BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
NGUYỄN ĐĂNG VY
TRUYỆN NGẮN NHẤT LINH, KHÁI HƯNG TRONG
VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60 22 34
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THÀNH THI
TP Hồ Chí Minh – 2010
LỜI CẢM ƠN
Thực hiện luận văn này, bản thân tôi đã thường xuyên nhận được sự hướng dẫn tận
tình của PGS. TS Nguyễn Thành Thi. Với tư cách một chuyên gia văn học hiện đại Việt N
125 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2709 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong văn xuôi nghệ thuật Tự Lực Văn Đoàn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
am
1930-1945, am hiểu tường tận về sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng, thầy đã giúp đỡ, chỉ
dẫn khoa học rất cụ thể và đầy hiệu quả.
Xin được gửi lời cảm tạ chân thành sâu sắc nhất đến thầy, không phải chỉ vì thầy đã
giúp tôi hoàn thành luận văn mà còn vì đã cho tôi nhiều kinh nghiệm quý báu trong nghiên
cứu văn học cũng như thưởng thức cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương.
Nhân dịp luận văn hoàn thành, tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự giảng dạy tận tình
của tất cả các thầy cô phụ trách chuyên đề Cao học; cảm ơn BCN khoa Ngữ văn, các thầy cô
chuyên viên phòng Sau đại học đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong học tập nghiên cứu.
Cảm ơn bằng hữu đã nhiệt tình động viên cổ vũ tôi.
Con xin chân thành cảm ơn ba má đã không ngừng động viên giúp đỡ con về vật chất
lẫn tinh thần để có ngày hoàn tất và bảo vệ luận văn này.
TP Hồ Chí Minh ngày 01/01/2011
NGUYỄN ĐĂNG VY
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Từ khi xuất hiện cho đến nay, sáng tác văn học của hai tác giả Nhất Linh, Khái Hưng
đã thu hút được sự quan tâm của giới phê bình và độc giả. Ý kiến về các ông, tùy từng thời
điểm, thiên về khen hay chê, phủ nhận hay khẳng định, tất thảy đều cho thấy đánh giá sự
nghiệp văn chương của hai ông không hề đơn giản. Thời gian trôi qua, dường như khoảng
cách đã đủ để cân nhắc thẩm định đầy đủ hơn, sáng tác của Nhất Linh và Khái Hưng là một
trong nhiều hiện tượng văn học được nhìn nhận lại trong những năm gần đây. Trên tinh thần
đổi mới, giờ là lúc cần có sự đánh giá khách quan khoa học để trả lại giá trị đích thực vốn có
của các hiện tượng văn học ấy trong đó có sáng tác của Khái Hưng Nhất Linh và Tự Lực
Văn Đoàn (TLVĐ).
Nghiên cứu sáng tác của hai ông, các nhà nghiên cứu đã chú ý nhiều đến tiểu thuyết.
Điều đó là đúng và cần thiết, song chưa đủ. Trong sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng, bên
cạnh tiểu thuyết, còn có truyện ngắn. Có một thực tế không thể phủ nhận là trong sáng tác
của hai ông, thành tựu sáng tác truyện ngắn không nổi bật bằng thành tựu sáng tác tiểu
thuyết. Nhưng cũng có một giả thuyết, rằng: nếu không có các sáng tác truyện ngắn vừa như
là một sự thể nghiệm, chuẩn bị ý tưởng và kinh nghiệm cho sáng tác tiểu thuyết, vừa như là
một sự bổ sung, hòa phối với tiểu thuyết thì liệu tiểu thuyết của TLVĐ có được sức vang dội
như thế không, và văn chương TLVĐ liệu có được nhữnh thành tựu như đã có hay không?
Thiết tưởng, câu hỏi này chưa được đặt ra và trả lời thỏa đáng.
Đó cũng là lý do chủ yếu thôi thúc chúng tôi chọn, nghiên cứu đề tài “Truyện ngắn
Nhất Linh, Khái Hưng trong văn xuôi nghệ thuật Tự Lực Văn Đoàn” để thực hiện luận
văn thạc sĩ.
2. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Tìm hiểu về “Truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong văn xuôi nghệ thuật Tự
Lực Văn Đoàn”, luận văn này nhằm hướng tới các mục đích sau:
- Tìm hiểu truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng, để thấy được vai trò mở đường và
phát triển nghệ thuật truyện ngắn, hiện đại hóa VXNT quốc ngữ Việt Nam của TLVĐ – một
vấn đề mà trước đây thường bị bỏ qua hoặc chưa chú ý đúng mức.
- Trên cơ sở miêu tả đặc điểm nội dung và hình thức của truyện ngắn Nhất Linh, Khái
Hưng trong bối cảnh VXNT TLVĐ, khẳng định thêm về những giá trị, đóng góp của hai ông
trong sáng tác tiểu thuyết và truyện ngắn.
Với đối tượng nghiên cứu là truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong bối cảnh VXNT
TLVĐ – được nhìn chủ yếu trong mối quan hệ tương tác giữa sáng tác truyện ngắn và tiểu
thuyết – luận văn chủ yếu tập trung khảo sát các tập truyện ngắn của hai ông sáng tác thời
TLVĐ.
Cũng cần nói thêm rằng: Truyện ngắn của Nhất Linh và Khái Hưng có một khối lượng
không nhỏ.
Bên cạnh tập truyện ngắn Anh phải sống hai nhà văn viết chung với nhau, Nhất Linh
có tất cả 7 tập truyện ngắn (tổng cộng 40 truyện ngắn).
Trong đó, 5 tập sáng tác trước năm 1942 (từ 1927 đến 1937):
1) Người quay tơ (1927)
2) Anh phải sống (viết chung với Khái Hưng, 1934)
3) Tối tăm (1936)
4) Hai buổi chiều vàng (1937)
5) Thế rồi một buổi chiều (1937);
2 tập sáng tác sau 1942 (Mối tình chân: 1948-1950 và Thương chồng: 1949-1950).
Khái Hưng cũng có hàng trăm truyện ngắn, phần lớn đã xuất bản thành tập. Đó là các
tập:
1) Dọc đường gió bụi (1936)
2) Anh phải sống (viết chung với Nhất Linh, 1934)
3) Số đào hoa (1937)
4) Tiếng suối reo (1937)
5) Hạnh (1938)
6) Đợi chờ (1939)
7) Đội mũ lệch (1941)
8) Cái ve (1944)
Ngoài ra, ông còn một số truyện ngắn khác mới chỉ đăng báo, chưa in thành tập. (Tổng
cộng 67 truyện ngắn)
Do số lượng truyện ngắn của hai nhà văn khá lớn, hiện nay, lại có những khó khăn
đáng kể trong việc sưu tầm những tư liệu truyện ngắn do tình hình báo cũ bị mai một, thất
lạc (ngay cả ở các thư viện lớn), nên tập hợp chưa thật đầy đủ. Trong khuôn khổ có hạn, luận
văn chủ yếu tập trung khảo sát những tác phẩm truyện ngắn tiêu biểu của hai nhà văn, gần
đây đã được tuyển in thành sách. Cụ thể là:
Khảo sát 40 tác phẩm truyện ngắn của Nhất Linh, chủ yếu in trong tập Nhất Linh
truyện ngắn, Trịnh Bá Đĩnh (truyển chọn và giới thiệu) (2000), NXB Văn học, Hà Nội
và tập truyện ngắn “Những ngày diễm ảo” (1993), NXB Văn học, Hà Bắc. (Xem
Danh mục tham khảo, từ 95 đến 120)
Khảo sát 67 tác phẩm truyện ngắn của Khái Hưng, chủ yếu in trong tập Truyện
ngắn Khái Hưng, Hoàng Bích Hà, Vương Trí Nhàn (sưu tầm, biên soạn) (2004), NXB
Hội Nhà Văn, Hà Nội, và một vài tập truyện ngắn khác của ông (có Danh mục tác
phẩm kèm theo trong Danh mục tham khảo từ 72 đến 79 và Phụ lục của luận văn).
Đồng thời, trong trường hợp cần thiết, luận văn cũng đối chiếu so ánh với một số tác
phẩm tiểu thuyết của hai nhà văn trong xu hướng tiểu thuyết TLVĐ.
3. Lịch sử nghiên cứu đề tài:
3.1. Về việc đánh giá sự đóng góp của nhóm Tự Lực Văn Đoàn đối với tiến trình
phát triển của văn học dân tộc
Trước 1945, có thể kể đến bài viết về nhà văn TLVĐ của các tác giả: Trương Tửu,
Đức Phiên, Trần Thanh Mại, Hà Văn Tiếp, Nguyễn Lương Ngọc, Vũ Ngọc Phan, Trương
Chính,…
Từ 1945 đến 1975 ý kiến đánh giá về TLVĐ ở miền Nam và miền Bắc có nhiều điểm
khác nhau. Ở miền Nam có: Thanh Lãng, Thế Phong, Phạm Thế Ngũ, Doãn Quốc Sỹ, Bùi
Xuân Bào, Lê Hữu Mục, Nguyễn Văn Xung, Đặng Tiến, Nguyễn Văn Trung, Dương
Nghiệm Mậu, Thế Uyên, Nguyễn Vỹ, Nguyễn Thị Thế,… Xu hướng chung là đánh giá cao
đóng góp của TLVĐ. Ở miền Bắc, có thể kể đến công trình bài viết của các tác giả: Nguyễn
Đức Đàn, Vũ Đức Phúc, Nam Mộc, Phan Cự Đệ - Bạch Năng Thi. Nhìn chung trong một bối
cảnh cụ thể của đất nước, các tác giả này phê phán TLVĐ khá nặng nề.
Sau 1975 nhất là từ 1986 trở đi, việc đánh giá văn đoàn này càng ngày càng thỏa đáng,
đúng mực hơn, kể cả một số nhà phê bình trước đây đã từng đánh giá khắt khe. Các nhà
nghiên cứu phê bình văn học viết về TLVĐ khá đông đảo: Hoàng Xuân Hãn, Trương Chính,
Trần Đình Hượu, Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Hoành Khung, Phan Cự
Đệ, Nguyễn Trác – Đái Xuân Ninh, Trần Hữu Tá, Phong Lê, Lê Thị Đức Hạnh, Đỗ Đức
Hiểu, Hà Minh Đức, Lê Thị Dục Tú, Trần Thị Mai Nhi, Nguyễn Hữu Hiếu, Nguyễn Thành
Thi, Trịnh Bá Đĩnh, Vương Trí Nhàn,… Ở đây, có một sự vận động trong nhận thức đánh
giá về văn đoàn.
Đương thời, hoạt động văn học của TLVĐ tuy gây được tiếng vang lớn trong dư luận
xã hội và đời sống văn học, tuy vậy đóng góp của TLVĐ vẫn chưa chính thức được giới
nghiên cứu phê bình đặt vấn đề đánh giá đầy đủ, nghiêm túc.
Phải mười mấy năm sau, vào năm 1957, với một tinh thần xã hội học trong đánh giá
công và tội của bộ phận văn học công khai trước Cách mạng Tháng Tám 1945, trong đó có
sáng tác của các nhà văn lãng mạn trong TLVĐ (như Khái Hưng, Nhất Linh) và ngoài tổ
chức văn học này, Trường Chinh đã phát biểu ý kiến nhận định như sau:
“Ngoài một số tác phẩm kể trên (Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên
Hồng, Nguyễn Công Hoan, thơ Tố Hữu) các nhà phê bình của ta còn tránh nói đến những tác
phẩm lãng mạn, vì chưa biết đánh giá thế nào cho đúng. Có khuynh hướng gạt bỏ chung
những xu hướng lãng mạn ngày trước, coi tất cả đều là sa đọa thoát ly. Cần nhận rõ rằng văn
nghệ cách mạng của chúng ta là kẻ thừa kế tất cả những giá trị văn nghệ do các thời trước tạo
ra và truyền lại cho đến ngày nay. Chúng ta có nhiệm vụ giữ gìn và phát triển tất cả di sản
của dân tộc và cũng chỉ có chúng ta mới có thể làm nổi công việc đó (…) Đối với trào lưu
văn học lãng mạn, chúng ta không nên mạt sát và vơ đũa cả nắm…”.
Ông còn gợi ý trong văn học lãng mạn, bên cạnh những mặt tiêu cực, còn có “nỗi đau
khổ của người dân mất nước, sự quằn quại của tâm hồn bị bóp nghẹt, lòng khao khát một
cuộc sống chân thật và tự do. (…) Việc uốn nắn lại những thái độ hẹp hòi máy móc đối với
những giá trị văn nghệ cũ không những có tác dụng sửa chữa thái độ bất công đối với nhiều
tác phẩm mà còn có tác dụng mở rộng con đường cho sáng tác văn nghệ hiện thời” (Bài nói
tại Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai, 1957).
Hơn một thập niên sau, trong khi do một hoàn cảnh riêng, ở miền Bắc, các sáng tác
của Nhất Linh, Khái Hưng và TLVĐ cùng với trào lưu văn học lãng mạn bị xem là chứa
nhiều “nọc độc”, “bạc nhược, suy dồi”, thì ở miền Nam, Hiếu Chân, trên Tạp chí Văn số
156, năm 1970, cũng đã khẳng định động cơ yêu nước, ý thức dân tộc của Nhất Linh, Khái
Hưng và các cộng sự khi thành lập TLVĐ và điều hành hoạt động của tổ chức này: “Nhất
Linh, Khái Hưng có nhiều mặt đồng điệu và tâm đắc. Đi Pháp về, Nhất Linh gặp Khái Hưng.
Hai người cùng có một nguyện vọng là làm sao đóng góp vào sự phát triển văn hóa dân tộc,
Họ muốn bảo vệ di sản văn hóa dân tộc (…) Nhất Linh và Khái Hưng đều có thể ra làm quan
nhưng họ không thích cuộc đời quan trường. Họ thích tự do. Họ có hoài bão này từ hồi còn
đi học. Đó là biểu hiện của lòng yêu nước, và họ đã biểu hiện lòng yêu nước qua hành động
của họ. Tất nhiên là nó rất hạn chế và không nhất quán” [17].
Về vai trò hiện đại hóa văn học của TLVĐ, giáo sư Hoàng Xuân Hãn cũng đã có lần
khẳng định: “Nhóm Tự Lực Văn Đoàn không phải là nhóm duy nhất nhưng là nhóm quan
trọng nhất và là nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại” [dẫn theo theo Nguyễn
Hữu Hiếu, 61, tr.74].
Năm 2004, trong Lời giới thiệu tuyển tập Nhất Linh truyện ngắn, Trịnh Bá Đĩnh cho
rằng TLVĐ là một phong trào văn học “có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học thế kỷ XX”
[39, tr.5]; rằng, sáng tác của các nhà văn “trên các trang báo Phong Hóa sau 1934 đã thổi vào
xã hội một luồng sinh khí tươi trẻ, nhẹ nhàng, giàu sinh lực phản ánh được cái khí thế của
một thế hệ trẻ rất hăng hái cải tạo xã hội và văn hóa.” [39, tr.6]; rằng, “nhiều tài năng của
nền văn học mới có lúc từng quần tụ trong TLVĐ” [39, tr.6]; và rằng, trong TLVĐ, Nhất
Linh “là người chủ xướng và tổ chức quan trọng nhất” [39, tr.6].
3.2. Việc đánh giá truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng:
Trước hết, có thể thấy rằng có một thái độ thiên lệch ít nhiều mang tính lịch sử khi
đánh giá sự nghiệp văn chương của Nhất Linh, Khái Hưng: tiểu thuyết được coi trọng,
truyện ngắn có phần bị coi nhẹ.
Thái độ thiên lệch này là có thực trong giới nghiên cứu, phát hành, ngay cả khi sáng
tác của hai ông đã bắt đầu được khôi phục, đánh giá lại. Chẳng hạn, khi làm Tổng tập văn
học Việt Nam những người tuyển tập chỉ dè dặt đưa vào vài truyện ngắn như truyện Bóng
người trong sương mù (Nhất Linh) và truyện Người vợ mù (Khái Hưng), song lại rất tự tin,
rộng rãi trong việc trích tuyển tiểu thuyết của hai nhà văn này. Thái độ này cũng đã khiến
cho những người làm tuyển tập Truyện ngắn Khái Hưng phải thốt lên: “tiếc là lâu nay tiểu
thuyết Khái Hưng vẫn có phần lấn át truyện ngắn của tác giả. Trong vòng 25 năm nay mới
chỉ thấy có một tập truyện ngắn Khái Hưng in ra ở NXB Hải Phòng (1994) và một tập truyện
thiếu nhi, in ở NXB Hải Phòng và Kim Đồng (2000)” [59, tr.5].
Như vậy, nếu không tính đến những tập truyện ngắn của hai ông in ở miền Nam trước
1975, thì mãi đến năm 1994, truyện ngắn của Khái Hưng mới được in lại, còn truyện ngắn
của Nhất Linh, thì phải chờ đến năm 2000, đúng thời điểm chuyển giao giữa thế kỷ cũ và thế
kỷ mới mới được tuyển in lại. Dầu sao, thời gian gần đây, thái độ coi nhẹ truyện ngắn Nhất
Linh, Khái Hưng đã được điều chỉnh đáng kể. Bằng chứng là có những bộ sưu tập truyện
ngắn Nhất Linh, Khái Hưng ra đời. Kèm theo là nhiều bài viết, công trình nghiên cứu. Có
thể xem đây là những cố gắng nhằm tạo ra cách nhìn nhận thỏa đáng và khôi phục lại đóng
góp thực sự của Nhất Linh, Khái Hưng trong lĩnh vực truyện ngắn. Đó là một sự điều chỉnh
cần thiết, dù muộn màng thì có vẫn hơn không.
Về tình hình nghiên cứu, tác giả, tác phẩm truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng, từ
trước đến nay, đã có rất nhiều công trình, bài viết. Tuy nhiên, các công trình ấy, hầu như đều
chủ yếu đi sâu nghiên cứu về tiểu thuyết. Các ý kiến bàn về truyện ngắn không nhiều. Dẫu
vậy, vẫn có thể nhặt ra một số ý kiến đáng chú ý xung quanh vị trí, đặc điểm của truyện ngắn
trong sáng tác của hai tác giả.
Về vị trí của truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong sáng tác của hai ông thời
TLVĐ:
Nhìn chung, so với sáng tác truyện ngắn của Nhất Linh, sáng tác truyện ngắn của Khái
Hưng được chú ý hơn.
Vũ Ngọc Phan khẳng định Khái Hưng là cây bút văn xuôi TLVĐ đã viết được “những
truyện ngắn tuyệt hay” [141].
Phạm Thế Ngũ cũng cho rằng sức viết của Khái Hưng bộc lộ nhiều qua truyện ngắn và
đây là thể loại không thể thiếu trong sự nghiệp văn chương của ông: “Ngoài những truyện
dài, Khái Hưng còn viết rất nhiều truyện ngắn. Trên báo Phong Hóa rồi Ngày Nay những
năm đầu, thường thường tuần nào ông cũng có một truyện (không kể tiểu thuyết dài ngắt kỳ).
Đếm tất cả những truyện này của Khái Hưng trong gần mười năm có thể đi đến vài trăm”
[136, tr.476].
Bên cạnh việc khẳng định tài viết truyện ngắn của Khái Hưng, Phan Cự Đệ còn khẳng
định: “Nhất Linh cũng có tài viết truyện ngắn” [36, tr.907]
Về vai trò mảng truyện ngắn trong sáng tác của Nhất Linh, Phạm Thế Ngũ đã viết:
“Ra tờ Phong Hóa rồi, Nguyễn Tường Tam lại trở lại viết truyện. Ông bắt đầu đăng trên
Phong Hóa 1932 – 1933 những truyện ngắn, thoạt đầu ký bút hiệu Bảo Sơn rồi Nhất Linh.”
[136, tr.446]
Còn về vai trò của mảng truyện ngắn trong sự nghiệp văn chương của Khái Hưng, Lê
Dục Tú khẳng định: “Có thể nói truyện ngắn là thể loại đầu tiên Khái Hưng trình làng trước
công chúng. Trên báo Phong Hóa và Ngày Nay những năm đầu hầu như tuần nào Khái Hưng
cũng đăng một truyện ngắn. Trong vòng mười năm ông đã đăng đến hàng trăm truyện ngắn.
Một số truyện ngắn đầu tay của Khái Hưng khi ra đời đã được coi là “món ăn ngon và lạ” cải
thiện cho khẩu vị đọc của người dân thị thành. Truyện ngắn “Bên dòng Hương giang” được
in lần đầu tiên trên báo Phong Hóa ngày 31/3/1932 và tập truyện ngắn “Dọc đường gió bụi”
ra đời năm 1936 đã nhận được sự cổ vũ nồng nhiệt của công chúng” [189]
Hai ý kiến trên (của Phạm Thế Ngũ và Lê Dục Tú) đã gặp nhau ở một điểm quan
trọng: Cả Nhất Linh, Khái Hưng đều khởi nghiệp bằng việc viết truyện ngắn. Và trước, trong
khi trở thành tác giả của những thiên tiểu thuyết nổi tiếng một thời, Nhất Linh, Khái Hưng đã
và đang là những cây bút viết truyện ngắn có thứ hạng trên văn đàn công khai 1930-1945.
Như thế xét từ một góc độ nào đó, với hai ông và độc giả đương thời, viết và đọc truyện
ngắn có thể xem là một sự chuẩn bị, tập dượt cho viết và đọc tiểu thuyết.
Về đặc điểm nổi bật của truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng:
Cùng thời với Nhất Linh, Khái Hưng, Vũ Ngọc Phan nhấn mạnh vẻ đẹp giản dị, sức
chinh phục độc giả ở kĩ thuật dựng truyện, hành văn của Khái Hưng. Trong Nhà văn hiện
đại, ông viết:
“Về truyện ngắn, Khái Hưng viết tuyệt hay. Người ta thấy phần nhiều truyện ngắn của
ông lại có vẻ linh hoạt và cảm người đọc hơn cả truyện dài của ông. Truyện ngắn của Thạch
Lam và Đỗ Đức Thu ngả về mặt sầu cảm và kín đáo bao nhiêu thì truyện ngắn của Khái
Hưng vui tươi và rộng mở thế ấy, nhưng không phải cái vui thái quá như những truyện ngắn
của Nguyễn Công Hoan đâu. Ngay ở những truyện buồn của Khái Hưng, người ta cũng chỉ
thấy một thứ buồn man mác, không bao giờ là cái buồn ủ rũ như ở những truyện của Thạch
Lam (…). Đọc những truyện ngắn của Khái Hưng, tôi nhận thấy nghệ thuật của ông là tìm
cho ra những ý nghĩ đau đớn hay khoái lạc của mọi việc trên đời, rồi ghi lại bằng những lời
văn gọn gàng, sáng suốt, làm cảm người ta bởi những việc mình dàn xếp, mình làm cho khi
nổi khi chìm, chứ không phải cám dỗ người ta bởi những thuyết mà mình tưởng là cao cả
”.[141, tr.770]
Nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ còn chia truyện ngắn của Khái Hưng ra làm hai loại:
“một loại nhẹ, truyện vui, truyện phiếm, đăng vừa một cột báo, in lên hai ba trang sách,
không có ý nghĩa gì sâu xa” [136, tr.477] và “một loại nặng, đứng đắn, rộng kích thước hơn,
viết công phu hơn, đặt ra một vấn đề luận lý, xã hội, đưa ra một mẩu tâm lý, một mảng sinh
hoạt, bắt người ta phải suy nghĩ, đôi khi phải cảm động đau thương”. [136, tr.477]
Trước khi hai tuyển tập truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng ra đời (2002; 2004),
Có thể thấy rằng hầu như các công trình nghiên cứu của Vũ Ngọc Phan, Phan Cự Đệ, Phạm
Thế Ngũ, Lê Thị Dục Tú,… đều ghi nhận những đóng góp về truyện ngắn của Nhất Linh và
Khái Hưng cho sự tiến bộ của văn học nước nhà. Song, các nhà nghiên cứu vẫn chưa có điều
kiện để thực sự đi vào nghiên cứu một cách chuyên sâu. Điều này có thể xuất phát từ nhiều
nguyên nhân, trong đó có lẽ một phần là do truyện ngắn của hai ông bị chìm đi sau tiếng
vang tiểu thuyết của họ.
Sau 2000-2004 đáng chú ý trước hết là các Lời dẫn, Lời giới thiệu tuyển tập truyện
ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng.
Trong Lời giới thiệu tuyển tập Nhất Linh truyện ngắn, Trịnh Bá Đĩnh cho rằng:
“Về sáng tác, Nhất Linh từng viết ở nhiều thể loại: thơ, phóng sự, khảo luận, phê bình,
tuy nhiên ngòi bút của ông chủ yếu vẫn là để sáng tạo văn xuôi – truyện ngắn và tiểu thuyết,
nhất là tiểu thuyết. Nhất Linh thuộc vào số những nhà cách tân tiểu thuyết quan trọng của
văn học ta” [39, tr.6-7].
Về ngôn ngữ nghệ thuật, Trịnh Bá Đĩnh khẳng định: “Nhất Linh viết văn theo các thể
loại của văn học Âu Tây, xây dựng nhân vật, kết cấu truyện… theo lối của các nhà văn Châu
Âu. Văn phong của ông là sự áp dụng lối tổ chức ngữ pháp Tây phương vào tiếng Việt:
Lôgích chặt chẽ, sáng sủa và cực kỳ giản dị (…) Nhà văn đã sử dụng những phương tiện
nghệ thuật phương Tây để xây dựng tâm hồn phương Đông” [39, tr.8]. Tuy vậy, “Chất thơ
của Giấc mộng Từ Lâm, Lan rừng… là chất thơ của loại truyện truyền kỳ, truyện Liêu trai.
Còn con bướm trắng trong hoài niệm của Trương cũng là con bướm trắng trong giấc mộng
Trang Chu chất thơ đó chính là cái Đẹp, cái Đẹp hiện hữu nhưng khó nắm bắt, nó như con
bướm trắng luôn chập chờn bay trong không gian và thời gian của thhế giới nghệ thuật Nhất
Linh” [39, tr. 9].
Về sức sống của tác phẩm Nhất Linh, nhà nghiên cứu, người làm tuyển tập truyện
ngắn Nhất Linh quả quyết rằng sáng tác của nhà văn này “vừa là tiếng nói của một thời vừa
là tiếng nói của không chỉ một thời” [39, tr.10].
Trong Lời dẫn của nhóm sưu tầm, biên soạn tuyển tập Truyện ngắn Khái Hưng, các
tác giả khẳng định: “Bên cạnh cây bút tiểu thuyết tài hoa, Khái Hưng (1986-1947) đồng thời
còn là một tác giả truyện ngắn dồi dào sức lực, thường xuyên có truyện in Phong Hóa, Ngày
Nay, và ngay từ trước 1945, đã được tập hợp một phần trong các tập…” [59, tr.5]; truyện
ngắn là “một lĩnh vực mà ngòi bút của ông liên tục làm việc và có nhiều thành tựu đáng ghi
nhận” [59, tr.5].
Về việc phân loại, tác giả Lời dẫn cũng cho rằng sáng tác truyện ngắn của Khái Hưng
“bao gồm truyện sinh hoạt, truyện lịch sử, truyện viết theo lối truyện kể dân gian và truyện
viết bằng bút pháp hiện đại” [59, tr.5].
Trong một số bài viết gần đây, như “Chuyên nghiệp hóa sáng tác – một đòi hỏi tất yếu
của công cuộc hiện đại hóa văn học Việt Nam trước 1945” [168], “Mấy ghi nhận về tương
tác tiểu thuyết truyện ngắn và sự biến đổi nòng cốt của hai thể loại này” [169], “Tự Lực Văn
Đoàn – những lằn ranh văn học” [170], Nguyễn Thành Thi cũng đề cập nhiều đến sáng tác
của Nhất Linh, Khái Hưng, đặc biệt là sáng tác truyện ngắn. Trong đó có nhiều ý kiến, luận
điểm rất đáng chú ý.
Theo Nguyễn Thành Thi, nhìn chung, thế mạnh của truyện ngắn Nhất Linh là “khám
phá, miêu tả tâm lý” và khả năng “lồng vào truyện những ý tưởng luận đề”; trong khi đó,
Khái Hưng lại “thường chú trọng đặc biệt đến ngôn ngữ đối thoại và luôn có ý thức miêu tả
giọng điệu, lời nói của các loại nhân vật, các hạng người trong xã hội” [168]; hoặc: “trong kĩ
thuật truyện ngắn, Nhất Linh, với năng lực ưu trội trong việc đi sâu vào thế giới tinh thần cá
nhân của con người, thường nghiêng về những tìm tòi thể nghiệm miêu tả tâm lý, kĩ thuật
phô diễn tiếng nói nội tâm của nhân vật (ngay cả khi ông dùng đến các chất liệu kì ảo)”[168],
và: “Khái Hưng, với năng lực ngữ cảm và các nhận xét tinh tế ít nhiều mang tính chất “siêu
ngôn ngữ” [168]. Nhà nghiên cứu còn phân tích, minh chứng thêm: Khái Hưng “hay để cho
người kể chuyện trong truyện ngắn của ông nhận xét về nhạc tính, âm hưởng riêng trong
ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Trong truyện Cô hàng nước chẳng hạn, nhân vật xưng tôi
tên Ban nhận thấy qua những mẩu đối thoại của nhân vật “cô hàng nước” “tiếng nói vùng bể
rất nặng và đầy những tiếng thanh ngang, khiến Ban phải mỉm cười”. Hơn thế, cũng như
nhân vật tôi, “cô hàng nước” nơi thôn dã này còn phân biệt rạch ròi cách dùng từ cô hay bà
trong “cô tú” (bản thân người phụ nữ đã thi đỗ tú tài) với “bà tú” (người phụ nữ là vợ của
người thi đỗ tú tài)” [169, tr.70]
Về mặt loại hình và đặc điểm thể tài của truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng, trong Tự
Lực Văn Đoàn – những lằn ranh văn học, bài viết gần đây nhất [170], Nguyễn Thành Thi đề
xuất phân loại tiểu thuyết Nhất Linh Khái Hưng thành ba loại hình thể tài: 1) tiểu thuyết luận
đề, 2) tiểu thuyết phân tích xã hội, 3) tiểu thuyết phân tích tâm lý và, theo đó, ông phân
truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng thành bốn khuynh hướng thể tài: 1) truyện ngắn thiên về
kuynh hướng luận đề; 2) truyện ngắn thiên về khuynh hướng phân tích xã hội; 3) truyện
ngắn thiên về khuynh hướng phân tích tâm lý và 4) truyện ngắn có khuynh hướng tổng hợp
loại hình [170].
Về tính quá trình và sự tương tác thể loại trong sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng,
đặc biệt là Nhất Linh, Nguyễn Thành Thi, cho rằng: “hành trình hiện đại hóa, chuyên nghiệp
hóa truyện ngắn của Nhất Linh không có đứt đoạn. Từ Người quay tơ (1927), qua Anh phải
sống (1934), đến Tối tăm (1936), Hai buổi chiều vàng (1937), Mối tình chân (1948-1950) là
một hành trình liên tục. Hành trình tiểu thuyết của Nhất Linh từ Nho phong qua Đoạn tuyệt,
đến Bướm trắng đã vận động trong sự tương tác với hành trình liên tục nói trên ở lĩnh vực
truyện ngắn”. [168, tr.69].
Các ý kiến trên đây, nhất là của Vũ Ngọc Phan, Phạm Thế Ngũ, Lê Thị Dục Tú, Trịnh
Bá Đĩnh, Nguyễn Thành Thi,… thực sự là những gợi ý quan trọng đối với tác giả luận văn
khi thực hiện đề tài “Truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong văn xuôi nghệ thuật Tự Lực
Văn Đoàn”.
Chung quy, theo tổng hợp chúng tôi, từ các công trình, ý kiến đề cập đến truyện ngắn
Nhất Linh, Khái Hưng mà luận văn đã lược thuật trên đây, có thể rút ra mấy điểm quan
trọng, rất có ý nghĩa đối với việc định hướng và tiếp tục nghiên cứu của luận văn này:
Thứ nhất: truyện ngắn là một bộ phận sáng tác có giá trị trong sáng tác văn chương
của Nhất Linh, Khái Hưng, đáng được tiếp tục nghiên cứu một cách đầy đủ sâu sắc hơn;
Thứ hai: truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng đều có những nét đặc sắc riêng, khá nhất
quán, tương hợp với lối viết tiểu thuyết của hai ông;
Thứ ba: nghiên cứu truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng không thể và không nên
tách rời khỏi bối cảnh không khí chung trong sáng tác tiểu thuyết của hai ông, cũng như bối
cảnh, không khí sáng tác VXNT của TLVĐ.
Tất nhiên, việc tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, khoa học hơn về truyện ngắn Nhất Linh,
Khái Hưng là hết sức cần thiết. Trên tinh thần tiếp thu thành quả của người đi trước, tác giả
luận văn hy vọng rằng với việc hoàn thành đề tài Truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong
văn xuôi nghệ thuật Tự Lực Văn Đoàn, việc nghiên cứu truyện ngắn của hai ông sẽ được
đẩy xa thêm một bước nữa.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp loại hình
Phương pháp hệ thống
Phương pháp so sánh
Phương pháp thi pháp học
Sử dụng thao tác thống kê…
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn cố gắng nghiên cứu một cách có hệ thống những đóng góp cùng hạn chế của
Nhất Linh, Khái Hưng về truyện ngắn, đặt trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam.
Tiếp thu ý kiến bàn về truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng của những người đi trước,
chọn cách trình bày từ góc độ nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn và những đóng góp quan
trọng trong nội dung và nghệ thuật viết truyện ngắn của hai nhà văn đối với tiến trình phát
triển của văn học hiện đại Việt Nam nói chung và truyện ngắn nói riêng.
Người viết có ý thức khảo sát một cách nhất quán đặc điểm nội dung và nghệ thuật
của truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng. Cách xem xét này giúp ta hình dung được toàn bộ
đặc điểm truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng không phải như một tổng số các đặc điểm
rời rạc mà như một chỉnh thể thống nhất các nét độc đáo xuyên suốt nội dung và hình thức
các tác phẩm của hai ông.
Bằng việc nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng, luận văn góp
thêm một tiếng nói khẳng định những đóng góp và vị trí của nhà văn trong tiến trình phát
triển của văn học Việt Nam hiện đại.
6. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, nội dung cơ bản của luận văn được trình bày theo
ba chương, với các nội dung chủ yếu sau đây:
Chương 1 với nhan đề NHẤT LINH, KHÁI HƯNG NHƯ LÀ NHỮNG NHÀ VĂN VIẾT
TRUYỆN NGẮN HIỆN ĐẠI, sau khi giới thuyết một số khái niệm công cụ, tập trung xác
định vị trí, tầm vóc của truyện ngắn trong sáng tác VXNT của Nhất Linh, Khái Hưng nói
riêng, TLVĐ nói chung.
Chương 2 với nhan đề NỘI DUNG TRUYỆN NGẮN NHẤT LINH, KHÁI HƯNG
TRONG KHUYNH HƯỚNG TƯ TƯỞNG CỦA TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN, luận
văn tập trung miêu tả đặc điểm nội dung, cảm hứng, xu hướng tư tưởng của truyện ngắn
Nhất Linh, Khái Hưng trong khuynh hướng tư tưởng của tiểu thuyết TLVĐ.
Chương 3, với nhan đề CÁC LOẠI HÌNH TRUYỆN NGẮN NHẤT LINH, KHÁI HƯNG
TRONG TƯƠNG QUAN VỚI CÁC LOẠI HÌNH TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN, luận
văn vận dụng phương pháp nghiên cứu loại hình, lý thuyết tự sự học để xác định, miêu tả đặc
điểm cấu trúc truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng theo các khuynh hướng thể tài chủ yếu
cũng như đặc điểm diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn của hai ông.
CHƯƠNG I
NHẤT LINH, KHÁI HƯNG NHƯ LÀ NHỮNG NHÀ VĂN
VIẾT TRUYỆN NGẮN HIỆN ĐẠI
1.1. Truyện ngắn và nhìn chung về truyện ngắn hiện đại Việt Nam trước 1945
1.1.1. Truyện ngắn – khái niệm, đặc trưng
1.1.1.1. Truyện ngắn là một khái niệm quen thuộc nhưng cách hiểu về nó không đơn
giản. Nhiều nhà nghiên cứu lý luận phê bình (trên thế giới như Antônốp, Gulaiép,
D.Grojnowski, Pospelốp; ở Việt Nam như Lê Bá Hán, Vương Trí Nhàn, Trần Đình Sử, Bùi
Việt Thắng,…) đã đưa cách hiểu và đề xuất định nghĩa riêng của mình.
Tuy vậy, dù cách diễn đạt khác nhau thì hầu hết, nói đến truyện ngắn, người ta đều dễ
dàng thừa nhận cái lõi, cái nòng cốt của thể loại này:
- Truyện ngắn là tác phẩm thuộc loại hình tự sự cỡ nhỏ.
- Phạm vi phản ánh của truyện ngắn khá rộng (có thể bao trùm hầu hết các phương
diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi nhưng cái độc đáo là ngắn).
Một trong những xác định súc tích và khá chuẩn về truyện ngắn là định nghĩa của Lại
Nguyên Ân: “Một thể loại tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các
phương diện của đời sống con người và xã hội. Nét nổi bật của truyện ngắn là dung lượng;
tác phẩm truyện ngắn thích hợp với việc người tiếp nhận (độc giả) đọc nó liền một mạch
không nghỉ”. [51, tr.1846-1847]
Có chung tính chất là tự sự, ranh giới giữa truyện ngắn và tiểu thuyết khá mong manh.
Nhiều người ghi nhận hiện tượng này: truyện ngắn “ít nhiều mang những đặc tính của tư duy
tiểu thuyết” (Lại Nguyên Ân), là “một bộ phận của tiểu thuyết” (Bùi Việt Thắng), hay là
“một dạng tiểu thuyết đặc biệt” (Vương Trí Nhàn).
Các nhà văn, với trải nghiệm thực tế của mình, đã đưa ra những cảm nhận cụ thể và
một số đúc kết đa dạng. Pautopxki đã phát biểu: “Truyện ngắn là truyện viết ngắn gọn, trong
đó cái không bình thường hiện ra như một cái bình thường và cái gì bình thường hiện ra như
một cái không bình thường” [137]. Aimatov chú ý đến đặc trưng lao động nghệ thuật:
“Truyện ngắn giống như một thứ tranh khắc gỗ, lao động nghệ thuật ở đây đòi hỏi chặt chẽ,
cô đúc, các phương tiện phải được tính toán một cách tinh tế, nét vẽ phải chính xác. Đây là
một việc vô cùng tinh tế. Xoay xỏa trên một mảnh đất chật hẹp, đó chính là chỗ để cho
truyện ngắn phân biệt với các thể tài khác”. [137, tr.146]. Nhấn mạnh đến chi tiết, Nguyễn
Công Hoan cho rằng “Truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng
bằng chi tiết” [159, tr.186].
Xuất phát từ những quan niệm tương đối thống nhất về truyện ngắn, chúng ta có thể
nêu ra một số đặc trưng cơ bản của thể loại này.
Truyện ngắn thuộc một kiểu tư duy mới mang cá tính sáng tạo, một cách nhìn cuộc
đời, nắm bắt đời sống riêng mang tính chất thể loại.
Đặc trưng đầu tiên, dễ thấy nhất của truyện ngắn là dung lượng nhỏ. Thế nào là nhỏ?
Có thể nói, dung lượng thông thường của một truyện ngắn co dãn khoảng từ 3 đến 50 trang.
Dưới con số 3 trang, người ta gọi là “truyện ngắn mini”, hoặc “truyện ngắn trong lòng bàn
tay”; trên con số 50 trang, người ta gọi là truyện vừa, trên 100 trang là tiểu thuyết. Những
cách gọi này tương ứng với các khái niệm đoản thiên tiểu thuyết (truyện ngắn) trung thiên
tiểu thuyết._. (truyện vừa) trường thiên tiểu thuyết (truyện dài) vốn phổ biến ở Việt Nam vào
thời kỳ đầu của văn xuôi tự sự hiện đại. Tuy nhiên tính chất “nhỏ” của truyện ngắn không chỉ
nằm ở dung lượng, mà quan trọng hơn là những quy luật cấu tạo đặc thù của truyện ngắn. Do
tính chất ngắn gọn, truyện ngắn được tổ chức bằng các phương thức và chất liệu đặc biệt.
Về “cách nắm bắt cuộc sống của thể loại”, truyện ngắn không có tham vọng ôm vào
mình một hiện thực rộng lớn, hoành tráng. “Ngắn ở đây đồng nghĩa với hàm súc, tinh lọc và
hay” (Bùi Việt Thắng). Nguyên tắc chung nhất của truyện ngắn không cho phép“dồn ép”
hoặc “nhồi nhét” rút gọn nội dung của một truyện dài, hoặc một hình thức tương đương như
thế, thành truyện ngắn. Nếu ta đem cắt tỉa, gọt đẽo một tiểu thuyết vài ba trăm trang xuống
chỉ còn vài chục trang thì cái thành phẩm đặc biệt này cũng không phải và không thể trở
thành một truyện ngắn. Như vậy, ngắn gọn trong truyện ngắn là cái ngắn gọn tinh lọc và chặt
chẽ. Sekhov, một bậc thầy truyện ngắn thế giới đã ví: Truyện ngắn cũng y như trên boong
tàu quân sự, ở đó tất cả phải đâu vào đấy, không có cái gì được thừa. Khác với truyện dài và
truyện vừa, truyện ngắn phải là “một lát cắt gọn ghẽ”, “toàn truyện là một cái vòng khép kín
không dài quá, không ngắn quá, không xô đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa một chi tiết
nào”. [153, tr.365]. Để đạt tới tầm cao và chiều sâu của ý tưởng mà vẫn sống động tự nhiên,
truyện ngắn “phải lựa chọn được một cách nhìn và một điểm nhìn tập trung, giống như cái
tiêu điểm của thấu kính, tập trung ánh sáng mặt trời để có thể đốt cháy đám bùi nhùi” [1,
tr.42]. Các tác giả truyện ngắn thường hướng tới việc khắc hoạ một hiện tượng, phát hiện
một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay trong đời sống tâm hồn con người.
Về tác động của truyện ngắn, do tính chất cô đúc, truyện ngắn có sức nén. Đỗ Chu cho
rằng: “một truyện ngắn hay có thể làm cho người ta cười lớn hoặc ứa nước mắt” bởi vì “sức
chứa trong truyện có thể rất nhiều, sức nổ rất lớn”. Thomas Mann khẳng định: Truyện ngắn
tuy bé nhỏ, nhưng “những cái bé nhỏ đó cũng có sức chứa nội tại lớn lao, cũng có thể bao
quát được toàn bộ đời sống, có thể đạt được kích thước anh hùng ca và có được tác dụng
nghệ thuật chẳng khác gì một sáng tác đồ sộ khác”[146].
Tính nhanh nhạy, cập nhật cũng là một đặc trưng của truyện ngắn. Với đặc thù ngắn
gọn, súc tích, dễ đọc, truyện ngắn thường gắn liền với hoạt động báo chí, có tác động mạnh
mẽ, kịp thời tới cuộc sống. Để đạt được điều này, điều cốt yếu của truyện ngắn là phải “nhạy
bén trước những đổi thay của cuộc sống” [137], truyện ngắn cần bắt nhịp nhanh với cuộc
sống thời hiện tại. Truyện ngắn là thể loại thích hợp giúp nhà văn tìm hiểu về những vấn đề
mới đang được đặt ra trong cuộc sống. Người ta có thể cho phép tiểu thuyết trở về khái quát
một giai đoạn đã qua, nhưng truyện ngắn thì không thể làm thế. Truyện ngắn phải trực tiếp
đả động đến điều mọi người đang suy nghĩ trong cuộc sống ngày hôm nay, cho dù chất liệu
sử dụng trong tác phẩm là những điều xưa cũ.
1.1.1.2. Có thể rút ra một số nét riêng của các yếu tố cấu thành tác phẩm truyện ngắn
trong sự đối chiếu với tác phẩm văn xuôi tự sự nói chung như sau:
Cốt truyện: là yếu tố hết sức quan trọng của thể tự sự nói chung và truyện ngắn nói
riêng. Song, khác với tiểu thuyết, cốt truyện của truyện ngắn “thường tự giới hạn về thời
gian, không gian” (Lại Nguyên Ân). Nếu tiểu thuyết dõi theo cả một hay nhiều số phận nhân
vật, và tái hiện một bức tranh xã hội rộng lớn, thì truyện ngắn, tập trung vào một khoảnh
khắc, trong đó xây dựng một tình huống truyện. Tình huống chính là điểm giao cắt của
nhiều yếu tố cùng một lúc, qua đó tính cách của nhân vật tức thì hiện ra và vấn đề đột nhiên
được phơi mở.
Nếu tiểu thuyết là cuộc đời trong sự trọn vẹn của nó thì truyện ngắn lại là một “mặt cắt
của dòng đời”. Nếu tiểu thuyết “diễn tả một quá trình vận động của cuộc sống” thì truyện
ngắn lại “tập trung vào một tình thế thể hiện một bước ngoặt, một trường hợp hay một tâm
trạng nhân vật”, nếu tiểu thuyết “mở ra một diện” thì truyện ngắn “tập trung xoáy vào một
điểm”.[159]
Về cách thức tiếp cận cuộc sống, truyện ngắn cũng có những khác biệt, nó “khái quát
cuộc sống theo chiều sâu, lấy điểm nối diện, lấy cái khoảnh khắc để nối cái vĩnh cửu”. [160]
Về tính chất, điều đặc biệt ở truyện ngắn là cốt truyện của nó nhiều khi rất rõ nét, rất li
kì, hấp dẫn nhưng cũng có khi không có, hoặc mờ nhạt. Thạch Lam là một nhà văn có nhiều
tác phẩm có cốt truyện mơ hồ, “truyện mà không có chuyện” như thế.
Vậy các yếu tố nào khác khiến cho truyện ngắn vẫn được chấp nhận khi thiếu vắng cốt
truyện? Có lẽ, yếu tố đó chính là chi tiết, kết cấu, nhân vật của “hình thức nhỏ”.
Ở truyện ngắn, chi tiết đóng vai trò rất quan trọng. Nó góp phần tạo dựng cảnh trí,
không khí, tình huống và khắc họa tính cách, hành động, tâm tư, nhân vật. Nhận xét về điều
này, nhà văn Nguyên Ngọc khẳng định: “Truyện ngắn có thể có cốt truyện, thậm chí cốt
truyện li kì, gay cấn, kể được. Truyện ngắn cũng có thể chẳng có cốt truyện gì cả, không kể
được nhưng truyện ngắn không thể nghèo chi tiết. Nó sẽ như nước lã”. [57, tr.33]
Như vậy, vai trò của chi tiết trong truyện ngắn là hết sức quan trọng. Không chỉ vậy,
nhiều chi tiết đắt giá có thể nâng tác phẩm lên đến “cấp độ tượng trưng, tạo sức ám ảnh”
[159, tr. 84].
Là thể loại tự sự đòi hỏi một kết cấu chặt chẽ, kết cấu truyện ngắn cũng có những nét
đặc thù riêng. Theo Nguyễn Minh Châu, “Cũng như kịch ngắn, truyện ngắn đòi hỏi người
viết một công việc tổ chức và cấu trúc truyện hết sức nghiêm ngặt. Quả thực có một thứ kĩ
thuật tinh xảo – kỹ thuật viết truyện ngắn. Nó cũng giống như kĩ thuật của người làm pháo,
dồn nén tư tưởng vào trong một cốt truyện thật ngắn gọn, tự nhiên” [18, tr.251]. Nhiệm vụ
của kết cấu là phải tổ chức tác phẩm sao cho chủ đề tập trung, tư tưởng thống nhất và thấm
sâu vào toàn bộ các bộ phận của tác phẩm, kể cả những chi tiết nhỏ nhất.
Nhân vật là một phương diện rất quan trọng của truyện ngắn. Ở các truyện ngắn đặc
sắc, bao giờ các tác giả cũng xây dựng được những nhân vật điển hình. Nếu tiểu thuyết theo
dõi, mô tả tỉ mỉ sự thăng trầm của số phận con người thì truyện ngắn chỉ tập trung ống kính
vào một vài khoảnh khắc của đời người. Do ngắn, gọn, truyện ngắn thường “không có mấy
nhân vật” [137, tr.25], “một hoặc hai nhân vật chính, kèm theo đôi ba nhân vật phụ” [137,
tr.125], họ “chỉ cần có mặt với đôi đường nét mờ chìm như cảnh núi, cảnh sông” [137, tr.26].
Là một hình thức tự sự cỡ nhỏ, truyện ngắn thường hướng tới việc “thể hiện một bước ngoặt,
một trường hợp, một trạng thái nhân vật” [159, tr. 73].
Một đặc điểm nữa của truyện ngắn là gắn liền với báo chí. Khuôn khổ báo chí quy
định tính chất ngắn gọn của truyện ngắn. Vương Trí Nhàn cho rằng: “chỉ có một nơi thích ra
lệnh cho tác giả về khuôn khổ và rất nghiệt ngã trong mệnh lệnh mình là báo chí”. Chính vì
giới hạn trong một khuôn khổ như thế nên, truyện ngắn hiện đại “đòi hỏi người viết một sự
lựa chọn dồn nén các chi tiết, sự kiện, nhân vật và cả những tư tưởng, tình cảm của tác giả
lẫn sự biểu đạt ngôn ngữ văn bản nghệ thuật một cách nghiêm ngặt”.
Từ những đặc trưng trên, có thể nói truyện ngắn là một thể loại dân chủ gần gũi với
đời sống hàng ngày, súc tích, dễ đọc, có tác dụng ảnh hưởng kịp thời trong đời sống…
Ngoài khái niệm then chốt là truyện ngắn, đã được giới thuyết như trên, có một và
khái niệm khác cũng cần được giới thuyết với một nội hàm xác định: tiểu thuyết, văn xuôi
nghệ thuật, văn hư cấu,…
Văn xuôi nghệ thuật (đôi khi được gọi vắn tắt là văn xuôi): là khái niệm chỉ một tập
hợp thể loại được sáng tạo một cách nghệ thuật (có tính nghệ thuật, đặc biệt là tính hư cấu và
tính hình tượng) nói chung. Văn xuôi nghệ thuật sử dụng chung một loại chất liệu làm ngôn
ngữ công cụ (văn xuôi). Văn xuôi nghệ thuật bao gồm nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện
ngắn, phóng sự (văn học), tự truyện, hồi kí, tùy bút, bút kí, tản văn,…Trong văn xuôi nghệ
thuật, có những thể loại không hư cấu (non fiction) như bút kí, tùy bút,…; có những thể loại
hư cấu (fiction), trong đó quan trọng nhất là tiểu thuyết và truyện ngắn. Đây là hai thể loại có
“nòng cốt” gần gũi nhau nhất và cũng luôn nắm giữ vị trí chủ đạo của nền văn xuôi nghệ
thuật. Vị thế tương tác giữa chúng cũng phổ biến, tinh tế và có tác dụng thúc đẩy văn học
phát triển rõ hơn cả.
Nếu truyện ngắn thuộc loại hình tự sự cỡ nhỏ thì tiểu thuyết thuộc loại hình tự sự cỡ
lớn. Đây thực sự là hai thể loại chủ đạo của văn xuôi nghệ thuật. Tuy nhiên sự phân biệt ở
đây chỉ có ý nghĩa tương đối, và điều đáng nói hơn là khi nghiên cứu hai thể loại văn học
này, người ta không thể không quan tâm đến sự tương tác thể loại giữa truyện ngắn và tiểu
thuyết. Nhà nghiên cứu trong khi nghiên cứu khảo sát các tác phẩm truyện ngắn hoàn toàn có
thể tìm thấy ở đây những dấu hiệu kĩ thuật, thi pháp của tiểu thuyết và ngược lại, đúng như
nhận định của Nguyễn Thành Thi trong Mấy ghi nhận về tương tác giữa tiểu thuyết và truyện
ngắn và sự biến đổi nòng cốt của hai thể loại này [169, tr.49].
1.1.2. Vài nét về truyện ngắn Việt Nam hiện đại trước 1945
Trong bức tranh chung của văn học hiện đại Việt Nam trước 1945, truyện ngắn là thể
loại khá phát triển và có một diện mạo riêng, một tiến trình vận động khá rõ nét.
Khi nhận định rằng truyện ngắn là “thể loại khá phát triển”, tác giả luận văn không chỉ
căn cứ cả vào số lượng tác giả, tác phẩm mà còn căn cứ vào chất lượng và tính đa dạng về
khuynh hướng tư tưởng thẩm mĩ của thể loại này.
Có khuynh hướng lãng mạn chủ nghĩa (chủ yếu thuộc khu vực văn xuôi lãng mạn), có
khuynh hướng hiện thực (chủ yếu thuộc khu vực văn học hiện thực phê phán); có khuynh
hướng thuyết lý đạo đức, khuynh hướng luận đề, khuynh hướng hiện thực xã hội, khuynh
hướng hiện thực tâm lý,… Về hình thức kĩ thuật tự sự, có khuynh hướng viết ngắn, có
khuynh hướng viết dài, tiếp cận với truyện vừa, có tổng hợp kĩ thuật của tiểu thuyết, có yếu
tố huyền thoại kì ảo, có yếu tố lịch sử, có yếu tố đồng thoại (truyện loài vật),…
Sự phong phú của truyện ngắn cũng tương ứng với sự phong phú của tiểu thuyết, thậm
chí sáng tác truyện ngắn đều hơn so với sáng tác tiểu thuyết. Và, sẽ là không quá lời khi cho
rằng, trong nền văn xuôi Việt Nam, thể loại truyện ngắn có bề dày truyền thống và đạt nhiều
thành tựu hơn thể loại tiểu thuyết.
Quan sát sự hình thành và phát triển của truyện ngắn hiện đại Việt Nam, thấy có hai
chặng đường chính sau đây:
1) Chặng sinh thành: cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX đến 1930
2) Chặng phát triển: từ 1930 đến 1945
Trong chặng “sinh thành” truyện ngắn Việt Nam hiện đại, phải kể đến vai trò nổi bật
của các nhà văn Nguyễn Trọng Quản, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Nguyễn Ái Quốc,
Nguyễn Tường Tam…
Truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản là đoản thiên tiểu thuyết (truyện
ngắn) Việt Nam hiện đại đầu tiên viết theo kiểu Tây phương. Vì Nguyễn Trọng Quản đã có
điều kiện tiếp xúc với văn học Pháp từ trước 1890. Xuất hiện vào cuối những năm 80 của thế
kỉ XIX, Truyện Thầy Lazaro Phiền là một hiện tượng quá mới mẻ đối với công chúng văn
học miền Nam. “Truyện Thầy Lazaro Phiền có phần nào trở thành “con chim lạ từ phương
Tây đáp xuống một vùng đất còn vắng bóng đồng loại” và “nổi lên như một ốc đảo chơi vơi
vào nửa sau thế kỷ XIX không riêng ở Nam Kì mà ở cả Việt Nam” [45, tr.303].
Từ 1917 đến 1924, trên Nam Phong nổi lên chùm đoản thiên tiểu thuyết của Nguyễn
Bá Học (9 truyện ), Phạm Duy Tốn (3 truyện), Mân Châu Nguyễn Mạnh Bổng (Vì nghĩa
quên tình: 7 truyện, năm 1921; Anh hàng phở lấy cô đầu: 8 truyện, năm 1928). Đây là những
truyện ngắn thời kì đầu của các khuynh hướng hiện thực phê phán, lãng mạn thoát ly (Phạm
Duy Tốn, Tản Đà).
Nguyễn Bá Học vốn là một nhà nho, văn chương của ông dùng nhiều chữ Hán, đầy
rẫy tính chất biền ngẫu, du dương. Những tác phẩm của ông mang khuynh hướng hiện thực
đôi khi lẫn với khuynh hướng đạo đức. Một cảnh gia đình nêu cao lòng yêu thương đùm bọc
giữa vợ chồng; Câu chuyện gia tình đả kích thói cờ bạc rượu chè; Cô Chiêu Nhì chỉ trích tính
xa hoa, lười biếng, ỷ lại; truyện ngắn có giá trị nhất của Nguyễn Bá Học là Câu chuyện một
tối của người tân hôn (1921).
Phạm Duy Tốn ảnh hưởng của văn Pháp nhiều, ông viết những truyện ngắn như: Con
người Sở Khanh, Bực mình, Nước đời lắm nỗi… Nổi tiếng nhất là Sống chết mặc bay (1918).
Tác phẩm thuật về một chuyện vỡ đê: quan huyện và nha lại đi hộ đê đóng trong một ngôi
đình kiên cố và ung dung nhàn nhã đánh tổ tôm. Trong lúc đó, nhân dân đói khát đang ra sức
vật lộn với nước. Nhưng sức nước quá mạnh, đê vỡ. Có người vào báo, quan cứ mặc kệ vì
quan đang mê mải theo ván bài.
Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) trước khi thành lập Tự lực Văn đoàn và chủ trương
Phong Hóa, Ngày Nay đã viết cả tiểu thuyết và truyện ngắn. Riêng về truyện ngắn, thời gian
này ông có hơn chục tác phẩm, sau được in chung trong tập Người quay tơ. Về tư tưởng, tập
truyện vừa có khuynh hướng hiện thực (Nô lệ), vừa có khuynh hướng lãng mạn (Giấc mộng
Từ Lâm), lại có cả khuynh hướng yêu nước (Người quay tơ). Xét trên nhiều phương diện,
nhất là về kĩ thuật, hình thức, tác giả luận văn xem đây là một hiện tượng và là bước chuẩn bị
quan trọng cho nội dung, phương thức tự sự của Nhất Linh và Tự lực văn đoàn sau đó không
lâu.
(Tiếc rằng nhiều người đánh giá chưa thích đáng về ý nghĩa lịch sử các truyện ngắn
này, từ phương diện xây dựng thể tài.)
Trong chặng “phát triển” của truyện ngắn Việt Nam trước 1945, phải kể đến vai trò
của các nhà văn thuộc cả hai khuynh hướng lãng mạn chủ nghĩa và hiện thực phê phán.
Giữ vai trò nổi bật ở khuynh hướng thứ nhất của quá trình phát triển truyện ngắn –
khuynh hướng lãng mạn chủ nghĩa – là các nhà văn: Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Thế
Lữ, Nguyễn Tuân, Hồ Dzếnh, Đỗ Tốn, Thanh Tịnh, Thanh Châu, Ngọc Giao, Xuân Diệu…
Giữ vai trò nổi bật ở khuynh hướng thứ hai – khuynh hướng hiện thực phê phán – là
các nhà văn: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao, Bùi Hiển, Tô
Hoài, Kim Lân, …
Năm 1930, Tản Đà mở mục Việt Nam nhị thập thế kỉ Xã hội ba đào kí trên Annam tạp
chí. Từ 1930 đến 1932, Nguyễn Công Hoan viết 24 truyện ngắn, trong đó có 20 truyện đăng
trên mục Xã hội ba đào kí (chiếm hơn một nửa tổng số truyện ngắn đăng trên mục này).
“Nguyễn Công Hoan trở thành một nhà văn sáng giá những năm đầu thập niên 30 thế kỉ
trước, là người cắm ngọn cờ đầu của chủ nghĩa hiện thực phê phán trong lĩnh vực truyện
ngắn.” [37, tr.289].
Nguyễn Công Hoan được xem là người đầu tiên viết truyện ngắn theo khuynh hướng
hiện thực phê phán và sớm đạt được thành tựu đáng được ghi nhận. Các tập truyện ngắn có
giá trị của ông là Ngựa người người ngựa (1934), Kép tư bền (1935)… Nhìn thẳng vào hiện
thực, bằng tiếng cười trào phúng, Nguyễn Công Hoan phơi ra mặt trái của xã hội đầy bất
công thối nát, kẻ giàu phè phỡn, vô đạo, còn người nghèo thì bị ức hiếp và đói khổ cùng cực.
Riêng tập Kép tư bền, gồm 15 truyện ngắn sáng tác trong khoảng 1929 – 1935, đã gây tiếng
vang lớn, được Hải Triều biểu dương nhiệt liệt, coi tập truyện này là “tác phẩm thuộc về trào
lưu tả thực xã hội của nước ta”.
Tiếp đó là đóng góp của hàng loạt tác giả hiện thực phê phán.
Vũ Trọng Phụng tuy chủ yếu là cây bút tiểu thuyết, song các truyện ngắn của ông
cũng đặc sắc và giàu ý nghĩa phê phán hiện thực (Bộ răng vàng, Một đồng bạc, Bà lão
lòa…). Nguyên Hồng cũng có nhiều truyện ngắn viết theo cảm quan hiện thực xuất sắc, cảm
động (Mợ Du, Con chó vàng, Miếng bánh,…). Bùi Hiển viết nhiều truyện ngắn đặc sắc về
hiện thực đời sống dân quê ở một làng chài thuộc dải đất miền trung (Nằm vạ, Ma đậu,
Chiều sương).
Ở trên, luận văn đã nói đến sự phong phú đa dạng về tính khuynh hướng và liệt kê cá
khuynh hướng ấy. [“Có khuynh hướng lãng mạn chủ nghĩa (chủ yếu thuộc khu vực văn xuôi
lãng mạn), có khuynh hướng hiện thực (chủ yếu thuộc khu vực văn học hiện thực phê phán);
có khuynh hướng thuyết lý đạo đức, khuynh hướng luận đề, khuynh hướng hiện thực xã hội,
khuynh hướng hiện thực tâm lý,… Về hình thức kĩ thuật tự sự, có khuynh hướng viết ngắn,
có khuynh hướng viết dài, tiếp cận với truyện vừa, có tổng hợp kĩ thuật của tiểu thuyết, có
yếu tố huyền thoại kì ảo, có yếu tố lịch sử, có yếu tố đồng thoại (truyện loài vật),…”] . Đến
đây phải nói rõ hơn rằng, sự phong phú đa dạng về khuynh hướng này chủ yếu bộc lộ ở
chặng “phát triển” của truyện ngắn quốc ngữ Việt Nam (1930-1945). Và, trong sự tương tác
thể loại, còn đáng ghi nhận sự phong phú về mặt loại hình của truyện ngắn: truyện ngắn “trữ
tình hóa” (tiêu biểu là truyện của Thạch Lam, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh), truyện ngắn “kịch
hóa” (tiêu biểu là truyện của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Pụng), truyện ngắn “tiểu thuyết
hóa” (tiêu biểu là các truyện của Nam Cao như Đời thừa, Trăng sáng, Chí Phèo, Nửa
đêm,…). Trong khuynh hướng “trữ tình hóa”, các truyện ngắn trong tập Chân trời cũ của Hồ
Dzếnh lại có một dòng chảy riêng: truyện ngắn tự truyện.
Nhịp độ phát triển về lượng của truyện ngắn quốc ngữ cũng mau lẹ khẩn trương. Theo
thống kê trong Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (Vũ Tuấn Anh – Bích Thu, Từ điển tác
phẩm văn xuôi Việt Nam; NXB Văn học, H., 2001) thì trong khoảng từ 1933 đến 1945,
truyện ngắn xuất bản trên phạm vi cả nước có 51 tập (540 đơn vị tác phẩm).
Riêng sáng tác của Tự lực văn đoàn đã có 16 tập truyện ngắn (151 đơn vị tác phẩm).
Thạch Lam xuất bản 3 tập (33 truyện) và khoảng 17 truyện ngắn mới chỉ đăng báo. Nhất
Linh xuất bản 6 tập, và Khái Hưng xuất bản 7 tập cùng rất nhiều truyện ngắn đăng báo khác.
1.2. Truyện ngắn – một bộ phận sáng tác quan trọng và có thành tựu đáng ghi nhận
trong sự nghiệp văn học của Nhất Linh, Khái Hưng
1.2.1. Tự Lực Văn Đoàn như là một tổ chức văn học
Tự Lực Văn Đoàn là một tổ chức văn học hiện đại, được thành lập và hoạt động khá
hiệu quả, trong vòng một thập niên (1932-1942), có thành tựu và ảnh hưởng lớn sự phát triển
của văn học hiện đại Việt Nam, nửa đầu thế kỉ XX. Tự Lực Văn Đoàn có tôn chỉ, mục đích
riêng, có nhà in riêng (Đời Nay) cùng cơ quan ngôn luận riêng (Phong Hóa, Ngày Nay).
Tự Lực Văn Đoàn gồm 7 thành viên chính thức: Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh),
Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo), Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam), Trần Khánh Giư
(Khái Hưng), Ngô Xuân Diệu (Xuân Diệu), Nguyễn Thứ Lễ (Thế Lữ), Hồ Trọng Hiếu (Tú
Mỡ). Cùng với các thành viên chính thức nói trên, Tự Lực Văn Đoàn tập hợp được cả một
đội ngũ cộng tác viên chọn lọc, có uy tín trên nhiều lĩnh vực sáng tác nghệ thuật: văn, thơ,
nhạc, họa.
Cho đến nay, các nghiên cứu về TLVĐ của các nhà Việt học đã có bề dày và khá
thống nhất. Luận văn này không nhắc lại nữa, chỉ xin lưu ý mấy điểm sau:
Thứ nhất. Cần phải nói ngay rằng, hoạt động của TLVĐ trên thực tế đã vượt ra ngoài
khuôn khổ, phạm vi văn học. Về thực chất là một tổ chức văn hóa xã hội, hoạt động văn học
của TLVĐ vừa là phương tiện, vừa là nội dung.
Mặc dầu khó lòng tách bạch hoạt động văn hóa xã hội và hoạt động văn học của nhóm
– cũng như khó lòng mà tách bạch được trong các sáng tác văn học của các nhà văn trụ cột,
các thành viên chính thức của TLVĐ, đâu là phương tiện, đâu là nội dung hoạt động. Tuy
nhiên, trong phạm vi luận văn này, tác giả sẽ cố gắng tập trung vào hoạt động sáng tác của tổ
chức này từ góc độ một tổ chức văn học. Nói cách khác, sẽ chỉ nhìn Nhất Linh, Khái Hưng,
Hoàng Đạo, như là những người sáng tác văn học, những nhà văn.
Thứ hai. Các đánh giá về đóng góp của văn chương LLVĐ trước đây vì nhiều lý do
khách quan và chủ quan còn có nhiều điểm bất hợp lý, thậm chí bất công. Về sau có được
điều chỉnh. Nhà văn TLVĐ được nhìn nhận từ phương diện giai cấp, thế giới quan tiểu tư
sản: “Họ là những nhà văn tiểu tư sản thức thời, có tinh thần dân tộc, có một lý tưởng thực
tiễn, là dựa vào những điều kiện cụ thể để hoạt động và làm ăn bằng văn học. Hoạt động và
làm ăn bằng văn học có nghĩa là viết lách được thường xuyên về đề tài xã hội, và xuất bản
được, để có thể lự lực sống bằng lao động nghệ thuật của mình, không phải ngửa tay lĩnh
lương hằng tháng của chính quyền Pháp. Muốn thế, phải biết thị hiếu của lớp độc giả mới,
từng lớp tiểu tư sản thành thị, là lớp độc giả đông đảo nhất đương thời, nếu không nói là duy
nhất. […] Người ta đã chán những thở than não nuột, chán cái bệnh thời đại “không ốm mà
rên”. Người ta muốn vui lên tí chút dù hoàn cảnh chẳng có gì đáng vui. Người đọc lại cũng
đã tiêm nhiễm ít nhiều tinh thần, tư tưởng Âu Tây, thích thú tự do cá nhân, đặc biệt trong
lĩnh vực tình yêu. Công kích phong thái sinh hoạt trong các gia đình phong kiến, lên án cái
không kí đài các, trưởng giả, cái tôn ti trật tự cứng nhắc Khổng Mạnh, nếu lại biết dùng một
lối văn nhẹ nhàng, thanh thoát, dễ đọc, dễ hiểu, thì chắc chắn sẽ có được những tác phẩm
hợp với khẩu vị người đọc. Cho nên tôn chỉ của TLVĐ là “lúc nào cũng trẻ, yêu đời. Không
có tính cách ttrưởng giả quí phái… Tôn trọng tự do cá nhân. Làm cho người ta biết đạo
Khổng không hợp thời nhữa. Đem phương pháp Thái Tây ứng dụng vào văn chương An
Nam”. Đóng góp của TLVĐ là ở đấy mà hạn chế cũng là ở đấy.” [179, tr.21]
Song các đánh giá nhận định vẫn nặng thiên kiến và vẫn còn quá dè dặt, chưa thỏa
đáng. Xu hướng chung vẫn cho rằng TLVĐ là tổ chức văn học “đóng góp ít, hạn chế nhiều”
[179, tr.21], và, thường không đặt hoạt động văn chương của các thành viên TLVĐ trong
một bối cảnh rộng hơn: hoạt động văn hóa – xã hội của nhóm. Do vậy chưa thể đánh giá hết
được tác mức độ, chiều hướng tác động đến công chúng đương thời của tổ chức văn học này.
Lật lại Tôn chỉ của Tự lực văn đoàn, gồm mười điểm, sẽ thấy cần phải có cái nhìn thỏa
đáng hơn đối với hoạt động văn học trong toàn bộ hoạt động của họ:
1. Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách
nước ngoài nếu những sách này chỉ có giá trị văn chương thôi: mục đích là để làm
giàu thêm văn sản trong nước.
2. Soạn hay dịch những cuốn sách có tư tưởng xã hội. Chú ý làm cho người và cho xã
hội ngày một hay hơn lên.
3. Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những cuốn sách có tính cách bình dân và cổ động cho
người khác yêu chủ nghĩa bình dân.
4. Dùng một lối văn giản dị dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách An Nam.
5. Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có giá trị phấn đấu và tin ở sự tiến bộ.
6. Ca tụng những nét hay vẻ đẹp của nước nhà mà có tính cách bình dân, khiến cho
người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân . Không có tính cách trưởng giả quí
phái.
7. Trọng tự do cá nhân.
8. Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa.
9. Đem phương pháp khoa học thái tây ứng dụng vào văn chương Việt Nam.
10. Theo một trong 9 điều này cũng được miễn là đừng trái ngược với những điều khác.
(Dẫn theo Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, cuốn 3) [136]
Nhìn vào “mười điều tâm niệm” trên đây, sẽ dễ dàng nhận thấy, hoạt động của TLVĐ
không chỉ khuôn hẹp trong sáng tác, truyền bá văn chương mà còn bao hàm cả các hoạt động
nhiều phương diện khác trong phạm vi văn hóa, xã hội. Các hoạt động này đều dựa trên lập
trường dân chủ, dân tộc và duy tân.
Có lẽ, trong cái nhìn và quan niệm của TLVĐ, dân ta chủ yếu là dân quê, trình độ văn
hóa thấp, đời sống hết sức lạc hậu, xã hội thôn quê bảo thủ, trì trệ. Do vậy phải tiến hành cải
cách làm thay đổi diện mạo văn hóa Việt Nam theo tinh thần Âu hóa và dân chủ hóa. Các
hoạt động cải cách văn hóa của TLVĐ được thực hiện thông qua hai hình thức: tuyên truyền
(bằng báo chí, văn chương) và hành động (với một số hoạt động cụ thể như làm nhà Ánh
sáng, phát chẩn,…).
Tham vọng của TLVĐ – làm một cuộc cách mạng văn hóa xã hội nhằm tạo ra một thế
giới riêng có cuộc sống no đủ, văn minh, tồn tại hợp pháp trong lòng chế độ thuộc địa dưới
sự dẫn dắt của những trí thức Tây học – xét đến cùng là ảo tưởng, song trên bình diện văn
hóa, phong tục, họ đã tạo ra một phong trào tiến bộ, có tính dân tộc, có ảnh hưởng xã hội khá
sâu đối với công chúng văn học ở các đô thị nước ta thời bấy giờ.
1.2.2. Nhất Linh, Khái Hưng – hai cây bút chủ lực của văn xuôi nghệ thuật Tự Lực Văn
Đoàn
Ở Việt Nam, rất nhiều nhà thơ đồng thời là người viết tiểu thuyết, truyện ngắn. Thế Lữ
chẳng hạn, ông là một nhà thơ, nhưng nói đến sự nghiệp văn chương của ông không thể
không nói đến các tập truyện ngắn, truyện vừa. Tuy nhiên, có lẽ ít có ai gọi Thế Lữ là một
tác giả truyện ngắn. Đơn giản, vì số lượng lẫn chất lượng tác phẩm truyện ngắn của ông chưa
đạt được cái ngưỡng để có thể xem ông như là một tác giả truyện ngắn.
Nhất Linh, Khái Hưng thì không phải vậy. Cả số lượng lẫn chất lượng truyện ngắn
trong sự nghiệp văn chương của hai ông đều cung cấp cho ta những cơ sở đáng tin cậy để
xem hai nhà văn này là các tác giả truyện ngắn.
1.2.2.1. Nhất Linh và vị trí của truyện ngắn trong sáng tác văn học của ông
Tên thật là Nguyễn Tường Tam, sinh năm 1906 (có tài liệu ghi 1905) anh trai của
Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Nhất Linh là thủ lĩnh
và cũng là nhà văn trụ cột của TLVĐ. Hai em ông, Thạch Lam, Hoàng Đạo cũng là những
văn nhân nổi tiếng đã đóng góp rất nhiều cho Tự Lực Văn Đoàn, Nguyễn Tường Bách cũng
đã viết phụ giúp cho Tự Lực Văn Đoàn.
Đúng như nhiều tài liệu đã nói, Nhất Linh là một trí thức Tây học; sau nhiều năm du
học ở Pháp, trở về Tổ quốc (1930) với tấm bằng cử nhân khoa học, ông mua lại trường
Nguyễn Văn Tòng, sau đổi tên là trường Thăng Long (École Thăng Long). Năm 1932, ra báo
Phong Hoá rất hài hước, chế riễu hủ tục bán rất chạy, mấy năm sau bán lại trường cho một
nhóm giáo sư hùn hợp. Tờ Phong Hóa ra từ 1932 đến 1936 thì bị đóng cửa nhưng tờ Ngày
Nay vẫn còn hoạt động tiếp tục sự nghiệp văn hóa của văn đoàn. Văn đoàn đã thành lập riêng
một nhà xuất bản để in những cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn của họ… Hoạt động của TLVĐ
đã góp phần làm giàu cho văn hóa nước nhà, dùng văn An Nam, tôn trọng tự do cá nhân, chỉ
trích những phong tục lỗi thời, nhằm cải tạo cách mạng xã hội.
Sự nghiệp sáng tác của Nhất Linh được bắt đầu từ năm 1924 với tác phẩm đầu tiên là
Nho phong (1926-27) và kết thúc là Dòng sông Thanh Thủy năm 1961. Dẫu có một khoảng
thời gian khá dài từ năm 1939 đến 1949, Nhất Linh không sáng tác nhưng ông cũng đã để lại
một sự nghiệp văn học khá lớn. Có thể kể ra đây những sáng tác của Nhất Linh:
Về tiểu thuyết gồm có:
2) Nho phong (1927)
3) Gánh hàng hoa (viết chung với Khái Hưng, 1934)
4) Đời mưa gió (viết chung với Khái Hưng, 1934)
5) Nắng thu (1934)
6) Đoạn tuyệt (1934 – 1935)
7) Lạnh lùng (1935 – 1936)
8) Đôi bạn (1936 – 1937)
9) Bướm trắng (1938 – 1939)
10) Xóm cầu mới (1949 – 1957) trường thiên (chưa hoàn thành).
11) Dòng sông Thanh Thủy (1960 – 1961), trường thiên tác phẩm cuối cùng.
Truyện ngắn của Nhất Linh gồm có các tập:
1) Người quay tơ (1927)
2) Anh phải sống (viết chung với Khái Hưng, 1934)
3) Tối tăm (1936)
4) Hai buổi chiều vàng (1937)
5) Thế rồi một buổi chiều (1937)
6) Mối tình chân (1948-1950)
7) Thương chồng (1949-1950)
Như vậy, với gần bốn mươi năm sáng tác, Nhất Linh đã để lại 10 cuốn tiểu thuyết và 7
tập truyện ngắn cùng với 1 tiểu luận (Viết và đọc tiểu thuyết). Chừng ấy tác phẩm ở những
giai đoạn sáng tác khác nhau, sẽ cho ta thấy, bên cạnh những sáng tác tiểu thuyết, Nhất Linh
còn là một tác giả truyện ngắn với số lượng tác phẩm đáng kể.
Trên đại thể, truyện ngắn Nhất Linh chưa tạo được một phong cách nghệ thuật thật rõ
nét, song cũng có nhiều thể nghiệm và đóng góp đáng quý, không thể phủ nhận.
1.2.2.2. Khái Hưng và vị trí của truyện ngắn trong sáng tác văn học của ông
Khái Hưng tên thật là Trần Giư, nhưng ông thêm chữ Khánh thành Trần Khánh Giư để
giống vị tướng Trần Khánh Dư đời Trần. Ông sinh năm 1896 – một số tài liệu ghi ông sinh
năm 1897 – trong một gia đình quan lại ở xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương, nay
thuộc Hải Phòng.
Khái Hưng đi học ở trường Albert Sarraut. Sau khi đỗ tú tài I, một thời gian Khái
Hưng dạy học ở trường tư thục Thăng Long. Trong khoảng thời gian 1930 đến 1932, Nhất
Linh từ Pháp về nước và cũng dạy tại trường này. Khái Hưng đã quen Nhất Linh ở đó và họ
trở thành một cặp tác giả nổi tiếng. Tuy Khái Hưng hơn Nhất Linh 9 tuổi nhưng là người
bước vào văn đàn sau nên được gọi Nhị Linh.
Theo Nguyễn Vỹ trong “Văn Thi Sĩ Tiền Chiến”, Khái Hưng “Người gầy ốm, đôi má
hơi cóp và nước da hơi tái, nhưng nụ cười rất tươi. Nụ cười ngụ nét hóm hỉnh, nhưng hiền
lành khả ái, […] không trào lộng như Nguyễn Tường Tam”. Về tính tình “Khái Hưng cũng
không tự kiêu tự đắc, tính điềm và tao nhã... Ít nói, tính điềm đạm, nhưng thỉnh thoảng khôi
hài đôi chút, và không làm mích lòng ai”. Về sáng tác, Khái Hưng “thẳng thắn nhìn nhận
rằng anh viết tiểu thuyết theo nhu cầu và điều kiện văn nghệ của một thời đại mà thôi”. Vì
vậy, nhà giáo, nhà văn đi vào con đường “tiểu thuyết luận đề” nhằm khai phá dòng sinh khí
mới trong văn học qua lăng kính xã hội, nêu ra thực trạng trong cuộc sống bi đát của xã hội
với nhân tình thế thái, với cảnh đời ô trọc, phong tục, tập quán cổ hủ trong thời điểm phong
kiến và thực dân xâm phạm nhân phẩm, phẩm cách, giá trị cao quý đích thực của nhiều tầng
lớp nổi trôi, trầm luân trong cuộc sống.
Các tác phẩm chính của Khái Hưng:
Tiểu thuyết:
1. Hồn bướm mơ tiên (1933).
2. Đời mưa gió (viết chung với Nhất Linh, 1933)
3. Gánh hàng hoa (viết chung với Nhất Linh,1935)
4. Nửa chừng xuân (1936)
5. Trống mái (1936)
6. Gia đình (1936)
7. Tiêu sơn tráng sĩ (tiểu thuyết lịch sử - 1937 – 2 tập)
8. Thoát ly (1938)
9. Hạnh (1938)
10. Thừa tự (1938)
11. Đẹp (1940)
12. Thanh Đức (1942)…
Các tập truyện ngắn:
Khái Hưng cũng là một cây bút truyện ngắn xuất sắc với các tập:
1)._.ái Hưng
Tác
giả
Luận
đề
(SL:%)
Phân
tích xã
hội
(SL:%)
Phân
tích tâm
lý
(SL:%)
LĐ –
PTXH
(SL:%)
3
LĐ –
PTTL
(SL:%)
4
PTXH-
TL
(SL:%)
5
Số
truyện
KS
Nhất
Linh
9:22.50
7: 17.50
11:27.50
4: 10.00
8: 20.00
1:2.50
40
Khái
Hưng
7:10.60 12:17.88 12:17.88 22:32.78 14:20.86 0:0.00 67
Bảng 4.1: TẦN SUẤT ĐỐI THOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN KHÁI HƯNG
TT Tên tập và thời gian
sáng tác; Tên truyện
Số
trang
Số lượt
thoại
Số
cuộc
thoại
Số lượt
trên
trang
Số lượt
trên
cuộc
1. Tập Dọc đường gió
bụi
3 Anh phải sống
Tiếng dương cầm 8 29 6 4,8
Bên đường dừng
bước
17 90 16 > 5,3 > 5,6
Cô hàng nước 8 47 13 > 5,8 > 3,6
Con chim vành
khuyên
9 0 0 = 0,0 = 0,0
Cái thù ba mươi
năm
14 73 15 >5,2 > 4,8
Đi Nam Kỳ 6 44 7 > 7,3 > 6,28
Sóng gió Đồ Sơn 13 61 10 < 4,7 = 6,1
Bảng 4.2: TẦN SUẤT ĐỐI THOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN NHẤT LINH
TT Tên tập và thời gian sáng
tác; Tên truyện
Số trang Số lượt
thoại
Số cuộc
thoại
Số lượt
trên
trang
Số lượt
trên
cuộc
1. Tập Anh phải sống
2
Tháng ngày qua 10 14 4 = 1,4 3,5
Bóng người trên sương mù 9 8 1 < 1,0 8,0
Giết chồng báo thù chồng 12 18 6 = 1,5 3,0
Nước chảy đôi dòng 10 34 4 = 3,4 8,5
Tập Người quay tơ
Sư bác chùa Kênh 5 0 0 = 0,0 0,0
Làm gì mà băn khoăn thế 6 0 0 = 0,0 0,0
Giật mình tỉnh dậy 5 0 0 = 0,0 0,0
Kết quả tổng hợp:
20 truyện ngắn của Khái Hưng được khảo sát với tổng cộng 192 trang, có 717 đơn vị
diễn ngôn (lượt lời). Trung bình cứ một trang truyện ngắn, Khái Hưng sử dụng 3,88 lượt lời.
20 truyện với tổng số 299 trang, nhân vật của Nhất Linh đối thoại 377 lượt lời. Trung
bình cứ mỗi trang, Nhất Linh sử dụng 1,26 lượt lời.
Bảng 5:
Khảo sát đặc điểm tổ chức văn bản diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn Nhất
Linh, Khái Hưng
5.1. Truyện ngắn Nhất Linh
TT Tên tập và thời
gian sáng tác;
Tên truyện
Số
trang
Số đoạn Đặc điểm
nghệ thuật
nổi bật
Nhân vật chính Điểm
nhìn
vai kể
Đặc
điểm
lời
văn
1. Tập Người quay
tơ:
Người quay tơ 6 1 Phân tích
tâm lý
Từ Nương NKC
Nô lệ 4 1 Phân tích
tâm lý
Chàng nông phu NKC
Chiến tranh 3 1 Phân tích
tâm lý
Tôi NKC
+ tôi
Giấc mộng
Từ Lâm
20 1 Phân tích
tâm lý
Trần Lưu NKC
+ tôi
Sư bác chùa
Kênh
5 1 Phân tích
tâm lý
Sư bác NKC
Làm gì mà băn
khoăn thế
6 1 Phân tích
tâm lý
Phạm Đài NKC Chất
triết
lý
Giật mình tỉnh
dậy
5 1 Yếu tố kỳ
ảo
Tôi NKC
+ tôi
Truyện người ca
kỹ họ Nguyễn
6 1 Yếu
tố lịch sử
Vũ Khâm Lân NKC
Bạch Liên 7 1 Yếu tố kỳ
ảo
Bạch Liên NKC
Vuông vải trắng 5 1 Phân tích
tâm lý
Minh Tử NKC
Sự thật ở miệng
trẻ
(Kịch)
13 4 đoạn
(mỗi đoạn
có NVC khác
nhau)
Phân tích
tâm lý
Đ1:Mẹ và con;
Đ2: Trinh và bác
Mạch; Đ3: Ngọc,
Ngọ, Dần; Đ4:
ông Lý, Minh.
NKC
2. Tập Anh phải
sống:
Tháng ngày qua 10 3 Phân tích
tâm lý
Giao NKC
Dưới bóng hoa 11 1 Phân tích Tống Bình, Nam NKC
đào tâm lý Chân
Bóng người trên
sương mù
9 1 Yếu tố kỳ
ảo
Trạch NKC
+ tôi
Nắng mới trong
rừng xuân
10 1 Phân tích
tâm lý
Phương NKC
Giết chồng báo
thù chồng
12 4 Phân tích
tâm lý
Liệt NKC
Đầu đường xó
chợ
8 2 Phân tích
tâm lý
Tôi NKC
+ tôi
Nước chảy đôi
dòng
10 2 Phân tích
tâm lý
Sinh NKC
3. Tập Tối tăm:
Thế rồi một
buổi chiều
28 5 đoạn lớn,
đoạn 5 có 2
đoạn nhỏ
Phân tích
tâm lý
Dũng NKC
Chết dở 10 1 Phân tích
tâm lý
Khương NKC
Nghèo 9 3 Phân tích
tâm lý
Trọng NKC
Hai cảnh ngoài
phố
7 1 Phân tích
tâm lý
Sửu NKC
May quá 3 1 Phân tích
tâm lý
Nhiêu Tích NKC
Hai vẻ đẹp 40 4 (dấu La Mã) Phân tích
tâm lý
Doãn NKC
Hai chị em 11 2 Phân tích
tâm lý
Bìm, Lạch NKC
Tiếng kêu
thương
8 1 Phân tích
tâm lý
Người đàn
bà hàng nước
NKC
4. Tập Hai buổi
chiều vàng:
Hai buổi chiều
vàng
41 Đ1: 3 đoạn
nhỏ; Đ2: 1
đoạn nhỏ; Đ3:
2 đoạn nhỏ;
Đ4: 2 đoạn
nhỏ; Đ5: 1
đoạn nhỏ.
Phân tích
tâm lý
Triết NKC
Mười năm qua 7 1 Phân tích
tâm lý
Lan Hà NKC
Cái tẩy 11 2 Phân tích
tâm lý
Huy NKC
Vết thương 9 3 Phân tích
tâm lý
Dung NKC
Câu chuyện
mơ trong giấc
mộng
6 1 Yếu tố kỳ
ảo
Sinh NKC
Lan rừng 18 6 Yếu tố kỳ
ảo
Quang NKC
5. Tập Mối tình
chân:
Mối tình chân 27 3 Phân tích
tâm lý
Bé NKC
Một buổi sáng 21 1 Phân tích
tâm lý
Gia đình bác Lê NKC
Cúng rượu 34 1 Phân tích
tâm lý
Gia đình bác Lê NKC
Lòng mẹ 17 1 Phân tích
tâm lý
Gia đình bác Lê NKC
Tam chiến
Lã Bố
11 1 Phân tích
tâm lý
Gia đình bác Lê NKC
Bao giờ em về 32 2 Phân tích
tâm lý
Bé, Đỗi NKC
6. Tập Những
ngày diễm ảo:
có thêm truyện:
Những ngày
diễm ảo
36 4 Phân tích
tâm lý
Hiệp, Diên NKC
Thương chồng 26 2 Phân tích
tâm lý
Nhung NKC
5.2. Truyện ngắn Khái Hưng.
TT Tên tập và thời
gian sáng tác;
Tên truyện
Số trang Số đoạn Đặc điểm
nghệ thuật
nổi bật
Nhân vật
chính
Điểm nhìn
vai kể
Đặc
điểm
lời
văn
1. Tập Dọc đường
gió bụi (?):
Dọc đường
gió bụi
9 5 Yếu
tố phân
tích tâm lý
Mơ Người
kể chuyện
(NKC)
Mượt
mà,
giàu
chất
thơ
Tiếng dương
cầm
8 1 Phân tích
tâm lý
Minh(?) NKC Chất
triết
lý
Bên đường
dừng bước
17 1 Phân tích
tâm lý
Bằng NKC Giàu
chất
thơ
Cô hàng nước 8 2 Phân tích
tâm lý
Ban(?) NKC Mượt
mà,
trau
chuốt
Hai cảnh trụy
lạc
9 2 Phân tích
tâm lý
Hải, Bản
Bãi sậy vườn
cam
6 1 Phân tích
tâm lý
Hùng
Con chim vành
khuyên
9 3 Phân tích
tâm lý
Tôi(?)
Trong
nhà thương
8 2 Phân tích
tâm lý
Lực(?)
Thưa chị 8 3 Phân tích
tâm lý
Địch, Nga(?)
Điên 14 2 Phân tích
tâm lý
Mã
2. Tập Anh phải
sống (?):
Anh phải sống 8 3 Phân tích
tâm lý
Thức, Lạc
Tình tuyệt vọng 7 2 Phân tích
tâm lý
Văn Châu
Sóng gió Đồ
Sơn
13 6 Phân tích
tâm lý
Bạch Tuyết,
Thu Cúc, Văn
Hải
Bên dòng sông
Hương
8 8 Phân tích
tâm lý
Vinh Sơn,
Diễm Lan
Tình điên 15 7 Phân tích
tâm lý
Cúc, Giao
3. Tập Số đào
hoa:
Đi Nam Kỳ 6 5 Phân tích
tâm lý
Lan
Linh hồn thi sĩ 9 8 Yếu Trần Can
tố lịch sử
Hoàng Oanh 8 4 Yếu
tố lịch sử
Hoàng Oanh
Cái thù ba
mươi năm
14 5 Phân tích
tâm lý
Giang(?)
4. Tập Đợi chờ
(?):
Đợi chờ 8 6 Phân tích
tâm lý
Linh
Bến Hòn Gai 8 2 Phân tích
tâm lý
Tôi
Biến đổi 11 7 Phân tích
tâm lý
Lực, Đoàn(?)
Chùa Hương 11 3 Yếu tố kỳ
ảo
Tôi
Bến đò năm
xưa
7 3 Phân tích
tâm lý
Nguyên
Cháu nhà quan 7 3 Phân tích
tâm lý
Tôi (?)
Sín Sáng 7 5 Yếu
tố lịch sử
Sín Sáng
Ngày giỗ 7 1 Phân tích
tâm lý
Tôi (?)
Điếu thuốc lá 7 3 Phân tích
tâm lý
Tôi
Tiếng khèn 12 2 Phân tích
tâm lý
Tôi
Tống tiền 6 2 Phân tích
tâm lý
?
Đào Mơ 6 1 Phân tích Mơ
tâm lý
Đồng xu 7 2 Phân tích
tâm lý
Phiên
Tập ảnh 7 1 Phân tích
tâm lý
Lý
Dưới ánh trăng 33 11 Phân tích
tâm lý
Văn, Tẹo
5. Tập Hạnh (?):
Hai người bạn 10 1 Phân tích
tâm lý
Phúc, Tảo
Tương tri 7 2 Yếu tố kỳ
ảo
Tôi, cụ Tú
Thời chưa cưới 11 2 Phân tích
tâm lý
Phát, Hoàn
Một buổi chầu 7 4 Yếu
tố lịch sử
Hà thị lang
6. Tập Cái Ve (?):
Một nhà hiền
triết
7 5 Phân tích
tâm lý
Đoàn
Xanh cà bung 11 4 Phân tích
tâm lý
Văn
Người vợ mù 6 2 Phân tích
tâm lý
Vợ chồng
người mù
Sư Tuệ 10 1 Phân tích
tâm lý
Sư Tuệ
Lòng tốt 8 2 Phân tích
tâm lý
Nhân
Linh hồn 11 1 Yếu tố kỳ Tôi
ảo
Trăng thu 11 3 Phân tích
tâm lý
Nhiễu(?)
Biển 10 1 Phân tích
tâm lý
Tuất (?)
Cái Ve 31 3 đoạn
lớn, 3
đoạn nhỏ
Phân tích
tâm lý
Ve
7. Tập truyện mới
in báo:
Lá thư rơi 17 5 Phân tích
tâm lý
Chung,
Thuyết,
Trường, Soạn
Tuổi mơ mộng 16 5 Phân tích
tâm lý
Ái
Một tập thư 7 4 Phân tích
tâm lý
Độ
Cháu Tạ 11 7 Phân tích
tâm lý
Bà lão
Giai nhân 8 1 Phân tích
tâm lý
Bông
Nhà phê bình 9 1 Phân tích
tâm lý
Hát
Đêm giao thừa 11 2 Phân tích
tâm lý
Nhà bà Ty
Vui tính 8 3 Phân tích
tâm lý
Tê
Cô áo trắng 8 2 Yếu tố kỳ
ảo?
Tôi
Những ngày vui 11 3 Phân tích
tâm lý
Độ
Cô dâu 29 7 Yếu
tố lịch sử?
Thúy Lan
Mười năm yêu
dấu
8 2 Phân tích
tâm lý
Bản
Người hầu sáng 6 3 Người hầu
sáng
?
Thời xưa 5 1 Phân tích
tâm lý
Tôi
Lưu Bình -
Dương Lễ
27 5 đoạn
lớn, 3
đoạn nhỏ
Yếu
tố lịch sử
Lưu Bình,
Châu Long
Chàng thi nhân 9 6 Yếu tố kỳ
ảo
Thi nhân
Ái tình 9 1 Phân tích
tâm lý
?
Nghiện 9 3 Phân tích
tâm lý
P. và R.
Cái nhà 16 2 Phân tích
tâm lý
Liễn, Thuyết
Quá khứ 10 4 Phân tích
tâm lý
Tôi
PHỤ LỤC 2
Bài viết đã công bố của tác giả liên quan trực tiếp đến luận văn
(Bài đã đăng trong “Văn học, Phật giáo với 1000 năm Thăng Long – Hà Nội”, Kỷ
yếu Hội thảo khoa học “Văn học, Phật giáo với 1000 năm Thăng Long – Hà Nội”, Hội
Nghiên cứu và Giảng dạy TP HCM – Viện Phật giáo Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh, năm
2010, tr.829-838)
CHÙM TÁC PHẨM VIẾT VỀ “CÔ HÀNG NƯỚC VIỆT NAM”
CỦA KHÁI HƯNG, NHẤT LINH, THẠCH LAM
KHUÊ VĂN NGUYỄN ĐĂNG VY
1. Những thiên truyện, ký như một “chùm” tác phẩm
Thạch Lam, tác giả Hà Nội 36 phố phường, trong lúc “phiếm du” khắp nẻo, đã nhận ra
cái phong vị Hà Nội, phong vị Việt Nam trong hình ảnh một “cô hàng nước”. Và, chính ông
đã không tiếc lời tôn vinh cái ý vị “tiểu thuyết” hay bản sắc văn hóa của một ngôi hàng bình
dị, quen thuộc – “hàng nước” Việt Nam:
“Cô hàng nước Việt Nam, từ xưa đến nay đã chiếm một địa vị quan hệ trong lịch sử và
trong văn chương: đã có nhiều tiểu thuyết bắt đầu ở một hàng nước và kết cục cũng ở đấy.”1.
Thật vậy, hình ảnh “cô hàng nước” “dưới gốc đa, bên ruộng lúa hay ở mái hiên của
thành phố” đã thành đề tài, cảm hứng sáng tác cho nhiều nhà văn thế hệ ông. Bài viết này sẽ
chỉ nói đến hình ảnh cô hàng nước trong một số sáng tác văn xuôi của Tự lực văn đoàn mà
Thạch Lam – tác giả của sự tôn vinh trên – và Nhất Linh, Khái Hưng là những thành viên
quan trọng.
Tác giả bài viết này muốn nói đến một “chùm” tác phẩm nhỏ gồm: Cô hàng nước in
trong tập truyện ngắn Dọc đường gió bụi của Khái Hưng (1932-1935); Tiếng kêu thương
(lời một người đàn bà bán hàng nước) in trong tập truyện ngắn Tối tăm của Nhất Linh
(1936); và, Hàng nước cô Dần in trong tùy bút Hà Nội 36 phố phường của Thạch Lam
(1943). Câu hỏi đặt ra ở đây là khi viết các tác phẩm này, liệu các nhà văn có chịu ảnh hưởng
gì nhau không và các tác phẩm này tương tác soi chiếu lẫn nhau không?
1 Thạch Lam: Hàng nước cô Dần trong Hà Nội 36 phố phường, NXB Văn nghệ TP HCM, 1998, tr.186. Các trích dẫn khác về
Hàng nước cô Dần trong bài viết này đều rút từ cuốn sách trên của Thạch Lam.
Về thời điểm sáng tác, Khái Hưng viết Cô hàng nước sớm nhất là 1932, muộn nhất là
1935, Nhất Linh viết Tiếng kêu thương năm 1936, và Thạch Lam viết Hàng nước cô Dần
muộn nhất là năm 1943. Như vậy chắc chắn, Nhất Linh có đọc truyện ngắn của Khái Hưng
trước khi viết Tiếng kêu thương, và Thạch Lam có đọc truyện ngắn của Khái Hưng, Nhất
Linh trước khi viết Hàng nước cô Dần. Điều này càng có cơ sở khẳng định chắc chắn hơn
khi chúng ta biết rằng, trong một tổ chức văn học gần gũi, thân thiết như trong một gia đình,
các nhà văn này thường giữ mối liên hệ mật thiết với nhau trong sáng tác, công bố tác phẩm
của mình. Vì vậy khi cùng viết về một đề tài, cùng lấy cảm hứng từ một đối tượng cụ thể
trong đời sống, họ phải làm sao để đối tượng miêu tả này không hề trở nên mòn cũ mà còn
được khơi sâu thêm từ nhiều phía và có thêm cơ hội tốt để bộc lộ tư tưởng nghệ thuật của
mình.
Vậy, hoàn toàn có cơ sở để chúng ta xem đây như một “chùm” tác phẩm viết về cô
hàng nước Việt Nam (tuy ba mà một, tuy một mà ba) và nên chăng hãy đọc chúng trong mối
quan hệ bổ sung, đối chiếu, “liên văn bản”?
2. Một cái nhìn đối sánh
Có chăng những điều thú vị về đề tài “cô hàng nước Việt Nam” mà người đọc chỉ có
thể nhận thấy rõ rệt, khi đặt các tác phẩm nói trên cạnh nhau? Sau đây là một vài cảm nhận,
thu hoạch riêng khi đọc Cô hàng nước (Khái Hưng), Tiếng kêu thương (Nhất Linh), và
Hàng nước cô Dần (Thạch Lam) như một “chùm” tác phẩm.
2.1. Nhân vật hư cấu và nhân vật phi hư cấu – những lựa chọn, xử lý đầy dụng ý
của các tác giả
Ba tác phẩm cùng hướng đến một đối tượng trong đời sống, nhưng viết bằng ngôn ngữ
thể loại khác nhau theo cảm hứng và phong cách nghệ thuật khác nhau, tất nhiên sẽ mang lại
cho người đọc những cảm quan thẩm mĩ khác nhau.
Vẫn là cô hàng nước ấy, song, với Khái Hưng thì đó là một nhân tố mới của đời sống
– một cô hàng nước mang cốt cách trí thức, “tân thời”; dù cô có phần hơi lạc lõng ở chốn
làng quê, song cô chính là người phát ra cái tín hiệu đáng lạc quan của cuộc sống. Với Nhất
Linh, cô hàng nước là một chứng nhân bi kịch của một đời sa sút, bi thương – một sự sa sút
bi thương như được báo trước, như định mệnh nghiệt ngã và chua xót, nhưng đồng thời cũng
là hình ảnh để nhà văn dóng lên tiếng nói cảnh tỉnh bất bình, không phải là tiếng nói con
người chung chung mà là tiếng nói của cái tôi phụ nữ – và cụ thể là “lời một người đàn bà
bán hàng nước”. Với Thạch Lam, cô hàng nước ấy lại là một kết tinh cho vẻ đẹp của 36 phố
phường Hà Nội, cho phong vị quê hương Việt Nam.
Cả ba nhân vật đều đáng mến, đáng trọng, song nhân vật của Khái Hưng thì vừa là mĩ
nhân vừa là một tài nữ tân thời. Nhân vật của Nhất Linh chỉ là nạn nhân của cuộc đời “lên
voi xuống chó”. (Cả hai đều là sản phẩm của trí tưởng tượng, của hư cấu nghệ thuật). Còn,
nhân vật của Thạch Lam, thì giản dị chỉ như là một hình ảnh thân thương – một hình ảnh
không thể thiếu trong cuộc sống gồm đủ vui buồn thường nhật của người Việt Nam ở khắp
các làng quê lẫn các phố phường.
Là những tác phẩm hư cấu, Cô hàng nước của Khái Hưng và Tiếng kêu thương của
Nhất Linh, hòa chung vào tiếng nói nồng nhiệt của văn chương Tự Lực Văn Đoàn hồi bấy
giờ: cải thiện dân trí, cải cách nông thôn và giải phóng phụ nữ. Ở đây, hư cấu là một ưu thế
giúp nhà văn tác động mạnh mẽ đến cái “não trạng” đáng buồn của cả xã hội hay những định
kiến, những nếp nghĩ đã thành xơ cứng của người đọc.
Là tác phẩm phi hư cấu, Hàng ngước cô Dần của Thạch Lam đơn giản chỉ là bức
chân dung khắc họa những nét đẹp bình dị, đằm thắm, có thực mà dễ khuất lấp, để đưa vào
“bảo tàng” văn hóa Việt Nam, “bảo tàng” văn hóa của Hà Nội băm sáu phố phường. Đây chỉ
là bức chân dung bé nhỏ, mà nếu thiếu nó, Hà Nội phồn hoa hay miền quê êm ả không có sự
đảo lộn gì ghê gớm, nhưng sẽ là một sự trống vắng đáng tiếc vô cùng, trống vắng những
“hạt bụi vàng” làm nên cái lấp lánh của phong vị đời sống Việt Nam.
Sau Cô hàng nước của Khái Hưng, Tiếng kêu thương (lời một người đàn bà bán
hàng nước) của Nhất Linh là một sự lật trở, bổ sung cần thiết có tác dụng trực tiếp hay gián
tiếp tránh cho người đọc cái nhìn đơn giản một chiều về cuộc sống, cũng như số phận người
phụ nữ tân học đương thời – hai nhân vật nữ này đều là người tân học – qua hình ảnh hư cấu
về những “cô hàng nước”.
Nhưng nghệ thuật và đời sống, dù quan hệ mật thiết với nhau, không phải là một. Con
người có nhu cầu về những vẻ đẹp hư cấu, vẻ đẹp sáng tạo bằng nghệ thuật hội họa, diêu
khắc,… thì cũng có nhu cầu về cái đẹp không hư cấu, vẻ đẹp sáng tạo bằng thứ ngôn ngữ của
nhà nhiếp ảnh, của người ghi chép sự thật, ghi chép lịch sử, văn hóa,.... Nhu cầu của người
thưởng thức văn học cũng thế. Có nhu cầu thưởng thức cái đẹp của con người trong của tiểu
thuyết, truyện ngắn thì cũng có nhu cầu thưởng thức cái đẹp của con người trong phóng sự,
tùy bút. Sau hai truyện ngắn nói trên của Khái Hưng, Nhất Linh, việc Thạch Lam viết Hàng
nước cô Dần là một sáng tạo có ý nghĩa bổ sung như thế. Tác giả Hà Nội 36 phố phường đã
không phải tìm kiếm đâu xa, cũng không cần đến những hành trình tưởng tượng, hư cấu.
Ông chỉ “phiếm du” nơi phố xá, làng quê và ghi chép về những “cô hàng nước”, để kí họa
hình ảnh một cô Dần cụ thể, song lại thâu tóm được nét đẹp của hàng trăm hàng nghìn cô
Dần khác, để làm nên bức vẽ sinh động về “cô hàng nước Việt Nam” của muôn đời.
2.2. Những thể nghiệm thành công của mỗi nhà văn trong cách viết
2.2.1. Cô hàng nước (Khái Hưng) là truyện ngắn xoay quanh cuộc gặp gỡ tình cờ của
một chàng trí thức từ thành phố về với một cô thôn nữ bán hàng nước ở một làng quê xa. Cô
hàng nước này cũng có học thức, xinh đẹp, thông minh, hóm hỉnh, quan niệm sống tự do
phóng túng. Càng trò chuyện càng thấy hòa hợp với nhau và đem lòng yêu nhau. Trong
truyện ngắn này, nhân vật của Khái Hưng là hình ảnh một cô hàng nước “tân thời” hiện thân
cho những cô gái mới của văn chương đầy mơ mộng của Tự Lực Văn Đoàn trong chặng đầu
(1932-1935). Nhà văn say mê khám phá cái đời “huyền bí” của một cô hàng nước tân học
chốn thôn quê, theo cái nhìn của Ban, một trí thức thông minh, đa tình và nhạy cảm.
Để thể hiện được một vẻ đẹp như thế, trong một cái nhìn như thế, Khái Hưng tập trung
quan sát, miêu tả hành vi, ngôn ngữ, đặc biệt là giọng nói, cách nói của cô hàng nước. Đây là
một sự lựa chọn, xử lý kỹ thuật thích đáng và đầy ý nghĩa. Điều gì giúp người ta dễ dàng
nhận diện một thiếu nữ chưa quen biết là cô gái mới, người tân học giữa đám đông phụ nữ
lao động lam lũ tất bật nếu không phải là hành vi, phong thái, giọng nói riêng biệt của cô ta?
Dĩ nhiên muốn khắc họa một cô hàng nước thôn quê thì phải chú ý đến ngôi hàng của
cô: cánh đồng, con đường quê, túp lều, cái chõng, những chiếc bát uống nước, không khí
khách ra, khách vào hàng,… Thiếu những thứ đó thì nhà văn không thể dựng lên được một
bối cảnh thích hợp. Song đó chưa phải là dụng công và hứng thú nghệ thuật chủ yếu. Lựa
chọn quan trọng nhất của Khái Hưng khi viết Cô hàng nước là: tập trung làm nổi nét riêng
biệt trong cách trò chuyện, đối đáp, bày tỏ ý kiến của cô. Vì thế, nhà văn phải tập trung vào
việc sáng tạo ngôn ngữ đối thoại của nhân vật trong những tình huống thích hợp. Vốn là nhà
văn có tài quan sát và dựng đôi thoại, Khái Hưng đã rất thành công trong lựa chọn kỹ thuật
này. Nhìn chung, cách dựng đối thoại của Khái Hưng khá tự nhiên, tươi tắn, linh hoạt, lột tả
được tính cách; khi cần sử dụng cả các nhận xét mang tính “siêu ngôn ngữ” – đúng như một
nhận xét của nhà nghiên cứu Nguyễn Thành Thi khi bàn đến ngôn ngữ đối thoại trong truyện
ngắn này2.
Giọng nói của cô hàng nước ngay từ đầu đã khiến người ta phải chú ý: “một câu mời
giọng trong trẻo khiến Ban thò vội đầu nhìn vào hàng”. Sau đó là những cuộc thoại mà lời
thoại của cô hàng nước luôn mang đến bất ngờ, thậm chí khiến người nghe phải giật mình vì
vốn hiểu biết tân học, khiếu hài hước và thái độ tự tin, quyết đoán của cô hàng nước trong
các cuộc thoại.
Ví dụ, sau đây là một tình huống: nghe người làng gọi cô hàng nước là “cô Tú”, cũng
như nhân vật Ban – một trang thư sinh “dọc đường gió bụi” – người đọc muốn biết hai chữ
ấy nghĩa là thế nào. Khái Hưng dựng lên một cuộc thoại hé lộ nhiều điều thú vị, bất ngờ từ
những “tham thoại” của “cô hàng nước”:
“Ban nhìn cô hàng thấy cô đang vuốt lại món tóc mai và sửa lại cái khăn vuông thêu
hoa.
- Cô tú lấy ông tú?
Điềm nhiên cô hàng đáp:
- Nếu thế thì phải gọi bà tú chứ?
2 Nguyễn Thành Thi: Chuyên nghiệp hóa hoạt động sáng tác như một đòi học tất yếu của công cuộc hiện đại hóa văn học Việt
Nam trước 1945, Nghiên cứu văn học số 4/ 2010. In lại trong tập tiểu luận phê bình của cùng tác giả với nhan đề Văn học - thế
giới mở, NXB Trẻ TP HCM, 2010.
- Hay cô…đỗ?
- Đỗ “bắc”?
Sự kinh ngạc của Ban lên tột điểm. Mơ màng, vì chàng có một tâm hồn lãng mạn, Ban
tưởng tượng sống trong cảnh huyền ảo thần tiên như nhân vật trong truyện Liêu trai chí dị.
Một cô hàng nước có học thức? Một cô gái quê có Tây học?
Lúc đó chàng ngắm cô hàng, sắc đẹp tăng bội phần, nước da bánh mật đã hây hây
nhuốm mầu hồng và cặp mắt cặp môi cho chí hai đồng tiền bên má, chàng cảm thấy có giấu
cái thông minh kín đáo mà tinh quái ở trong.
Nhưng cô hàng nói tiếp:
- Đỗ “bắc” thì quả không; ở đây họ coi tôi là một con chim lạ, vì tôi biết, biết quốc
ngữ, nên họ gọi đùa tôi là cô tú đó đấy thôi. Nhưng ông thì chắc là ông Tú?
- Sao cô biết?
- Đoán có đúng không, thưa ông?
- Đúng lắm, thưa cô tú.
Cô hàng vờ nghiêm trang.”3.
Những điều bất ngờ thú vị ấy sẽ được cắt nghĩa đầy đủ hơn ngay sau đó khi cô chủ
hàng nước và người khách mới quen “đem chuyện riêng kể cho nhau nghe”.
2.2.2. Truyện ngắn Tiếng kêu thương của Nhất Linh – như cái tên của nó – là câu
chuyện về một cuộc đời sa sút và bất hạnh trong hôn nhân4. Nhân vật của Nhất Linh là nhân
vật bi kịch: một phụ nữ trẻ không cam lòng chịu đựng sự thua thiệt, bất hạnh cuộc đời bất
công, vô lý dành cho mình. Lựa chọn có ý nghĩa của Nhất Linh là hình thức tự thuật với
điểm nhìn nội qun của nhân vật “người đàn bà bán hàng nước”. Tác phẩm từ đầu đến cuối là
một lời độc thoại: “lời người đàn bà”, véo von như tiếng sáo, như lời than khóc của chính
tâm hồn chị và những nạn nhân chung quanh chị (anh bạn tên Lương, người chồng tên Đàn).
Cái tôi của nhân vật người đàn bà bán hàng nước trong truyện này không mạnh mẽ táo bạo
như cô Tuyết (Đời mưa gió), cô Nhung (Lạnh lùng) trong tiểu thuyết của ông, song cũng
chứa chất bao nhiêu nỗi niềm, tiềm ẩn những phản ứng mạnh mẽ đối với số phận.
3 Truyện ngắn Khái Hưng, (Hoàng Bích Hà sưu tầm, Vương Trí Nhàn biên soạn), NXB Hội Nhà văn, 2004. Tr. 45-46. Các trích
dẫn khác về truyện ngắn Cô hàng nước trong bài viết này đều rút từ tập truyện đã dẫn của Khái Hưng.
4 Nhân vật tôi, người đàn bà bán hàng nước tự thuật chuyện mình trong truyện vốn là một thiếu nữ con nhà khá giả, có học. 16
tuổi cô kết hôn với một anh học trò cũng con nhà khá giả. Họ sống với nhau một quãng đời đầy đủ, sung túc. Nhưng anh chồng
thất bại trên đường học vấn, sự nghiệp, thành kẻ vô công rồi nghề, sống ăn bám gia đình. Anh ta phẫn chí nghiện ngập, nướng cả
gia tài vào thuốc phiện. Cả nhà lâm vào cảnh khốn khó. Người chồng phải tự kiếm tiền hút bằng đường trộm cắp. Còn người vợ
phải mở một ngôi hàng nước tần tảo nhọc nhằn nuôi mẹ chồng, bản thân và những đứa con. Mỗi lần nghe ông chồng buồn tình
thối sáo, nhân vật tôi, người đàn bà bán hàng nước trong truyện tưởng như cảm nhận hết cái cảnh sống tối tăm, trụy lạc của mình
và cất lên “tiếng kêu thương”. Truyện ngắn này in trong tập Tối tăm của Nhất Linh.
Ở đây, cách chọn vai kể, điểm nhìn của Nhất Linh kéo theo cách lựa chọn một số thủ
pháp kể chuyện tương ứng khác như thủ pháp đối lập, thủ pháp láy lại. Đặc biệt là cách láy
lại tạo những điểm nhấn tâm trạng trước những biến thiên tai ác của cuộc đời. Đặt mình vào
hoàn cảnh tâm trạng của một người đang từ cuộc sống sung túc, trưởng giả bị nhấn chìm vào
trong cảnh ngộ “tối tăm”, “khốn nạn”, “trụy lạc”, mà kể cho người đọc nghe câu chuyện, cất
lên tiếng kêu thương từ đáy lòng của một người đàn bà bán hàng nước, Nhất Linh láy đi láy
lại một cách diết da, thê thiết âm điệu tiếng sáo bên ngoài (tiếng sáo trúc do những người đàn
ông thổi lên) và tiếng sáo bên trong (tiếng lòng của cô hàng nước). Nó buộc người ta không
thể không lắng nghe, chia sẻ và suy nghĩ.
Sau một đoạn mở đầu với tiết tấu nhanh: “Thuở bé, hồi tôi lên mười một, mười hai
tuổi, tôi đã có cắp sắch đi học, học ở một trường con trai huyện G… Tôi không có một người
bạn gái nào, vì độ ấy con gái đi học còn hiếm lắm.”5, nhân vật tự thuật dẫn người đọc ngay
vào cái thế giới “tăm tối” âm u của những đồng vọng trong “tiếng sáo”:
Tiếng sáo của Lương, anh bạn trẻ sa sút nghèo hèn thuở nào bỗng trở thành tiếng sáo
thời hiện tại của chồng nghiện ngập phẫn chí:
“(…) tiếng sáo não nùng như tiếng than vãn cái cảnh nghèo của con một ông Án ở trong túp
lều tranh xơ xác với bà mẹ già đầu tóc bạc phơ, chiều hôm ấy đã gieo vào tâm trí non nớt
của tôi một nỗi buồn chán nản và lần đầu tiên đã cho tôi cảm thấy rõ cái dau khổ của những
cảnh sa sút ở đời.
Tiếng sáo ấy, tiếng sáo của một buổi chiều trong kí vãng xa xăm lúc nào cũng như văng
vẳng trong đời tôi, đến nay thì cái dư thanh ấy đã biến thành tiếng sáo thực, cứ chiều chiều
lại đến nỉ non trong người tôi… ngay ở trong nhà tôi mà ngưoiừi thổi sáo bây giờ lại là Đàn,
chồng tôi.” [tr 276. ]
Sau khi gặp lại một người bạn thiếu thời nay thành đạt, sang trọng, người đàn bà tự
thuật trong truyện ngắn tự đặt lời nghi vấn như cất lên một “tiếng kêu thương”:
“Khi Hải lên xe đi rồi, cả ngày hôm ấy tôi như người mất hồn.
- Vì cớ gì mình lại phải sống cái đời khốn nạn như thế này?
Tôi tự hỏi thế, nhưng không tìm được câu trả lời”. [tr. 280-281]
Và lại vẳng nghe tiếng sáo, lại ngẫm nghĩ trong tiếng sáo:
“Chồng tôi lúc thổi sáo không biết lòng có rung động gì không, còn tôi thì khi nghe
tiếng sáo tôi tưởng như là tiếng than khóc của tâm hồn tôi, tâm hồn một người đàn bà đương
độ thanh xuân, đáng được sống một cuộc đời tốt đẹp mà số phận đã bắt phải mãi mãi sống
những ngày tuyệt vọng của cái đời trụy lạc này.
5 Nhất Linh truyện ngắn, (Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn giới thiệu), NXB Văn học, 2000, tr. 275. Các trích dẫn khác về truyện ngắn
Tiếng kêu thương trong bài này đều từ rút tập truyện nói trên của Nhất Linh.
Tôi yên lặng ngồi ngắm cái cảnh nhìn đã quen mắt trước cửa hàng, cái cảnh tồi tàn
đìu hiu, hình ảnh cuộc đời tôi; một bụi chuối xơ xác, mấy chiếc xe sắt mui đã tả tơi đổ bên
cái cầu gỗ sơn đen, bắc ngang một con sông nước không bao giờ chảy.” [tr. 282]
2.2.3. Nhân vật cô Dần của Thạch Lam là hình ảnh hiện thân cho một vẻ đẹp truyền
thống của “cô hàng nước Việt Nam” cùng sự bền vững của vẻ đẹp ấy.
Khi viết tùy bút và dựng chân dung cô Dần, Thạch Lam, tất nhiên phải tuân thủ thi
pháp thể loại: kết hợp khéo léo quan sát, ghi chép, miêu tả đối tượng (cô hàng nước) với bộc
lộ suy cảm hay trữ tình - chính luận khi cần. Tuy nhiên điều đáng nói là ở đây nhà văn đã có
một lựa chọn, ứng xử kỹ thuật rất đáng lưu ý: trong khi khắc họa những nét riêng của cô Dần
và hàng nước cô Dần, nhà văn luôn luôn có ý thức nâng tầm khái quát cho nhân vật. Đây là
cách hiệu qua giúp cho nhân vật của ông vừa là cô Dần vừa không phải cô Dần, tức là thoát
xác một cô hàng cụ thể để hóa thân thành cô hàng nước Việt Nam mà người ta vẫn gặp đâu
đó “dưới bóng đa, bên ruộng lúa hay ở mái hiên của thành phố”…
Vì thế, nhà văn thường đan xen vào lời miêu tả cô Dần những vế câu, cụm từ liên hệ
đến đất nước, dân tộc mình:
- “Cửa hàng của cô cũng không có gì: một vài miếng trầu, một vài phong thuốc lào,
một bao thuốc lá bán lẻ, vài cái bát uống nước, như các bát uống nước ở tất cả các hàng
nước Việt Nam, đặt úp xuống mặt chõng.”; “cô bán nước chè uống sôi, dù trời rét hay trời
nóng, mùa đông hay mùa hạ, ấm nước chè bọc một cái áo gai rất cẩn thận, dựng bên một cái
hỏa lò than cũng hồng, mang một ấm nước bao giờ cũng réo sôi.” [tr. 184-185]
- “Cô nhũn nhặn lắn: mặc một cái áo tứ thân nâu cũ giản dị và đảm đang như cô gái
Việt Nam. Trong mấy ngày Tết, người ta mới thấy khoác cái áo mới hơn một chút, ván vành
khăn tròn trặn và chặt chẽ hơn. Và dưới mái tóc đen, lúc đó mới lấp lánh mặt đá đôi hoa
vàng, bà cụ đánh cho cô năm còn trẻ, làm cái vốn riêng, chắc thế.” [tr. 186]
Cứ thế, tác phẩm của Thạch Lam sử dụng rộng rãi lối viết đan xen giữa nét riêng của
một người và đặc tính chung mang tính “cộng đồng”:
- Riêng: “Cô Dần là một thiếu nữ còn trẻ, cứ nghe tên cô thì đủ biết (…). Tuy vậy cô
là một thiếu nữ đảm đang lắm.” [tr.184]. Chung: “Tất cả các cô hàng nước đều đảm đang.”
- Riêng: “Cô nhũn nhặn lắm. Cô không đẹp, chỉ xinh thôi” [tr186]. Chung: cô Dần
chị, cô Dần em “kéo dài mãi cái phong vị bình dân và mộc mạc của các cô hàng nước cùng
với các cô hàng xén kĩu kịt đi chợ đông chợ đoài, là cái tinh hoa của người Việt Nam từ xưa
đến giờ.” [tr. 187]
- Riêng: cô Dần có “cái nhìn của đôi mắt nhỏ, lanh lẹ, hai con ngươi đen bóng loáng,
như hai con mắt của một con vật non nào” [tr.185]; hoặc: “Thấy khách hàng nói một câu
bông đùa, cô dã tưởng người ta chòng ghẹo mình, díu đôi lông mày lại, và ngoe ngoẩy cái
nhìn. (…) Nhưng cô không giận lâu: chỉ một lát cô lại vui tính ngay.” [tr. 187]. Chung: “Một
hàng nước đắt khách vì các thức quà bán đã đành, nhưng đôi khi cũng đắt khách vì cả cô
hàng. Cô hàng nước Việt Nam – dù ở dưới bóng đa, bên ruộng lúa, hay dưới mái hiên thành
phố, ở đâu cũng vậy, miệng cười tươi của cô hàng là dây liên lạc khắp mọi người.” [tr. 186]
3. Những “cô hàng nước” – tuy ba mà một, tuy một mà ba…
Quả thật hình tượng “cô hàng nước Việt Nam” hiện lên trong ba tác phẩm với những
đặc điểm thẩm mĩ khá phong phú đa dạng. Vẫn là những cô hàng nước ấy, nhưng qua tưởng
tượng hư cấu của Khái Hưng, Nhất Linh thì nhân vật trở thành những số phận, những suy tư
mang âm vang của các luận đề xã hội quen thuộc trong văn chương Tự Lực Văn Đoàn; qua
quan sát ghi chép, trữ tình chính luận của Thạch Lam sau những cuộc phiếm du thì nhân vật
lại trở thành một biểu trưng văn hóa Việt Nam. Tương tự, qua cái nhìn mơ mộng, bút pháp
lãng mạn của Khái Hưng thì nhân vật trở thành một hình tượng tươi vui, lạc quan tràn đầy
sức sống; còn qua cái nhìn suy cảm, triết luận và bút pháp thiên về lột tả tâm lý nhân vật của
Nhất Linh thì lại trở thành một hình tượng thấm đượm nỗi buồn nhân thế.
Chân dung “cô hàng nước” trong chùm tác phẩm này vừa phong phú, đa dạng vừa có
nét trùng khớp thống nhất: tuy ba mà một tuy một mà ba. Điều đó giúp người đọc hiểu sâu
sắc, đầy đủ hơn về một chân lý phổ quát trong sáng tạo nghệ thuật: con người và cuộc sống
là muôn màu, nhà văn hãy chọn lấy một góc nhìn một mục tiêu mà sáng tác, điều quan trọng
là có tác phẩm phải có tính sáng tạo, tính nghệ thuật; không gian thẩm mĩ trong văn chương
nghệ thuật luôn tươi mới, sống động, song đó là sự tươi mới sống động được tạo ra không
phải tùy tiện mà luôn tuân thủ những qui luật, đặc trưng thể loại.
TP HCM, tháng 7 năm 2010
Khuê Văn Nguyễn Đăng Vy
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5311.pdf