он о своих встречах с народными
сказителями, вспоминает имена многих удивительных собирателей и исполнителей
народных песен. В своих произведениях о Карелии писатель создал целую галерею их
портретов.
Очень часто в произведениях Паустовского можно встретить обращение к имени
русского поэта А.С. Пушкина, и это не случайно. «Первая половина 19 века… ближе
мне, чем любая другая историческая эпоха. Это начало золотого века русской
культуры. Это время Пушкина…».
В повести «Судьба Шарля Лонсевиля» тоже присутствует ссылка на Пушкина.
Северный цикл повестей создавался писателем в 30-е годы. Это были годы
творческого становления Паустовского, когда он уходит от писания «туманных и
надуманных» рассказов раннего периода, когда экзотика, к которой он был так
привержен в 20-е годы, начинает тяготить писателя и сковывать его творческие
возможности. Этот перелом в творчестве художника происходит не сразу.
Север явился непродолжительным, но интересным этапом в творческой биографии
писателя. Впечатления, полученные на Севере, сыграли определенную роль в
становлении его мировоззрения и мастерства.
В последние 15 лет жизни Паустовский активно выступал как публицист. Он
призывал оградить природу от варварских покушений на нее, заступался за гонимых и
преследуемых, отстаивал свободу и независимость человеческой личности, осуждал
жестокость и насилие, угодничество и бесчеловечность, поддерживал талантливых
молодых писателей.
Его творчество и совестливая позиция, которую он неизменно занимал, создали ему
высокий нравственный авторитет в России и за рубежом. Книги Паустовского
переведены на большинство языков мира и изданы на всех 5 континентах.
Bản dịch:
K. Pauxtốpki sinh ra và qua đời ở Mátxcơva
Bố của ông là dòng dõi của những người Côdắc vùng Dapa-rô-de làm nghề thống kê
đường sắt, còn mẹ xuất thân từ một gia đình trí thức Ba-lan bậc trung.
Thời thơ ấu và niên thiếu của ông trôi qua ở Ki-ép.Tốt nghiệp trường phổ thông (năm
1912), ông vào học ở phân ban tự nhiên thuộc khoa toán lí trường Tổng hợp Ki-ép. Học hết
năm thứ nhất, ông chuyển sang phân ban triết học của khoa sử-ngữ văn. Vào năm 1914, ông
chuyển tới Trường Đại học tổng hợp Mát-xcơ-va.
K. Pauxtốpxki là một người đi du lịch không biết mệt mỏi. Ông đã nghe giọng nói âm
vang và du dương của những người Ô-đéc-xa, ông đã đến vùng Ban tích, đã đến Xi-bi-ri, đã
ngỡ ngàng với những đêm trắng ở Ka-re-li, đã uống nước của những hồ trong đầm lầy đen
kịt ở vùng Me-sor, đã rảo chân thong dong trên những nẻo đường ở vùng Mi-khai-lốp. Ông
cũng đi ra nước ngoài: ông đã đến thăm Tiệp khắc, Bun-ga-ri, Ba-lan, đã đi du lịch vòng
quanh châu Âu. Vào năm 1965 ông đã sống ở đảo Ca-pri. Những chuyến đi của ông không
phải là vô ích. Từ những chuyến đi, ông mang về cho mọi người những truyện ngắn, truyện
vừa, cuốn sách mới.
Vào những tháng đầu tiên của chiến tranh thế giới lần thứ nhất, ông làm người bán vé
và lái tàu điện ở Mát-xcơ-va, rồi sau đó làm y tá trên những con tàu cứu thương ở hậu
phương và ở tiến tuyến.
Ông bắt đầu viết vào những năm cuối của trường phổ thông. Những bài thơ đó thường
là những bài bắt chước. Khi đã viết một loạt các bài thơ, Pauxtốpxki muốn thử sức mình
trong văn xuôi. Những truyện ngắn đầu tay của ông là “Dưới nước” (1912), “Bốn người”.
Sau đó ông lại quay lại với thơ ca.
Nhưng hoàn cảnh sống – sự cần thiết phải kiếm cơm đã làm cho Pauxtốpxki đến với
nghề làm báo. Ông hầu như đã làm hết những công việc của nghề báo. Ông viết đa dạng về
những sự kiện và những con người. Ông đã viết truyện ngắn, truyện vừa và tiểu thuyết.
Pauxtốpxki đến với văn học vào những năm 20. Những tác phẩm của Pauxtốpxki thời
kì này được đánh dấu bằng tính trừu tượng. Điều này được giải thích là do cách thụ cảm thế
giới của nhà văn.
Vào cuối những năm 30, Pauxtốpxki nhà nghệ sĩ chú ý đến thiên nhiên quyến rũ với
cái vẻ đẹp đơn sơ của nó.Trong sự cảm nhận và miêu tả thiên nhiên, Pauxtốpxki giống như I.
Bu-nhin và M. Pri-svin. Thiên nhiên tuyệt vời, với cái đa dạng của nó, nơi mà con người
được giải phóng khỏi cái nhỏ nhen, cái bận rộn đã lôi cuốn Pauxtốpxki, trấn tĩnh ông, làm
cho ông có được sự cân bằng về tinh thần
Lần đầu tiên Pauxtốpxki đến với miền Bắc nước Nga là vào năm 1925 khi đó ông là
cộng tác viên của tờ báo “Bảo vệ” đi công tác đến Lê-nin-grát để tiễn chiếc tàu buồm đầu
tiên của Liên xô chạy vòng quanh thế giới.
Chuyến đi phương Bắc thực sự đã làm cho ông ngạc nhiên. Ở đây ông đã cảm nhận
được sức quyến rũ của phương Bắc. Đêm trắng đầu tiên trên sông Nê-va đã cho ông nhận
thức nhiều hơn về thơ Nga hơn là đọc hàng chục cuốn sách và suy ngẩm về chúng.
Kể từ đó, nhà văn mong muốn được đến phương Bắc lần nữa, để nhận biết nó sâu hơn.
Nhà văn đã thú nhận trong cuốn “Phiêu bạt” : “Đã từ lâu vùng Olen-nhi-xki đã quyến rũ tôi.
Đã từ lâu tôi muốn tới đó. Không hiểu vì sao tôi luôn cảm giác rằng chính ở đó có điều gì đó
rất tốt đẹp sẽ đến vối tôi.” Và mong ước này chẳng bao lâu nũa đã thành hiện thực.
Vào năm 1931 theo đề nghị của Gorki trong đất nước của chúng ta thành lập “Lịch sử
các nhà máy và công xưởng”. Trong hang loạt các nhà máy được giới thiệu, Pauxtốpxki chọn
một nhà máy cũ ở Pe-trô-da-vốt-xcơ. Mùa xuân 1932 ông lên phương Bắc.
Pauxtốpxki bắt đầu chuyến đi từ Mur-man-xcơ, nơi mà ông ghé lại là do tò mò.
Pauxtốpxki sống một vài ngày ở Mur-man-xcơ rồi ông đến Pe-trô-da-vốt-xcơ. Chuyện gì
xảy ra với nhà văn ở thành phố này, ông đã kể trong Bông hồng vàng.
Đầu tiên, Pauxtốpki sống trong nhà của một người nông trường viên (bây giờ trong
ngôi nhà này là nhà khuyến nhạc), sau đó ông thuê một phòng ở nhà bà Xe-ra-phima Iô-nốp-
na, một cựu giáo viên. Pauxtốpxki mãi không viết được cuốn sách về nhà máy, thậm chí ông
còn muốn rời thành phố. Nhưng bà giáo già nói ông đừng tức giận và nên đi dạo phố.
Ở Pe-trô-da-vốt-xcơ vào những năm đó có hai nghĩa địa được gọi là “nghĩa địa Đức”.
Một nghĩa địa nằm ở Da-re-ka, hướng từ nhà thờ sang bên kia đường. Ở đó chôn cất nhiều
những chuyên gia nước ngoài đã làm việc tại nhà máy A-lếch-xăng đờ -rốp-xcơ. Trong
những ngôi mộ đó nổi hẳn lên một tấm bia mộ. Tấm bia được viền bằng gang đúc trông nặng
nề nhưng tuyệt đẹp. Một lần Pauxtốpxki đã đến ngôi mộ này. Những dòng chữ trên tấm bia
đã làm ông chú ý và ông bắt đầu thu tập tư liệu về con người này. Tất cả những tư liệu này
đã được tác giả miêu tả trong cuốn Bông hồng vàng (chương “Đêm trắng”). Và như vậy
truyện vừa “Số phận của Sác-lơ Lông-xe-vil “đã được ra đời. Cuốn này ông bắt đầu viết ở
Pe-trô-da-vốt-xcơ và kết thức ở vùng rừng núi Me-sô-xki..
Lịch sử của nhà máy Ô-nhét-xki , trước đây là nhà máy A-lếch –xăng đờ-rốp-xcơ đã
được phản ánh không những trong truyện “Số phận của Sác-lơ Lông-xe-vil” mà còn trong
bút ký “Nhà máy Ô-nhét-xki”.
Không còn nghi ngờ gì nữa, công lao của Pauxtốpxki là ở chỗ, thực chất ông là người
đầu tiên đề cập đến lịch sử của một trong những nhà máy luyện gang thép lớn nhất nước
Nga. Ông đã thu tập được một kho tài liệu phong phú, trong đó có cả tài liệu lưu trữ về lịch
sử của nhà máy, ông đã sử dụng nhiều những tên tuổi và sự kiện có thực. Nhưng cho đến
trước năm 1932, khi nhà văn bắt đầu viết về chủ đề này, những nghiên cứu có hệ thống về
lịch sử nhà máy vẫn chưa có. Do vậy, ở tác giả đã có những chi tiết thiếu chính xác. Thể loại
truyện vừa, khác với thể loại bút ký, cho phép nhà văn khả năng hư cấu sáng tạo và vượt qua
khuôn khổ của việc ghi chép sự kiện. Pauxtốpxki đã sử dụng cái quyền này.
Sự chú ý của Pauxtốpxki tới vùng Ka-re-li không làm hạn chế sự hứng thú của ông đối
với nhà máy Ô-nhét-xki. Vào năm 1933 cuốn truyện vừa lịch sử – cách mạng “Mặt trận vùng
hồ” được xuất bản (lần đầu tiên truyện này đăng trong tạp chí “30 ngày “ dưới nhan đề
“Chiến tranh vùng hồ”. Trong cuốn sách, dưới ngòi bút của nhà văn những sự kiện của cuộc
nội chiến, “chiến dịch Vit-đờ-lit-xki quả cảm tuyệt vời “ của năm 1919 được sống lại.
Khi ở Ka-re-li, Pauxtốpxki đã đến thăm thác Ki-vat, Ki-di, Pu-đóc và Da-ô-nhe-de, đã
đến hồ La-đô-ga và Ô-nhe-ga. Về những cuộc gặp gỡ ở Da-ô-nhe-de, nhà văn đã thuật lại
trong truyện ngắn dạng bút ký “Xứ sở Da-ô-nhe-de” (1932). Sự chú ý của Pauxtốpxki đến
Da-ô-nhe-de không phải là sự tình cờ. Vùng này có nhiều “dòng dõi của những người ở
thành phố Nôv-gô-rốt. Họ giữ giọng nói của Nôv-gô-rốt, giữ lại những chuyện cổ tích,
những bài hát, cách làm bánh xèo”. Da-ô-nhe-de còn quyến rũ ông bởi nghệ thuật dân gian
kiến trúc cổ ở phương Bắc. Pauxtốpxki đã nhìn thấy sự phong phú của tiếng Nga trong thơ
dân gian. Vì vậy mà tại sao với lòng nhiệt thành, ông kể về những cuộc gặp gỡ với những
người kể chuyện dân gian, ông nhớ lại tên tuổi của nhiều người sưu tầm và những người hát
dân ca tuyệt vời. Trong những tác phẩm về Ka-re-li, ông đã tạo nên một loạt những chân
dung của họ.
Trong những tác phẩm của Pauxtốpxki thường thấy ông chú ý đế tên tuổi của nhà thơ
Nga Pus-kin và điều này không phải là sự tình cờ. “Nửa đầu thế kỷ 19 gần gũi với tôi hơn
bất kỳ thời đại nào khác. Đó là sự bắt đầu của thế kỷ vàng của nền văn hóa Nga. Đó là thời
đại Pus-kin…”
Trong truyện vừa “Số phận của Sác-lơ Lô-xe-vil” cũng có lời viện dẫn ca ngợi Puskin.
Hàng loạt các truyện về phương Bắc được nhà văn viết vào những năm 30. Đó là
những năm hình thành sáng tác của Pauxtốpxki, khi mà ông thoát khỏi việc viết những
truyện ngắn “Mơ hồ và giả tạo” của thời kì đầu, khi mà những chuyện kì lạ mà ông gắn bó
trong những năm 20 bắt đầu đè nặng nhà văn, kìm hãm những khả năng sáng tạo của ông.
Phương Bắc không phải là giai đoạn dài nhưng là giai đoạn thú vị trong quá trình sáng
tạo của nhà văn. Những ấn tượng mà nhà văn nhận được ở phương Bắc đã có một vai trò
nhất định trong việc hình thành thế giới quan và nghệ thuật của nhà văn.
Trong 15 năm cuối đời, Pauxtốpxki hoạt động tích cực như một nhà chính luận. Ông
kêu gọi bảo vệ thiên nhiên khỏi những cuộc tàn phá dã man, ông bênh vực những người bị
truy bức, bị theo dõi, bảo vệ tự do và tính độc lập của cá nhân, lên án bạo lực và sự tàn bạo,
ủng hộ những nhà văn trẻ có tài.
Sáng tác và lập trường có lương tâm mà Pauxtốpxki đã kiên trì đã làm cho ông có uy
tín cao về đạo đức ở nước Nga và ở nước ngoài. Sách của Pauxtốpxki đã được dịch ra nhiều
thứ tiếng trên thế giới và được phát hành trên khắp năm châu.
(Tiến sĩ Nguyễn Nam Phong dịch)
2. Thạch Lam – Pauxtốpxki và những trang thơ
Thạch Lam và Pauxtốpxki – người đan dệt những sợi tơ cảm giác, nhà văn của thể loại
truyện ngắn trữ tình với những trang văn mượt mà chất thơ. Cuộc đời, con người và những
tác phẩm của hai nhà văn cũng là nguồn cảm hứng vô tận cho những tâm hồn yêu thơ. Bản
thân người viết cũng tìm thấy ở những truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki những
điều thật gần gũi với điệu tâm hồn mình.
1. HOÀI NIỆM
ĐINH HÙNG
(Trích)
Chiều mùa đông,
Đốt ngọn lửa hồng,
Ta đọc tập thơ sầu, cười với bóng
Khói thuốc xanh bay về hư không.
Trăng lên đầu phố vắng,
Ồ bóng ta say !
Nhớ cố nhân tình sâu nặng,
Cốc rượu ngọt uống cay nồng.
*
* *
Bạn là người bạn chung tình,
Đôi hồn lữ thứ
Bốn phương lỡ gót đăng trình.
Trời giăng sao tỏ,
Bao mùa thu
Cửa phòng ta để ngỏ ?
Giấc mộng ta hững hờ ?
Bạn với tôi xưa
Đứng bên hồ
Nằm chung mộng
Ân ái cùng thơ.
*
* *
Đêm hoa, cành nguyệt,
Gió giăng xao động ngoài màn
Bạn hát bài ca phóng đãng,
Cười lên trăng xanh, tôi dạo đàn,
Xuân đến giấc mơ đầy thiếu nữ,
Ta nằm ta ngủ,
Lệ đa tình chưa chan.
Ôi thời gian ! Thời gian tình tự !
Mặc nỗi lòng người thở than
Mộng cung tần
Xoay nghiêng mặt gối.
Ai cười ? Ai nói ? Ai xênh ca ?
Lênh đênh nước biển trăng nhòa,
Những vì sao lạ đã sa xuống gần.
Trời buồn dáng điệu giai nhân...
2. BAO GIỜ LẠI GIÓ ĐẦU MÙA?
NGUYỄN VŨ TIỀM
Trăm đường phố chọc trời xa khuất mấy
Dễ quên sao ba mươi sáu phố phường
Một thoáng gió đầu mùa sâu thẳm ấy
Sợi tóc mềm trên ngưỡng cửa tha hương...
3. NHỮNG NGÔI SAO MƯỜI TÁM
PHẠM NGỌC LAN
“Chưa bao giờ anh ước đâu em
Một ngôi nhà bão dừng sau cánh cửa.”
(Bằng Việt)
Những vì sao sáng đến tận cùng đêm khi em mười tám tuổi
Trang sách Pauxtốpxki giấu ánh mắt thật hiền
Ngọn nến lung linh cạn mình để cháy
Có thể nào là cuộc sống của em?
Anh chúc gì cho em những ngày em mười tám tuổi
Bản sonat quê hương mang khát vọng dâng triều
Những bông tuyết tan dần trong lòng tay ấm nóng
Hay bông hồng vàng... những mảy bụi tình yêu
Cho em khóc cùng Đanhi niềm vui mười tám tuổi
Lãng quả thông thêm giấc mộng êm đềm
Cho em mở những lá thư phập phồng hy vọng
Để trao đi một tấm lòng và nhận lại một trái tim
Cuộc sống sẽ là gì từ trang sách của em?
Nghe bàng hoàng ngày sóng xô biển động
Nghe rừng thu xao xác lá muôn chiều
Bao nỗi đau đi qua mới cháy thành hạnh phúc
Trăm niềm thương lắng lại một niềm yêu.
Anh có kết giùm em bông hồng từ gió bụi
Mỗi nẻo em qua... vàng trong cát thầm thì
Một thoáng ngậm ngùi len trong lòng hạnh phúc
Để ta nhắc lại Pauxtốpxki
Gửi lại Pauxtốpxki nỗi buồn mười tám tuổi
Nhật ký tuổi thơ khép lại... Nhớ thương nhiều
Lật trang sách từ một thời bão nổi
Em soi cuộc đời minh trong đáy mắt tình yêu.
Anh chúc gì cho em
khi bầu trời
tím đến tận cùng đêm.
4. LẠI NGHĨ VỀ PAUXTỐXKI
BẰNG VIỆT
Đồi trung du phơ phất bóng thông già
Rừng thông đứng. Hồn trong chiều lặng gió
Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ
Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu
"Lẵng quả thông " trong suối nhạc nhiệm màu
Hay "Chuyến xe đêm" thầm thì mê đắm
Mùi cỏ dại trong cánh đồng xa thẳm
Một bầu trời vĩnh viễn ướp hương hoa.
– "Có thể ngày mai ta cũng sẽ đi qua
Một cánh cửa nao lòng trong truyện "Tuyết"?
Có tiếng chuông rung và con mèo "Áckhíp"
Ánh nến mơ hồ như hạnh phúc từng mong..."
Xa xôi sao!... Thời thơ ấu sau lưng
Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu!
Cuộc đời không phải thế!
Giọt nước trên tay không cùng mầu sóng bể
Bể mặn mòi sôi sục biết bao nhiêu
Khi em đến bên anh, trước biển cả dâng triều
Ta thu hết xa khơi vào lòng ngực trẻ
Dám thử mọi lo toan để vạch dấu chân trời
Dấu xanh thẳm khi bình minh vụt tới
Dấu đen sầm khi đáy bóng đêm trôi
Và hạnh phúc vỡ ra như một nốt đàn căng
Nốt cao quá trong đời xao động quá!
Hạnh phúc cực hơn mọi điều đã tả
Lại ngọt ngào kì lạ lớn lao hơn.
Anh đã đi qua bão lốc từng cơn
Cây rụng lá trong chiều thanh thản nhất
Anh qua cả màu không gian ngây ngất
Một tiếng thầm trong nắng mới lao xao
Em đến rồi đi như một giấc chiêm bao...!
Còn bây giờ anh biết nói gì hơn
Có thể, ngày mai thôi...Có thể..
"Hoa tóc tiên ơi! Sớm mai và tuổi trẻ"
Lật trang nhật ký nào cũng chỉ xót lòng thêm...
Pauxtốpki là dĩ vãng trong em
Thành dĩ vãng hai ta bây giờ anh ngoảnh lại
Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu,
Anh hiểu rằng không phải...
Như tuổi thơ, vừa đó đã xa vời...!
Đưa em đi.Tất cả thế xong rồi,
Ta đã lớn. Và Pauxtốpxki đã chết !
...Anh vẫn khóc khi nghĩ về chuyện "Tuyết"
Dẫu chẳng bao giờ mong đợi nữa đâu em!
5. THƠ TÌNH NGÀY BIỂN ĐỘNG
BẰNG VIỆT
Chưa bao giờ anh ước đâu em
Một ngôi nhà, bão dừng sau cánh cửa…
Trời ơi! Buổi sớm quá chừng thơm
Anh gặp lại hương sen, năm anh mười tám tuổi,
Một ánh vui táo tợn của mùa hè,
Khi những vệt ong hôn vào nhuỵ hoa cháy bừng như vệt lửa,
Những trận lốc, những cơn mưa trước hồn anh bỏ ngỏ…
Và ngôi nhà, bão dừng sau cánh cửa
Có thể nào anh ước đâu em?…
Rất nhiều chuyện qua rồi.
Rất nhiều chuyện giống như quên
Sau tuổi hai mươi, ngỡ không cần đến nữa:
Chút xôn xao trong hàng cây nắng nhỏ,
Giọt nước tròn rung rinh trong lá sen,
Cả gợn sóng mơ hồ trong ánh mắt riêng em,
Màu trời xám mênh mông ngày động biển,
Cánh bướm mai hồng, cơn mưa chiều tím,
Một cửa sổ lặng thầm chi chút những sao rơi…
Hạnh phúc ta cần, thực cũng giản đơn thôi
Như chỉ ở trước ta trên một tầm tay với,
Ngỡ rảo bước là sớm chiều đã tới
Suốt cuộc đời, sao vẫn giục mình đi?
Em có thể là gì sau trang sách Pauxtốpxki
Là một ánh bình minh xanh mờ không thể tắt?
Hay hương mát rừng thông cao ẩm ướt?
Một bóng mây khắc khoải cả mùa hè?
Anh không biết dãy phố ta đi hôm ấy gọi là gì?
Không biết lá cây trên đầu sao buổi chiều phát sáng?
Giọt nước mắt long lanh giữa tình yêu, tình bạn,
Những kỷ niệm nơi này xáo trộn với nơi kia
Anh và em (chỉ thế thôi).
Và không có Pauxtốpxki
“Ta đã lớn. Mà Pauxtốpxki đã chết!”
Chỉ còn lại cuối cùng những cảm thông da diết
Của tất cả những gì vừa có lại vừa không…
Tất cả có thế thôi!
Em – Màu trong suốt của trời xanh trên phố thợ,
Chỗ mặn nhất của đầu bọt sóng tự khơi xa,
Lại cũng là vết thương của anh, tuổi thơ của anh, nơi ẩn kín của hồn anh
bão tố,
Lá cỏ bồng gió ru trên bãi cát khô cằn,
Đốm lửa nhỏ bất ngờ trong một đêm ngủ rừng,
hai bàn tay lạnh cóng,
Hay màu ngói đỏ đầu tiên,
sau cả cuộc chiến tranh dài!
Em thao thức trong anh lòng yêu lớn – Con Người!
Yêu những thứ bị tàn phá đi, bây giờ cần dựng lại
Yêu một cái cây tự lúc phải gây mầm cho đến khi ra trái,
Yêu cái đẹp của cuộc đời, để buộc nó sản sinh thêm…
Chưa bao giờ anh ước đâu em
Một ngôi nhà, bão dừng sau cánh cửa!
6. HOÀI NIỆM NƯỚC NGA
(Cho Matx 1)
TRẦN THỊ THẮM
“Anh và em (chỉ thế thôi).
Và không có Pauxtốpxki
“Ta đã lớn. Mà Pauxtốpxki đã chết!”
Chỉ còn lại cuối cùng những cảm thông da diết
Của tất cả những gì vừa có lại vừa không…”
(Bằng Việt)
Những trang sách bên em từ thủa bé
Như con thuyền chở ước mộng tuổi thơ
Mãi trong em một nước Nga huyền thọai
Xa xôi sao, xanh ngát một khoảng trời
Mùa xuân đến dạo bản nhạc không lời
Đường bạch dương thênh thang tràn nắng ấm
Thảo nguyên xanh và con đường xa thẳm
Một cánh đồng rực rỡ ngát hương hoa
Thật diệu kì khi đàn sếu bay qua
Mang sắc đỏ rải xuống nghìn mắt lá
Thu quyến rũ dịu dàng đến kì lạ
Cả không gian miên man nét thu vàng
Em mơ về rừng thông mỗi chiều sang
Cái rét ngọt giữa mùa đông tuyết trắng
Cỗ xe ngựa trôi về miền xa vắng
Ánh sao xanh trên nóc mỗi ngôi nhà…
Cho em khóc cùng cô bé Đa–nhi
Niềm vui sướng vỡ òa tuổi mười tám
Pauxtốpki giấu tình thương sâu thẳm
Trái tim Người ấm áp mỗi trang văn
Hạnh phúc gần sao quá đỗi khó khăn
Bông hồng vàng kết từ nghìn tim vỡ
Trong bình yên lòng dâng lên nỗi sợ
Cả niềm tin cũng có lúc mong manh…
Anh kể em nghe về một nước Nga
Của riêng anh. Của một thời trai trẻ
1 Chúng tôi thường gọi Mátxcơva bằng cái tên thân mật là Matx
Rất đời thường mà bao điều mới mẻ
Chín năm rồi thành máu thịt trong anh
Giảng đường xa rộn rã bước chân
Bao mùa dài lòng cồn cào cơn đói
Bóng quê nhà chìm vào sương khói
Những chiếc lá mang khuôn mặt người say
Không giản đơn những phép cộng nồng, cay…
Hạnh phúc còn rộng dài hơn thế
Triết lí đời rồi chìm vào dâu bể
Điều giản dị sẽ ở lại bên anh
Vẫn trong anh tình yêu – Matx nguyên lành
Dẫu bão thổi bốn bề miền đất hứa
Bao khát vọng tuổi xanh thành điểm tựa
Đã đẩy lùi những cay cực ngày qua
Anh để lại gì cho Matxcơva?
Mùa lá rụng khẽ chạm vào nỗi nhớ
Bông tuyết tan trong lòng tay nóng bỏng
Phải anh về Matx lạnh hơn không?!
Từ bao giờ em nhớ những mùa đông
Dẫu bên em đang giữa mùa nắng ấm
Và thương cả cô gái Nga mắt biếc
Tha thiết trong anh một mối duyên đầu
Mãi trong em trong trẻo một tình yêu
Lật trang sách về nước Nga –xứ tuyết
Còn anh sẽ nói Matx lời từ biệt
Nhưng trong lòng nào có dễ nguôi quên.
VN, Tp.HCM, cuối tháng 10/2008.
7. CHIỀU MƯA
(Nhân đọc truyện ngắn Tình xưa của Thạch Lam)
TRẦN THỊ THẮM
Ngày anh trở lại – một chiều mưa
Con đường xưa hàng cây run rẩy
Quán cóc trầm tư tiếng cười ấy
Kỷ niệm gọi về hơi ấm bàn tay
Trắng xóa trời thành phố mưa bay
Những luồng xe trôi đi vội vã
Lướt qua nhau dòng người xa lạ
Còn mình anh với biển hoàng hôn
Sóng nghĩ gì mà lặng lẽ hơn
Gió trở mình hàng dương xào xạc
Nghe đâu đây vọng về tiếng hát
Bản tình ca sôi nổi đầu tiên
Nghe xa xôi từng bước chân quen
Ánh mắt ai buổi đầu hò hẹn
Phía trời xa cánh chim lẻ bạn
Trong tiếng kêu thảng thốt giật mình
( Trích
tre/105185/Thanh-pho-khong-mua-dong.html)
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5196.pdf