Trợ cấp xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG -------------------------- KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Tên đề tài : Trợ cấp xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập Học sinh thực hiện: Lê Thuỳ Giáng Hương. Lớp A1 Chuyên nghành 9 Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Kim Oanh Hà Nội - 2003 MỤC LỤC CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TRỢ CẤP XUẤT KHẨU....................8 I. Khái niệm về trợ cấp xuất khẩu......................................................................8 1. Khái niệm về trợ

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 4353 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Trợ cấp xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấp xuất khẩu...............................................................8 2. Các hình thức trợ cấp xuất khẩu..............................................................8 II. Vai trò của trợ cấp xuất khẩu.......................................................................9 1. Trợ cấp xuất khẩu giữ vị trí trọng yếu trong việc thực hiện mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu của đất nước.........................................................10 2. Trợ cấp xuất khẩu giúp nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp.......................................................................................... 11 III. Kinh nghiệm về trợ cấp xuất khẩu của một số nước và gợi ý đối với Việt Nam..................................................................................................... ........12 1. Các hình thức trợ xuất khẩu cấp chủ yếu các nước đã áp dụng................12 a. Trợ cấp xuất khẩu của Nhật bản...............................................................12 b. Trợ cấp xuất khẩu của Hàn Quốc.............................................................12 c. Trợ cấp xuất khẩu của Thái Lan...............................................................14 d. Trợ cấp xuất khẩu của Philippin...............................................................15 2. Những gợi ý đối với Việt Nam trong điều kiện hội nhập.......................17 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRỢ CẤP XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM VÀ NHỮNG THÁCH THỨC KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ I. Vài nét về hoạt động xuất khẩu của Việt nam trong những năm gần đây ...21 II. Thực trạng trợ cấp xuất khẩu của Việt nam................................................25 1. Một số thành tựu đã đạt được......................................................................26 1.1. Về tín dụng hỗ trợ xuất khẩu năm 2003...................................................26 1.2. Về thưởng kim ngạch xuất khẩu...............................................................34 1.3. Về việc xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm.......35 1.4. Về chi phí giao dịch, tiếp thị của các doanh nghiệp.................................35 1.5. Điều chỉnh một số quy định về GTGT.....................................................36 1.6. Rà soát để giảm chi phí dịch vụ đầu vào đối với xuất khẩu.....................36 1.7. Về quỹ bảo lãnh tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ..............36 2. Những thách thức đối với trợ cấp xuất khẩu ở Việt nam ...........................39 CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRỢ CẤP XUẤT KHẨU Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP I. Cơ sở đề ra giải pháp...................................................................................46 1. Những thuận lợi và khó khăn......................................................................46 2. Phương hướng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới.. ....50 3. Những quan điểm chính về trợ cấp xuất khẩu.............................................52 II. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả trợ cấp xuất khẩu ở Việt nam..................................................................................................................54 1. Các giải pháp ở tầm vĩ mô...........................................................................54 2. Các giải pháp ở tầm vi mô..........................................................................59 KẾT LUẬN 70 Danh mục tài liệu tham khảo 72 DANH MỤC VIẾT TẮT CVD Thuế chống trợ cấp (thuế đối kháng) DOC Bộ Thương mại Hoa kỳ EC Uỷ ban châu Âu EU Liên minh châu Âu GATS Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ GATT Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại IMF Quỹ Tiền tệ quốc tế ITC Uỷ ban Thương mại quốc tế của Hoa kỳ MOFTEC Bộ Ngoại Thương và Hợp tác kinh tế Trung quốc OECD Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế SCM Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO SETC Uỷ ban Kinh tế và Thương mại Nhà nước Trung quốc WB Ngân hàng Thế giới WTO Tổ chức Thương mại Thế giới LỜI NÓI ĐẦU ****************** Lịch sử phát triển của thương mại quốc tế gắn liền với sự hình thành và phát triển của hoạt động xuất khẩu. Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường và chủ động hội nhập kinh tế với thế giới và khu vực, Đảng và Nhà nước đã chủ trương đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu để làm động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước phải có những biện pháp chính sách khuyến khích ở mức cao nhất các ngành sản xuất cho xuất khẩu, các doanh nghiệp tham gia vào quá trình xuất khẩu và quốc tế hoá nhằm phát huy mọi tiềm năng và nội lực của đất nước, đồng thời khai thác tối đa sự hỗ trợ và hợp tác của cộng đồng quốc tế. Trợ cấp xuất khẩu trở thành một công cụ vô cùng quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu này. Trợ cấp xuất khẩu càng trở nên cần thiết khi nhịp độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 1998 lần đầu tiên từ năm 1990 trở lại đây có dấu hiệu chững lại chỉ đạt mức chưa đầy 6% còn tăng trưởng xuất khẩu chỉ đạt mức 1,9% là mức thấp nhất kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới và mở cửa nền kinh tế và thậm chí vào quý I năm 1999, xuất khẩu còn giảm...Tuy xuất khẩu đã phục hồi tương đối mạnh mẽ thời gian từ quý II/1999 đến nay, nhưng chúng ta chưa tạo ra được một nền tảng chắc chắn để đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu bền vững. Sự chững lại nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu một số sản phẩm chính của Việt nam như dệt may, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ...năm 2001 chứng tỏ điều này. Như vậy, yêu cầu thực tế đặt ra là chính sách trợ cấp xuất khẩu của Việt nam trong thời gian tới phải đảm bảo sự tăng trưởng xuất khẩu cao và bền vững. Trong thời gian ngắn đến tham khảo tài liệu và học hỏi tại Viện nghiên cứu thương mại - Bộ thương mại, tác giả nhận thấy trợ cấp xuất khẩu là việc hết sức quan trọng trong mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp xuất khẩu còn non nớt trên thương trường quốc tế, thiếu kinh nghiệm, thiếu điều kiện tài chính khi hội nhập quốc tế. Với những gì đã học hỏi được từ Bộ thương mại cùng vốn kiến thức được trang bị trong 4 năm học taị trường, tác giả đã mạnh dạn chọn và nghiên cứu đề tài : Trợ cấp xuất khẩu của Việt nam trong điều kiện hội nhập Mục đích ngiên cứu của đề tài: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về trợ cấp xuất khẩu của Việt nam trong điều kiện hội nhập. - Phân tích những yếu tố thuận lợi, khó khăn và kiến nghị một số giải pháp để nâng cao hiệu quả của trợ cấp xuất khẩu. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Đề tài tập trung nghiên cứu một số chính sách trợ cấp xuất khẩu trên phương diện lý luận và thực tiễn trong thời kỳ nước ta thực hiện đường lối đổi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và đưa ra kiến nghị nhằm nâng cao hiệu ủa trợ cấp xuất khẩu trong điều kiện hội nhập. Phương pháp nghiên cứu: - Vận dụng lý luận vào thực tiễn, sử dụng phương pháp phân tích, so sánh , khái quát hoá và tổng hợp để nghiên cứu. - Tham khảo, nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới có điều kiện tương đồng với Việt nam để giải quyết các vấn đề nêu ra trong đề tài. Kết cấu, nội dung của đề tài: Đề tài "Trợ cấp xuất khẩu của Việt nam trong điều kiện hội nhập" được trình bày theo kết cấu sau: Mục lục Lời nói đầu Chương I: Cơ sở lý luận của trợ cấp xuất khẩu Chương II: Thực trạng trợ cấp xuất khẩu của Việt nam và thách thức khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới ChươngIII: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trợ cấp xuất khẩu ở Việt nam trong điều kiện hội nhập Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TRỢ CẤP XUẤT KHẨU I. Khái niệm về trợ cấp xuất khẩu 1. Khái niệm về trợ cấp xuất khẩu Trợ cấp xuất khẩu hiểu theo nghĩa thông thường là trợ cấp chỉ dành riêng cho hoặc liên quan tới hoạt động xuất khẩu, hay mục đích của trợ cấp là đẩy mạnh xuất khẩu. Do đó, căn cứ để trợ cấp thông thường là lượng hàng hóa xuất khẩu thực sự hoặc dự kiến xuất khẩu. Ví dụ: chương trình thưởng xuất khẩu của Chính phủ theo đó doanh nghiệp được thưởng 100 đồng cho mỗi sản phẩm xuất khẩu được. Tuy nhiên, việc chính phủ đơn thuần trợ cấp cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu không thể nghiễm nhiên dẫn đến kết luận là trợ cấp xuất khẩu mà còn cần xem xét đến một số yếu tố khác. Trợ cấp xuất khẩu thường có hệ quả là hàng xuất khẩu được bán trên thị trường nước ngoài với giá thấp hơn trên thị trường nội địa của nước xuất khẩu. Trợ cấp xuất khẩu là trợ cấp với đối tượng nhận trợ cấp là các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa trước tiên hoặc chủ yếu là để xuất khẩu, hay nói cách khác, hàng hoá được trợ cấp phải là hàng hóa được tiêu thụ tại thị trường nước ngoài. Doanh nghiệp được trợ cấp phải là doanh nghiệp Việt nam, đặc biệt ưu tiên các đơn vị sản xuất hàng nông sản, thủ công mỹ nghệ và những hàng hoá Việt Nam có ưu thế so sánh . Mục đích của trợ cấp xuất khẩu là nhằm đẩy mạnh xuất khẩu. 2. Các hình thức trợ cấp xuất khẩu về lý thuyết chung của Việt nam - Đối với sản phẩm gạo: Hỗ trợ lãi suất thu mua lúa gạo trong vụ thu hoạch, hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo, hỗ trợ lãi suất xuất khẩu gạo trả chậm, bù lỗ cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo, thưởng xuất khẩu. - Đối với mặt hàng cà phê: Hoàn phụ thu, bù lỗ cho tạm trữ cà phê xuất khẩu, bù lỗ cho doanh nghiệp xuất khẩu cà phê, hỗ trợ lãi suất tạm trữ, thưởng xuất khẩu. - Đối với rau quả hộp: Hỗ trợ xuất khẩu cho dưa chuột, dứa hộp, thưởng xuất khẩu. - Đối với thịt lợn: Hỗ trợ lãi suất mua thịt lơn, bù lỗ xuất khẩu thịt lợn, thưởng xuất khẩu. - Đường: Hỗ trợ giá, hỗ trợ giống mía, giảm thuế VAT 50%, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bù chênh lệch tỷ giá, hỗ trợ lãi suất thu mua mía trong vụ thu hoạch, hỗ trợ phát triển vùng mía nguyên liệu. - Chè, lạc nhân, thịt gia súc, gia cầm các loại, hạt tiêu, hạt điều: Thưởng theo kim ngạch xuất khẩu. - Sản phẩm, phụ tùng xe hai bánh gắn máy: Thuế suất nhập khẩu ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hoá. - Xe đạp, quạt điện: Ưu đãi về tín dụng, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế xuất khẩu, miễn thuế nhập khẩu linh kiện, phụ tùng, vật tư, thiết bị lẻ, hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng. - Tàu biển 11.500 tấn, động cơ đốt trong dưới 30 CV, máy thu hình màu, máy vi tính: Miễn thuế nhập khẩu, ưu đãi về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, giảm tiền thuê đất - Sản phẩm phần mềm: Ưu đãi về thuế suất thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi về thuế giá trị gia tăng, miễn thuế xuất khẩu, miễn thuế nhập khẩu nguyên vật liệu, ưu đãi về tín dụng, ưu đãi về sử dụng đất và thuê đất - Sản phẩm cơ khí: Ưu đãi vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước - Sản phẩm dệt may: Vốn tín dụng ưu đãi, ưu đãi đầu tư, bảo lãnh của Chính phủ, cấp lại tiền sử dụng vốn để tái đầu tư, hỗ trợ kinh phí xúc tiến thương mại - Gốm sứ, đồ gỗ mỹ nghệ, mây tre lá: Thưởng theo kim ngạch xuất khẩu - Hỗ trợ bằng tín dụng giúp cho nhà sản xuất có đủ điều kiện tài chính để mua hàng hoá phụcvụ sản xuất xuất khẩu. II. Vai trò của trợ cấp xuất khẩu 1. Trợ cấp xuất khẩu giữ vị trí trọng yếu trong việc thực hiện mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu của đất nước. Chính phủ các nước thường chủ động tiến hành trợ cấp cho các doanh nghiệp và sản phẩm của nước mình nhằm đạt được một số mục tiêu kinh tế-xã hội nhất định như bảo hộ sản xuất trong nước, hỗ trợ phát triển ngành non trẻ hay ngành trọng điểm của nền kinh tế, khuyến khích đầu tư, cải thiện thu nhập của nhà sản xuất, bù đắp chi phí đầu tư ban đầu quá lớn, v.v... Quyết định trợ cấp của chính phủ thường được đưa ra nhằm phục vụ lợi ích của một đối tượng nhất định có vai trò chi phối và ảnh hưởng chính trị lớn đối với chính phủ. Chính phủ có thể trợ cấp trực tiếp cho nhà sản xuất hoặc trợ cấp gián tiếp thông qua đầu vào cho nhà sản xuất. Với mọi hình thức trợ cấp, lợi thế và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong những ngành được trợ cấp luôn được cải thiện và nâng cao. Ví dụ ngành sản xuất bút bi của Việt Nam sản xuất mỗi chiếc bút với chi phí là 1.000 đồng, trong khi bút bi nhập ngoại được bán tại Việt Nam với giá 900 đồng/ chiếc. Rõ ràng là bút bi ngoại có khả năng cạnh tranh cao hơn bút bi Việt Nam. Giả sử chính phủ Việt Nam trợ cấp 200 đồng cho mỗi chiếc bút bi sản xuất trong nước. Khi đó, giá bút bi Việt Nam bán ra có thể rẻ hơn trước kia tới 200 đồng/ chiếc, và thấp hơn giá bút bi nhập khẩu. Như vậy, nhờ có trợ cấp của chính phủ, ngành sản xuất bút bi của Việt Nam có thể cạnh tranh với hàng nhập ngoại và thậm chí có thể đẩy lùi bút bi nhập khẩu tại thị trường trong nước. Chẳng những có thể ngăn cản, hạn chế hàng nhập khẩu, trợ cấp sản xuất nội địa đồng thời còn có thể khiến cho cam kết ràng buộc thuế quan trong khuôn khổ WTO mất tác dụng, duy trì bảo hộ sản xuất nội địa. Đối với những ngành công nghiệp non trẻ, bước đầu còn nhỏ bé về quy mô, yếu kém về năng lực cạnh tranh thì trợ cấp từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng quy mô, góp phần khởi động và đẩy nhanh sự phát triển của ngành. Đối với những công ty mới gia nhập thị trường, thiếu vốn để trang trải chi phí rất cao trong thời gian đầu, khó cạnh tranh nổi với những công ty “đàn anh” đã trụ vững trên thị trường thì hỗ trợ của chính phủ có thể bù đắp cho những khoản thua lỗ phát sinh trong những năm đầu, đưa công ty vào quỹ đạo phát triển ổn định. Ngoài ra, trợ cấp góp phần duy trì ổn định công ăn việc làm, hạn chế thất nghiệp, bảo đảm trật tự và ổn định xã hội, đặc biệt là những khoản trợ cấp dành cho các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, đứng trước nguy cơ bị đóng cửa, phá sản. Sự hỗ trợ của chính phủ có thể giúp các doanh nghiệp này khỏi bị sụp đổ nhanh chóng, thúc đẩy các doanh nghiệp cơ cấu lại sản xuất, tự điều chỉnh khả năng thích nghi và cạnh tranh trong thời kỳ quá độ do những khó khăn mà môi trường thương mại quốc tế tạo ra. Trợ cấp cũng có thể được sử dụng nhằm khuyến khích những ngành sản xuất kém sức cạnh tranh giảm công suất dư thừa hoặc rút khỏi những lĩnh vực hoạt động không hiệu quả hoặc không sinh lợi. Nhờ đó, quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động được diễn ra suôn sẻ hơn, góp phần thúc đẩy phân bổ nguồn lực thích hợp, hiệu quả và khuyến khích xuất khẩu các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh với nước ngoài. 2. Trợ cấp xuất khẩu giúp nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp. Các nước áp dụng trợ cấp xuất khẩu vì nhiều lý do. Có nước lập luận trợ cấp xuất khẩu để đảm bảo công ăn việc làm, hay để hỗ trợ vùng khó khăn, v.v... Tuy nhiên, mọi lý do biện minh cho trợ cấp xuất khẩu xét cho cùng cũng đều hướng tới mục tiêu thực sự là để đẩy mạnh xuất khẩu thông qua tác động trung gian là cải thiện lợi thế cạnh tranh xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu, v.v... Trợ cấp xuất khẩu có thể được tiến hành dưới nhiều hình thức, từ thưởng theo kim ngạch xuất khẩu đến cho vay với lãi suất ưu đãi đối với hàng xuất khẩu hay áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi với ngành nghề xuất khẩu, v.v... Về lý thuyết, nhờ có trợ cấp xuất khẩu, thị phần sản phẩm liên quan của nước xuất khẩu trên thị trường thế giới có thể được mở rộng hơn mức hợp lý mà thực lực nước xuất khẩu có thể tự mình giành được không có sự can thiệp của trợ cấp xuất khẩu. Trợ cấp xuất khẩu làm cho hàng xuất khẩu sang nước khác (nước nhập khẩu) có lợi thế cạnh tranh hơn. Nhờ có trợ cấp, hàng nước ngoài xuất sang thị trường nước nhập khẩu sẽ tăng đáng kể về lượng tuyệt đối hoặc tương đối so với lượng sản xuất trong nước của nước nhập khẩu. Hoặc giá hàng hóa nhập khẩu được trợ cấp có thể sụt mạnh so với giá sản phẩm tương tự do nước nhập khẩu sản xuất. Hoặc nữa là hàng nhập khẩu được nước ngoài trợ cấp sẽ chèn ép giá sản phẩm cạnh tranh trên thị trường nước nhập khẩu hay ngăn cản không cho giá tăng trong khi lẽ ra theo quy luật thị trường bình thường thì giá phải tăng. Trợ cấp xuất khẩu còn làm tăng lợi thế cạnh tranh của hàng xuất khẩu được trợ cấp so với hàng xuất khẩu không được trợ cấp của các nước khác vào thị trường thứ ba và ngăn cản hàng xuất khẩu của các nước khác vào thị trường này. Với lợi thế cạnh tranh nhờ trợ cấp hàng xuất khẩu của nước trợ cấp có thể đẩy lùi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường nước khác và chiếm được thị phần vượt mức hợp lý trong thương mại xuất khẩu thế giới. III. Kinh nghiệm trợ cấp xuất khẩu của một số nước và gợi ý đối với Việt Nam 1. Các hình thức trợ cấp xuất khẩu các nước đã áp dụng a. Trợ cấp xuất khẩu của Nhật Bản Nhận thức rõ sự cấp thiết về việc thoả mãn nhu cầu ngoại tệ mạnh và sự phát triển nền kinh tế độc lập sau thời kỳ chiến tranh nên Chính phủ Nhật Bản đã thực thi các biện pháp trợ cấp xuất khẩu quốc gia sau: - Hỗ trợ tài chính và thuế của Chính phủ cho xuất khẩu Tháng 4/952 Ngân hàng xuất nhập khẩu của Nhật Bản được tổ chức trở lại và trở thành một tổ chức tài chính của Chính phủ với mục tiêu hỗ trợ tài chính cho xuất khẩu của các tổ chức tài chính tư nhân. Ngân hàng xuất nhập khẩu Nhật Bản có thể tài trợ hoặc phối hợp với các ngân hàng tư nhân khác đồng tài trợ cho các hoạt động liên quan đến xuất khẩu cần đến nguồn vốn đặc biệt mà khả năng tài chính thông thường không tài trợ được. Các hoạt độngcủa ngân hàng xuất nhập khẩu bao gồm: Hỗ trợ tài chính cho xuất khẩu phương tiện vận tải, máy công nghiệp; Chiết khẩu cho các tổ chức tài chính; Cho các chính phủ và công ty nước ngoài vay tiền để nhập khẩu hàng của Nhật Bản... Hệ thống giảm thuế thu nhập từ xuất khẩu dược xây dựng như một hệ thống thuế hỗ trợ xuất khẩu, nhưng hệ thống này đã bị xoá bỏ khi Nhật Bản gia nhập GATT năm 1964. - Hệ thống bảo hiểm xuất khẩu của chính phủ Nhật Bản Mục đích của bảo hiểm xuất khẩu là đảm bảo cho ự phát triển lành mạnh của hoạt động xuất khẩu và các thương vụ khác với nước ngoài thông qua việc bảo hiểm những rủi ro mà các bảo hiểm thông thường không thể bảo hiểm được. Chính phủ Nhật bản trực tiếp bảo lãnh hệ thống bảo hiểm này và mở một tài khoản đặc biệt cho hoạt động bảo hiểm xuất khẩu. Hệ thống bảo hiểm này được thành lập năm 950 theo luật bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, hiện nay bao gồm: bảo hiểm xuất khẩu thông thường; bảo hiểm thay đổi giá xuất khẩu; bảo hiểm thay đổi tỷ giá hối đoái; bảo hiểm thanh toán xuất khẩu; bảo hiểm vận chuyển hàng hoá xuất khẩu và bảo hiểm quảng cáo ở nước ngoài. - Hệ thống kiểm tra xuất khẩu Hệ thống kiểm tra xuất khẩu đã đóng góp rất lớn vào việc cải thiện hình ảnh và chất lượng hàng xuất khẩu Nhật Bản. Hệ thống kiểm tra xuất khẩu bao gồm 37 cơ quan kiểm tra có thẩm quyền, tiến hành các hoạt động: + Kiểm tra chất lượng hoặc kiểm tra phần cơ bản của sản phẩm; + Kiểm tra đóng gói bao bì: kiểm tra các điều kiện bao gói để đảm bảo chất lượng sản phẩm trong quá trình vận chuyển; + Kiểm tra nguyên liệu để chế tạo sản phẩm + Kiểm tra trong quá trình sản xuất để đảm bảo hoàn thiện quá trình kiểm tra chất lượng thành phẩm xuất khẩu. - Thành lập tổ chức thương mại Nhật Bản nhằm xúc tiến xuất khẩu bao gồm các hoạt động: + Nghiên cứu thị trường; + Cung cấp thông tin thương mại; + Tổ chức hội chợ và tham gia các hội chợ thương mại quốc tế; + Giới thiệu các sản phẩm và các ngành nghề Nhật bản thông qua việc phát hành các ấn phẩm và các tờ rơi; +Cung cấp các dịch vụ tư vấn thương mại và đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; + Xuất bản tờ tin thương mại hàng ngày, các báo cáo kinh tế và các báo cáo về thị trường nước ngoài; b. Trợ cấp xuất khẩu của Hàn Quốc: Sang đầu những năm 1960, việc Mỹ thực hiện cắt giảm các khoản viện trợ đã buộc chính phủ Hàn Quốc phải tìm nguồn ngoại tệ khác để thay thế là lý do quan trọng dẫn đến việc chính phủ Hàn Quốc chuyển chính sách thương mại từ thay thế nhập khẩu sang xuất khẩu. Chính phủ Hàn Quốc đã áp dụng những biện pháp trợ cấp xuất khẩu sau: - Về thuế: + Miễn thuế kinh doanh cho các doanh nghiệp xuất khẩu; + Giảm 50% thuế thu nhập từ xuất khẩu; + Giảm thuế quan cho nhập khẩu nguyên liệu & máy móc thiết bị để sản xuất hàng xuất khẩu. - Về tài chính : khẩu; + Hỗ trợ tài chính cho nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất + Tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi ; + Thành lập quĩ xúc tiến xuất khẩu; + Hệ thống bảo hiểm xuất khẩu. - Về mặt thể chế, tổ chức + Ban hành luật xúc tiến các nghành công nghiệp xuất khẩu, ví dụ như việc ban hành luật xúc tiến nghành công nghiệp điện tử năm 1969; + Hình thành nên tổ chức thương mại và đầu tư Hàn Quốc năm 1962. Do áp dụng các chính sách trợ cấp khuyến khích xuất khẩu nên tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Hàng Quốc hàng năm đạt 35% thời kỳ 1963-1969, chủ yếu là do tăng xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày dép, dụng cụ thể thao, du lịch, da...trong thời kỳ 1962-1970, tỷ trọng các sản phẩm này trong xuất khẩu của Hàn Quốc đã tăng từ 5% lên 69%. c. Trợ cấp xuất khẩu của Thái Lan Thái lan có một số chương trình trợ cấp cho mặt hàng gạo của mình - Tín dụng giúp tạm trữ gạo: Đây là chương trình được Ngân hàng nông nghiệp và hợp tác xã nông nghiệp (BAAC) cùng với hệ thống kho hàng hàng công (PWO) thực hiện. Theo chương trình này, nếu gạo được trữ tại hệ thống kho của nhà nước (PWO) thì có thể thế chấp để vay tín dụng ưu đãi. Mục tiêu của chương trình này là nhằm giúp nông dân dự trữ gạo khi giá xuống thấp (thường là ngay sau khi thu hoạch) và bán lại khi giá cao. - Tín dụng giúp nông dân, nhà buôn gạo, cơ sở xay sát chế biến gạo nhằm bình ổn giá gạo: Thái lan có nhiều chương trình thực hiện qua Bộ Nông nghiệp, Bộ Tài chính, Bộ Thương mại v.v... giúp đỡ nông dân và các nhà kinh doanh, chế biến gạo để giúp ổn định giá gạo trong nước. Các chương trình này chủ yếu được thực hiện thông qua vay ưu đãi với lãi suất thấp, có khi là 0%. Nhờ kiên trì thực hiện chính sách tự do hoá thương mại và hỗ trợ xuất khẩu, trong hơn 40 năm qua, kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan đã tăng từ 93 triệu USD năm 1957 lên 62 tỷ USD năm 2000; tức là tăng gấp hơn 320 lần. Chính sự phát triển xuất khẩu ngoạn mục này đã đóng góp vào sự phát triển kinh tế năng động của Thái Lan cho tới trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997. Chính phủ Thái lan đã nhanh chóng thành lập ra Vụ xúc tiến xuất khẩu Thái Lan nhằm thực hiện các chức năng nhiệm vụ sau: - Triển khai và xây dựng các kế hoạch xúc tiến xuất khẩu và phát triển xuất khẩu; - Tổ chức các hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu một cách toàn diện và thúc đẩy việc bán các sản phẩm của Thái Lan ra thị trường Quốc tế; - Cung cấp thông tin và dịch vụ thương mại cho các nhà sản xuất, xuất khẩu Thái Lan; - Nâng cao trình độ nghiệp vụ kỹ thuật cho các nhà xuất khẩu Thái Lan; - Hỗ trợ việc phát triển sản phẩm mới, nâng cao chất lượng hay hỗ trợ thiết kế các sản phẩm của Thái Lan; - Đưa ra các giải quyết các khó khăn mà xuất khẩu của Thái Lan gặp phải; - Phối hợp với các tổ chức trong nước và Quốc tế để đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu của Thái Lan; - Xây dựng mục tin nhanh về xuất khẩu trên mạng; - Xây dựng các trang Web thương mại; - Tổ chức các cuộc hội thảo về thương mại Quốc tế cho các quan chức chính phủ và giới kinh doanh tư nhân; - Mở các lớp đào tạo cơ bản và nâng cao về xuất khẩu, về phát triển sản phẩm, phát triển thị trường cho các đối tượng liên quan; - Thuê đội ngũ cán bộ giảng dạy là các chuyên gia giỏi cả ở trong nước và nước ngoài tham gia các chương trình đào tạo; - Phát triển sản phẩm xuất khẩu; - Tổ chức các cuộc thi và trao phần thưởng, thiết kế mẫu mã , bao bì, đóng gói sản phẩm; - Tư vấn thiết kế mẫu mã sản phẩm; - Tiến hành các hoạt động tuyên truyền quảng cáo nhằm mục tiêu xuất khẩu. Toàn bộ chi phí cho những hoạt động trên đều do Ngân sách của nhà nước. d. Trợ cấp xuất khẩu ở Philippin Trong môi trường kinh doanh quốc tế đầy biến động hiện nay, xuất khẩu của Philippin vẫn đạt được mức tăng trưởng khá cao và ổn định nhờ có một chính sách trợ cấp xuất khẩu năng động và hiệu quả. Chính phủ Philippin xây dựng cơ sở pháp lý mới ưu tiên phát triển xuất khẩu: - Đạo luật phát triển xuất khẩu được ban hành năm 1994 quy định việc xây dựng kế hoạch chiến lược phát triển xuất khẩu phải do Chính phủ đảm nhận với sụ tham gia của các cơ quan hữu quan của chính phủ. Các chính sách kinh tế vĩ mô được triển khai để hỗ trợ cho các nỗ lực xuất khẩu của đát nước; - Chính thức coi phát triển xuất khẩu là một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển kinh tế quốc gia. 2. Những gợi ý đối với Việt Nam - Nhà nước nên quy định chế độ thưởng cao về kim ngạch xuất khẩu cho những doanh nghiệp xuất khẩu những mặt hàng nông sản như: gạo, lạc nhân, cà phê, rau, hoa quả...và các hàng thủ công mỹ nghệ. - Về chính sách thuế: + Miễn thuế kinh doanh cho các doanh nghiệp xuất khẩu; + Giảm 50% thuế thu nhập từ xuất khẩu; + Giảm thuế quan cho nhập khẩu nguyên liệu & máy móc thiết bị để sản xuất hàng xuất khẩu. - Về tài chính : + Hỗ trợ tài chính cho nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu; + Tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi. - Thành lập ra Vụ xúc tiến xuất khẩu nhằm thực hiện các chức năng nhiệm vụ sau: a. Chức năng : Xúc tiến xuất khẩu nhằm vào mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu của các doanh nghiệp và nền kinh tế. Để đạt được những mục tiêu xuất khẩu cụ thể cho thời kỳ 2001 -2010 đòi hỏi những nỗ lực vựơt bậc trong công tác xúc tiến xuất khẩu của cả Chính phủ, các tổ chức hỗ trợ thương mại vàcác doanh nghiệp. Như vậy, nếu như xuất khẩu giữ vị trí trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế của đat nước thì xúc tiến xuất khẩu là hoạt động không thể thiếu và có tác động quyết định đến việc thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế nước nhà. b. Yêu cầu và nhiệm vụ: Xúc tiến xuất khẩu là một lĩnh vực hoạt động mới mẻ ở Việt nam. Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án "Hỗ trợ xúc tiến thương mại và xuất khẩu" ở Việt Nam do các chuyên gia Trung tâm thương mại quốc tế thực hiện thời gian 1998-1999 đã nêu ra những hạn chế về nhận thức, hiểu biết và năng lực thực hiện yếu của các cơ quan chính phủ, các tổ chức hỗ trợ thương mại và các doanh nghiệp Việt nam trong lĩnh vực liên quan tới hoạt động xúc tiến thương mại vànhững yêu cầu bức xúc phải tăng cường các mối liên hệ giữa cộng đồng kinh doanh, các tổ chức thương mại nhà nước và tư nhân với các cơ uan chính phủ để thực hiện phát triển thương mại và xúc tiến xuất khẩu trong điều kiện môi trường kinh doanh quốc tế mới. Báo cáo cũng nêu rõ những yếu kém của các cơ quan của chính phủ trong việc nắm bắt và đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp về các vấn đề như chính sách thuận lợi hoá thương mại, các dịch vụ hỗ trợ, phát triển nguồn nhân lực và các hỗ trợ cần thiết khác...Từ những thực tế này yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra đối với xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ phải là: + Nâng cao nhận thức và hiểu biếtvề hoạt động xúc tiến xuất khẩu trong môi trường kinh doanh quốc tế toàn cầu hoá; + Tăng cường năng lực xây dựng và triển khai thực hiện các chiến lược xuất khẩu quốc gia cũng như các chiến lược xuất khẩu ngành; + Xây dựng mạng lưới thông tin thương mại quốc gia hiện đại, đảm bảo thông tin thông suốt cho mọi đói tác liên quan; + Xây dựng năng lực thể chế và tăng cường năng lực chuyên môn về xúc tiến xuất khẩu; khẩu; + Phát triển nguồn nhân lực cho hoạt động thương mại và xúc tiến xuất + Nghiên cứu thị trường; + Cung cấp thông tin thương mại; + Tổ chức hội chợ và tham gia các hội chợ thương mại quốc tế; + Giới thiệu các sản phẩm và các ngành nghề Nhật bản thông qua việc phát hành các ấn phẩm và các tờ rơi; +Cung cấp các dịch vụ tư vấn thương mại và đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; + Xuất bản tờ tin thương mại hàng ngày, các báo cáo kinh tế và các báo cáo về thị trường nước ngoài; + Thành lập quĩ xúc tiến xuất khẩu; - Triển khai và xây dựng các kế hoạch xúc tiến xuất khẩu và phát triển xuất khẩu; - Tổ chức các hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu một cách toàn diện và thúc đẩy việc bán các sản phẩm của Việt nam ra thị trường Quốc tế; - Hỗ trợ việc phát triển sản phẩm mới, nâng cao chất lượng hay hỗ trợ thiết kế các sản phẩm của Việt Nam; - Đưa ra các giải quyết các khó khăn mà xuất khẩu của Việt nam gặp phải; - Xây dựng mục tin nhanh về xuất khẩu trên mạng; - Xây dựng các trang Web thương mại; - Tổ chức các cuộc hội thảo về thương mại Quốc tế cho các quan chức chính phủ và giới kinh doanh tư nhân; - Mở các lớp đào tạo cơ bản và nâng cao về xuất khẩu, về phát triển sản phẩm, phát triển thị trường cho các đối tượng liên quan. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRỢ CẤP XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN KHI GIA NHẬP WTO đây I. Vài nét về hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần Là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế đất nước, hoạt động xuất nhập khẩu đã góp phần xứng đáng của mình vào những thành tựu to lớn và rất quan trọng mà toàn Đảng, toàn dân ta đã giành được trong thời kỳ đổi mới nói chung và trong 10 năm qua nói riêng. Những nhiệm vụ đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội 1991-2000 cho lĩnh vực xuất nhập khẩu đã được hoàn thành về cơ bản. Điều đó thể hiện trước hết trong việc đạt được tốc độ tăng trưởng cao. Giai đoạn 1991 - 2000 đi vào lịch sử gắn với thành tựu lớn về tăng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp phần xứng đáng vào tốc độ tăng trưởng kinh tế cao suốt thời kỳ này. Từ 1991 đến nay, bình quân tăng 2,5 - 3% xuất khẩu góp phần làm tăng 1% GDP. Kim ngạch xuất khẩu tăng liên tục qua các năm ở mức cao, kim ngạch năm 1998 gấp khoảng 4,5 lần kim ngạch năm 1991, giai đoạn 1991 - 1995 tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng năm tới 28%, năm 1996 đạt kỷ lục 33,1% và năm 1997 - 22,7%, song năm 1998 chỉ tăng 1,9% - mức tăng thấp nhất trong vòng 7 năm trở lại đây, chủ yếu do tác động của khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á. Năm 1999 và 2000, Chính phủ đã áp dụng hàng loạt giải pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng, nhờ vậy tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đã được phục hồi. Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu tăng 23,3%, năm 2000 tăng 21,3%, đạt 14,3 tỷ USD, gấp 6 lần so với năm 1990. Bình quân giai đoạn 1991 - 2000, kim ngạch xuất khẩu tăng gần 21%/năm, gần gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Kim ngạch xuất khẩu trên đầu người tăng từ 30 USD năm 1991 lên 74 USD năm 1995 và tới 180 USD năm 2000, đưa Việt Nam vào đội ngũ những nước có nền ngoại thương tương đối phát tr._.iển (kim ngạch xuất khẩu 170 USD/người/năm). Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu nói riêng, tổng kim ngạch XNK nói chung so GDP tăng nhanh chứng tỏ mức độ mở cửa khá mạnh của nước ta. Năm 1998, tỷ lệ xuất khẩu trên GDP đã đạt 36% - mức trung bình trên thế giới, năm 2000 tỷ lệ này đạt trên 45%GDP; Tỷ lệ ngoại thương của Việt Nam so với GDP tăng mạnh (bằng mức của Hàn Quốc) nhưng còn kém xa Singapore và Hongkong, song có thể thấy nền kinh tế định hướng xuất khẩu đã tương đối rõ. Năm 1998, tổng kim ngạch XNK đạt tới trên 3/4 GDP, năm 1999 đạt trên 80% GDP và năm 2000 đạt trên 90%GDP. Tuy nhiên, tổng lượng xuất khẩu tuyệt đối còn thấp (năm 2000 khoảng 29 tỷ USD) do qui mô nền kinh tế còn quá nhỏ bé. Nếu so với các nước trong khu vực, kim ngạch xuất khẩu của ta bằng 1/3 Philippines, 1/7 Indonesia và Thái Lan, 1/10 Malaysia và bằng 1/16 của Singapore. Bảng 1:Tổng kim ngạch XNK Việt Nam giai đoạn 1991 - 2000 Kim ngạch xuất khẩu (tr.USD) Tổng kim ngạch XNK so GDP (%) Kim ngạch XK so GDP (%) Kim ngạch xuất khẩu (USD/ người/năm) 1991 2.087,1 29,5 13,9 30 1992 2.580,7 31,4 15,8 37 1993 2.985,2 39,2 17 42 1994 4.054,3 52 21,3 56 1995 5.448,9 64,8 26 74 1996 7.255,9 80 31,5 96 1997 9.185,0 80,6 35,6 116 1998 9.360,3 77,7 35,1 120 1999 11.540,0 81,1 40,3 150 2000 14.308,0 95,7 46,4 180 Nguồn:Báo cáo tổng kết của vụ XNK-Bộ Thương Mại Cơ cấu xuất nhập khẩu chuyển dịch theo hướng tích cực: Tỷ trọng xuất khẩu lúa gạo và dầu thô giảm còn khoảng 30% năm 1996 (năm 1990 là 40%). Tỷ trọng hàng chế biến tăng từ 8% năm 1991 lên 20% năm 1996, khoảng 35% năm 1999 và gần 40% năm 2000. Năm 1991 mới có 4 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 100 triệu USD là dầu thô, thuỷ sản, gạo và hàng dệt may thì năm 2000 đã có thêm 8 mặt hàng là cà phê, cao su, điều, giày dép than đá, điện tử, thủ công mỹ nghệ và rau quải (đến năm 2000, trong 12 nhóm hàng này có 4 nhóm - dầu thô, dệt may, hải sản, giày dép - có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD). Tuy nhiên, rõ ràng cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn rất bất hợp lý. Theo một số tính toán cứ 6 USD kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thì chỉ có 1 USD là hàng gia công. Xuất khẩu nguyên liệu thô vẫn là chủ yếu (trên 70% kim ngạch xuất khẩu). Trong khi đó ở Trung Quốc năm 1994 xuất khẩu nguyên liệu thô chỉ chiếm có 16,3%. Bảng 2: Cơ cấu hàng xuất khẩu giai đoạn 1991 - 2000 199 1 199 2 199 3 199 4 199 5 199 6 1997 1998 1999 200 Nhóm I(%) 33,4 37,1 34,0 28,8 25,3 27,6 24,1 24,0 24,6 25,0 Nhóm II (%) 14,4 13,5 17,6 23.1 28,4 30,1 35,8 35,6 36,5 35,5 Nhóm III (%) 52,2 49,4 48,4 48,1 46,3 42,3 40,1 39,4 38,9 39,5 0 - Nhóm I: Công nghiệp nặng - khoáng sản - Nhóm II: Công nghiệp nhẹ - tiểu thủ công nghiệp - Nhóm III: Nông lâm thuỷ sản (Nguồn : Báo cáo tổng kết của vụ XNK-Bộ Thương Mại) Nhập khẩu cơ bản đã phục vụ có hiệu quả cho phát triển sản xuất và đổi mới công nghệ, thúc đẩy nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hoá, đáp ứng các nhu cầu cần thiết của đời sống nhân dân. Nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên nhiên - vật liệu phục vụ cho sản xuất chiếm vị trí chủ yếu, tỷ trọng hàng tiêu dùng giảm hẳn, tình trạng nhập siêu lớn thuyên giảm đáng kể. Năm 2000, tư liệu sản xuất chiếm gần 95% kim ngạch nhập khẩu, trong đó 26 - 27% là máy móc thiết bị, 68% là nguyên nhiên vật liệu; hàng tiêu dùng chỉ chiếm khoảng 5% (tỷ lệ này năm 1990 là 15%). Nhập siêu giảm cả về giá trị tuyệt đối và tương đối. Năm 1996 nhập siêu gần 4 tỷ nhưng năm 1999 thâm hụt thương mại chỉ còn 0,2 tỷ USD, tỷ trọng nhập siêu giảm từ 33% kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 1991 - 1995 xuống còn 18% thời kỳ 1996 - 2000. Bảng 3:Cơ cấu hàng nhập khẩu giai đoạn 1991 - 2000 NĂM TƯ LIỆU SẢN XUẤT (%) HÀNG TIÊU DÙNG (%) 1991 89,9 10,1 1992 83,4 16,6 1993 84,4 15,6 1994 82,2 17,8 1995 83,5 16,5 1996 87,6 12,4 1997 89,9 10,1 1998 91,5 8,5 1999 93,7 6,3 2000 94,8 5,2 (Nguồn:Báo cáo tổng kết của vụ XNK-Bộ Thương Mại) Hiện nay, nước ta đã mở rộng đáng kể thị trường, có quan hệ với trên 160 nước và vùng lãnh thổ, có hiệp định thương mại với trên 61 nước. Đồng thời, Việt Nam đã bước đầu hội nhập với các thể chế kinh tế - thương mại khu vực và trên thế giới với việc tham gia ASEAN (1995), ASEM (1996), APEC (1998) và xúc tiến đàm phán để tham gia WTO. Kim ngạch xuất khẩu năm 2002 đạt 16,7 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm 2001, đạt được mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 12/2001/NQ-CP ngày 02/11/2001 của Chính phủ, trong đó có một số mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao như hàng dệt may (+39,3%), giầy dép (19,7%), hàng TCMN (+40%), sản phẩm gỗ (+30%), cao su (+61,4%), hạt điều (+38%). Tốc độ tăng trưởng này không chỉ phản ánh sự “bứt phá” trong những tháng cuối năm mà chính là kết quả của quá trình phấn đấu bền bỉ trong cả năm 2002, thể hiện nỗ lực vượt bậc của tất cả các ngành, các cấp và các doanh nghiệp. Đáng chú ý là trong hoàn cảnh kinh tế, thương mại thế giới năm 2002 còn khá trì trệ, sức mua vẫn yếu nhưng sức tiêu thụ nhìn chung vẫn được đảm bảo, nhiều mặt hàng vẫn có lượng xuất khẩu tăng, trong đó có cả những mặt hàng nông sản như lạc nhân, cao su, hạt tiêu, hạt điều, chè. Riêng gạo và cà phê lượng xuất khẩu có giảm nhưng nguyên nhân là do chuyển dịch cơ cấu kết hợp với tác động của hạn hán, không phải do thiếu thị trường. Cơ cấu hàng xuất khẩu có sự chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng của nhóm hàng chế biến chủ lực tăng từ 36,3% vào năm 2001 lên 39% vào năm 2002 nhờ sự tăng trưởng cao của các mặt hàng dệt may, giày dép, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm gỗ. Về thị trường, nét nổi bật là xuất khẩu sang Hoa kỳ tăng nhanh, nhất là đối với mặt hàng dệt may. Kết quả này một mặt khẳng định ý nghĩa công tác đàm phán mở cửa thị trường, mặt khác cho thấy sự năng động và nhanh nhạy của các doanh nghiệp đối với việc tiếp cận thị trường mới. II. Thực trạng trợ cấp xuất khẩu của Việt nam 1. Một số thành tựu đã đạt được trong thời gian qua Để phấn đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ xuất khẩu năm 2003, ngay từ đầu năm Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã có sự chỉ đạo rất sâu sát và quyết liệt. Trên cơ sở kiến nghị của Bộ Thương mại, ngày 20/01/2003 Chính phủ đã có văn bản số 78/CP-KTTH về các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu năm 2003. Trong hai ngày 20-21/02/2003 Bộ thương mại đã tổ chức hội nghị thương mại toàn quốc 2003 để bàn các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển thị trường nội địa góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội năm 2003. Sau đây là một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu năm 2003: 1.1- Về tín dụng hỗ trợ xuất khẩu năm 2003: Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, sau khi trao đổi với các Bộ, ngành hữu quan, Bộ thương mại ban hành quyết định số 0271/2003/QĐ-BTM ngày 13/3/2003 về danh mục mặt hàng được hưởng tín dụng hỗ trợ xuất khẩu năm 2003 bao gồm 18 nhóm hàng: 1- Gạo 2- Lạc nhân 3- Cà phê 4- Chè 5- Hạt tiêu 6- Hạt điều (đã qua chế biến) 7- Rau quả (hộp, tươi, khô, sơ chế, nước quả) 8- Đường 9- Thuỷ sản 10- Thịt gia súc, gia cầm 11- Gốm, sứ 12- Đồ gỗ mỹ nghệ 13- Mây tre lá 14- Sản phẩm tơ và lụa 15- Sản phẩm dây điện, cáp điện 16- Sản phẩm cơ khí trọng điểm 17- Hàng dệt kim 18- Máy tính nguyên chiếc và phụ kiện So với năm 2002, danh mục của năm 2003 được bổ sung thêm một số mặt hàng mới là đường, sản phẩm dây điện, cáp điện, sản phẩm cơ khí trọng điểm, máy tính nguyên chiếc và phụ kiện, sản phẩm tơ và lụa. Riêng nhóm hàng dệt may chỉ giữ lại hàng dệt kim trong danh mục được hưởng tín dụng hỗ trợ xuất khẩu. Trong xu thế thị trường thương mại thế giới ngày càng mở rộng, nhu cầu về thị trường hàng hoá xuất nhập khẩu, thị trường đầu tư đã trở thành nhu cầu cấp thiết của các doanh nghiệp Việt Nam. Hoạt động của tài trợ ngân hàng không chỉ tạo điều kiện thuận lợi về tài chính cho nhà xuất khẩu mà còn cho cả nhà nhập khẩu. Tài trợ ngân hàng đã thúc đẩy quá trình hoạt động của kinh tế xã hội, thúc đẩy phát triển sản xuất, tạo nên sự cân bằng trong cán cân thanh toán xuất nhập của nhà nước, trong đó vai trò của ngân hàng lúc này hết sức quan trọng để góp phần thực hiện thắng lợi các chiến lược kinh tế. Thông qua tài trợ ngân hàng giúp doanh nghiệp xuất khẩu cũng như doanh nghiệp nhập khẩu thực hiện được những thương vụ lớn: có những thương vụ trong thương mại quốc tế đòi hỏi nguồn vốn rất lớn để thanh toán tiền hàng. Do đặc điểm của vận chuyển hàng hải, các mặt hàng thiết yếu như phân bón, sắt thép, gạo, bột mỳ.... thường hai bên mua bán với số lượng nguyên tàu hàng (từ 10.000 đến hai 20.000 tấn) nhằm tiết kiệm chi phí vận chuyển, thuận lợi trong công tác giao nhận, nên kéo theo giá trị lô hàng cũng rất lớn. Trong trường hợp này, vốn lưu động của doanh nghiệp không đủ để chuẩn bị hàng xuất hoặc thanh toán tiền nhập, tài trợ ngân hàng là giải pháp giúp doanh nghiệp thực hiện những hợp đồng dạng này. Để đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng, ngân hàng phải huy động vốn từ những người gửi tiền, vay từ các ngân hàng thương mại khác, phải cân đối lãi suất và thời hạn đầu vào so với lãi suất và thời hạn cho vay sao cho đủ bù đắp chi phí, rủi ro thấp nhất và có lãi. Do đặc thù của các giao dịch xuất nhập khẩu, các giao dịch thanh toán thường vượt ra ngoài phạm vi một quốc gia, nên những khoản tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thường kèm theo các giao dịch thanh toán. Những khoản tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thường liên quan đến ba “khu vực” của quá trình sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu: - Khu vực thứ nhất là sản xuất, khai thác nguyên liệu cho xuất khẩu. Những khoản tín dụng loại này thường có cả ngắn hạn, trung và dài hạn, cả nội tệ và ngoại tệ để hỗ trợ vốn hoạt động sản xuất, nhập khẩu vật tư, thiết bị đầu vào. - Khu vực thứ hai là thu mua, chế biến hàng xuất khẩu. Đối với hoạt động này, khách hàng thường cần những khoản tín dụng ngắn hạn bằng nội tệ. Tuy nhiên, đây cũng là khu vực yêu cầu lượng tín dụng trung, dài hạn lớn, nếu khách hàng đầu tư vào xây dựng cơ bản, mua sắm thiết bị và những dây chuyền chế biến công nghệ cao. - Khu vực thứ ba là lưu thông và xuất khẩu. Những khoản tín dụng ngân hàng cho khu vực này thường có thời hạn ngắn, chủ yếu nhằm đáp ứng vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu tiếp tục chu trình sản xuất kinh doanh mới trong thời gian kể từ khi giao hàng đến khi nhận được thanh toán từ đối tác nhập khẩu nước ngoài. Khách hàng vay những khoản tín dụng từ ngân hàng cho ba khu vực trên thường là khác nhau, nhưng cả ba khu vực đó lại có mối quan hệ khăng khít và hỗ trợ nhau cùng phát triển. Khép kín hoạt động đầu tư cho ba khu vực này không chỉ giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định cho sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong quá trình thu nợ, hạn chế rủi ro cũng như mở rộng hoạt động tín dụng và các dịch vụ khác có liên quan. Như vậy: Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là sự hỗ trợ về mặt tài chính để các nhà xuất khẩu nước sở tại đẩy mạnh sản xuất, khuyến khích xuất khẩu, đồng thời giúp đỡ các nhà nhập khẩu nước ngoài có đủ điều kiện về tài chính để mua hàng hoá của nước đó. * Một số hình thức tài trợ xuất khẩu. Thông thường, nghiệp vụ tín dụng XNK của NHTM gắn liền với nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Sự phát triển của hoạt động, nghiệp vụ này sẽ là tiền đề, nền tảng hoặc bổ sung cho sự phát triển của hoạt động, nghiệp vụ kia. Mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời này có thể được dẫn giải như sau: Với những hợp đồng ngoại thương giá trị vừa và lớn, vốn lưu động của khách hàng thường không đủ để thực hiện hợp đồng. Khi đó, họ phải nhờ đến nguồn vốn của NH thông qua các khoản tín dụng NH. Ngân hàng khi đó vừa là NH phục vụ người XK vừa là NH tài trợ cho thương vụ được thực hiện. Và như vậy, hoạt động mua bán quốc tế gắn liền với các thể thức thanh toán, tài trợ XNK. Hoạt động mua bán quốc tế càng được mở rộng thì các hình thức thanh toán và tài trợ XNK càng phải phát triển hoàn thiện và đa dạng. - Đối với hoạt động xuất khẩu: + Tín dụng chiết khấu hối phiếu: Tín dụng chiết khấu hối phiếu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn được thực hiện bằng hình thức ngân hàng mua lại các hối phiếu thương mại trước khi đến hạn thanh toán và khách hàng sẽ nhận được số tiền bằng mệnh giá của hối phiếu đã trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí chiết khấu. Tín dụng chiết khấu hối phiếu tạo điều kiện thuận lợi cho nhà xuất khẩu trong việc tái đầu tư đối với khoản tín dụng cung ứng mà anh ta đã cấp cho nhà nhập khẩu. + Tín dụng ứng trước đối với nhà xuất khẩu: Khi nhà xuất khẩu có toàn quyền sở hữu đối với bộ chứng từ hàng xuất mà bộ chứng từ này thể hiện nội dung và giá trị hàng hoá đã chuyển giao, anh ta có thể nhận được khoản tín dụng ứng trước bằng cách bán lại bộ chứng từ hàng hoá này cho ngân hàng. Bằng cách đó, nhà xuất khẩu được bù đắp nguồn vốn để tiếp tục kinh doanh trong suốt thời gian từ khi gửi hàng cho đến khi nhận được tiền từ nhà nhập khẩu. Điều kiện để nhận được khoản tín dụng này là khả năng truy hoàn của nhà xuất khẩu. Các chứng từ liên quan nhất thiết phải là chứng từ có giá trị để cấp tín dụng, không được phép chuyển nhượng cho người thứ ba để sử dụng. Các ngân hàng thường ký với nhà xuất khẩu một hạn mức tín dụng để sử dụng cho loại hình cho vay này. Tuy nhiên khoản vay này chỉ được cấp căn cứ vào giá trị của bộ chứng từ và với một tỷ lệ tối đa nhất định tuỳ theo loại hàng hoá và khả năng thanh toán của khách hàng (khoảng 70 →80% giá trị hàng hoá). + Cho vay chiết khấu hoặc ứng trước chứng từ hàng xuất khẩu: Để đáp ứng nhu cầu vốn, nhà xuất khẩu sau khi giao hàng xong có thể thương lượng với ngân hàng thực hiện chiết khấu bộ chứng từ, hoặc ứng trước tiền khi bộ chứng từ được thanh toán. Như vậy đối với nhà xuất khẩu, L/C không chỉ là công cụ đảm bảo thanh toán mà còn là công cụ đảm bảo tín dụng. Chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất là hình thức ngân hàng tài trợ cho nhà xuất khẩu thông qua việc mua lại hoặc cho vay trên cơ sở giá trị bộ chứng từ xuất khẩu hoàn hảo được người xuất khẩu trình. Hình thức này thường được sử dụng để tài trợ xuất khẩu trong ngắn hạn. + Bao thanh toán tương đối (Factoring): Đây là hình thức tài trợ trung và dài hạn, đặc biệt dành cho nhà xuất khẩu, ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính sẽ mua lại các chứng từ thanh toán, các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán để trở thành chủ nợ trực tiếp, đứng ra đòi nợ nhà nhập khẩu. Factoring không được sử dụng L/C cũng như các hối phiếu ngoại thương vì Factoring chỉ được sử dụng cho những hoạt động xuất khẩu thường xuyên theo định kỳ, theo hợp đồng dài hạn và cho nhiều nhà xuất khẩu khác nhau trong cùng một nước hoặc cho nhiều nước trong cùng một thời điểm. Do vậy, đối tượng mua bán của Factoring là những tổ hợp kinh tế có doanh số hoạt động xuất nhập khẩu hàng năm lớn. Nghiệp vụ Factoring có những chức năng sau: - Chức năng dịch vụ thanh toán: Tổ chức Export factor đảm nhiệm mọi nhiệm vụ thanh toán cho nhà xuất khẩu về những khoản thanh toán chuyển nhượng, đảm nhiệm mọi nghiệp vụ nhờ thu hoặc thông báo cho nhà xuất khẩu giải quyết những vướng mắc trong thanh toán. Như vậy, Export factor thực hiện tất cả các nghiệp vụ ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu. Hơn nữa, nó còn thực hiện chức năng kiểm tra và giám sát khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu. - Chức năng tài chính: Export factor đảm nhiệm chức năng tài chính cung ứng cho nhà xuất khẩu. Cơ sở để nó đảm nhiệm việc này là mối quan hệ giao dịch giữa Export factor và Import factor. + Nghiệp vụ tài chính ứng trước: Dù hợp đồng Factoring được ký kết từ trước, nhưng ngày có hiệu lực là ngày thanh toán theo định kỳ của nhà nhập khẩu. Do đó, nếu muốn sử dụng vốn trước ngày này, nhà xuất khẩu có thể vay của tổ chức Factoring. Khoản tín dụng ứng trước này được thực hiện như tín dụng luân chuyển và nhà xuất khẩu trả lãi cho khoản tín dụng này như lãi suất luân chuyển thông thường và hạn mức tín dụng từ 70→ 90% khoản thanh toán. * Vai trò của tín dụng tài trợ xuất khẩu Tài trợ xuất nhập khẩu là một mảng dịch vụ thuộc hệ thống tất cả các dịch vụ chuyên biệt của ngân hàng nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động xuất nhập khẩu. Bằng các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, ngân hàng cung ứng vốn bằng tiền hoặc bảo lãnh cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp gia tăng hiệu quả kinh doanh và thực hiện các thương vụ thành công. Chính vì vậy, tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng với tất cả các bên tham gia vào lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu. - .Đối với doanh nghiệp XK: - Tín dụng XNK của NH giúp doanh nghiệp thực hiện được những thương vụ lớn. Thực tế cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp XNK, đặc biệt là các doanh nghiệp XNK của Việt Nam hiện nay, có năng lực tài chính rất hạn chế. Trong khi đó, có những thương vụ trong ngoại thương đòi hỏi phải có một nguồn vốn lớn để có thể thực hiện được hợp đồng. Tín dụng NH cho hoạt động XNK chính là giải pháp giúp doanh nghiệp thực hiện được những hợp đồng dạng này. Hơn thế nữa, trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt, “thương trường như chiến trường” hiện nay, các doanh nghiệp chỉ có thể bán được hàng khi chấp nhận bán hàng trả chậm, trả gối đầu. Song việc thu hồi nợ bán hàng gối đầu đang ngày càng trở thành nỗi lo của các doanh nghiệp XNK. Nguy cơ mất trắng hàng trăm tỷ đồng từ phương thức bán hàng trả chậm, gối đầu đang là thực tế đáng lo ngại cho các doanh nghiệp. Tín dụng XNK của NH đã khiến cho các nhà XNK yên tâm hơn trong hoạt động kinh doanh của mình, từ đó khắc phục được nguy cơ sụt giảm trong hoạt động bán hàng trả chậm nói riêng và nguy cơ sụt giảm trong doanh số bán hàng XNK nói chung. - Trong quá trình đàm phán, thương lượng, ký kết hợp đồng ngoại thương, một doanh nghiệp đã được NH đứng ra bảo lãnh, cấp tín dụng sẽ có lợi thế rất lớn. Bởi vì khi đó, khả năng thực hiện hợp đồng của doanh nghiệp được khẳng định. Cùng với nghệ thuật đàm phán, và vị thế sẵn có của mình, doanh nghiệp hoàn toàn có thể giành được nhiều điều kiện có lợi cho mình trong quá trình thực hiện thương vụ. - Tín dụng XNK giúp cho doanh nghiệp đạt được hiệu quả cao trong quá trình thực hiện hợp đồng: Thông qua tài trợ của NH, doanh nghiệp sẽ có đủ vốn để thực hiện thương vụ. Đối với doanh nghiệp XK, vốn tài trợ giúp doanh nghiệp thu mua hàng đúng thời vụ, gia công, chế biến và giao hàng đúng thời điểm. Đối với doanh nghiệp NK, vốn tài trợ của NH giúp doanh nghiệp mua được những lô hàng lớn, giá hạ, đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường trong nước. Qua đó, giúp các doanh nghiệp XNK chớp được thời cơ kinh doanh thu lợi nhuận cao, tạo điều kiện mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tồn tại, đứng vững và cạnh tranh được trên thị trường; đồng thời thực hiện được các nghĩa vụ đối với nhà nước. - Bên cạnh đó, tín dụng XNK của NH còn giúp cho các doanh nghiệp có vốn để nhập máy móc thiết bị hiện đại, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, dây truyền sản xuất, chế biến, trên cơ sở đó, nâng cao chất lượng hàng hoá, hạ được giá thành sản phẩm, tạo khả năng cạnh tranh cả trên thị trường trong nước và quốc tế. - Ngoài ra, tài trợ của NH còn góp phần nâng cao uy tín của doanh nghiệp XNK trên thị trường quốc tế. Sở dĩ như vậy là do nhờ có tài trợ của NH, doanh nghiệp XNK có khả năng thực hiện có hiệu quả những thương vụ lớn, có khả năng quan hệ, làm ăn với các khách hàng tầm cỡ trên thế giới, từ đó củng cố, nâng cao được uy tín, vị trí của mình trên thị trường thế giới. - Đối với nền kinh tế đất nước: - Tín dụng XNK của NHTM tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động kinh doanh XNK và lưu thông hàng hóa XNK. Nhờ có tài trợ của ngân hàng, hàng hoá được xuất, nhập phù hợp với yêu cầu của thị trường về số lượng, chất lượng, thời vụ..., đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng thiết yếu cho đời sống và sinh hoạt của nhân dân, góp phần làm ổn định thị trường và tăng tính năng động của nền kinh tế. - Với các khoản tín dụng XNK của NH, doanh nghiệp XNK có điều kiện thay đổi, hiện đại hoá dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất... Nhờ đó, có điều kiện phát triển, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, làm tốt các nghĩa vụ đối với nhà nước và làm động cơ thúc đẩy nền kinh tế phát triển. - Tín dụng XNK còn góp phần đáng kể phục vụ chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế đất nước của Đảng và Nhà nước, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước trên thế giới. Từ những phân tích trên đây, có thể thấy rằng, với tư cách là một thành viên hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế, các NHTM cùng với hoạt động tài trợ thương mại quốc tế của mình, đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước, cho cân bằng cán cân thanh toán quốc gia. Và tín dụng XNK của NHTM chính là một trong những công cụ để triển khai có hiệu quả các chiến lược phát triển kinh tế - chính trị - xã hội của một đất nước. Cùng với sự phát triển của ngoại thương và hệ thống ngân hàng, hoạt động tín dụng XNK của NH cũng phát triển ngày càng phong phú.Từ hình thức đơn giản ban đầu là cho vay trực tiếp, ngắn hạn, đến nay, các NHTM đã thực hiện nhiều hình thức tín dụng XNK đa dạng và có hiệu quả cao. 1.2. Về thưởng kim ngạch xuất khẩu: Tại văn bản số 78/CP-KTTH Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Thương mại cùng Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng cơ chế thưởng khuyến khích xuất khẩu đối với phần kim ngạch vượt so với kim ngạch xuất khẩu năm 2002 (theo danh mục mặt hàng đã được thưởng xuất khẩu năm 2002). Để triển khai thực hiện, Bộ Thương mại đang trao đổi với các bộ, ngành hữu quan để xây dựng cơ chế thị thưởng theo hướng tiếp cận như sau: Tốc độ tăng trưởng kim ngạch bình quân toàn ngành của mặt hàng được thưởng năm 2003 so với năm 2002 sẽ là căn cứ tham khảo để xác định điều kiện được thưởng đối với doanh nghiệp. Trong quý II/2003, trên cơ sở đánh giá tiềm năng xuấ khâu cả năm và biến động của thị trường, Bộ thương mại sẽ công bố mục tiêu tăng trưởng đối với từng mặt hàng trong năm 2003 để doanh nghiệp có định hướng phấn đấu. Chỉ những doanh nghiệp nào có mức tăng kim ngạch đối với mặt hàng được thưởng cao hơn mức tăng bình quân mà Bộ thương mại công bố mới được xét thưởng. Sau khi đánh giá tiềm năng của ngành rau quả, Bộ thương mại công bố mục tiêu phấn đấu đối với mặt hàng rau quả năm 2003 (ví dụ) là tăng kim ngạch 10%. Như vậy, chỉ những doanh nghiệp nào có kim ngạch xuất khẩu rau quả tăng từ 10% trở lên mới thuộc diện xét thưởng. Nếu chỉ đạt mức tăng thấp hơn10% thì không được thưởng. 1.3. Về việc xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm: Ngày 24/01/2003 Bộ Thương mại đã ban hành Quyết định số 0104/2003/QĐ-BTM về Quy chế xây dựng và quản lý chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia. Theo quyết định này các tổ chức xúc tiến thương mại thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, các hiệp hội ngành hàng; các Tổng công ty ngành hàng là cơ quan đầu mối đề xuất chương trình gửi về Bộ Thương mại. Trên cơ sở các đề xuất này, Bộ thương mại thẩm định, đánh giá và xây dựng chương trình và tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trước mắt đối với năm 2003, trên cơ sở đề xuất của các Bộ, ngành, Hiệp hội và Tổng Công ty, Bộ Thương mại đang khẩn trương tổng hợp các chương trình xúc tiến thương mại để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Dự kiến sẽ hoàn thành trong tháng 4/2003. 1.4. Về chi phí đối với giao dịch, tiếp thị của các doanh nghiệp: Đối với hoạt động giao dịch, tiếp thị của các doanh nghiệp, Bộ Tài chính qui định mức chi phí tối đa đối với các hoạt động này không được vượt quá 7% tổng chi phí của doanh nghiệp. 1.5. Điều chỉnh một số quy định về thuế GTGT a. Về việc thanh toán qua ngân hàng trong hoạt động xuất khẩu Thời gian qua, các quy định về thuế GTGT đã được siết chặt hơn để hạn chế gian lận thương mại. Nghị định số 76/2002/NĐ-CP ngày 13/09/2002 của Chính phủ quy định cơ sở kinh doanh xuất khẩu các hàng hóa, dịch vụ được áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% phải thanh toán tiền bán hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu qua ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có văn bản 1186/NHHH - QLNH ngày 1/11/2002 hướng dẫn quy định trên. b. Về phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng: Đề nghị Bộ Tài chính ra soát lại các quy định về việc áp dụng phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng. Theo quy định của Bộ Tài chính, phương pháp thu này được áp dụng đối với một số doanh nghiệp chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hóa đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ. 1.6. Rà soát để giảm chi phí dịch vụ đầu vào đối với xuất khẩu: Vấn đề chi phí dịch vụ đầu vào đối với hàng xuất khẩu đã được các Bộ ngành và nhiều doanh nghiệp phản ảnh. Tại Nghị quyết số 05/2002/NQ-CP ngày 24/04/2002 của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với một số Bộ, ngành hữu quan tiến hành rà soát lại các chi phí này để báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Thực hiện chủ trương trên của Chính phủ, từ 1/4/2003 Bộ Bưu chính Viễn thông sẽ áp dụng giảm giá cước đối với một loạt các dịch vụ viễn thông, trong đó có cước dịch vụ điện thoại quốc tế, cước truy cập Internet, cước hòa mạng và thông tin điện thoại di động. Đây là đợt giảm giá có quy mô lớn nhất từ trước đến nay của ngành bưu chính viễn thông nhằm rút ngắn lộ trình đưa giá cước viễn thông của ta xuống mức bằng và thấp hơn so với một số nước trong khu vực. 1.7. Về quỹ bảo lãnh tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tháng 11/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định về trợ giúp phát triển các doanh nghiệp nhỏ và (SME). Tháng 12/2001, trên cơ sở đề xuất của Bộ Tài chính, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quy chế giao cho các tỉnh, thành tự đứng ra thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng cho SME. Nhờ có các chính sách trợ cấp của Chính phủ cho các mặt hàng xuất khẩu nên Việt nam đã đạt được mức xuất khẩu cao. Các mặt hàng của Việt nam đã có mặt trên nhiều thị trường quốc tế. Do được trợ cấp từ khâu nguyên liệu đến thành phẩm nên có sức canh tranh mạnh Hiện gạo do Việt Nam sản xuất có chi phi thấp hơn nhiều so với gạo nhập khẩu. Chính vì vậy, trong nhiều năm qua Việt Nam luôn là một trong số những nước xuất khẩu gạo hàng đầu trên thế giới. Tuy nhiên, đối với một số chủng loại gạo cao cấp, chủ yếu được tiêu dùng ở các đô thị thì gạo nhập khẩu từ Thái lan đang có khả năng cạnh tranh tương đối cao so với gạo được trồng trong nước. Hiện tại, lượng nhập khẩu gạo chưa nhiều nên có lẽ ta cũng chưa nên đánh thuế chống trợ cấp đối với gạo nhập khẩu. Tuy nhiên, trong tương lai nếu lượng nhập khẩu gia tăng thì ta có thể xem xét đánh thuế chống trợ cấp đối với gạo Thái lan. Do được nhà nước cho vay vốn đầu tư nuôi trồng thuỷ sản, Việt nam được đánh giá là nước xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu thế giới hiện nay. Có thể nói hàng thuỷ sản xuất khẩu là mặt hàng có thị trường xuất khẩu còn triển vọng sáng sủa. Trên thị trường thế giới, hàng thuỷ sản được xếp vào nhóm sản phẩm cơ bản, luôn trong tình trạng cung không đáp ứng được cầu ở quy mô toàn cầu. Buôn bán hàng thuỷ sản thế giới đã tăng với nhịp độ trung bình hàng năm trên 10% vào thời kỳ 1985 -1995. Từ năm 1995 trở lại đây, tuy nhịp độ tăng ngach xuất khẩu thuỷ sản có chậm hơn thời kỳ trước, nhưng thị trường thuỷ sản thế giới vẫn tiếp tục mở rộng với kim ngạch xuất khẩu của toàn thế giơí xấp xỉ 60 tỷ USD. Xu hướng thị trường tương lai dự báo vẫn phát triển ổn định, đặc biệt đối với các sản phẩm thuỷ sản thực phẩm chế biến sâu, thuỷ sản ăn liền và thuỷ sản sống có giá trị gia tăng cao. Sản lượng thuỷ sản của Việt nam liên tục tăng thời gian từ năm 1995 trở lại đây: năm 2000 sản lượng thủy sản cả nước đạt 2,22 triệu tấn, tăng gần 1 triệu tấn so với năm 1995, trong đó thuỷ sản khai thác đạt 1,65 triệu tấn chiếm 74,3% tổng sản lượng còn thuỷ sản nuôi trồng đạt 0,57 triêu tấn, chiếm 25,7%. Nhịp độ tăng sản lượng thuỷ sản trung bình hàng năm thời kỳ 1996-2000 là 12,3%. Năm 2001 sản lượng thuỷ sản cr nước đạt 2,4 triệu tấn, tăng 7,7% so với 2000, trong đó sản lượng thuỷ sản khai thácđạt 1,74 triệu tấn chiếm 72,5%tổng sản lượng còn thuỷ sản nuôi trồng đạt 0,66 triệu tấn, chiếm 27,5%. Xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam đã tăng từ 239 triệu USD năm 1990 lên 979 triệu USD năm 1999, 1475 triệu USD năm 2000 và 1800 triệu USD năm 2001. Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng gấp 6,2 lần so với năm 1990. Nhịp độ tăng xuất khẩu trung bình hàng năm thời kỳ 1991-2000 đạt 20%. Năm 2001, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng 22% so với năm 2000. Với kim ngạch xuất khẩu lơn ( đứng thứ ba sau dầu thô -3,17 tỷ USD và dệt may - 2 tỷ USD) và nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu cao, thuỷ sản thực sự trở thànhmột trong những động lực thúc đẩy tăng xuất khẩu chung của đất nước. Đóng góp của của riêng xuất khẩu thuỷ sản vào nhịp độ tăng xuất khẩu chung của đất nước năm 2001 đã là 2,58%. Cùng với việc đa dạng hoá sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu, vấn đề đa dạng hoá thị trường xuất khẩu cũng đạt được những thành tích rất đáng khích lệ. Đến nay thuỷ sản xuất khẩu của Việt nam đã có mặt ở hơn 60 nước trên thế giới. Trước đây, thị trường Nhật bản thường chiếm tỷ trọng 50-60% xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam, đến nay giảm xuống chỉ còn dưới 30%. Đặ biệt, từtháng 8/2001, Mỹ đã vượt lên thay thế Nhật bản trở thành thị trường xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất của Việt nam, đẩy Nhật bản xuống hàng thứ hai. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam sang Nhật bản năm 2001 đạt 471 triệu USD, chiếm 26,2% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam. Thị trường Mỹ là một trong ba thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn nhất thế giới và là thị trường nhập khẩu lớn nhất hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt nam hiện nay. Tỷ trọng của thi trường Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩuthuỷ sản của Việt nam tăng lên nhanh chóng trong thời gian 5 năm trở lại đây: Năm 1997, thị trường Mỹ mới chiếm khoảng 7%-8% xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam, năm 1999 tăng lên 13,3%, năm 2000 lên 21%, năm 2001 lên 28,5% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam. Ngoài những mặt hàng kể trên thì kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm khác như may mặc, giày dép, thủ công mỹ nghệ cũng tăng lên đáng kể. 2. Những thách thức đối với trợ cấp xuấ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8180.doc