Lời mở đầu
Trong sự phát triển của nhân loại, từ nền văn minh nông nghiệp đến văn minh công nghiệp và vươn tới nền văn minh trí tuệ, lịch sử đã cho thấy bao biến động diễn ra trong sự phát triển kinh tế của thế giới, cũng như sự phát triển thăng trầm của từng quốc gia. Đặc biệt trong mấy thập kỷ gần đây những biến cố trong đời sông nhân loại càng thu hút nhiều người Việt Nam quan tâm hơn đến những vấn đề kinh tế đã và đang diễn ra. Trước những biến động và những thay đổi kỳ diệu trong đời sống
9 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1468 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Trong điều kiện hiện nay của nước ta, muốn tăng thu nhập quốc dân phải làm gì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhân loại, người Việt Nam nhìn ra nước ngoài càng suy ngẫm về con đường phát triển kinh tế của đất nước về sự tăng trưởng bền vững và khả năng thu hẹp khoảng cách của nước ta với nhiều nước phát triển, về hội nhập quốc tế...
Với đề tài "Trong điều kiện hiện nay của nước ta, muốn tăng thu nhập quốc dân phải làm gì"? Sẽ cho chúng ta thấy sự thay đổi dần của Việt nam trên con đường xây dựng nền kinh tế.
Em xin chân thành cảm ơn cô Đỗ Bội Toàn đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Tuy nhiên với những hạn chế về trình độ cũng như kiến thức thực tiễn nên trong bài viết không tránh khỏi những thiếu sót về nội dung và trình bày nên em kính mong được sự bỏ qua của các thầy các cô đồng thời có được sự góp ý của thầy cô cho bày viết của em được hoàn thiện hơn
Nội dung bài viết
Thu nhập quốc dân là tổng số sản phẩm( Giá trị mới) sáng tạo trong một năm (là phần còn lại của tổng sản phẩm xã hội sau khi đã trừ đi số tư liệu sản xuất đã hao phí trong một năm).
Xét về hình thái hiện vật, sản phẩm xã hội bao gồm các giá trị sử dụng này chia thành tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng. Tư liệu sản xuất – Tư liệu lao động – nguyên vật liệu phụ - được sử dụng để tiếp tục sản xuất. Vật phẩm tiêu dùng được sử dụng cho tiêu dùng cá nhân của tất cả các giai cấp trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
1. Nguồn gốc của thu nhập quốc dân.
Do những người lao động làm việc trong các ngành sản xuất vật chất sáng tạo ra. Đó là tất cả các ngành sản xuất ra tư liệu vật chất: Công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, vận tải, các dịch vụ phục vụ sản xuất.
a. Lao động sản xuất vật chất.
Trước hết ta hiểu lao động là hoạt động có mục đích có ý thức của con ngườinhằm làm thay đổi những vật thể tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người. Lao động là hoạt động bản chất nhất và là phẩm chất đặc biệt của con người, nó khác hoạt động theo bản năng của con vật. Các Mác có viết: " Con nhện làm những động tác giống như động tác của người thợ dệt, và bằng việc xây dựng những ngăn tổ sáp của mình, con ong còn phải làm cho một số nhà kiến trúc phải hổ thẹ. Nhưng điều ngay từ đầu phân biệt nhà kiến trúc tồi nhất với con ong giỏi nhất là trước khi xây dựng những ngăn tổ ong bằng sáp, nhà kiến trúc đã xây dựng chúng ở trong đầu óc của mình rồi.
Hoạt động lao động không những biến đổi tự nhiên mà còn hoàn thiện, phát triển ngay cả bản thân con người. Trong quá trình lao động con người tích luỹ được kinh nghiệm sản xuất, làm giàu tri thức của mình, hoàn thiện cả thể lực và trí lực. Sản xuất vật chất càng tiến bộ thì càng nâng cao vai trò của nhân tố con người trong hoạt động và phát triển xã hội.
b. Dịch vụ sản xuất vật chất.
2. Các nhân tố làm tăng thu nhập quốc dân.
a. Tăng khối lượng lao động sản xuất vật chất.
Việc tăng này thực hiện bằng việc tăng số người lao động, tăng cường độ lao động hay thời gian lao động của những người đang làm việc, hoặc bằng tất cả các cách đó. Việc sử dụng hết lực lượng lao động và thời gian lao động số người đó là vấn đề rất lớn đối với các nước đang phát triển để tăng thu nhập quốc dân.
- Tăng số người lao động: nguồn lực con người luôn có vai trò to lớn trong sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Việt Nam là một nước kinh tế kém phát triển, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội cần phát huy có hiệu quả của nguồn lực của đất nước. Trong các yếu tố hợp thành quá trình lao động sản xuất, sức lao động là yếu tố quyết định, mang tính sáng tạo, là nguồn lực không cạn kiệt. Có thể nói: " nguồn lực con người là nguồn lực của mọi nguồn lực", " là tài nguyên của mọi tài nguyên". Vì vậy, con người có sức khoẻ, trí tuệ, tay nghề cao, có động lực và nhiệt tình, được tố chức chặt chẽ là nhân tố cơ bản tăng thu nhập quốc dân.
Để phát huy nhân tố con người cần phải xác định : Đầu tư cho con người về thực chất là đầu tư cho sự phát triển kinh tế, nhà nước cần phải có chiến lược phát triển con người, mà trước hết phải nâng cao về số lượng và chất lượng hệ thông giáo dục, bảo hiểm xã hội, y tế, bồi dưỡng nhân tài... cùng với việc quản lý và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực.
Nhân tố con người là sự biểu hiện và sự khẳng định vai trò của con người trên cả hai phương diện: tính cá thể và tính xã hội ( cộng đồng). Vì vậy nhà nước phải có cơ chế, chính sách thích hợp nhằm kết hợp sự nỗ lực của mỗi người với sự hỗ trợ của cộng đồng xã hội để tạo ra động lực, lợi thế cho thu nhập quốc dân.
- Tăng cường độ lao động hay thời gian lao động của những người đang làm việc.
Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động. Đối với các nước đang phát triển nói chung vàViệt Nam nói riêng thì việc sử dụng hết lực lượng lao động và thời gian lao động của số người đó là một vấn đề lớn để tăng thu nhập quốc dân bởi những hạn chế về khoa học – kinh tế, về trình độ của lao động.
Trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản mới sinh ra, trình độ kinh tế còn thấp, nông dân và người thợ thủ công còn có thể làm ăn độc lập vì thế nhà nước tư bản đã ban bố những đạo luật bắt buộc công nhân làm thuê mỗi ngày phải làm thật nhiều giờ. Khi máy móc được áp dụng và dân cư bị vô sản hoá nhiều hơn, khi tư bản đã có đủ số công nhân này để khỏi chết đói đành phải chịu cho nhà tư bản nô dịch, tư bản có khả năng dùng áp lực kinh tế mà kéo dài ngày lao động đến cực độ.
Trong thời kỳ hiện nay, tuy người lao động không còn bị bóc lột về thời gian lao động song với trình độ về khoa học – kỹ thuật, con người còn hạn chế nên việc tăng thu nhập quốc dân còn khó khăn.
b. Tăng năng xuất lao động.
Đây là yếu tố cơ bản nhất có ý nghĩa quyết định nhất đối với việc tăng thu nhập quốc dân.
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động. Nó được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra.
Việc tăng năng suất lao động phụ thuộc vào:
- Trình độ phát triển của cơ sở vật chất – kỹ thuật của các tư liệu sản xuất, trình độ ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất. Khoa học và công nghệ là thành tựu củavăn minh nhân loại nhưng hiệu quả dụng khoa học công nghệ lại tuỳ thuộc vào điều kiện của từng nước. Nên biết lựa chọn công nghệ phù hợp với tiềm năng, nguồn lực của từng nước trình độ vận dụng và quản lý thì sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự phát triển nhan và bền vững. Đồng thời còn là một nền tảng vững chắc và chủ chốt cho việc nâng cao năng suất lao động.
Muốn vậy thì cần phải có chính sách khoa học – công nghệ đúng đắn, tạo những điều kiện cần thiết khuyến khích sáng tạo và ứng dụng khoa học công nghệ, tăng cường mở rộng hợp tác, liên kết chuyển giao khoa học công nghệ tiên tiến để hoà nhập với sự phát triển chung của thế giới.
- Nâng cao năng suất lao động là quá trình làm tăng năng lực sản xuất của con người lao động, tăng công suất của máy móc và làm tăng số lượng sản phẩm làm ra cho một đơn vị thời gian. Do vậy sẽ làm giảm chi phí lao động xã hội cần thiết để chi phí cho việc sản xuất ra một sản phẩm. Cho nên ta phải:
+ áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất rất quan trọng để nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm một cách nhanh nhất. áp dụng máy móc hiện đại sẽ giải phóng nặng nhọc nguy hiểm, giảm tiêu hao nguyên liệu, giảm chi phí về tiền lương đồng thời kéo theo đó là chất lượng sản phẩm sẽ không ngừng tăng lên. Đưa những thành tựu về công nghệ thông tin vào trong sản xuất cũng như quản lý.
Đưa máy vi tính vào trong hệ thống điều hành sản xuất để tăng độ chính xác, chặt chẽ và nhanh gọn. Trong quản lý rất cần sự giúp đỡ của công nghệ thông tin. Nó là một trong những cánh tay đắc lực cho cán bộ để quản lý tốt hơn.
+ Nâng cao trình độ của công nhân làm một hoạt động không ngừng để nâng cao trình độ tổ chức quản lý, sử dụng lao động, trình độ lao động. Vì khi biết tổ chức quản lý, khi sử dụng lao động hợp lý khoa học sẽ làm giảm lãng phí ngày công, giúp công nhân phát huy khả năng năng lực của mình say mê hơn trong công việc đồng thời phát minh ra những sáng kiến trong công việc cũng như sản phẩm.
Thu nhập quốc dân sẽ tăng nhanh khi cả hai yếu tố tăng lực lượng lao động xã hội và tăng năng suất lao động đều được thực hiện tốt. Ngày nay, ở các nước tư bản phát triển, trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ, của người lao động, của việc tổ chức và quản lý sản xuất đã cho phép tăng rất cao năng suất lao động, tạo ra khối lượng của cải vật chất to lớn, làm tăng thu nhập quốc dân trong các nước đó lên cao.
Nhưng tại các nước Tư bản, một phần rất lớn dân cư có năng lực lao động không những không sản xuất ra sản phẩm xã hội mà còn không tham gia lao động có ích cho xã hội. Đó trước hết là các giai cấp bóc lột và cả bè lũ đầy tớ ăn bám của chúng, là bộ máy quan liêu, cảnh sát, quân sự khổng lồ.... bọn này bảo vệ chế độ nô lệ làm thuê tư bản chủ nghĩa. Phần lớn sức lao động bị hao phí một cách vô ích, không có lợi gì cho xã hội cả. Thí dụ cạnh tranh, đầu cơ điên cuồng và quảng cáo rầm rộ quá đáng đều đi đôi với món chi phí to lớn.
3. Các nhân tố làm hạn chế mức tăng thu nhập quốc dân
a. Bộ máy Nhà nước quan liêu, lạm phát
Chủ nghĩa Tư bản ngày càng phát triển thì bộ máy Nhà nước ngày càng phình ra, số nhân viên phục vụ cho giai cấp tư sản ngày càng tăng thêm, tỷ lệ những người công tác trong lĩnh vực sản xuất vật chất ngày càng giảm bớt, mà tỷ lệ những người công tác trong lĩnh vực lưu thông thì lại tăng thêm rất lớn.
Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp từ nhiều năm nay đã không tạo được động lực phát triển và gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
b. Thất nghiệp
Đội quân thất nghiệp cứ đông mãi lên, nhân khẩu công nghiệp thừa ngày càng nghiêm trọng. Tất cả những điều đó dẫn tới chỗ hạn chế sự tăng lên của thu nhập quốc dân của xã hội tư sản.
4. Sự phân phối thu nhập quốc dân
Trong lịch sử, mỗi phương thức sản xuất có những hình thức phân phối thích hợp. Trong chế độ tư bản, sự phân phối thu nhập quốc dân quyết định bởi tình trạng quyền sở hữu tư liệu sản xuất tích tụ trong tay nhà tư bản và địa chủ bóc lột giai cấp vô sản và nông dân.
Ngày nay, ở các nước tư bản phát triển, mặc dù đời sống của công nhân, nông dân được cải thiện do trình độ phát triển cao của sản xuất. Nhưng phần thu nhập quốc dân của họ trong thu nhập quốc dân chiếm tỷ trọng ngày càng nhỏ. Họ vẫn bị bần cùng hoá một cách tương đối.
Việc phân phối lại thu nhập quốc dân được tiến hành bằng nhiều cách: Qua thu chi ngân sách Nhà nước và qua chi tiêu cho các dịch vụ phục vụ đời sống.
- Nguồn thu của chủ yếu của ngân sách Nhà nước tư sản là thuế.
- Nguồn thu quan trọng thứ hai của ngân sách Nhà nước tư sản là công trái
- Nguồn thu quan trọng thứ ba của ngân sách Nhà nước là phát hành tiền giấy.
Kết luận
Việt Nam đang trên con đường phát triển và đạt được nhiều thành tựu to lớn trên toàn bộ mọi mặt của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Vì thế, Nhà nước ta cần phải tiếp tục đổi mới chính sách xã hội, chính sách bảo vệ môi trường, có các chính sách thích hợp tạo công bằng về cơ hội bình đẳng trước pháp luật. Tăng cường hiệu lực của các công cụ, chính sách quản lý vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ công tác kế hoạch hoá, chính sách đầu tư Nhà nước được điều chỉnh theo hướng tăng đầu tư phát triển nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc mọi tầng lớp kinh tế. Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng bộ máy trong sạch vững mạnh, phân cấp mạnh và toàn diện giữa các cấp trong hệ thống hành chính Nhà nước, hỗ trợ và khuyến khích các tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận mà vì nhu cầu lợi ích của nhân dân. Đồng thời phải phát triển nguồn nhân lực thông qua phát triển mạnh giáo dục và đào tạo, đảm bảo nguồn nhân lực cả về số lượng cũng như chất lượng đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đổi mới chính sách, chú trọng sử dụng và phát huy tiềm năng tri thức, khuyến khích cho việc mở rộng và giao lưu kinh nghiệm, khuyến khích cho đầu tư phát triển về giáo dục, mở rộng quỹ khuyến học.
Tài liệu tham khảo
1. Sách kinh tế học phổ thông
2. Kinh tế chính trị Mác - Lênin
3. Lịch sử kinh tế
4. Các tài liệu khác
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- U0266.doc