BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
PHẠM BÒN NĂM
TRUYỆN DÂN GIAN AN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
Tiến sĩ HỒ QUỐC HÙNG
Thành phố Hồ Chí Minh - 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
PHẠM BÒN NĂM
TRUYỆN DÂN GIAN AN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
Tiến sĩ HỒ QUỐC HÙNG
Thành phố Hồ Chí Minh - 2011
LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành quá trình học tập, hoàn thành l
243 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3213 | Lượt tải: 6
Tóm tắt tài liệu Truyện dân gian An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ
của rất nhiều người.
Trước hết, tôi xin gửi lời cám ơn chân thành đến Ban giám hiệu, Phòng Khoa học Công
nghệ - Sau đại học, toàn thể quý thầy cô đã tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi được học tập,
nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Thứ nữa, luận văn này có nội dung liên quan đến địa phương An Giang, nên tôi cũng đã
nhận từ mảnh đất này nhiều sự giúp đỡ chân thành và hết sức quý giá. Đó là sự giúp đỡ của các
cán bộ của Thư viện Tỉnh An Giang trong quá trình tôi nghiên cứu tài liệu tại đây; sự giúp đỡ
nhiệt tình của các cá nhân trong quá trình tôi thực hiện điền dã…
Đặc biệt nhất, tôi xin mãi tri ân Tiến sĩ Hồ Quốc Hùng, người hướng dẫn khoa học cho
luận văn này. Thầy đã làm việc với tinh thần hết sức nghiêm túc, tận tình và chu đáo. Có thể
nói, thầy là người đầu tiên hướng dẫn tôi phương pháp nghiên cứu khoa học.
Cuối cùng, đó là những người thân trong gia đình tôi. Gần nhất là người bạn đời của tôi
đã phải vất vả vừa công tác vừa chăm sóc hai con thơ của chúng tôi trong suốt thời gian tôi đi
học cũng như thời gian hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 11 năm 2011.
MỤC LỤC
LỜI CÁM ƠN .................................................................................................. 3
MỤC LỤC ........................................................................................................ 4
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài - mục đích nghiên cứu ....................................................................... 6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.............................................................................................. 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 9
4. Mục tiêu nghiên cứu ..................................................................................................... 10
5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................. 10
6. Đóng góp mới của luận văn.......................................................................................... 12
7. Kết cấu của luận văn .................................................................................................... 12
Chương 1 :KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI VÀ VĂN HÓA
AN GIANG ..................................................................................................... 14
1.1. Đặc điểm vùng đất An Giang ................................................................................... 14
1.1.1. Về địa giới ..................................................................................................................... 14
1.1.2 Về địa mạo vùng đất An Giang hiện nay ....................................................................... 16
1.2 Đặc điểm về dân cư, con người An Giang ................................................................. 23
1.3. Đặc điểm về văn hóa An Giang ................................................................................ 31
1.3.1. Vài nét khái quát: .......................................................................................................... 31
1.3.2. Văn hoá Việt - sự kế thừa văn hoá từ vùng đồng bằng sông Hồng. ............................. 32
1.3.3. Sự giao lưu văn hóa trên địa bàn An Giang .................................................................. 36
Chương 2: TÌNH HÌNH TƯ LIỆU VÀ PHÂN LOẠI TRUYỆN DÂN
GIAN AN GIANG ......................................................................................... 39
2.1 Tình hình tư liệu ......................................................................................................... 39
2.2. Cơ cấu thể loại ........................................................................................................... 43
2.2.1.Về phân loại: .................................................................................................................. 43
2.2.2.Thống kê số lượng tác phẩm ở các thể loại của hai công trình Văn học dân gian An
Giang và Văn học dân gian Châu Đốc .................................................................................... 43
2.2.3. Nhận xét về sự phân loại, số lượng tác phẩm truyện dân gian của hai công trình Văn
học dân gian An Giang và Văn học dân gian Châu Đốc ........................................................ 44
2.3. Đề xuất cách phân loại truyện dân gian An Giang .................................................... 49
2.3.1. Cơ sở lý thuyết để phân loại truyện dân gian ............................................................... 49
2.3.2. Các thể loại của truyện dân gian An Giang .................................................................. 50
2.3.3. Nhận xét về mức độ đậm nhạt của các thể loại truyện dân gian An Giang .................. 51
2.4. Cách phân loại của thể loại truyền thuyết An Giang ................................................ 54
2.4.1. Lí thuyết phân loại thể loại truyền thuyết: .................................................................... 54
2.4.2. Cách phân loại và số lượng văn bản của thể loại truyền thuyết An Giang: .................. 58
Chương 3: ĐẶC TRƯNG VÀ ĐẶC ĐIỂM VỀ KẾT CẤU CỦA
TRUYỀN THUYẾT AN GIANG................................................................. 61
3.1. Đặc trưng của truyền thuyết An Giang ..................................................................... 61
3.1.1. Truyền thuyết An Giang gắn với quá trình con người chinh phục thiên nhiên trên vùng
đất mới. ................................................................................................................................... 61
3.1.2. Truyền thuyết An Giang gắn với lịch sử đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài trên
mảnh đất An Giang. ................................................................................................................ 63
3.1.3. Truyền thuyết An Giang là truyền thuyết có mối liên hệ mật thiết với các tôn giáo, lễ
hội của địa phương .................................................................................................................. 66
3.2. Đặc điểm về kết cấu của truyền thuyết An Giang ..................................................... 71
3.2.1. Cốt truyện ...................................................................................................................... 71
3.2.2. Nhân vật: ....................................................................................................................... 95
KẾT LUẬN .................................................................................................. 121
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 123
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 133
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài - mục đích nghiên cứu
Được thiên nhiên ban tặng “Thất Sơn huyền bí”, và là “thánh địa” của văn hóa Óc Eo, có
thể nói, An Giang là đất “địa linh nhân kiệt” của đồng bằng sông Cửu Long cũng như của cả
nước. Nơi đây cũng là vùng đất được xem là mặt bằng lý tưởng xuất hiện các tôn giáo cứu thế
bản địa miền Nam, là nơi sản sinh những danh nhân văn hóa của địa phương, là điểm dừng
chân của các danh nhân văn hóa, các sĩ phu yêu nước, các anh hùng hảo hán…từ nơi khác.
Ngoài núi cao, An Giang còn có sông sâu. Đó là hai con sông lớn của vùng đồng bằng sông
Cửu Long chảy qua: sông Tiền và sông Hậu. Hai con sông này, bên cạnh những giá trị khác, giá
trị nổi bật nhất là con đường lưu thông quan trọng nhất để hình thành, gắn kết văn hóa, văn học,
lịch sử… của địa phương với cả Nam Bộ và rộng hơn nữa là cả nước. Chưa hết, đây còn là nơi
hội tụ đầy đủ nhất của bốn tộc người chủ yếu Kinh, Hoa, Khmer, Chăm của vùng đồng bằng
sông Cửu Long…Mỗi dân tộc nơi đây, cũng như các dân tộc anh em khác, là mỗi bông hoa tươi
thắm nhất, góp phần tô điểm cho vườn hoa văn hóa, trong đó có văn học dân gian, của dân tộc
Việt … Tất cả góp phần tạo nên một An Giang đa dạng về dân tộc, văn hóa, văn học, tôn
giáo… Đúng là đất “địa linh nhân kiệt”. Điều đó ít nhiều phản ảnh được chiều sâu văn hóa của
vùng An Giang. Nó tác động vào văn học dân gian An Giang, tạo nên gương mặt phong phú, đa
dạng. Dù vậy, để có cái nhìn toàn diện, khái quát về diện mạo văn học dân gian của An Giang,
đến nay, hầu như còn rất ít những công trình nghiên cứu, đặc biệt là các công trình mang tính
tổng luận, khái quát về cơ cấu, thể loại văn học dân gian. Có thể nói, các tác phẩm văn học dân
gian của An Giang còn rải rác đâu đó trong quần chúng, hoặc đã được ghi chép lại một cách lẻ
tẻ trong các công trình sưu tầm chung. Nhận thức được thực tiễn đó, chúng tôi nhận thấy việc
tập hợp các tác phẩm văn học dân gian có trong các công trình, và sưu tầm thêm trong dân gian,
sau đó phân loại, hệ thống lại, đánh giá, khái quát …là những đòi hỏi hết sức cần thiết, cấp
bách. Cụ thể hơn, chúng tôi đi sâu nghiên cứu phần truyện dân gian, trước hết là góp phần bổ
sung thêm cách nhìn, cách đánh giá về diện mạo văn học dân gian An Giang. Đấy là lí do của
việc chọn đề tài cho luận văn này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có thể nói công tác sưu tầm về văn học dân gian An Giang từ trước đến nay phát triển
rất chậm. Về lĩnh vực sưu tầm, trước đây, nếu có sưu tầm riêng biệt về tác phẩm truyện của An
Giang thì cũng chỉ là những công trình nhỏ, sưu tầm ở phạm vi hẹp, số lượng văn bản không
nhiều. Gần đây nhất, có vài công trình sưu tầm có qui mô khá lớn, toàn diện. Còn ở phạm vi
rộng hơn, có nhiều công trình sưu tầm, mà trong đó, số lượng tác phẩm truyện của An Giang lại
không nhiều. Chúng tôi xin phác thảo sơ lược lại các công trình đó.
2.1.Về tư liệu sưu tầm:
- Có khá nhiều công trình. Đó là Nam kỳ cố sự - Truyện kể dân gian Nam Bộ, Nguyễn
Hữu Hiếu (Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 1987), Giai thoại dân gian Đồng Tháp
Mười, Nguyễn Hữu Hiếu, (Nhà xuất bản Đồng Tháp, 1988), Chuyện xưa tích cũ, Sơn Nam và
Tô Nguyệt Đình, 3 tập, (Nhà xuất bản trẻ, 1993), Nghìn năm bia miệng, Huỳnh Ngọc Trảng và
Trương Ngọc Tường, (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1993), Văn học dân gian đồng
bằng sông Cửu Long, Nhiều tác giả, (Nhà xuất bản giáo dục, 1997), Huyền thoại miệt vườn,
Nguyễn Phương Thảo, (Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, 1994), Chuyện kể địa danh, Vũ
Ngọc Khánh, (Nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội, 2000), Tổng tập văn học dân gian người
Việt, Truyền thuyết dân gian người Việt, Tập 4 và 5, Viện Khoa học Xã hội, (Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, 2004)…
Qua khảo sát các công trình trên, chúng tôi nhận thấy hầu hết các công trình đều viết hai
phần: phần tổng thuật và phần tác phẩm. Trong phần tác phẩm, các công trình tập trung sưu tầm
mảng truyện dân gian, còn mảng thơ ca dân gian chỉ có duy nhất trong công trình Văn học dân
gian đồng bằng sông Cửu Long, Nhiều tác giả, (Nhà xuất bản giáo dục, 1997). Các công trình
còn lại, chẳng hạn, Nam kỳ cố sự - Truyện kể dân gian Nam Bộ, tác giả sưu tầm những truyện
kể gắn với vùng đất Nam Bộ, Văn học dân gian đồng bằng sông Cửu Long sưu tầm một số
thể loại truyện dân gian của vùng đồng bằng sông Cửu Long bên cạnh mảng thơ ca dân gian,
Huyền thoại miệt vườn sưu tầm một số thể loại truyện dân gian của các dân tộc tiêu biểu của
vùng đất Nam Bộ… Rộng hơn, Chuyện kể địa danh sưu tầm hầu hết các truyện địa danh tiêu
biểu của cả nước.
- Sưu tầm về văn học dân gian An Giang, tiêu biểu nhất có lẽ là công trình Văn học dân
gian An Giang, Huỳnh Công Tín (Công trình đã được nghiệm thu năm 2007, chưa in thành
sách). Đây có thể xem là công trình đầu tiên sưu tầm một cách đầy đủ, có hệ thống về văn học
dân gian An Giang. Chỉ riêng mảng truyện dân gian, công trình này đã tập hợp được 542 văn
bản chính và 180 dị bản ở các thể loại. Ngoài ra, đề tài còn sưu tầm được tập ảnh hơn 50 tác
phẩm phản ánh các sinh hoạt nổi bật về sản xuất, đời sống, chiến đấu, văn hóa, xã hội... trong
lịch sử hình thành và phát triển vùng đất An Giang. Song song với công trình này, trong quá
trình thực hiện đề tài, chúng tôi tiếp nhận thêm một công trình khác của tác giả Nguyễn Ngọc
Quang sưu tầm về văn học dân gian An Giang với tiêu đề Văn học dân gian Châu Đốc. Đây
cũng là một công trình khá đầy đủ, toàn diện về diện mạo văn học dân gian An Giang. Về
mảng truyện dân gian, công trình đã sưu tầm được số lượng 211 truyện chính, 16 dị bản, khảo
dị.
- Ngoài hai công trình có thể nói là tiêu biểu trên, trước đây, đã có nhiều công trình khác
sưu tầm về văn học dân gian An Giang, nhưng chủ yếu là truyện dân gian. Đáng kể nhất có thể
kể là: Kì tích núi Sam (4 tập), Liêm Châu, (Nhà xuất bản Mũi Cà Mau – Hội văn nghệ Châu
Đốc, 1999), Mười đỉnh núi thiêng, Liêm Châu, (Văn nghệ Châu Đốc, 1997), Thất Sơn truyền
kỳ, Liêm Châu, (Văn nghệ Châu Đốc, 1994), 48 giờ vòng quanh núi Sam, Trịnh Bửu Hoài,
(Văn nghệ Châu Đốc, 1994), Truyền thuyết cồn Tiên, Trình Minh, (Văn nghệ Châu Đốc,
1996), Văn học dân gian An Giang và những tư liệu mới , Nguyễn Hữu Hiệp, (2007). Bên
cạnh đó, văn học dân gian An Giang còn xuất hiện trong các công trình khác, nhưng không phải
chuyên về sưu tầm văn học dân gian, như: Thất Sơn mầu nhiệm, Dật Sĩ và Nguyễn Văn Hầu,
(Nhà xuất bản Từ Tâm 1972)…
2.2. Về tư liệu nghiên cứu
- Đáng kể nhất là công trình Diện mạo văn học dân gian Nam Bộ, Nguyễn Văn Hầu
viết từ trước 1975, (Nhà xuất bản trẻ, 2004). Công trình gồm 2 tập, mỗi tập 5 chương. Đây là
công trình được đánh giá là có sự nghiên cứu công phu, tỉ mỉ, khái quát được một cách cơ bản
quá trình hình thành và phát triển của văn học dân gian Nam Bộ, giúp chúng ta hình dung được
diện mạo của văn học dân gian cũng như những đặc điểm về lịch sử, văn hóa, xã hội…của vùng
đất Nam Bộ trong hơn 300 năm qua.
- Đến thời điểm thực hiện đề tài này, có một số công trình khác nghiên cứu diện mạo văn
học dân gian Nam Bộ, trong đó có khảo sát qua một số tác phẩm văn học dân gian của An
Giang.
+ Đáng kể nhất là luận văn Thạc sĩ Bước đầu tìm hiểu truyện kể dân gian về các địa
danh ở Nam Bộ của Trần Tùng Chinh (2000). Trong luận văn, tác giả đã tập hợp được 95
truyện kể địa danh liên quan đến vùng đất Nam Bộ, trong đó có 15 truyện kể liên quan đến con
người, vùng đất An Giang. Qua kết quả nghiên cứu, luận văn này đã khái quát được những đặc
diểm cơ bản về cốt truyện, nhân vật, thời gian, không gian của truyện kể địa danh Nam Bộ. Đây
là đóng sự góp rất lớn của luận văn đối với văn học dân gian Nam Bộ nói riêng, văn học cả
nước nói chung. Tuy vậy, phạm vi nghiên cứu của luận văn là chỉ giới hạn ở bộ phận truyện kể
địa danh, chưa bao quát hết các thể loại truyện dân gian Nam Bộ.
+ Luận án Tiến sĩ Truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở
Nam Bộ (1858 – 1918) của Võ Phúc Châu (2010). Trong luận án này, tác giả tập hợp đươc 101
truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918), trong
đó, có đề cập đến một nhóm truyện truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa vùng Thất Sơn với 4
truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa của Đức Cố Quản Trần Văn Thành (Bửu Sơn Kỳ Hương), 5
truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa của Đức Bổn Sư Ngô Lợi (Tứ Ân Hiếu Nghĩa). Đóng góp
quan trọng nhất của luận án là sưu tầm, biên soạn được 101 truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa
chống Pháp từ 1858 đến 1918; khảo sát, hệ thống hóa và miêu tả 25 motif tiêu biểu, theo 6
nhóm motif của hệ thống truyền thuyết trong luận án…Đây được xem là những đóng góp hết
sức nổi bật của luận án đối với văn học dân gian Nam Bộ cũng như của cả nước. Tuy nhiên, vì
khảo sát của luận án chỉ giới hạn trong thời gian từ 1858 đến 1918 nên một số truyền thuyết
trước và sau giai đoạn này chưa được khảo sát. Mặc khác, thể loại mà luận án hướng đến chỉ là
truyền thuyết, nên chưa bao quát hết các thể loại của truyện dân gian Nam Bộ…
+ Ngoài ra, chúng tôi cũng tìm thấy được một số luận văn liên quan đến hai trong số ba
dân tộc anh em sống trên địa bàn An Giang. Đó là Luận án Tiến sĩ Khảo sát truyện cổ dân tộc
Chăm của Nguyễn Thị Thu Vân (2005) và Luận văn Thạc sĩ Khảo sát nguồn truyện dân gian
Khmer Nam Bộ của Nguyễn Thị Như Nguyên (2006). Cả hai công trình này đã giúp chúng tôi
hiểu được một cách khá sâu sắc về văn hóa hai dân tộc Khmer và Chăm, mà đặc biệt nhất là
văn học dân gian.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là truyện dân gian An Giang. Trong phạm vi đề tài,
chúng tôi chỉ nghiên cứu mảng truyện dân gian của người Việt. Trong luận văn, chúng tôi chú
trọng sắp xếp, phân loại hoàn chỉnh, phù hợp kho tàng truyện dân gian của người Việt. Từ kết
quả sắp xếp, phân loại, chúng tôi tiến hành khảo sát về đặc trưng và đặc điểm kết cấu của
truyện dân gian An Giang.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Với đề tài này, một đề tài có tính chất “khai phá” mảnh đất truyện dân gian An Giang
phong phú nhưng không kém phần phức tạp, chúng tôi xác định mục tiêu nghiên cứu như sau:
- Bước đầu khảo sát, phân loại truyện dân gian An Giang trên cơ sở lý thuyết phân loại
phổ biến và theo quan điểm nghiên cứu của chúng tôi. Với chúng tôi, đây là mục tiêu phức tạp
nhất mà chúng tôi phải thực hiện. Ý thức được những vấn đề này, trong khi thực hiện mục tiêu
này, chúng tôi sẽ tiến hành công việc hết sức thận trọng và khoa học. Trong quá trình khảo sát
các công trình sưu tầm, chúng tôi lưu ý đến vấn đề nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. Quan điểm
nhất quán của chúng tôi trong mục tiêu này là chỉ chọn những truyện dân gian sản sinh, hình
thành từ vùng đất An Giang làm đối tượng khảo sát. Còn hệ thống tác phẩm có tính chất tồn tại
trên mảnh đất An Giang do quá trình giao lưu, nhưng chưa xác định được nguồn gốc hay có
nguồn gốc từ nơi khác thì chúng tôi không khảo sát. Để khoa học hơn, chúng tôi sẽ đưa ra tiêu
chí để khảo sát. Ở đây, luận văn tập trung mô tả về cơ cấu, các thể loại truyện dân gian…
- Sau khi khảo sát số lượng, phân loại một cách có hệ thống đối với truyện dân gian,
chúng tôi tiến hành tìm hiểu một số đặc trưng và đặc điểm kết cấu của truyện dân gian An
Giang.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài này, chúng tôi sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp loại hình lịch sử
Văn học nói chung, văn học dân gian nói riêng, luôn có mối quan hệ mật thiết với lịch
sử. Cho nên, sử dụng phương pháp loại hình lịch sử trong đề tài này là hết sức cần thiết. Với
phương pháp này, chúng tôi sẽ tìm hiểu các thể loại của văn học dân gian qua sự vận động của
chúng trong các thời kì lịch sử khác nhau.
5.2. Phương pháp phân loại, hệ thống
5.2.1.Phân loại các tác phẩm đã được tập hợp, lựa chọn, sưu tầm theo những tiêu chí cụ
thể, qua đó giới hạn phạm vi nghiên cứu và đối tượng khảo sát.
5.2.2. Sắp xếp các tác phẩm sau khi đã phân loại vào từng nhóm truyện khác nhau, từ đó
giúp cho việc tìm ra mô hình cốt truyện, hệ thống nhân vật ở các nhóm truyện một cách thuận
lợi, khoa học.
5.3. Phương pháp thống kê, miêu tả
5.3.1.Thống kê nhằm tạo tiền đề để kết luận có khoa học. Sau khi tập hợp, lựa chọn, sưu
tầm, chúng tôi thống kê các tác phẩm qua các số liệu cụ thể, để từ đó làm căn cứ khẳng định
cho một số vấn đề quan trọng của luận văn.
5.3.2. Chúng tôi miêu tả kết cấu, nội dung chính… của các tác phẩm, từ đó làm cơ sở
cho việc kết luận một số vấn đề chung của truyện dân gian An Giang, tiêu biểu nhất là thể loại
truyền thuyết.
5.4. Phương pháp phân tích, so sánh
5.4.1. Chúng tôi phân tích kết cấu của từng tác phẩm, tìm ra cái hay, cái đẹp của các chi
tiết nghệ thuật…
5.4.2. So sánh tác phẩm với tác phẩm trong một nhóm truyện, giữa nhóm này với nhóm
khác; đối chiếu thể loại truyện dân gian (truyền thuyết) của An Giang với thể loại truyện dân
gian của các vùng khác hay giữa thể loại truyền thuyết với thể loại khác (thần thoại, cổ tích…).
Việc so sánh, đối chiếu là rất cần thiết nhằm tìm ra sự tương đồng, thống nhất cũng như sự
thâm nhập, chuyển hóa của các thể loại văn học dân gian.
5.5. Phương pháp tập hợp và thẩm định tư liệu
5.5.1. Chúng tôi tập hợp tác phẩm từ nhiều nguồn khác nhau, chủ yếu từ sách và sưu tầm
trong dân gian. Về sưu tầm, chúng tôi chủ yếu quan tâm đến các vùng có nguồn tư liệu dồi dào,
tìm đến các địa chỉ văn hóa, các đối tượng có khả năng thu thập được nhiều bản kể: chùa,
đình... hay các bậc cao niên, các trụ trì chùa, người có hiểu biết về văn hóa, văn học dân gian…
5.5.2. Đối với tư liệu sách vở, chúng tôi lưu ý đến các văn bản có nhiều dị bản. Đối với
các bản kể sưu tầm, chúng tôi cũng quan tâm đến trình độ người kể mà chọn những bản kể hay
nhất, phù hợp nhất. Ngoài ra, công việc thẩm định tự liệu còn được chúng tôi thực hiện qua việc
điền dã, nhằm so sánh, xác minh một số văn bản đã có trong các tư liệu mà chúng tôi cho rằng
chưa ổn về nội dung, hình thức văn bản.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Tập hợp tác phẩm, phân loại phù hợp hệ thống truyện dân gian An Giang theo tiêu chí
phân loại của khoa học văn học dân gian.
- Trong quá trình sưu tầm, tập hợp tư liệu, chúng tôi tìm thêm được 18 truyện kể và biên
soạn lại một số văn bản mà chúng tôi chưa đồng thuận về nội dung và hình thức.
- Theo kết quả tập hợp, phân loại, theo chúng tôi, trong hệ thống truyện dân gian An
Giang, truyền thuyết là thể loại đậm đặc, tiêu biểu nhất. Đây là kết luận quan trọng để chúng tôi
tập trung tìm hiểu thể loại truyền thuyết một cách chuyên sâu.
- Với thể loại truyền thuyết, chúng tôi khảo sát đặc trưng và đặc điểm kết cấu. Theo
chúng tôi, về đặc trưng thể loại, bên cạnh những đặc trưng giống như truyền thuyết của cả
nước, truyền thuyết An Giang còn có những nét riêng. Còn về đặc điểm kết cấu, chúng tôi cũng
nhận ra thể loại truyền thuyết ở An Giang có những nét khác biệt bên cạnh những tương đồng
về cốt truyện và nhân vật.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 286 trang, trong đó có 150 trang chính văn và phần phụ lục gồm 136
trang. Kết cấu như sau:
7.1. Phần chính văn:
- Mở đầu gồm 9 trang dành cho việc trình bày về : Lí do chọn đề tài - mục đích nghiên
cứu; Lịch sử nghiên cứu vấn đề; Đối tượng và phạm vi nghiên cứu; Mục tiêu nghiên cứu;
Phương pháp nghiên cứu; Đóng góp mới của luận văn và Kết cấu của luận văn.
- Chương 1: Khái quát về vùng đất, con người và văn hóa An Giang (gồm 30 trang).
Trong chương này, chúng tôi tìm hiểu về đặc điểm vùng đất với các vấn đề địa giới của tỉnh An
Giang từ khi thành lập đến nay để thấy được sự thay đổi về diện tích; tìm hiểu vấn đề địa mạo
để tìm ra mối quan hệ giữa thiên nhiên vùng đất với sự hình thành, phát triển, giao lưu văn hóa,
văn học của An Giang. Đặc biệt, ở chương này, chúng tôi còn tìm hiểu về đặc điểm con người
và văn hóa của người Kinh An Giang, qua đó làm cơ sở đề chúng tôi khảo sát đối tượng chính
của luận văn – truyện dân gian.
- Chương 2: Tình hình tư liệu và phân loại truyên dân gian An Giang (gồm 26 trang).
Với chương này, chúng tôi thực hiện hai nhiệm vụ: khái quát tình hình tư liệu liên quan đến thể
loại truyện dân gian An Giang; phân loại, nêu lên mức độ đậm, nhạt của các thể loại truyện dân
gian An Giang thông qua số liệu văn bản mà chúng tôi tập hợp được.
- Chương 3: Đặc trưng và đặc điểm về kết cấu của truyền thuyết An Giang (gồm 72
trang). Đây là chương dài nhất, trọng tâm nhất của luận văn. Trong chương này, chúng tôi thực
hiện hai nội dung. Thứ nhất là tìm hiểu về đặc trưng của truyền thuyết An Giang với 3 đặc
trưng. Sau khi thực hiện nội dung thứ nhất, chúng tôi tìm hiểu nội dung thứ hai, đó là tìm hiểu
về đặc điểm kết cấu với hai vấn đề: cốt truyện và nhân vật. Về cốt truyện, chúng tôi tìm hiểu
lần lượt mô hình cốt truyện, sự hiện thực hóa mô hình cốt truyện của từng nhóm truyện. Còn về
nhân vật, chúng tôi tìm hiểu lần lượt theo 3 nội dung: 1. Sự xuất hiện của nhân vật; 2. Diễn
biến chính trong cuộc đời của nhân vật; 3. Kết thúc - Tình cảm của nhân dân đối với nhân vật.
- Kết luận gồm 2 trang dành cho việc đánh giá những nội dung đã thực hiện và đề xuất
một số vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, thực hiện.
- Tài liệu tham khảo: có 11 trang thống kê 168 danh mục tài liệu tham khảo
7.2. Phần phụ lục:
Gồm 136 trang trình bày danh mục các 108 truyện; nội dung một số văn bản tiêu biểu
của bốn nhóm truyền thuyết An Giang; 23 văn bản truyện sưu tầm được trong thời gian thực
hiện luận văn.
Chương 1 :KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI VÀ
VĂN HÓA AN GIANG
1.1. Đặc điểm vùng đất An Giang
1.1.1. Về địa giới
Từ khi có tên trên bản đồ dân tộc đến nay, tỉnh An Giang trải qua một quá trình thay đổi
về địa giới nhiều lần. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nêu lên một số thay đổi quan trọng, tiêu biểu.
Theo “Đại Nam nhất thống chí”, trước 1832, An Giang thuộc đất Tầm Phong Long.
Sách này viết về An Giang như sau: “Xưa là đất Tầm Phong Long, năm Đinh Sửu thứ 19
(1757) đời Thế Tông, quốc vương Chân Lạp Nặc Tôn dâng đất này, đặt làm đạo Châu Đốc; vì
đất ấy có nhiều chỗ bỏ hoang, đầu đời Gia Long mộ dân đến ở, gọi là Châu Đốc Tân
Cương…”. Ngay khi vừa thu phục đất Tầm Phong Long, Nguyễn Cư Trinh đã tâu lên Chúa
Nguyễn và được chấp thuận: Dời dinh Long Hồ từ Cái Bè qua Tầm Bào (khu vực thành phố
Vĩnh Long ngày nay). Để án ngữ dinh Long Hồ, cho bố trí 3 cứ điểm phòng thủ nương tựa
nhau: đạo Châu Đốc (vị trí ở thị xã Châu Đốc ngày nay), đạo Tân Châu (vị trí tại đầu cù lao
Giêng, thuộc huyện Chợ Mới ngày nay), đạo Đông Khẩu (phía nam sông S(a Đéc, thuộc thị xã
Sa Đéc ngày nay). Gọi đạo, theo nghĩa quân khu, dưới chế độ quân quản thuộc dinh Long Hồ.
Bấy giờ, dinh là một đơn vị hành chính và quân sự trực thuộc Trung ương, như một tỉnh lớn.
Trong giai đoạn tranh chấp với Tây Sơn, đất Nam Bộ là phủ Gia Định.
Năm 1802, Nguyễn Ánh đổi phủ Gia Định ra trấn. Dinh Long Hồ đổi là trấn, gọi là
Vĩnh Trấn từ năm 1805. Năm 1808, đời Gia Long, gọi đất Nam Bộ cũ là Gia Định thành (có
nghĩa là đơn vị hành chính to của miền). Gia Định thành quản 5 trấn: Phiên An, Biên Hòa,
Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên. Trấn Vĩnh Thanh, bao gồm khu vực rộng lớn, từ biên
giới Việt – Miên đến biển, từ Bảy Núi đến Bãi Xàu, Giá Rai, gồm cả Tân Châu và vùng Bến
Tre. Như vậy, có thể nói, An Giang lúc bấy giờ thuộc trấn Vĩnh Thanh.
Năm Nhâm Thìn (1832), vua Minh Minh Mạng đổi “Ngũ trấn” thành “Lục tỉnh” gồm:
Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.
Sách “Đại Nam nhất thống chí” viết: “Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), lấy đất này
cùng với huyện Vĩnh An tỉnh Vĩnh Long đặt làm phủ Tuy Biên và Tân Thành; đặt bốn huyện là
Tây Xuyên, Phong Phú, Đông Xuyên, và Vĩnh An lập tỉnh An Giang, đặt chức An Hà Tổng đốc,
thống lãnh hai tỉnh An Giang và Hà Tiên, lại đặt hai ty Bố Chánh và An sát”.
Như vậy, vùng Châu Đốc cùng với huyện Vĩnh An (giữa sông Tiền và sông Hậu từ Tân
Châu đến Sa Đéc) của tỉnh Vĩnh Long được lập thành tỉnh An Giang. Có thể nói, An Giang bấy
giờ quá rộng, từ biên giới (Tân Châu, Bảy Núi) xuống tận Cái Tàu Hạ (giữa sông Tiền và sông
Hậu), kéo dài tận cả vùng Sa Đéc, Sóc Trăng, Giá Rai ra đến biển. Lỵ sở đặt tại Châu Đốc.
Năm 1835, vua Minh Mạng cho lấy đất Ba Thắc đặt thêm phủ Ba Xuyên, đặt hai huyện
Phong Nhiêu, Phong Thạnh và lấy huyện Vĩnh Định tỉnh Vĩnh Long nhập vào tỉnh An Giang.
Năm Minh Mệnh thứ 17 (1836), vua cho đạc điền lập địa bạ cả Nam Kỳ lục tỉnh. Địa bạ An
Giang được xác lập ngày 3 tháng 6 năm 1836, ghi nhận lúc bấy giờ có 2 phủ (Tuy Biên, Tân
Thành), 4 huyện (Đông Xuyên, Tây Xuyên, Vĩnh An, Vĩnh Định).
Đến thời Tự Đức (1848 – 1883), sau nhiều lần tách nhập, tỉnh An Giang có ba phủ (Tuy
Biên, Tân Thành và Ba Xuyên), và mười huyện.
Theo Nghị định ngày 05 tháng 01 năm 1876 của Thống đốc Đu-pe (Dupré), Pháp bỏ hệ
thống Nam Kỳ lục tỉnh mà chia thành 4 khu vực: Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long và Bassac, bao
gồm 20 địa hạt. Trong đó, tỉnh An Giang cũ bị chia thành các địa hạt: Châu Đốc, Long Xuyên,
Cần Thơ, Sóc Trăng và Sa Đéc. Năm 1914, Pháp chia Nam Kỳ ra làm 17 tỉnh, An Giang được
chia làm 5 tỉnh nhỏ là Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng và Sa Đéc. Nhưng về
phương diện hành chính, lúc này tỉnh An Giang không còn. Từ 1945 – 1954, thực dân Pháp
chia cả nước ra làm 69 đơn vị hành chính cấp tỉnh, Nam Kì có 21 tỉnh, trong đó, An Giang hiện
nay gồm hai tỉnh Châu Đốc và Long Xuyên.
Đến thời kì Mĩ – Diệm ( 1954 – 1975), tỉnh An Giang được thành lập lại trên cơ sở hai
tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc cũ. Sau đó, chính quyền Sài Gòn lại tách An Giang thành hai
tỉnh Châu Đốc và An Giang, trong đó tỉnh An Giang là phần của tỉnh Long Xuyên (cũ) được
đặt lại. Như vậy, trong giai đoạn này, tỉnh An Giang bị thu hẹp lại.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, theo Quyết định số 19/QĐ của Bộ Chính trị
ngày 20 tháng 12 năm 1975, tỉnh An Giang được lập lại trên cơ sở hai tỉnh Long Xuyên và
Châu Đốc. Như vậy, lúc này, tỉnh An Giang lại được mở rộng gấp đôi so với giai đoạn trước.
Tiểu kết:
Tóm lại, từ lúc An Giang trở thành một trong Nam Kì lục tỉnh (1832) đến nay trải qua
gần 180 năm. Khoảng thời gian ấy cũng khá dài, nên diện tích có nhiều thay đổi theo lịch sử.
Lúc mới thành lập (1832), diện tích rất rộng, bao gồm cả một vùng rộng lớn có cả một số tỉnh,
thành hiện nay; có lúc lại bị chia cắt, thu hẹp, thậm chí tên An Giang không còn (năm 1914).
Nhưng xét một cách tổng quát, dù có trải qua một quá trình thay đổi từ một An Giang rộng lớn
trong Nam Kỳ lục tỉnh được chia cắt thành nhiều tỉnh, thành nhỏ hơn, nhưng địa bàn của tỉnh
An Giang lúc mới thành lập so với hiện nay là vẫn giữ được cái nền cơ bản ban đầu – nằm ở
đầu nguồn của hai con sông Tiền và sông Hậu cùng với hệ thống Thất Sơn hùng vĩ, duy nhất
của đồng bằng sông Cửu Long.
1.1.2 Về địa mạo vùng đất An Giang hiện nay
Giữa thiên nhiên._. với văn hóa dân gian luôn có mối quan hệ. Nói đến mối quan hệ giữa
thiên thiên và văn hóa dân gian là đề cập đến những nhân tố lớn có tầm quan trọng, ảnh hưởng
trực tiếp đến sự hình thành bản sắc văn hóa dân gian người Việt trên vùng đất mới, trong đó có
An Giang. Nhận thức được mối quan hệ này, đề cập đến địa mạo vùng đất An Giang, chúng tôi
cũng hết sức lưu ý vấn đề này.
Xét một cách tổng quát, địa mạo An Giang có 2 dạng chính: đồng bằng và đồi núi.
Nằm trong hệ thống của đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng ở An Giang cũng “thẳng
cánh cò bay”. Theo thống kê, đồng bằng ở An Giang chiếm đến 87% diện tích tự nhiên và là
nơi sinh sống của 89% dân cư toàn tỉnh. Về phân loại, đồng bằng ở An Giang có hai dạng
chính. Đó là đồng bằng phù sa và đồng bằng ven núi. Đồng bằng phù sa của An Giang là một
bộ phận của đồng bằng sông Cửu Long, có nguồn gốc trầm tích lâu đời của phù sa sông Mê
Kông. Dạng này tập trung ở các nơi như An Phú, Phú Tân, Chợ Mới, thị xã Tân Châu, thành
phố Long Xuyên, thị xã Châu Đốc, các huyện Thoại Sơn, Châu Thành, Châu Phú và một phần
hai huyện miền núi Tri Tôn, Tịnh Biên. Còn đồng bằng ven núi, xét về nguồn gốc hình thành,
được phân làm hai kiểu: kiểu sườn tích và kiểu đồng bằng phù sa cổ. Dạng này tập trung quanh
chân các núi Cô Tô, núi Dài, núi Cấm hay ở một số xã của hai huyện Tịnh Biên và Tri Tôn.
Trước hết, nói đến hệ thống đồng bằng ở An Giang là nói đến giá trị lớn trong lĩnh vực
nông nghiệp. Phần lớn, diện tích đất đai vùng đồng bằng ở An Giang được sử dụng vào mục
đích nông nghiệp, mà nhiều nhất là trồng lúa. Nói đến đồng bằng ở An Giang là nói đến cây lúa
và nghề trồng lúa. Cây lúa được người dân trồng nhiều ở các huyện cù lao nằm giữa sông Tiền
và sông Hậu và các huyện trong vùng Tứ giác Long Xuyên. Trước đây, khi mới được khai phá,
đồng bằng ở An Giang là một vùng đất hoang sơ, đầy những cỏ lác, lau, sậy… Căn cứ vào Gia
Định thành thông chí và Địa chí An Giang cho biết, phần lớn lưu dân đến vùng đất mới này
chủ yếu sống bằng nghề nông. Diện tích đất khai thác lớn hay nhỏ tùy thuộc vào khả năng của
mỗi gia đình. Họ tự lựa chọn nơi ở và nơi khai khẩn. Ai muốn ở đâu, khai khẩn ở ruộng gò hay
ruộng thấp ở nơi nào tùy ý. Trong quá trình khai phá đất hoang ở An Giang dưới thời nhà
Nguyễn, lưu dân người Việt đã dử dụng phần lớn diện tích đất khẩn hoang để trồng lúa. Ngoài
ra, họ còn trồng một số hoa màu và cây ăn trái. Theo Trịnh Hoài Đức (Gia Định thành thông
chí), khi mới khẩn hoang trồng lúa, lúa lúc bấy giờ có hai loại: lúa canh và lúa thuật. Lúa canh
là thứ lúa không dẻo, hạt gạo nhỏ, cơm mềm, mùi thơm. Lúa thuật là thứ lúa dẻo, hạt tròn mà
lớn. Lúc bấy giờ, lúa chỉ được trồng một vụ theo hình thức gieo mạ và cấy. Kĩ thuật rất đơn sơ,
lạc hậu.
Cùng với việc đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang của triều Nguyễn, và sau này là thời
Pháp thuộc, những vùng hoang sơ của đồng bằng ở An Giang dần được khai phá, biến thành
những cánh đồng lúa bạt ngàn. Trong thời gian này, tuy có tăng về diện tích, sản lượng, nhưng
số vụ vẫn không tăng. Kĩ thuật canh tác các loại lúa mùa, lúa nổi trong khoảng thời gian này
cũng rất đơn sơ, phần lớn là dựa vào nước mưa, không sử dụng phân bón hóa học. Cho nên,
gặp thiên tai như hạn hán, lũ lụt thì mất mùa, nông dân dễ rơi vào cảnh nghèo đói. Lịch sử còn
ghi lại hạn hán năm 1865 khiến nông dân An Giang phải bỏ nhiều ruộng hoang do các công
trình thủy lợi lúc bấy giờ chưa đủ sức giải quyết nhu cầu nước tưới. Rồi lũ lớn vào các năm
1904, 1923… khiến mùa màng bị thiệt hại nặng nề.
Cây lúa nổi tồn tại trên các cánh đồng của vùng An Giang rất dài. Với điều kiện địa
hình, thổ nhưỡng, thời tiết, thủy văn phức tạp và với kĩ thuật giản đơn, cây lúa nổi không thể
phát triển phù hợp và thiếu ổn định trên vùng đất An Giang. Phải đợi một thời gian khá dài,
nhất là sau 1975, cùng với phong trào thâm canh, chuyển vụ, tăng vụ, diện tích lúa cao sản
ngắn ngày phát triển nhanh chóng. Diện tích trồng lúa nổi thu hẹp dần. Vùng lúa nổi ngày xưa,
giờ đã dày đặc các hệ thống thủy nông các cấp. Nông dân lựa chọn trồng những cây có giá trị
và hiệu quả hơn cây lúa nổi. Cây lúa cao sản ngắn ngày đã ngự trị trên một vùng đất rộng lớn
mà ngày xưa chỉ có cây lúa nổi trị vì.
Bên cạnh cây lúa là cây trồng chính, trên các cánh đồng của vùng An Giang còn trồng
nhiều loại cây màu khác tùy theo sự thích hợp của thổ nhưỡng. Đó là bắp (ngô), thuốc lá, mía,
đậu, dưa, rau cải… Dâu tằm cũng là một nghề có tập quán lâu đời. Cây dâu được trồng nhiều
theo hai bên bờ sông của sông Tiền và sông Hậu và vùng đồi núi. Nhưng, hiện nay, cây dâu
cũng chịu cảnh thăng trầm như nghề tằm tơ. Diện tích trồng dâu vì thế cũng dần bị thu hẹp,
thay thế cho các loại cây khác phù hợp, có giá trị hơn.
Tóm lại, so với cách đây vài trăm năm, đồng bằng ở An Giang có sự thay đổi rất lớn. Từ
những thảm rừng tràm mênh mông với vô số đàn ong xây tổ làm mật hay những cánh đồng lác,
lau, sậy… hoang vu khi xưa, nay đã được khai thác gần hết để trồng lúa và màu, từ một vụ đến
hai, ba vụ mỗi năm.
Thứ hai, nói đến đồng bằng ở An Giang là nói đến một vùng sông nước với hệ thống
sông ngòi, kênh đào chằng chịt bậc nhất của cả nước, với dân cư đông đúc.
Về hệ thống sông ngòi, vùng đồng bằng An Giang có hệ thống hạ lưu của dòng Mê
Kông chảy qua gọi là sông Tiền và sông Hậu. Đây là hai con sông lớn nhất của vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Đoạn chảy qua An Giang, sông Tiền dài hơn 80km, sông Hậu dài khoảng
100km. Bên cạnh những giá trị to lớn về kinh tế, văn hóa, xã hội…, hai con sông này còn gây
ra những khó khăn khác không chỉ riêng cho An Giang mà còn cho cả vùng đồng bằng sông
Cửu Long.
Giá trị lớn nhất mà hai dòng sông này mang lại từ xưa đến nay, đó là thuận lợi cho giao
thông đường thủy, là nguồn cung cấp nước ngọt và phù sa lớn cho toàn vùng. Ngoài ra, với vị
trí thuận lợi là vùng đầu nguồn, sông Tiền và sông Hậu đoạn chảy qua An Giang mang lại
nguồn lợi quan trọng khác mà các nơi khác, vùng hạ lưu, không thể sánh bằng, đó là nguồn lợi
thủy sản. Nguồn lợi thủy sản của An Giang rất phong phú, đa dạng, nhất là vào mùa nước nổi.
Lượng tôm, cá nơi đây rất dồi dào. Trước đây, khi còn là vùng đất hoang, con người chủ yếu
dựa vào đánh bắt trong tự nhiên nhằm phục vụ nhu cầu đời sống hằng ngày. Hình ảnh “trên
cơm, dưới cá” nêu lên sự thuận lợi, hào phóng của vùng đất mà thiên nhiên ban tặng cho những
lưu dân trong buổi đầu khai phá. Ngày nay, lượng cá tôm không còn nhiều, con người chuyển
sang khai thác nguồn lợi từ dòng sông qua việc nuôi trồng thủy sản. Nuôi trồng thủy sản là
nguồn lợi kinh tế quan trọng của An Giang bên cạnh cây lúa.
Cùng với hệ thống sông lớn, đồng bằng ở An Giang còn có một hệ thống sông, rạch tự
nhiên và hệ thống kênh đào do con người thực hiện trong quá trình khai hoang, phục hóa, phát
triển nông nghiệp từ xưa đến nay. Đó là các sông Vàm Nao, Bình Di, Châu Đốc; các rạch tự
nhiên như Mương Khai, Cái Đầm, Cái Tắc, Ông Chưởng, Cái Tàu Thượng, Long Xuyên, Chắc
Cà Đao, Mặc Cần Dưng, Cần Thảo; kênh đào có các kênh nổi tiếng như Thoại Hà, Vĩnh Tế,
Vĩnh An, Trà Sư, Thần Nông, Vàm Xáng,… Giá trị của các kênh rạch ở An Giang cũng gần
như hệ thống sông lớn. Đó là thuận lợi cho việc giao thông, là nguồn cung cấp nước ngọt quan
trọng cho dân cư, đặc biệt nhất là nông nghiệp. Với vùng Tứ giác Long Xuyên, các sông, rạch
tự nhiên, các kênh đào còn giúp tháo chua, rửa phèn, cung cấp nguồn phù sa quan trọng cho
phát triển nông nghiệp, cụ thể là trồng lúa.
Một hình ảnh khác không thể không nhắc đến mang tính chất diện mạo văn hóa, xã hội
khi nói về đồng bằng An Giang gắn với hệ thống sông ngòi, kênh rạch. Đó là khi nói đến hệ
thống sông Tiền, sông Hậu, chúng ta liên tưởng ngay đến những trung tâm kinh tế, văn hóa…
lớn hay những trung tâm dân cư đông đúc nằm dọc hệ thống hai con sông này như thị xã Châu
Đốc thơ mộng tại ngã ba sông của đầu nguồn sông Hậu, phía sau là rặng Thất Sơn hùng vĩ (các
nhà phong thủy gọi là thế tiền tam giang, hậu thất lĩnh); thị xã Tân Châu với nghề truyền thống
dệt lụa nổi tiếng nằm ở đầu nguồn sông Tiền; thành phố Long Xuyên sầm uất nằm bên dòng
sông Hậu; hay các huyện cù lao đông dân cư nằm giữa hai con sông Tiền và sông Hậu như Chợ
Mới, Phú Tân, vùng dân cư đông đúc của huyện Châu Phú, Châu Thành nằm bên bờ sông
Hậu… Ở phạm vi hẹp hơn, đó là hình ảnh dân cư sống tập trung, đông đúc, lâu đời dọc các
kênh rạch tự nhiên như rạch Ông Chưởng, Cái Tàu Thượng, Long Xuyên, Chắc Cà Đao, Mặc
Cần Dưng… Còn các kênh đào, có thể nói, kênh đào đến đâu, dân ở đến đó, tùy theo lịch sử
đào kênh mà dân tập trung nhiều hay ít. Các kênh đào nổi tiếng như Thoại Hà, Vĩnh Tế, Vĩnh
An… là những kênh đào từ thế kỉ XIX nên có đông dân cư sinh sống. Một số kênh mới đào sau
này thì dân cư tập trung ít hay nhiều tùy thuộc vào sự thuận lợi mà kênh đào đó mang lại.
Đặc điểm tập trung dân cư dọc theo các kênh rạch tự nhiên hay kênh đào vùng đồng
bằng của An Giang, cũng như của Nam Bộ, có thể xem là điểm khác biệt trong vấn đề quần cư
với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ngoài chức năng thu hút dân cư, các kênh rạch tự nhiên hay kênh
đào ở An Giang, cũng là của Nam Bộ, còn là ranh giới tự nhiên giữa các làng (ấp), xã, huyện,
thậm chí tỉnh so với hình ảnh lũy tre làng là ranh giới làng, xã… ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Thêm một diện mạo cũng khá quan trọng đang diễn ra trên vùng đồng bằng An Giang
mà từ thế kỉ XX về trước không có. Đó là hình ảnh những cánh đồng lúa hay màu được bảo vệ
bởi hệ thống đê bao khép kín hoàn chỉnh, an toàn thay thế cho những cánh đồng nước mênh
mông mỗi khi nước lũ dâng cao hàng năm. Đây chính là phương thức “sống chung với lũ” mà
vùng đồng bằng An Giang đang thực hiện. Điều này góp phần rất lớn, làm thay đổi diện mạo
vùng đất so với trước đây.
Bên cạnh những thuận lợi, tiềm năng, vùng đồng bằng An Giang còn có những khó
khăn, còn tiềm ẩn nhiều bất lợi. Điển hình nhất là từ hai dòng sông lớn (sông Tiền và sông
Hậu). Hai con sông này đã nhận một lượng lớn nước từ đầu nguồn, gây ra lũ lụt thường xuyên
trên vùng đồng bằng An Giang. Theo thống kê trong Địa chí An Giang, quyển I, trong gần 80
năm qua, từ 1926 đến năm 2000, trên vùng đồng bằng An Giang xảy ra 9 lần lũ lớn, gây thiệt
hại lớn về tài sản, con người. Từ lúc con người đặt chân đến vùng này khai phá đến hết thế kỉ
XX, lũ vẫn là nỗi ám ảnh thường xuyên mỗi khi nước đầu nguồn đổ về hằng năm, thì hiện nay,
tâm lí “sợ không có nước” hay lũ không về lại đang diễn ra. Lí do phần lớn từ thiên nhiên với
sự can thiệp quá đáng của con người từ vùng thượng nguồn. Lũ không về đồng nghĩa với lượng
phù sa không nhiều, nguồn lợi thủy sản ngày càng ít…Tất cả nhà những khó khăn đối với vùng
đồng bằng An Giang, rộng hơn nữa là của toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Tìm hiểu qua các diện mạo cơ bản của vùng đồng bằng ở An Giang, chúng tôi nhận thấy
diện mạo hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt có tác động mạnh mẽ nhất đến sự phát triển
của văn hóa, văn học dân gian An Giang.
Tác động đầu tiên là hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt liên quan đến các thể loại
của văn học dân gian ở An Giang. Với thể loại dân ca, sông nước, kênh rạch vừa là môi trường
diễn xướng vừa là yếu tố tạo ra nhịp điệu, lề lối diễn xướng, nhất là hò diễn xướng. Với truyện
dân gian, nội dung thường hướng đến thiên nhiên nhiều hơn là xã hội. Đặc biệt, các truyện kể
nhằm giải thích tên gọi địa danh thời khai phá có số lượng khá lớn. Cù lao, cánh đồng lúa, hệ
thống thủy lợi, con sông, cây cầu, doi đất… đều là những đối tượng mà tác giả dân gian hướng
tới. Tất cả đi vào nội dung truyện kể một cách hết sức tự nhiên, phù hợp.
Thứ hai, hệ động thực vật phong phú của vùng sông nước, kênh rạch đã là đối tượng của
các sáng tác dân gian. Cá sấu, cá mập của vùng sông nước An Giang cũng đi vào các truyện kể
một cách sinh động, hấp dẫn, minh chứng cho thời kì hoang sơ, đầy nguy hiểm, khó khăn
nhưng cũng hết sức giàu có về hệ động, thực vật của vùng đất…
Yếu tố thời tiết, khí hậu của vùng đồng bằng lắm sông ngòi, kênh rạch cũng có tác động
lớn đến sinh hoạt, văn hóa dân gian nơi đây…Mặt khác, nó cũng là đối tượng được tác giả dân
gian miêu tả trong các truyện kể của mình.
Ngoài đồng bằng, An Giang còn có đời núi. Đồi núi ở An Giang tập trung ở bốn huyện,
thị là Tịnh Biên, Tri Tôn, Thoại Sơn và thị xã Châu Đốc. Đây là nét đặc sắc, nổi bật của An
Giang giữa vùng đồng bằng mênh mông của miền Tây Nam Bộ. Theo thống kê, diện tích đồi
núi ở An Giang chiếm 13% diện tích và 11% dân số. Về núi, theo thống kê, ở An Giang có 37
ngọn lớn nhỏ, cao nhất là núi Cấm (Thiên Cấm Sơn), cao 716m. Tuy nhiên, nói đến núi ở An
Giang thì chúng ta thường nghĩ đến hệ thống Thất Sơn (bảy ngọn núi tiêu biểu) cho toàn vùng.
Đất đai của vùng đồi núi chủ yếu là đất xám, nghèo dinh dưỡng, thoát nước mạnh, dễ bị khô
hạn và xói mòn…
Với diện mạo đặc biệt, vùng đồi núi ở An Giang chứa đựng trong đó bao nhiêu là vấn đề
từ lịch sử, kinh tế, văn hóa…
Trước tiên, đó là vấn đề kinh tế. Cách nay vài trăm năm, hệ thống thực vật, động vật
vùng Thất Sơn hết sức phong phú đa dạng. Thực vật gồm nhiều loại cây quý như: gỗ mật, căm
xe, giáng hương, dầu, sao, tếch… Động vật cũng phong phú đa dạng như cọp, voi, hươu, heo
rừng, nai, trăn, rắn, rùa… Chính sự phong phú của các loài động vật mà nơi đây từng là nỗi ám
ảnh đối với những lưu dân khi đến đây khai phá. Nhiều truyện kể li kì ra đời về việc con người
chống lại các loài thú dữ như cọp, heo rừng… là minh chứng cho điều này. Tuy nhiên, ngày
nay, hệ thống động thực vật bị mai một rất nhiều, một số loài không còn, nhất là các loại động
vật như voi, hổ…
Tuy đất đồi núi ở An Giang không thuận lợi để phát triển nông nghiệp, nhưng lại thích
hợp cho cây ăn trái và cây dược liệu. Cây ăn trái như xoài, mít, chuối, na, dừa, bơ… được trồng
khắp nơi.
Một nguồn lợi khác cũng khá quan trọng từ vùng đồi núi An Giang, đó là nguồn khoáng
sản. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, nguồn tài nguyên khoáng sản từ vùng đồi núi An
Giang là rất phong phú, nhưng sản lượng không nhiều. Đó là vật liệu xây dựng (đá grannit, cát
sỏi…), than bùn, cao lanh…
Nói đến diện mạo đồi núi của An Giang, không thể không nói đến khía cạnh lịch sử. Xa
xưa nhất, đây là vùng sinh sống chủ yếu của người Phù Nam (vùng Thoại Sơn), mà hiện nay,
còn đó vết tích của nền văn hóa Phù Nam rực rỡ được khai quật gần đây. Tiếp theo là đến bộ
phận người Khmer sinh sống chủ yếu quanh vùng Bảy Núi, mà hiện nay, họ vẫn còn đó, tạo
cho nơi đây một nét văn hóa rất riêng. Gần hơn có Nguyễn Ánh (Gia Long) trong quá trình
đánh nhau với Tây Sơn đã không ít lần rút về vùng Thất Sơn lánh nạn để lại nơi đây bao nhiêu
truyền thuyết. Vùng Thất Sơn còn là nơi diễn ra nhiều cuộc chiến quan trọng giữa Việt Nam
với liên quân Xiêm – Chân Lạp được lịch sử ghi lại. Đến khi thực dân Pháp xâm lược, vùng
Thất Sơn lại là nơi để những nhà yêu nước mưu đồ sự nghiệp như Ngô Lợi, Phan Bội Châu,
Phan Phát Sanh, hay đến đây để qui ẩn, bày tỏ thái độ bất hợp tác với giặc như Nguyễn Sinh
Sắc, Trương Gia Mô…
Ngoài ra, vùng Thất Sơn còn được xem là nơi phát tích các tôn giáo bản địa miền Nam.
Những nhà khai sáng đạo thường chọn Thất Sơn làm nơi để tu hành, sau đó khai sáng đạo
pháp. Đó là các nhân vật như Đoàn Minh Huyên, Ngô Lợi, Phạm Thái Chung, Huỳnh Phú
Sổ…Điều gì đã thu hút mọi người đến vùng Thất Sơn để tu hành, giác ngộ? Với địa thế có hai
con sông lớn chảy qua, có dãy Thất Sơn hùng vĩ, An Giang từ xưa đã được các nhà phong thủy
xem là đất có linh khí, là nơi hội tụ, chung đúc khí thiêng của trời đất… Điều này chính là động
lực rất lớn thu hút họ. Phương ngữ Nam Bộ có câu “Tu phật Phú Yên, tu tiên Bảy Núi” cũng là
đúc kết từ hiện tượng này.
Tóm lại, An Giang là vùng đất được cấu tạo bởi một địa hình khá độc đáo: vừa có đồng
bằng rộng lớn, có hai con sông dài chảy qua (sông Tiền và sông Hậu), với nhiều cồn bãi, cù lao
đất đai màu mỡ; có hệ thống kinh đào chằng chịt; vừa có núi (hệ thống Thất Sơn hùng vĩ, duy
nhất ở đồng bằng sông Cửu Long), có rừng ngập nước quanh năm, với hệ sinh vật đa dạng,
phong phú; phía bờ tây sông Hậu là vùng bán sơn địa, “cò bay mỏi cánh” (nằm trong khu tứ
giác Long Xuyên); rồi đường biên giới dài, tiếp giáp với nước bạn Campuchia. Với địa hình
này, có thể nói, An Giang là vùng đất có đầy đủ tiền để để hình thành nên một vùng đất với
diện mạo văn hóa dân gian đa dạng, nhất là văn học dân gian. Riêng vùng bán sơn địa Thất Sơn
đã là nơi thu hút biết bao danh nhân văn hóa, sĩ phu yêu nước, anh hùng hào kiệt và chứa đựng
trong đó biết bao huyền thoại về thiên nhiên, về con người.
1.2 Đặc điểm về dân cư, con người An Giang
Có thể khẳng định, An Giang là một địa bàn dân cư có nhiều tộc người sinh sống. Tiêu
biểu nhất là bốn tộc người: Kinh, Hoa, Khmer, Chăm.
Vấn đề nguồn gốc và phân bố dân cư. Trước hết là cư dân bản địa. Cư dân bản địa của
vùng đất An Giang, rộng hơn nữa là của cả Nam Bộ hiện nay, chính là dân cư của quốc gia Phù
Nam tồn tại và phát triển từ những năm đầu công nguyên đến khoảng thế kỉ thứ VII. Tuy vậy,
hiện nay, di duệ của người Phù Nam không được xác định còn hay đã bị tuyệt diệt theo sự diệt
vong của quốc gia Phù Nam. Địa bàn cư trú chủ yếu của người Phù Nam cổ là các vùng đất
cao, gò đồi của toàn vùng Nam Bộ, trong đó, An Giang là một địa bàn tập trung và quan trọng
nhất.
Một nhóm cư dân khác cũng được xem là cư dân bản địa của vùng đất An Giang hiện
nay là người Khmer. Theo một số tài liệu, thư tịch cổ thì người Khmer đã có một quá trình lịch
sử lâu đời ở vùng đất An Giang, Nam Bộ (khoảng thế kỉ XIII). Họ đã có mặt ở đây sinh sống
và khai khẩn nhiều nơi ngay khi người Việt chưa đặt chân tới. Họ thường cư trú tại những miền
đất cao, chủ yếu chung quanh các dãy núi và tập hợp theo phum, sóc. Do điều kiện lịch sử, dù
có xáo trộn ít nhiều, nhưng căn bản, người Khmer vẫn an cư lạc nghiệp với nơi chốn cũ, gắn bó
với chùa chiền đã được xây dựng từ trước trên địa bàn các huyện Tri Tôn, Tịnh Biên, Châu
Thành, Thoại Sơn. Tuy nhiên, vùng Bảy Núi thuộc hai huyện biên giới Tri Tôn và Tịnh Biên
có mật độ dân số Khmer đông nhất.
Ngoài ra, ở An Giang còn có cư dân di cư. Đầu tiên là cư dân người Việt. Họ di cư từ
miền Trung vào theo hai cách. Một là, họ tự động đi lẻ tẻ, đơn thân độc mã hoặc cả gia đình
bầu đoàn thê tử. Có lẽ, họ là lớp người Việt đầu tiên đến An Giang. Tuy nhiên, họ có mặt ở An
Giang từ lúc nào thì cho đến nay, chưa thấy sử sách ghi chép rõ ràng. Theo truyền thuyết dân
gian và một số vết tích còn lại đến ngày nay thì đã có một số nhóm người Việt gốc miền Trung
vào đây từ rất lâu. Nhưng do điều kiện của vùng đất mới còn nhiều khó khăn, khắc nghiệt, nên
dân cư còn thưa thớt. Nơi họ dừng chân đầu tiên là dọc theo hai bờ sông Tiền và sông Hậu.
Cuối thế kỉ XVII, khi Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược, đã thấy có người Việt sinh sống ở
vùng Bình Mỹ (Châu Phú), Châu Đốc, cù lao Cây Sao (cù lao Ông Chưởng, Chợ Mới). Tương
truyền, khi thuyền quân xuôi dòng Cửu Long (1700), Nguyễn Hữu Cảnh đã ghé lại những nơi
có người Việt ở để hỏi thăm và khích lệ mọi người. Điều này được kể lại trong nhiều truyện
dân gian có liên quan đến Nguyễn Hữu Cảnh.
Cù lao Giêng, cù lao Ông Chưởng (Chợ Mới) là nơi có lưu dân từ rất sớm, đặc biệt là
lưu dân ở cù lao Ông Chưởng. Họ được gọi là dân “hai huyện” (Phước Long và Tân Bình). Họ
được xem là mẫu mực về thuần phong mỹ tục, vẫn giữ được nếp ăn, nếp nghĩ của người Việt.
Từ Chợ Mới đến Cái Hố, theo lòng rạch Ông Chưởng, ta bắt gặp nơi đây có một số gia đình cố
cư, ông bà của họ đến cư ngụ nơi đây từ đời Gia Long, Minh Mạng hoặc lâu hơn nữa. Còn ở cù
lao Giêng, có một địa danh là bến đò Phủ Thờ. Nơi đây có một Phủ Thờ. Phủ Thờ này là của
họ Nguyễn từ Bình Định vào, con cháu ngày nay ở vào đời thứ 10, thứ 11, cư ngụ kề nhau
đông đúc. Truyện kể dân gian An Giang có nhiều truyện về dòng họ này. Có thể nói, đây là một
trong những họ đến lập nghiệp đầu tiên trong vùng.
Một điều đáng lưu ý là, như trên đã đề cập, số người Việt đi vào phương Nam khai
hoang lập nghiệp là đi với cả gia đình cha me, vợ con, chứ không phải đợi khá giả rồi mới trở
về quê cha đất tổ rước cha me, vợ con vào. Họ đã đến đây là không thể về, vì điều kiện xa xôi
(ở tận vùng Ngũ Quảng), và đặc biệt là điều kiện sống ngoài đó quá khắc nghiệt, đói khổ, bị áp
bức bóc lột nặng nề…
Hai là, họ tham gia vào các đợt di dân khẩn hoang do triều Nguyễn đứng ra tổ chức đôn
đốc, khuyến khích và bảo trợ. Các chúa nhà Nguyễn tổ chức di dân vào Nam khá sớm. Trước
tiên là chính sách cưỡng bức di dân của chúa Nguyễn Phúc Tần và chính sách chiêu mộ di dân
của Nguyễn Phúc Chu mở ra từ cuối thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XVIII trên quy mô ngày càng
lớn.
Năm 1802, ngay từ buổi đầu lên ngôi, Gia Long (Nguyễn Ánh) đã chủ trương đẩy mạnh
khai hoang nằm giải quyết các khó khăn về kinh tế - xã hội. Bấy giờ, An Giang thuộc trấn Vĩnh
Thanh, cư dân thưa thớt, đất hoang còn nhiều, nhất là vùng bờ tây sông Hâu, triều Nguyễn đã
dùng các biện pháp khác nhau để khuyến khích người dân khai hoang. Các chỉ dụ khuyến khích
mọi người đi khai hoang với thủ tục dễ dãi như cho tự chọn đất khẩn hoang, cho vay thóc
giống… Còn đối với vùng biên giới, có hai biện pháp: chiêu mộ dân cường tráng, lập thành cơ
đội để phòng thủ trong trấn và xúc tiến việc đào kênh. Trọng trách đó được giao cho công thần
Nguyễn Văn Thoại. Năm 1817, khi làm trấn thủ Vĩnh Thanh, Nguyễn Văn Thoại kiến nghị lên
vua Gia Long việc đào kênh Đông Xuyên, nối vàm rạch Đông Xuyên (tức Long Xuyên ngày
nay) với ngọn Giá Khê (Rạch Giá). Triều đình đã chấp thuận. Sau khi đào kênh xong, triều
đình khuyến khích dân chúng đến khai phá đất đai và lập thôn ấp.
Sau khi đào kênh nối liền Đông Xuyên và Rạch Giá (gọi là kênh Thoại Hà, để ghi nhớ
công lao của Nguyễn Văn Thoại), Nguyễn Văn Thoại xúc tiến đào kênh từ Châu Đốc đến Hà
Tiên. Sau năm năm (1819 – 1824), trải qua nhiều giai đoạn, cuối cùng, con kênh cũng được
hoàn thành. Sau khi kênh hoàn thành, vua Minh Mạng ban lệnh đặt tên là kênh Vĩnh Tế (tên
của phu nhân Nguyễn Văn Thoại là bà Châu Thị Tế). Kênh Vĩnh Tế là công trình thủy lợi có
quy mô lớn nhất ở miền Nam thực hiện đầu thế kỉ XIX. Sau khi kênh Vĩnh Tế hoàn thành,
Nguyễn Văn Thoại cho chiêu mộ dân đến lập ấp, lập được 20 thôn. Cũng trong thời gian này,
Nguyễn Văn Thoại còn cho đắp con lộ từ Châu Đốc vào núi Sam dài 8 dặm. Nhờ con lộ này
mà người Việt đến cư ngụ ở núi Sam ngày càng đông đúc. Tính đến 1819, toàn trấn Gia Định
thành có 97.000 dân đinh, trong đó Vĩnh Thanh có 37.000 người, chiếm hơn 38% dân số Nam
Bộ (Theo Đại Nam thực lục).
Có thể nói, dưới triều Gia Long (1802 – 1819), nhờ chủ trương đào kênh, đắp lộ của
Thoại Ngọc Hầu, nên phần lớn đất cù lao, ven sông Hậu, bờ kênh Thoại Hà, Vĩnh Tế được khai
khẩn. Đất canh tác được mở rộng, dân đinh đông hơn, thôn ấp được thành lập nhiều hơn.
Sang thời Minh Mạng (1820 – 1840), rồi Thiệu Trị (1840 – 1847), nhà Nguyễn tiếp tục
chính sách khai hoang lập ấp. Năm 1821, Nguyễn Văn Thoại chiêu mộ dân địa phương, những
người buôn bán đến Châu Đốc lập làng mở chợ. Dân đinh tăng lên, ruộng đất tiếp tục được mở
mang. Bấy giờ, tình hình biên phòng có biến động, nên triều đình chuyển số dân đồn điền vào
ngạch lính, đồn điền biến thành các phiên hiệu quân đội. Vua Minh Mạng đã khuyến khích dân
đến vùng đất mới để khai hoang bằng cách miễn thuế đinh, thuế điền ba năm. Tuy nhiên, trên
thực tế, số diện tích khai hoang không đáng kể do công việc rất khó khăn, thiếu vốn, công cụ,
thời tiết khí hậu khắc nghiệt…Đây cũng là vấn đề lí giải vì sao số người đến nhiều, nhưng bỏ đi
cũng không ít. Chính vì điều này mà vua Minh Mạng đã gia hạn thuế nhiều lần.
Đến thời Tự Đức (1848 – 1883), do thực trạng trạng đất đai ở An Giang còn bỏ hoang
nhiều như đã nói trên, vua đã ban bố nhiều biện pháp khuyến khích khẩn hoang, tổ chức lại đồn
điền và lập ấp. Đó là năm 1849, vua Tự Đức cử Nguyễn Tri Phương làm Kinh lược sứ Nam kỳ.
Khi làm Tổng đốc An Giang, Nguyễn Tri Phương đã kiến nghị với triều đình Huế cho phép dân
chúng đến An Giang khẩn hoang để sinh kế. Năm 1851, Tự Đức chỉ dụ Nguyễn Tri Phương
đưa tù phạm từ miền Trung vào khai hoang các tỉnh Nam Kỳ. Sau bốn năm thực hiện, số người
đến An Giang không nhiều. Triều đình Nguyễn lại tiếp tục tuyển mộ thêm cư dân từ Bình
Thuận trở ra, đưa họ vào vùng Vĩnh Tế, Tịnh Biên thuộc tỉnh An Giang. Đến 1853, Nguyễn Tri
Phương lập được 124 ấp, trong đó, An Giang có 23 ấp. Từ năm 1855 – 1862, cả nước xảy ra
nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân do chính sách bóc lộ của chính quyền phong kiến. Chiến tranh
liên miên nên dân bỏ ruộng, giá gạo tăng cao, nạn đói xảy ra. Năm 1864, tình hình ở An Giang
ổn định. Năm 1866, Nha đinh điền sứ ở An Giang là Trần Hoàn và Phạm Hữu Chính ghi nhận:
“chiêu mộ được 1.646 người, khai khẩn được 8.333 mẫu, thành lập 149 thôn, ấp…” [24, 122].
Dù đến sớm hay muộn, hiện nay, người Việt có mặt hầu khắp các nơi trên địa bàn An
Giang. Nhưng tập trung nhiều nhất là các huyện cù lao, các huyện, thị, thành dọc sông Hậu.
Tiếp theo, xin nói đến một số đông cư dân tràn xuống từ phương Bắc, đó là người Hoa,
cụ thể là những cư dân miền Nam Trung Hoa. Họ đến Việt Nam trong hai đợt di cư khá lớn.
Đợt đầu là đoàn của Dương Ngạn Địch và Trần Thắng Tài vào cuối thế kỉ XVII (1679). Đợt
này, người Hoa tập trung tại ba địa điểm lớn: Biên Hòa, Gia Định, Mỹ Tho. Đoàn đợt sau là
nhóm Mạc Cửu vào đầu thế kỉ XVIII. Đợt này, họ đến vùng Mang Khảm, sau lập xứ Hà Tiên.
Ngoài hai đợt di dân lớn kể trên, cộng đồng người Hoa từ Trung Quốc vẫn đến Việt Nam trong
nhiều thời gian khác nhau và cư trú khắp nơi. Đặc biệt, tại địa bàn đồng bằng sông Cửu Long,
người Hoa đã định cư ở nhiều tỉnh, trong đó có An Giang.
Người Hoa đến An Giang khá sớm. Ngay cuối thế kỉ XVII, đã có một bộ phận người
Hoa theo Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh đến định cư tại huyện Chợ Mới. Hiện tại, người Hoa
có mặt khắp nơi ở An Giang, nhất là ở trung tâm các thị trấn của huyện, thị. Nhưng tập trung
tại hai điểm lớn là thành phố Long Xuyên và thị xã Châu Đốc. Qua nhiều gia đoạn lịch sử,
người Hoa ở An Giang đã an cư lạc nghiệp, cuộc sống ngày càng sung túc, kinh tế ngày càng
phát triển. Đặc biệt, người Hoa có sự hội nhập vào cộng đồng người Việt từ rất sớm, qua hình
thức sống xen kẽ.
Cuối cùng là người Chăm. Theo các tài liệu lịch sử thì người Chăm ở An Giang là di
duệ của những người Chăm đã rời bỏ quê hương sang Chân Lạp (Campuchia) nhiều đợt
khoảng từ thế kỉ XIX. Xét ở phạm vi rộng hơn, dưới tác động của nhiều nguyên nhân lịch sử,
một bộ phận người Chăm đã chuyển cư về địa bàn các tỉnh Nam Bộ từ khá sớm. Đợt chuyển cư
đầu tiên được biết là vào khoảng giữa thế kỉ XVIII, dưới thời chúa Võ Vương Nguyễn Phúc
Khoát (1738 – 1765) của Đàng Trong. Nguyễn Cư Trinh (1716 – 1767) đã đưa một số người
Chăm từ Chân Lạp về đóng quân ở núi Bà Đen – Tây Ninh (1755). Sau đó, chính quyền
Nguyễn Cư Trinh cũng cho xây đồn, đắp lũy ở Tây Ninh và Hồng Ngự (Đồng Tháp), cho
người Chăm đồn trú. Rồi 1813, Nguyễn Văn Thoại đã tuyển lựa người Chăm và người Bồ Đà
(tên gọi chung cho những người nói tiếng Mã Lai sinh sống ở Chân Lạp lúc bấy giờ) cho làm
lính và khai khẩn đất hoang. Đợt chuyển cư quan trọng nhất của người Chăm và người Mã Lai
về Nam Bộ diễn ra trong các năm 1854, 1858. Họ có khoảng 5.000 người, về định cư trên các
cù lao và hai bên bờ sông Hậu.
Trong số người Chăm về An Giang, có một bộ phận được các tài liệu gọi là Bồ Đà và
người Pháp cho là người Mã Lai. Thật ra, nhóm người được gọi là người Mã Lai vừa đề cập
trên không phải là một nhóm tộc người thuần nhất mà là kết quả của những cuộc hôn nhân giữa
người đàn ông nói tiếng Mã Lai đến Campuchia để làm ăn buôn bán với người phụ nữ Khmer.
Chính vì vậy, người Chăm gọi họ là “Java – Kur”. Từ “Java” để chỉ những người nói tiếng Mã
Lai ở đảo Java (Inđônêsia), từ “Kur” để gọi người Khmer. Di duệ của những người “Java –
Kur” này hiện cư trú tập trung tại xã Châu Giang (Tân Châu), một ít tại xã Khánh Hòa (Châu
Phú).
Khmer rồi Việt, Hoa, Chăm... những tộc người, những nguồn di dân khác nhau đã gặp,
sống chung với nhau và tất cả đã nương tựa vào nhau, chung lưng đấu cật để cải tạo thiên
nhiên, biến những vùng đầm lầy hoang vu nơi đây thành những cánh đồng lúa cò bay thẳng
cánh và phì nhiêu như ngày nay. Có thể xem quá trình “chung lưng đấu cật” của các tộc người
sống trên vùng đất An Giang là một quá trình tôi luyện lâu dài, trải qua nhiều thử thách, từ đó
tạo nên đặc điểm riêng biệt về con người của vùng đất này.
Trước hết, những bậc tiền hiền khai khẩn đã đổ bao nhiêu mồ hôi nước mắt và cả máu
xương trong cuộc đối đầu không cân sức với một thiên nhiên còn thâm u hoang dã. Từ buổi đầu
đến đây khai phá, ông cha ta đã ý thức rất rõ quan hệ đối đầu này.
Bên cạnh đó, thời tiết khí hậu không phải là không khắc nghiệt, lại diễn biến phức tạp,
khó lường. Mọi sự tiên đoán trước theo chu kỳ, kinh nghiệm không phải lúc nào cũng chính
xác và điều đó đã ít nhiều ảnh hưởng đến những thành quả bước đầu còn khiêm tốn của ông
cha.
Vùng đất An Giang, với vùng Tứ giác Long Xuyên ruộng lúa thẳng cánh cò bay và vùng
cù lao nằm giữa hai con sông Tiền và sông Hậu đất đai màu mỡ, thuận tiện cho việc phát triển
nông nghiệp hôm nay thì ngày xưa lại là những vùng đất hoang sơ với cỏ dại mọc đầy, muỗi
mòng, sình lầy… cản trở cho quá trình khai hoang, lập làng, lập ấp.
Quá trình đối đầu với thiên nhiên trong buổi đầu đến vùng đất mới là cơ sở thực tiễn rất
quan trọng để các lưu dân hay các tác giả dân gian kể lại trong các truyện kể dân gian. Các
truyện kể về các loài thú dữ như hổ, rắn khổng lồ, heo rừng, cá sấu, cá mập…hay truyện kể về
việc con người đối dầu với sự khắc nghiệt của thời tiết, khí hậu như hạn hán, thiếu nguồn nước
sinh hoạt, sản xuất… là những truyện kể sôi động, hấp dẫn,._.ọ, bá tánh đến thỉnh thuốc đông đảo, nhưng giờ đó ai cũng im
lặng, để cho Đức Phật Thầy sửa soạn thời cúng. Bỗng từ ngoài sân có tiếng kêu vang:
-Có ông Đạo ở nhà đây không?
Đức Phật Thầy từ trong cốc lên tiếng:
-Có. Ai hỏi có việc chi?
-Có lịnh quan Tổng đốc An Giang đòi, ông Đạo phải sửa soạn đi liền theo chúng tôi
ngay bây giờ đây!
-Mấy ông nán cho tôi cúng ngọ một chút được không?
-Không được, chuyện gấp lắm!
Thế là Đức Phật Thầy không kịp giã từ bổn đạo, theo chân mấy tên lính xuống thuyền
vượt thẳng lên An Giang. Trong bọn này, nghe đâu có Cai Trung và Đội Bồng chỉ huy, nhưng
Cai Trung thì đối xử ôn hòa, lễ độ với Đức Phật Thầy nên không sao, còn Đội Bồng thì xấc
lấc, vô lễ, nên sau đó ít ngày phải á khẩu rồi chết.
Khi giáp mặt quan Tổng đốc An Giang, sau những câu hỏi chận đón để buộc tội Đức
Phật Thầy là gian đạo sĩ, họ bày ra đủ cách để thử thách ngài. Theo như những bài lịch truyền
nói về ngài và nhiều bậc phụ lão thì nào là lót hình Phật Quan Âm dưới chiếu rồi bảo ngài
ngồi lên, trong khi có nhiều tăng sãi khác đã ngồi rồi lên chiếu ấy. Nào là dọn cơm chay để
lẫn cơm mặn rồi bảo ngài ăn v.v… song nhứt nhứt, ngài đều ứng đáp trôi chảy, khám phá ra
được hết.
Có lần người ta thử ngài bằng cách cùng ngồi liều với các vị hòa thượng khác, xem ai có
đủ đức tính nhẫn nại hơn. Ngài bảo rằng ngồi liều bằng ngại diệp không có chi lạ, hãy dùng
chuông nướng đỏ rồi úp lên đầu, như thế mới xem được có kiên tâm hay không. Các hòa
thượng nghe nói thất đảm, song ngài vẫn điềm nhiên, đốt chuông đặt lên mà không hề hấn gì!
Sau khi tìm hết cách thử thách, nhà chức trách tỉnh An Giang đã đem lòng khâm phục
Đức Phật Thầy, nhưng cũng phải tạm lưu giam ngài để đợi lệnh triều đình định đoạt. Trong
lúc lưu giam ấy, ngài muốn ra vào tự ý, đội cai không tài nào ngăn được. Thế nên mấy lúc
sau, người ta cho ngài được ở ngoài tự do, không ràng buộc nữa.
Theo đề nghị của Tổng đốc tỉnh An Giang, Đức Phật Thầy được triều đình chính thức
công nhận, được tự do hành đạo, nhưng buộc ngài phải xuống tóc như hàng tăng sãi tu Phật ở
cửa thiền.
Tương truyền rằng trước khi ngài thế phát, người ta có sắm sẵn cho ngài một cái mặt
kiến, một cây kéo và một cái mâm để tỏ lòng tôn trọng. Khi xuống tóc rồi, Đức Phật Thầy
chia cho các môn nhân đệ tử có tâm chí giữ làm kỉ niệm. Tóc ấy hiện giờ dù trải qua hơn một
trăm năm mươi năm, nhưng vẫn còn nhiều người giữ được.
Sau đó, ngài vào tu ở núi Sam, tại một ngôi chùa sẵn có do phái Lâm Tế lập ra và đã
được triều đình chứng nhận. Tuy tu ở núi Sam, nhưng ngài vẫn vân du đây đó để tùy cơ phổ độ
chúng sanh. Khắp vùng Thất Sơn, không đâu là ngài không bước đến. Thỉnh thoảng ngài đến
những trại ruộng để truyền dạy đạo pháp cho tín đồ. Các ông Cố Quản, Đạo Xuyến, Đạo Lập,
Tăng Chủ, Đình Tây… đều được ngài truyền cho bí pháp. Bởi vậy, về sau, tín đồ của các vị
này phần nhiều cũng được đắc đạo cả.
Ngài thọ được 50 tuổi, tịch tại núi Sam vào giờ Ngọ ngày 12 tháng 8 năm Bính Thìn
(1856), trong lúc không bịnh chi lắm, tinh thần vẫn bình tĩnh, sau khi đã nhắc nhở đạo đức và
dặn dò công việc cho các tín đồ.
(Theo lời kể của ông Phạm Công Thưởng, sinh năm 1929, Thạnh Mỹ Tây, Châu Phú, An
Giang).
19. TRUYỀN THUYẾT VỀ CÁI CHẾT CỦA ĐỨC BỔN SƯ
Tương truyền, Đức Bổn Sư Ngô Lợi đang mạnh giỏi như thường thì bỗng ngày 13 tháng
10, ngài kêu các đệ tử lại mà cho hay rằng ngài sắp diệt độ. Ngài còn dặn hễ khi thấy ngài tắt
thở thì hãy cứ để xác y nguyên như vậy, đừng chôn, lo tu cầu và giữ gìn một thời gian thì ngài
sẽ trở lại.
Thế mà trong hôm ấy, ngài tịch diệt. Tín đồ vâng theo lời dặn, giữ xác ngài và đặt dàn
tụng niệm kinh kệ luôn.
Biết thầy đã liễu ngộ và có hẹn ngài trở lại, thấy anh em đồng đạo ở núi Dài có cái diễm
phúc là được giữ xác của thầy, các ông Trò (các vị đại để tử của Đức Bổn Sư) bèn sắp đặt mưu
lược, đang đêm kéo đến vây núi Dài, áp vào đánh đuổi những người giữ xác Đức Bổn Sư rồi
cõng ngài đem thẳng về núi Tượng.
Tại núi Tượng, các ông Trò lúc đầu giữ gìn phần xác Đức Bổn Sư rất cẩn thận. Họ để
ngài trong mùng nhiễu xanh, đặt phía sau bàn chánh trong chùa, rồi ngày đêm canh gác tụng
niệm không dứt. Song chỉ được vài tháng như vậy, họ bắt đầu chểnh mảng dần, sự gìn giữ
không được kĩ lưỡng nữa. Vì thế mà phần xác thịt của ngài bị chuột vào cắn mất một lóng tay.
Một hôm, các ông Trò xúm vào thăm, thấy thế, họ lấy làm lo sợ có tội lỗi với thầy, nên
bàn nhau đóng một cái rương, xong, họ đặt ngài vào đó.
Sự tranh giành phần xác của Đức Bổn Sư do nhóm tín đồ chia rẽ lâu ngày đã lọt đến tai
quân Pháp ở Tịnh Biên. Họ kéo vào núi Tượng bao vây, quyết tìm cho được Đức Bổn Sư, mặc
dù họ đã biết là ngài đã chết.
Hôm ấy, nhằm lúc chỉ còn một số ít tín đồ ở lại giữ chùa, thình lình nghe có tiếng quân
Pháp đến, họ kinh hãi, không biết làm thế nào để giấu cho kịp xác thầy và trốn tránh như thế
nào. Bỗng từ ngoài, có một mãnh hổ rất to, nhảy vào, hộc lên mấy tiếng vang cả rừng núi rồi
đến dở rương, cõng xác Đức Bổn Sư chạy mất.
Từ đấy về sau, và mãi cho đến ngày nay, không ai có thể nghe thấy được Đức Bổn Sư ở
đâu nữa. Nếu ai có tò mò hỏi thăm đến các ông Gánh (là những người thuộc lớp sau của ông
Trò) về đoạn này thì họ hạ giọng xuống, lắc đầu mà nói rằng:
-Chuyện ấy không thể nói được!
Ngôi mộ hiện nay tại Ba Chúc (Tri Tôn) chỉ là mộ giả. Không ai biết chính xác phần cơ
thể của ngài hiện ở đâu.
(Theo lời kể của ông Bùi Văn Lê, sinh 1940, Tổ 10, khóm Thanh Lương, Thị trấn Ba Chúc, Tri
Tôn, An Giang)
20. TRUYỀN THUYẾT VỀ ĐỨC PHẬT TRÙM
Đức Phật Trùm tên thật là gì, sinh năm nào đến nay vẫn chưa tìm ra được. Quê ngài ở
Lương Phi (nay thuộc Tri Tôn). Ông tự xưng là Trùm của Phật sai xuống cứu đời, nên người ta
gọi ngài là Đức Phật Trùm. Tương truyền, khi trị bệnh, ngài hay dùng đèn sáp để đốt cho bệnh
nhân coi và ngửi mà hết bệnh, nên người ta còn gọi ngài là ông Đạo Đèn. Ngài vốn gốc là
người Cao Miên. Lúc còn là thường dân thì cạo đâu trọc, ăn mặc theo lối Cao Miên, nhưng khi
được “tỏ ngộ” thì để tóc và ăn mặc theo kiểu người Việt.
Tương truyền, khoảng năm Mậu Thìn (1868), quanh vùng Lương Phi, nhân dân bị bệnh
dịch chết vô số kể. Khi ấy ngài cũng mang bệnh rồi chết. Lúc chết về đêm, gia quyến ngài
quyết định hoàn lại đến sáng hôm sau mới đem ra hỏa táng. Không ngờ khi trời rạng đông, ngài
tự nhiên sống lại và đi đứng mạnh giỏi như thường. Nhiều người Cao Miên thấy vậy xúm lại
mừng rỡ hỏi thăm. Ngài không trả lời bằng tiếng Cao Miên mà chỉ nói tiếng Việt. Ngài còn
khuyên vợ con hãy ăn ở, nói năng theo phong tục người Việt. Từ đó, ngài bắt đầu nói giọng
nửa hư nửa thực và trị bệnh. Ban đầu, ngài cứu người bị dịch tả. Khi dịch tả không còn, người
ta đem đến bệnh chi ngài cũng trị được. Tiếng đồn vang dội khắp nơi, thiên hạ đua nhau đem
đến để quy y cầu đạo mỗi ngày một đông, không kể xiết!
Bởi thế nên có bọn người Cao Miên ở Xà Tón (Tri Tôn) đem lòng ganh tị, nhất là họ
thấy ngài thâu nhận nhiều tín đồ người Việt thì lại còn ganh ghét thêm. Một hôm, họ đến báo
cáo với quân Pháp ở Châu Đốc, nói rằng ngài đang hiệp cùng người Việt để mưu cuộc dấy binh
chống Pháp. Sau đó, ngài bị bắt về Châu Đốc và không cần xét hỏi hư thực, người ta đem giam
ngài vào ngục.
Theo lời kể của các bậc cao niên, dù bị giam trong ngục thất, nhưng nhiều người vẫn
thấy ngài dạo chơi như người vô sự nơi phố chợ. Bởi thế, nhà cầm quyền Pháp hết sức nghi
nan. Họ bắt ngài bỏ vào cũi sắt rồi đem liệng xuống sông. Thế mà khi đến bến, ngài vẫn điềm
nhiên ngồi trong cũi hút thuốc như thường.
Khi đó, nhiều tín đồ của ngài giả dạng thương buôn để đến thăm dò tin tức ngài. Họ thấy
thầy bị hành hạ như vậy thì vô cùng đau lòng, nghĩ rằng ngài không thể nào sống sót được.
Nhưng trái lại, một chập sau, họ thấy ngài xả tóc, ung dung đi lại trên đường.
Sau đó, người ta còn thử thách nhiều cách mà ngài không chết. Có lần, người ta đem
ngài bỏ vào vạc dầu sôi. Ngài an nhiên, không chút sợ sệt. Khi đem ra, ngài không hề bị một
vết phỏng nào.
Thấy vậy, người Pháp tuy có mến phục tài năng, nhưng thâm tâm còn lo sợ nếu như thả
ngài đi thì quần chúng càng tin tưởng thêm, mà chính cái tin tưởng ấy sẽ tạo cho ngài một thế
lực mạnh mẽ. Vì thế, họ cho đày ngài ra hải ngoại.
Trong lúc ở hải ngoại, người ta bắt ngài đi làm việc và chăn heo, cũng như những tội
nhân thường phạm khác. Hễ mỗi sáng sớm, mỗi người phải lùa lên núi hai con heo cho ăn, rồi
chiều đến lại lùa về. Khác hơn các tù phạm khác, ngài chỉ kêu hai con heo mà người ta đã cắt
cho ngài lại mà dặn dò chúng đi ăn rồi phải về . Thế là hai con heo làm theo ngài, khỏi phải làm
phiền ngài đi theo giữ như kẻ khác.
Thời gian bị đày, ngài còn bị nhà chức trách cho uống một loại nước cực độc, gây chết
người, nhưng ngài vẫn khỏe mạnh. Thấy ngài hiền lành, không có gì đáng cho là nguy hiểm, họ
bèn tha ngài về xứ.
Sau khi được thả tự do, ngài được người Pháp phát cho một cây súng săn để đi săn chơi.
Song, họ buộc ngài mỗi tuần, cứ đến ngày thứ hai, phải có mặt để trình diện. Tuy làm theo lịnh
người Pháp, nhưng ngài vẫn có thời gian trở lại vùng Lương Phi để cứu độ bệnh nhân và nhắc
nhở mọi người nên thường xuyên lo tu tỉnh. Nơi đây, ngài thường lên núi lấy sáp đem về để trị
bệnh. Người ta không biết sáp ở đâu mà mỗi lần ngài đi lấy là người ta đi theo không thể gánh
về hết được.
Cũng tại vùng Thất Sơn, có một lần ngài sắp đặt một cuộc cúng tế có đông đủ tín đồ.
Người nhà than rằng không thể nào lo được chén bát để dọn ăn cho đủ. Ngài bảo không hề chi.
Trên non không hề thiếu những thứ ấy.
Thế rồi hôm sau, ngài cho ít người môn đệ đem gióng gánh theo chân ngài lên núi để
mượn đồ. Ngài dẫn đến một nơi có hầm sâu, cây cối xung quanh sầm uất, rồi chỉ cho họ lấy, và
dặn muốn lấy bao nhiêu tùy ý, nhưng phải đếm để về sau mà trả lại cho đủ. Khi xong đám, mấy
người tín đồ quảy gánh chén bát lên núi để trả lại chỗ cũ, nhưng có điều rất lạ là họ cố tìm mà
không gặp được chỗ hầm đã lấy, họ đành phải gánh trở về. Sau phải nhờ ngài dẫn đường lên
chỉ chỗ mới trả được.
Cứ nhiều lần như vậy nên trong tín đồ có nhiều người đưa ý kiến chặt cây và cột gút cỏ
lại để làm dấu, rồi đợi khi vắng ngài, họ lén lên tìm coi. Nhưng họ cũng thất vọng vì những dấu
đường họ làm bữa trước không sao kiếm được, mặc dù họ là đám người rất quen thuộc đường
rừng.
Sau một thời gian truyền đạo, ngài tịch diệt ngày 21 tháng 11 năm Ất Hợi (1875). Xung
quanh cái chết của ngài, xảy ra rất nhiều hiện tượng rất lạ.
Một hôm trước ngày tịch diệt, ngài cho vợ, con và tín đồ biết rằng ngài sẽ về cõi Phật.
Thế là ngài bỏ nhà lên núi mà không trở về.
Sau mấy hôm quá ngày trình diện mà không thấy ngài đến, quân Pháp cho lính vào tận
sóc ở Lương Phi tìm kiếm. Sau khi nghe nói ngài đã tịch diệt rồi thì họ nhất định cho là nói đối,
bèn bắt hết cả vợ con của ngài về Châu Đốc, buộc phải có mặt ngài thì họ mới thả vợ con ngài
ra.
Trước tình trạng rắc rối như vậy nên có người tín đồ trung thành của ngài tên là ông
Việm, hết lòng nguyện vái rồi lặn lội lên vùng Thất Sơn để tìm ngài mà cầu xin giải cứu.
Sau mấy hôm tìm kiếm hết sức vất vả, ông Việm mới gặp được ngài đang ngồi torng
một hang đá, cùng nói chuyện với những bậc “dị nhân”. Thấy ông Việm, chưa đợi ông này
trình bày tường tận, ngài tự nhiên đã hiểu rồi. Ngài bảo ông Việm hãy về trước rồi ngài sẽ theo
sau, và dặn rằng ngài chỉ rán độ cho phen này, sau thì tự liệu lấy.
Khi đến nhà, ngài bảo tín đồ đóng cho một cái hòm, rồi tự mình trải vào một cái khăn
bằng vải rất rộng. Xong ngài nằm vào trong đó, sai người đậy nắp lại cẩn thận rồi đi báo cho
Pháp hay. Được tin đã kiếm đước xác ngài, quân Pháp kéo vào xem xét, thì quả nhiên như thế.
Nhưng họ chưa tin rằng chết thiệt, bảo cứ để đó, hễ vài ba ngày thì họ vào một lần để khám
nghiệm. Sau hki đã khám nghiệm đủ cách mà không thấy ngài còn chút gì là người sống, mặc
dù xác ngài vẫn không hôi thối, nhà cầm quyền Pháp thả hết vợ con ngài ra rồi hạ lệnh đem
chôn ngài trước mặt cho họ trông thấy.
Từ ấy về sau, ngài không trở về nhà nữa. Nhưng thỉnh thoảng, ngài có cho người ta xem
thấy ngài còn lảng vảng trong vùng Thất Sơn.
(Theo lời kể của ông Phạm Công Thưởng, sinh năm 1929, Thạnh Mỹ Tây, Châu Phú, An
Giang).
21. TRUYỀN THUYẾT VỀ NGUYỄN TỘC
Phủ thờ Nguyễn Tộc
Thuở trước, ở Cù Lao Giêng có bốn anh em là Nguyễn Văn Thư, Nguyễn Văn Kinh,
Nguyễn Văn Diện và Nguyễn Văn Thập là con của cụ ông Nguyễn Văn Núi và cụ bà Lê Thị
Nhạc người từ Bình Định vào miền Nam sinh sống. Tuy hoang sơ, nhưng trên đất cù lao này
hẳn cũng đã có dăm ba căn chòi, nhưng họ chưa liên lạc được nhau. Mãi đến ngày nọ, có một
người đàn ông khoảng ngoài bốn mươi, đi ngang, ghé nghỉ chân. Qua trò chuyện và nhìn tướng
tinh từng người trong gia đình, thầm cảm phục, bèn ngỏ ý xin ở trọ lại. Song thân ông Thư rất
mừng vì từ nay có thêm một người bạn trẻ, vui cửa vui nhà. Đó cũng chính là tình thương yêu
thiêng liêng, sẵn sàng mở lòng đùm bọc của những người xa xứ. Không ai biết người ấy tên họ
là gì, chỉ biết đó là người từ Huế vào, gọi thầy Huế. Bởi thầy xem diện mạo những người con
trong nhà, tất cả đều lộ trổ vẻ trung cang nghĩa khí, nhưng về nghiệp võ, theo thầy, thì hãy còn
non kém, chưa đủ sức hộ thân, giúp đời, nên thầy xin ở trọ với thầm ý là dạy võ cho các ông
ấy. Trong những người này thầy đặc biệt chú ý đến người anh thứ hai, vạm vỡ và nhanh nhẹn,
vui tính lại gan lì, đặc biệt là có tia nhìn rất sắc, lộ rõ tính anh hùng, lại có nhiều nét khác
thường.
Tuy có thầm ý ấy nhưng thầy không vội nói ra, mãi đến một hôm đi rừng, thầy Huế một
mình giết được cọp lớn vác về, những người con trong nhà mới biết thầy có võ nghệ cao cường
xin được học, thầy mới nhận. Nhưng trước hết muốn học võ phải qua ít nhất một lần thử thách.
Thầy dẫn bốn anh em ra cái hầm sau chòi, tuy không sâu lắm nhưng khá rộng, khoảng hơn 8
thước, cho xốc tre vạt nhọn chơm chởm như chông ở đáy hầm, đoạn bảo các ông, người nào
nhảy được qua bên kia bờ hầm, thầy sẽ dạy võ nghệ cho. Các ông Kinh, Diện và Thập cả sợ,
duy ông Thư khứng chịu.
Thầy Huế mừng thầm về tính can đảm của ông Thư, mặc dù biết chắc ông không thể nào
nhảy qua tới bờ bên kia. Thế là ông Thư thi hành cuộc thử thách. Ông lùi xa, lấy hết sức bình
sinh lao tới, bay qua, hết đà, sắp rơi xuống chông, tức thì như tia chớp, thầy Huế đã nhanh chân
phóng theo cặp nách ông Thư, mang sang bờ bên kia an toàn trước sự kinh ngạc của mọi người.
Ông Thư và các em sụp lạy.
(Theo lời kể của ông Nguyễn Hữu Hiệp – Ấp Trung, thị trấn Phú Mỹ, Phú Tân, An Giang).
22. TRUYỀN THUYẾT VỀ ÔNG ĐẠO LẬP
Ông Đạo Lập có tên thật là Phạm Thái Chung, Pháp danh Sùng Đức Võ. Danh từ Ông
Đạo Lập mà người ta quen gọi là do ông đứng ra thành lập một ngôi chùa mang tên Bồng Lai
tại Bài Bài thuộc Nhơn Hưng (Tịnh Biên).
Sinh quán của ông Đạo Lập tại xã Đa Phước (An Phú). Khi Đức Phật Thầy Tây An bị
nhà đương cuộc mời về tỉnh, ông đạo Lập đã tìm đến thăm viếng và sau đó qui y với Đức Phật
thầy.
Trong số các đệ tử của Đức Phật thầy thì ông Đạo Lập là một danh nhân quan trọng, có
tài ba, huyền thuật kì dị. Ông có thể đi mây, về gió, làm lắm điều khác lạ với thế nhân mà ở
quanh vùng Thất Sơn không mấy ai mà không biết danh.
Bóng dáng của ông từ Hà Tiên đến Châu Đốc, từ núi Tà-Lơn đến miền Đồng Tháp,
thoắt đó, thoắt đây, thường xuyên có mặt có mặt khắp nơi.
Tương truyền, đi trên bộ, ông đội nón to vành, phất phơ đôi tay áo rộng. Đi qua sông,
ông thả nón làm thuyền, lấy gậy làm chèo hoặc xăn tay áo mà bơi qua.
Phật pháp của ông cũng cao thâm. Tín đồ của ông đông đảo. Tất cả giáo điều tu nhân,
học Phật mà ông lãnh giáo được nơi người Phật Thầy, ông đều đem đi hoằng dương khắp nơi.
Trong những lúc vân du hóa chúng, truyền rằng có không biết bao nhiêu huyền sử kinh dị bao
trùm chung quanh ông.
1.Theo lời kể của các đệ tử ông đạo Lập hay các bậc cao niên, trong lúc vân du, ông Đạo
Lập thường dẫn theo một người đễ tử tên Huỳnh Văn Thiện. Mỗi lần lên núi, ông kiếm chỗ cho
đệ tử tạm ngụ rồi tự mình tìm chỗ u tịch ngồi thiền hoặc luyện phép. Trong lúc ông ngồi thiền
hoặc luyện phép, ông không cho đệ tử xem. Có một đệ tử tên Trương Hồ Ngạc, do có tính hiếu
kì, nên một lần lén thầy rình xem thầy làm gì nơi thanh vắng. Ông Ngạc đã trông thấy thầy làm
một chiếc tàu nhỏ thả trên mặt nước rồi niệm chú. Chiếc tàu ấy chạy tới chạy lui theo ý muốn
của ông Đạo Lập.
Biết được cách đó và học lén được những câu thần chú của thầy, ông Ngạc mới bắt
chước làm theo. Kết quả, ông đã thành công. Nhưng liền sau đó, ông Ngạc ngã lăn ra chết. Ông
Huỳnh Văn Thiện được chứng kiến cảnh ấy, đau khổ vô cùng vì lúc ấy vắng thầy. Ông phải
ngồi thâu canh bên xác ông Ngạc để chờ thầy về liệu tính xem sao.
Sáng ra, ông Đạo Lập về, một tay xách gói và một tay xách chiếc đệm bàng. Ông Đạo
Lập không chờ ông Thiện trình bày tự sự, đã nói trước ngay:
-Thì ta đã lo sẵn đồ vật để đem về đây chôn nó!
Những câu chuyện như thế được truyền ra, danh của ông Đạo Lập ngày càng lớn. Người
ta đến nhờ ông Đạo Lập cứu bệnh và quy y theo ông càng lúc càng đông. Cho nên, để có chỗ
nơi an trụ và quy ngưỡng, các đệ tử của ông đã bàn nhau dựng nên một ngôi chùa. Người ta
đến làm công quả thật đông. Ngày khánh thành, ghe xuồng đậu chật cả một khúc sông trên
kênh Vĩnh Tế.
2.Vì thích sống giang hồ, nên ông Đạo Lập thường không ở nơi nào lâu. Khi đi đâu, ông
thường hay quá giang trên các ghe buôn cho đỡ chân. Một lần, ông Đạo Lập quá giang trên một
ghe bán mía. Ngồi buồn trên ghe, ông lấy dao ra róc mía thì gặp phải cây dao cùn quá, róc
không sạch vỏ mía. Ông liền vứt cây dao xuống sông và phàn nàn:
-Dao cùn thế này không bỏ còn để làm gì?
Người chủ nghe thấy thế không được bằng lòng nhưng làm thinh không nói.
Sáng hôm sau, ghe đến một chợ nhỏ. Bạn ghe lên bờ đi chợ mua một rỗ cá. Bấy giờ chủ
ghe mới có dịp lên tiếng hờn mát:
-Mua cá làm gì? Có dao rựa đâu mà làm!
Bấy giờ ông Đạo Lập ngồi trong khoang ghe lên tiếng:
-Liệng xuống hôm qua chỗ nào thì hãy lặn xuống chỗ đó mà mò lên. Đã mất mát đi đâu!
Nói rồi ông bước ra, chỉ mặt nước, chỗ cách mũi ghe một sải, bảo người bạn ghe lặn
xuống đó mà lấy dao lên. Quả nhiên cây dao yếm mà ông Đạo Lập liệng xuống nước bữa trước
được lấy lại. Có một điều lưu ý rằng chiếc ghe mía mà ông Đạo Lập quá giang, từ chỗ liệng
dao đến chỗ mò dao cách nhau một ngày rưỡi đường. Thế mà cứ theo chỗ đánh dấu của ông thì
lại tìm được một cách dễ dàng. Càng lạ hơn, cây dao cùn lúc trước, khi mò lên lại sáng trưng,
bén ngót như có ai mài sẵn.
3.Trong buổi đầu thuộc Pháp, không rõ ông Đạo Lập góp tay vào các nghĩa đảng chống
Pháp như thế nào, mà thực dân Pháp thường theo dõi và tìm cách bắt ông. Trong các đệ tử của
Đức Phật Thầy Tây An, ngoài Cố Quản Trần Văn Thành, chắc chắn có ông Đạo Lập đứng ra
hoạt động cứu quốc.
Một lần ông Đạo Lập đến Hà Tiên, vào thăm nhà quen thì cũng đúng là khi thực dân dò
ra tung tích ông nên tìm đến vây bắt.
Ông Đạo Lập đang ngồi uống trà tại một vườn cam với chủ nhân, chợt nghe có tiếng
động, ông liền đứng lên cắp nón, cầm gậy, xô cửa nhà kho, bước vào rồi bảo chủ nhân khóa lại.
Chủ nhân trở vào nhà trên thì một bọn người Pháp đang lục soát tìm ông Đạo Lập. Sau khi tìm
khắp nơi, họ bắt phải cửa nhà kho cho xem. Và kết quả là ông Đạo Lập đã đi đâu mất, không ai
trông thấy bóng dáng gì.
Khi về già, ông Đạo Lập về Bài Bài cư ngụ và tịch diệt tại đây. Bài vị không ghi rõ ông
mất năm nào. Chỉ biết được ngày 29 tháng 9 hằng năm là ngày cúng vía của ông. Mộ ông được
chôn cất tại Vĩnh Ngươn (Châu Đốc), cũng theo cách thức của Đức Phật Thầy Tây An, không
có đắp nấm.
(Theo lời kể của ông Phạm Công Thưởng, sinh năm 1929, Thạnh Mỹ Tây, Châu Phú, An
Giang).
23. TRUYỀN THUYẾT VỀ ÔNG ĐẠO NGOẠN
Ông đạo Ngoạn (1820 – 1890) tên thật là Đặng Văn Ngoạn. Sinh quán tại làng Nhị Mỹ,
quận Cao Lãnh, tỉnh Định Tường (nay thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Tương truyền,
ông là một trong “thập nhị hiền thủ” của Đức Phật Thầy Tây An.
Ông có ba người vợ nhưng chỉ có một người con trai duy nhất là ông Đặng Công Hứa.
Năm 20 tuổi, ông Ngoạn, sau khi đã cần mẫn làm ăn lập được một khoảnh ruộng vườn khả dĩ
nuôi sống gia đình, ông xin phép mẹ cho thong thả tìm nơi tu tâm dưỡng tính vì ông thấy “lòng
bồ đề của mình đã bắt đầu nảy nở”. Mẹ ông đồng ý . Thế là ông chọn nơi thanh vắng để tịnh
niệm.
Trong thân tộc của ông có người ghét bỏ, đã đến cáo với làng nước rằng ông đang âm
mưu làm chuyện bất lương chứ không phải thực tâm tu tỉnh. Làng bắt ông ra nhà việc để tra
hỏi. Anh trai ông cũng bị bắt vì đến làng phản đối việc bắt ông. Nhờ có người bà con với ông
có thế lực đang làm chức việc làng đến can thiệp nên ông và người anh của ông được tha. Từ
đó, ông Ngoạn buồn lòng, lập chí về non tu tỉnh để tránh cuộc đời đua mị đê hèn của thế nhân
chen lấn.
Tháng chạp năm Canh Tuất (1850), khi biết tin Đức Phật Thầy Tây An được phép nhà
cầm quyền An Giang cho vào núi Sam truyền đạo, ông Ngoạn liền từ giã mẹ, tìm đến tận nơi
để xin quy y. Với bẩm chất từ lương điềm đạm, mới đầu ông được Đức Phật Thầy Tây An ủy
cho vào núi Voi hiệp cùng ông Bùi Văn Thân, tức Tăng Chủ Bùi Thiền sư mở ruộng lập nhà,
chùa. Hơn một năm sau, ông được Đức Phật thầy đòi về núi Sam hiệp cùng ông đạo Thạch để
giúp ngài trong việc phát phù trị bệnh và coi sóc chùa Tây An.
Trong thời gian ở chùa Tây An, ông được Đức Phật Thầy Tây An tin yêu. Đến những
chuyện truyền đạo và ngoại giao với các bậc nho giả bốn phương. Nhiều khi, Đức Phật Thầy
còn giao phó cho ông được định liệu nhiều công việc quan trọng.
Sau bốn năm theo hầu hạ Đức Phật Thầy Tây An, bỗng một hôm, Đức Phật Thầy cho
mời ông lại và bảo ông hãy về Trà Bông (quê ông) để nuôi dưỡng mẹ già và tìm người se
duyên kết tóc để sinh con nối dõi vì nợ trần ông chưa dứt. Tuân lệnh thầy, ông về quê. Khi đó
có một người cũng là tín đồ của Đức Phật Thầy Tây An tên là Thị Nhị, bấy lâu lo việc nấu
nướng, khi nghe tin như thế về ông Ngoạn liền xin với thầy nguyện “nâng khăn sửa túi” cho
ông Ngoạn. Đức Phật Thầy Tây An để tùy ý cho đệ tử quyết định và cho biết sau này ông
Ngoạn phải chịu nghèo nàn đến nỗi vận khố, đi giữa chợ đông, khốn cùng đến đỗi phải trèo
non lội suối để trốn tránh, cho đến năm 60 tuổi mới được thảnh thơi nhàn hạ.
Ngày rằm tháng 7 năm Giáp Dần (1854), ông Ngoạn cùng vợ rời núi Sam, về Trà Bông
viếng mẹ rồi lập một ngôi chùa tại vàm. Từ đó, ông chuyên lo chữa bệnh và phổ thông đạo
pháp.
Với phương tiện tại gia cư sĩ và học phật tu nhân, ông Ngoạn đã thu phục được hàng
ngàn tín đồ. Vì thế, Thị Nhị sinh lòng lợi dụng thâu nạp của tiền, thực vật, chứa đựng đầy
rương, dầy lẫm. Mặc dù ông Ngoạn đã hết lời giảng giải cấm ngăn, nhưng vợ ông vẫn làm tiền
không kiêng cữ chi hết.
Một ngày kia, chùa bỗng dưng phát hỏa, cháy sạch của tiền mà bấy lâu nay Thị Nhị bấy
lâu dành trữ. Kế tiếp, nạn binh lửa do Pháp vào chiếm đóng Nam Kì tràn lan khắp nơi, ông
Ngoạn cũng như muôn ngàn người khác, phải đem gia đình truân chuyên lánh nạn.
Năm 1867, quân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kì, ông Ngoạn trở về dựng lại chùa
xưa, bổn đạo qui tụ rất đông, sự chữa trị của ông càng lúc càng linh nghiệm hơn trước nữa.
Phen này Thị Nhị thâu tóm của tiền đem về gửi cho quyến thuộc, lại còn sanh tâm chống đối
ông Ngoạn mọi điều… Tín đồ của ông Ngoạn thấy vậy không dằn được lòng căm tức, yêu cầu
ông cản ngăn. Thị Nhị thấy thế lại càng kiếm chuyện hành hung, buộc ông Ngoạn phải giao hết
chùa chiền, giao hết quần áo đang mặc trong mình chớ không được chừa lại một món chi cả.
Nhị viện lí do là nhờ công mình chắc mót.
Ông Ngoạn chỉ còn tay không với một cái quần đùi, để mặc cho Thị Nhị dở chùa chở đi
nơi khác, ông chẳng hề hở môi phàn nàn than trách. Tín đồ của ông rất đổi thương tâm, xúm
nhau kẻ giúp lá người cho cây và ra công cất lại cho ông ngôi chùa khác.
Nhưng oan vẫn chưa thôi, Thị Nhị, sau khi dở chùa về cất gần đó – Tha La, lại đến bắt
ông về ở. Túng quá, ông Ngoạn chẳng biết làm sao với người ngoan phụ, chẳng lẽ mình tu
hành mà mãi bị rầy rà, ông liền ẩn lánh lên miền Thất Sơn, với ý định mong Thị Nhị quên ông
hay có chồng khác đi cho ông khỏi bận. Nhưng ít sau đó, Thị Nhị dò biết được tin, bèn gom
góp của tiền, lên núi Két là chỗ địa đầu của Thất Sơn, cất am ở đó để chận đón ông Ngoạn.
Biết là chuyện không hiền, ông Ngoạn sau khi chu du khắp nơi, kết bạn với ông Tường
(không rõ gốc tích), rồi rủ ông sang núi Tà - Lơn tìm nơi tĩnh dưỡng. Trong khoảng thời gian ở
Tà – Lơn, ông luyện được rất nhiều phép thuật. Có bận, ông bảo ông Tường đem rổ của ông đã
đan được trên non xuống sóc thổ để đổi gạo về ăn. Ông Tường sợ lạc đường, lại sợ thú dữ nên
từ chối không đi. Ông bảo ông Tường cứ đi, ông sẽ cho hùm thiêng dẫn lối. Ông Tường đánh
bạo đi ra. Quả thật, có cọp đi trước kêu chừng và giữ gìn cho ông Tường một cách cẩn thận.
Ở Tà-Lơn một độ, ngày kia ông Ngoạn rơi lụy mà bảo ông Tường rằng chư thần cho ông
hay hiện mẹ ông ở nhà đang đau nặng, đang nguyện vái và mong mỏi ông về. Ông Tường bán
tín bán nghi, nhưng cũng theo ông Ngoạn về Trà Bông thì quả thật, thân mẫu của ông Ngoạn
đang đau nặng, còn trầm kha trên giường bệnh.
Lo thuốc thang cho mẹ vừa mạnh, ông Ngoạn lại phải nghĩ đến việc mưu sinh, vì lúc
này, đúng y như lời Phật Thầy mách bảo trước đó, ông Ngoạn thật nghèo nàn vất vả, chỉ còn
cái khố rách che thân mà thôi. Ông phải lên núi Kéc hái thuốc, nấu thuốc cao, thuốc dán để đổi
kiếm chút tiền nuôi mẹ. Lúc này, Thị Nhị đã trở về Trà Bông, nên ông không còn lo sự trở
ngại, lôi thôi ở núi Kéc nữa. Tương truyền, cũng trong thời gian này, ông Ngoạn cùng Bùi Văn
Thân và một số người khác chấn chỉnh lại chùa chiền trong làng Hưng Thới – Thới Sơn (Tịnh
Biên).
Rời Thới Sơn, ông Ngoạn trở về Trà Bông viếng mẹ. Mẹ ông bảo ông nên lập gia đình
vì tuổi ông đã lớn, nếu lỡ sau này mẹ ông mất đi thì không vui lòng nhắm mắt khi nghĩ đến ông
còn lao đao, khổ cực. Vâng lời mẹ, ông Ngoạn xuống Mỹ Long (nay cũng thuộc Cao Lãnh –
Đồng Tháp) cưới vợ. Người ấy tên là Thị Thu, tính nết hiền hòa, tư dung xinh đẹp. Không bao
lâu, bà đã lo làm lụng có một số vốn và mua muối đổi được một số lúa khá nhiều. Bà định giúp
ông Ngoạn dựng lại chùa chiền, chấn hưng đạo đức.
Nhưng Thị Nhị với lòng dạ sâu độc, đem ghe từ Tha La xuống Cái Sao Hạ (Mỹ Long)
vào nhà chở hết lúa, muối mà bà Thu đã dày công dành dụm. Thấy việc quá bất công, Hương
chủ Sắc là người có thế lực trong vùng, đến cản ngăn và không cho chở lúa. Ông Ngoạn thấy
vậy can ông chủ Sắc và tự nhận là nghiệp quả của ông, vì theo lời tiên tri của Đức Phật thầy,
đến năm 60 tuổi sắp lên ông mới được thong dong. Ông chủ Sắc không biết tính sao, vì không
có nguyên cáo, ông đành để cho Thị Nhị tự ý tung hoành.
Nhưng trời vẫn còn thương người hiền, bà Thu lại ra sức làm lụng nuôi mẹ, giúp chồng,
ít lâu tiền bạc có dư, bà theo ông Ngoạn về Trà Bông cất lại ngôi chùa ngay nền ngày trước mà
ông Ngoạn vì lánh Thị Nhị đã bỏ hư.
Bổn đạo nghe tiếng trở về thăn viếng và nghe thuyết pháp rất đông. Nhưng công cuộc
phổ truyền đạo đức đang tiến hành hiệu quả thì bỗng bà Thu mang bệnh ngặt mà qua đời. Ông
Ngoạn lại phải một phen bận lòng lo lắng. Ông giao hết của cải của bà Thu cho hai người cháu
rồi đóng cửa mà chuyên lo kinh kệ. Năm ấy, ông ngoài năm mươi tuổi.
Năm Giáp Tuất (1874), bệnh thời khí hoành hành nhiều nơi làm cho nhân dân lo sợ,
không làm ăn được. Hương chức làng Nhị Mỹ thấy thế hội nhau bàn tính, rồi kéo đến chùa Trà
Bông thỉnh cầu ông Ngoạn chữa trị.
Với sẵn lòng đạo đức, lại tài giỏi về cứu chữa bệnh này từ khi còn gần gũi bên Đức Phật
Thầy, nên ông Ngoạn đem hết tài năng thi thố. Kết quả là trị được nhiều người khỏi bệnh.
Tiếng lành đồn xa, nhiều người từ khắp nơi kéo đến đông đảo, tấp nập. Sự đông đúc đó làm
cho quân Pháp ở Định Tường kinh sợ. Họ xuống lệnh cho nhà chức trách ở Sa Đéc quan sát coi
nếu thật là gian đạo sĩ hội dân làm loạn thì cấp tốc bắt ngay. Nhưng lúc này giới cầm quyền ở
đây phần nhiều đều cảm phục uy đức của ông Ngoạn, nên họ mật bàn với nhau, thỉnh sắc thần
đem về để sau hậu tổ chùa Trà Bông rồi báo về tỉnh đường rằng sự tụ hội đông đảo là để cầu an
bá tánh và cúng thần chứ không có chi lạ. Nhờ vậy mà từ ấy sự lui tới của bá tánh mới yên.
Từ khi bà Thu mất đi, ông Ngoạn không hề nghĩ đến chuyện tục huyền nữa. Nhưng mẹ
ông không nghe, thường dạy ông lấy vợ để sinh con nối hậu.
Nhớ lời thầy xưa và tuân theo lệnh mẹ, ông Ngoạn cưới bà Nguyễn Thị Huệ ở rạch Cái
Vừng (thuộc làng Nhị Mỹ) về coi sóc trong ngoài và sớm hôm dưỡng nuôi từ mẫu. Bà này đức
độ thanh cao, làm ăn giỏi giắn. Trong việc giúp đỡ bệnh nhân và tiếp đãi tín đồ của ông Ngoạn
sau này, một phần lớn nhờ ở bàn tay của bà giúp sức.
Theo lời kể của người nhà, năm ông Ngoạn 60 tuổi, tức năm Canh Thìn (1880), ông nằm
mộng thấy có Khổng tước bay đỗ vào lòng. Rồi trong năm ấy, bà Huệ thụ thai và sanh hạ một
trai. Nhân thấy điềm ứng chim công, ông Ngoạn theo đó mà đặt tên con là Đặng Công Hứa.
Cuộc đời sóng gió của ông Ngoạn trước kia từ nay không còn có nữa. Ông sớm chiều thong thả
giảng đạo xem kinh, tịnh niệm và tu bồi công đức.
Tết năm Canh Dần (1890), giữa lúc có tín đồ tựu về lễ Phật đông đủ, ông Ngoạn vui vẻ
nói”
-Trong năm nay, chúng đệ tử sẽ không còn gặp mặt ta nữa. Vậy mỗi người cứ trì tâm
đạo tác, phước điền, chớ đừng vì không ai nhắc nhở mà mà xao lãng bổn phận.
Tín đồ nghe nói biết đó là lời trối nên đau đớn bịn rịn chẳng chị ra về. Ông phải đem đạo
lí ra giảng, họ mới chịu về.
Ngày 19 tháng 02 năm ấy, ông tắm gội sạch sẽ rồi ngồi niệm Phật mà tịch diệt, thọ được
70 tuổi. Tín đồ xúm nhau chôn cất và thương xót vô cùng, có người ở lại Trà Bông đến ba năm
để săn sóc và bồi đắp xung quanh nắm xương tàn của người liễu ngộ cho thỏa lòng luyến tiếc.
(Theo lời kể của ông Phạm Công Thưởng, sinh năm 1929, Thạnh Mỹ Tây, Châu Phú, An
Giang).
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5870.pdf