Trình bày tích luỹ tư bản về mặt chất & về mặt lượng, ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu

trình bày tích luỹ tư bản về mặt chất và về mặt lượng, ý nghĩa thực tiến rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này với việc quản lý các doanh nghiệp ở nước tă hiện nay khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước đặt vấn đề Sự chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là bước đi đúng đắn cuả Đảng và Nhà nước ta. Những thành tựu đã đạt được trong 15 năm qua là sự cố gắng của

doc23 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1622 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Trình bày tích luỹ tư bản về mặt chất & về mặt lượng, ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhiều cấp nhiều ngành, nhiều thành phần kinh tế đem lại bộ mặt phát triển cho Việt Nam tạo bước đi và khẳng định vị thế trong khu vực và trên thế giới. Một trong các yếu tố đem lại thành công thì vấn đề huy động vốn và sử dụng vốn là yếu tố quan trọng và cơ bản nhất bởi lẻ nó là điều kiện cần thiết, yêu cầu tất yếu đối với quá trình phát triển của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới đặc biệt là Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tích luỹ vốn để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật đáp ứng cho mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trong doanh nghiệp vấn đề tích luỹ vốn được xem là yếu tố để doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất tăng khả năng cạnh tranh và đem lại thu nhập cao trong tương lai, cùng với nó việc phân bố và sử dụng hiệu quả cũng là bài toán đòi hỏi các doanh nghiệp cần có sự lựa chọn và đưa ra các quyết định cần thiết. Thấy rõ được tầm quan trọng của việc tích luỹ vốn hiện nay, trong giới hạn của bài viết này em tập trung nghiên cứu vấn đề tích luỹ tư bản ở các góc độ mặt chát và mặt lượng đồng thời đưa ra các giải pháp có tính khả thu nhằm thúc đẩy quá trình tích luỹ đáp ứng nhu cầu trong doanh nghiệp nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung trong giai đoạn tới. Bài viết dưới dạng để án của môn Kinh tế chính trị nên nội dung gồm có: Phần I : Lý luận chung về tích luỹ tư bản Phần II: Làm rõ các khái niệm: doanh nghiệp, vốn doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phần III: ý nghĩa thực tiênhững mà việc nghiên cứu. Được sự hướng dẫn và giúp đỡ của thầy cô giáo Kinh tế Chính trị, sự cố gắng của bản thân, em đã hoàn thành bài viết này. Trong quá trình làm bài em không thể tránh được sai sót và hạn chế. Rất mong sự đóng góp ý kiến sửa chữa khắc phục sai sót để bài viết này trở nên hoàn thiện và mang lại ý nghĩa thực tiễn. Giải quyết vấn đề A. Lý luận chung về tích luỹ tư bản I. Mặt chất của tích luỹ tư bản. 1. Thực chất và động cơ của tích luỹ tư bản. Để làm rõ khái niệm thế nào là tích luỹ tư bản? Chúng ta cần phân biệt tái sản xuất giản đơn là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại và đổi mới không ngừng theo một qui mô không đổi năm sau bằng năm trước, còn tái sản xuất mở rộng cũng là quá trình sản xuất và đổi mới không ngừng với qui mô năm sau lớn hơn năm trước. Đặc trưng chủ yếu của chủ nghĩa tư bản là tái sản xuất mở rộng (mở rộng sản xuất) muốn thực hiện điều đó thì số giá trị thặng dư mà nhà tư bản bóc lột của công nhân không được đem hết cho tiêu dùng mà phải giành một phần cho tích luỹ để mua thêm tư bản khả biến và tư bản bất biến cho đầu vào của quá trình sản suất. Như vậy tích luỹ tư bản bằng cách tư bản hoá giá trị thặng dư. Ví dụ: Có một nhà tư bản cá biệt có lượng tư bản là 100(đv) trong đó gồm 80c và 20v. Nếu m’=100% thì sẽ thu được 20m. Giả sử trong 20m đó một nửa dành cho tiêu dùng cá nhân và một nửa cho tích luỹ (10m) số 10m này 8m cho c phụ thêm và 2m cho v phụ thêm. Như vậy đầu năm sau lượng tư bản sẽ là 110(đv) trong đó 88c và 22v. ở đây hưởng thụ của nhà tư bản và ý muốn làm giàu của họ về cơ bản là thống nhất với nhau vì ý muốn làm giàu tuy trước mắt có thể ảnh hưởn tới hưởng thụ của nhà tư bản nhưng về lâu dài nó lại tăng hưởng thụ của nhà tư bản do đó ý muốn chủ quan của nhà tư bản phù hợp với qui luật khách quan của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ngày nay tư bản tích luỹ chiếm một tỷ trọng ngày càng lớn trong toàn tư bản, lúc đầu bằng một lượng tư bản nhỏ và tài khéo léo của mình mà nhà tư bản đã làm cho qui mô và lợi nhuận không ngừng lớn mạnh. Các-mac đã nói “Tư bản ứng trước chỉ là một giọt nước trong dòng sông của sự tích luỹ mà thôi”. Động cơ của TLTB và tái sản xuất mở rộng TBCN. Mục đích của sản xuất tư bản là sự lớn lên không ngừng của giá trị để thực hiện mục tiêu đó các nhà tư bản không ngừng tích luỹ và tái sản xuất mở rộng xem đó là phương tiện để bóc lột công nhân và làm giàu cho bản thân. Như vậy tích luỹ giữ vai trò quyết định làm cho nền sản xuất tư bản lớn nhanh muốn tái sản xuất mở rộng thì phải có vốn lớn tích luỹ là nguồn gốc cơ bản tạo ra vốn lớn đó. Tích luỹ vốn gắn chặt với quá trình tái sản xuất mở rộng vì vậy muốn mở rộng sản xuất thì nhà tư bản phải tích luỹ vốn và chiếm dụng vốn . Mặt khác do cạnh tranh, các nhà tư bản buộc phải tích luỹ không ngừng làm cho tư bản của mình tăng lên. Nếu không tích luỹ thì không thể đứng vững trên thị trường đồng nghĩa với sự phá sản. Trên thực tế ban đầu nhà tư bản rất tiết kiệm để đầu tư mở rộng sản xuất để hy vọng vào kết quả đầu tư sản xuất của mình và tiêu dùng tư bản tăng lên cùng với thời gian cùng với sự lớn mạnh của qui mô tích luỹ. ở nước ta thì tích luỹ là để mở rộng sản xuất nâng cao hiệu quả sản xuất và xã hội vì mục tiêu cuả giai cấp công nhân và của toàn xã hội, mục tiêu “dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh”. Tích luỹ vốn được chúng ta coi là chiến lược và là chìa khoá của sự thành công trong quá trình phát triển. 2. Mặt lượng của tích luỹ. Mặt lượng của tích luỹ TB chính là qui mô khối lượng của tư bản cho tích luỹ, nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng tư bản dành cho tích luỹ chính là khối lượng giá trị thặng dư và tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư k cho tiêu dùng và đầu tư của nhà tư bản. Do đó nhân tố làm tăng qui mô tích luỹ cũng chính là nhân tố làm tăng lượng giá trị thặng dư các nhân tố đó là: Một là mức độ bóc lột sức lao động công nhân làm thuê cho nhà tư bản có nghĩa là họ đã bán sức lao động của mình cho nhà tư bản. Tận dụng thuần lợi này nhà tư bản bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công nhưng biện pháp mà nhà tư bản áp dụng chủ yếu đó là tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động. Việc tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động đã làm khối lượng giá trị thặng dư tăng lên và đã làm tăng tích luỹ. Việc tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động còn mang lại thuận lợi nữa đó là nhà tư bản được nhiềusản phẩm lao động hơn trong khi không cần tăng thêm tư bản bất biến mà chỉ cần tăng thêm nguyên vật liệu. Hai là trình độ năng xuất xã hội, việc nâng cao năng xuất xã hội làm tăng thêm giá trị thặng dư và tăng thêm yếu tố vật chất cho qúa trình tích luỹ khoa học kĩ thuật phát triển thì qui mô của tích luỹ càng lớn và do đó ảnh hưởng đến qui mô của tư bản xã hội. Ba là sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Trong quá trình sản xuất các bộ phận cấu thành nên máy móc đều hoạt động tức là nó tham gia hết vào quá trình sản xuất nhưng chúng chỉ hao mòn dần do đó giá trị được chuyển từng sản phẩm do vậy có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Những máy móc khi đã khấu hao hết nhưng vẫn thể dùng cho sản xuất chẳng khác nào lực lượng tư bản. Bốn là qui mô của tư bản ứng trước; với một trình độ bóc lột không đổi thì khối lượng gía trị thặng dư phụ thuộc vào tư bản ứng trước, do vậy tư bản ứng trước càng nhiều thì khối lượng giá trị thặng dư càng lớn. Xuất phát từ công thức Khi m’ không đổi thì v càng lớn thì khối lượng giá trị thặng dư càng nhiều tạo điều kiện để tăng qui mô của tích luỹ TB. Ngày nay do cấu tạo hữu cơ tư bản c/m tăng lên mới nhìn ta tưởng rằng người lao động ngày càng được nghỉ ngơi thế nhưng thực tế ngược lại họ càng phải làm việc căng thẳng bị vắt kiệt sức bởi cường độ lao động và sự tập trung cao độ trong lao động. 3. Mối quan hệ giữa tích luỹ, tích luỹ tập trung tư bản. Một trong những qui luật của tích luỹ tư bản là quá trình tích tụ và tập trung vốn ngày càng tăng. Tích tụ vốn là sự tăng lên của qui mô tư bản cá biệt bằng việc biến một phần lợi nhuận thành vốn đầu tư phụ thêm vào chu kì sản xuất tiếp theo tích tụ vốn là kết quả của quá trình tích luỹ vốn. Khối lượng lợi nhuận mà doanh nghiệp tạo ra ngày càng lớn chính là điều kiện để doanh nghiệp có thể chuyển một phần lợi nhuận để tích luỹ vốn và không ngừng tăng qui mô sản xuất. Trong quá trình tích luỹ vốn còn xảy ra quá trình tập trung tư bản. khác với tích luỹ và tích tụ tập trung tư bản là tập trung khối lượng lớn vào tay một người này thì nó biến khỏi tay nhiều người ở nơi khác. Sự tiến bộ của tích luỹ cũng làm tăng thêm vật liệu cho sự tập trung tức là làm tăng thêm vật liệu theo sự tập trung tức là làm tăng thêm những tư bản cá biệt vì vậy muốn thực hiện thì trước đó phải tập trung tư bản. Như vậy tập trung vốn là sự tăng thêm qui mô vốn của doanh nghiệp cá biệt bằng cách hợp nhất nhiều doanh nghiệp cá biệt có sẵn thành một doanh nghiệp mới có qui mô lớn hơn. Tập trung vốn có thể được thực hiện theo kiểu cá lớn nuốt cá bé hoặc chính quá trình cạnh tranh sẽ thúc đẩy các nhà doanh nghiệp riêng lẻ liên kết lại với nhau hình thành nên những tập đoàn kinh tế lớn nhằm tăng sức cạnh tranh trên thị trường và mặt khác cũng là sự phá sản. Hơn nữa tập trung vốn còn được thực hiện qua con đường tín dụng, chính tín dụng làm tăng ưu thế của doanh nghiệp có vốn lớn giành quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh, tăng sức cạnh tranh trên thương trường, thôn tính vốn của các doanh nghiệp cạnh tranh. Tích tụ và tập trung tuy có sự khác nhau về nguồn tích luỹ nhưng nó đều giúp các doanh nghiệp có đủ vốn để thắng trong cạnh tranh. Hiện nay trên thế giới mô hình KTTT đang được áp dụng rộng rãi và đem lại hiệu quả bên cạnh những mặt hạn chế. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế đặc biệt ở các nước TB chủ nghĩa diễn ra ngày càng khốc liệt đòi hỏi các doanh nghiệp không ngừng tích luỹ mở rộng sản xuất thông qua các thị trường cổ phiếu, tài chính, tín dụng tạo ra một xu hướng giảm tiêu dùng để có được những khoản thu nhập lớn hơn trong tương lai.ở các nước đang trong giai đoạn phát triển thì vấn đề đặt ra là những khó khăn về kĩ thuật, công nghệ quản lý tiến tiến trình độ chuyên môn, đặc biệt là vốn yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển. Họ phải khắc phục những khó khăn đó, trước mắt điều quan trọng nhất họ phải huy động vốn đầu tư cho phát triển sản xuất. Vấn đề là phải huy động vốn ở đâu và như thế nào để đạt được hiệu quả tối ưu phải chăng là từ nội lực: thông qua tiết kiệm trong mọi tầng lớp dân cư mọi tổ chức xã hội, mọi cấp mọi ngành để đẩy mạnh tích luỹ, và huy động từ nước ngoài qua các chương trình viện trợ, cho vay, liên doanh liên kết. Việt Nam hiện nay cũng gặp nhiều vấn đề tồn tại trong việc huy động và sử dụng vốn cho quá trình tích luỹ và tái sản xuất mở rộng đó là bài toán khó đặt ra đòi hỏi sừ nỗ lực của các doanh nghiệp các thành phần kinh tế. Tóm lại việc nghiên cứu mặt chất và mặt lượng TLTB có ý nghĩa thực hiện đối với nước ta. Nếu ta trìu tượng hoá quan hệ TBCN thì các doanh nghiệp của chúng ta cùng phải tích luỹ để mở rộng sản xuất hiện đại hoá sản xuất. Nguồn gốc của sự tích luỹ cũng là sản phẩm thặng dư do người lao động tạo ra tạo thành vốn cho các doanh nghiệp vì vậy các doanh nghiệp cần tăng qui mô tích luỹ mở rộng sản xuất làm ăn hiệu quả. Quy luật chung của sự tích luỹ tư bản. Tích luỹ tư bản là nguyên nhân dẫn đến phân cực trong xã hội, xã hội sẽ xuất hiện hai giai cấp đối lập nhau về quyền lợi một giai cấp gồm một số ít người với số lượng của cải khổng lồ. Một giai cấp nghèo làm công ăn lương. Đó là biểu hiện của sự mâu thuẫn trong xã hội tư bản “sự đối lập giữa tính xã hội hoá sản xuất với tính chất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa”. Sự mâu thuẫn sẽ ngày càng trở nên gay gắt đòi hỏi giai cấp tư bản tự điều chỉnh để cho người lao động có cuộc sống đầy đủ hơn. II. Làm rõ hơn khái niệm về doanh nghiệp, vốn doanh nghiệp trong nền KTTT định hướng XHCN. 1. Việc ứng dụng lý thuyết này vào thực tiễn là yêu cầu khách quan để nhằm mục đích em xin trình baỳ các khái niệm làm cơ sở cho việc làm rõ vấn đề. Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập có tư cách pháp nhân thực hiện các hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm mục đích tăng thêm giá trị tài sản do mình sở hữu. Vốn là toàn bộ nguồn lực mà doanh nghiệp có thể có cho quá trình đầu vào hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trong tình hình hiện nay doanh nghiệp có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta lú hình thức mà doanh nghiệp tồn tại là doanh nghiệp nhà nước doanh nghiệp liên doanh liên kết và doanh nghiệp tư nhân. Họ làm ăn nhanh nhậy và hiệu quả đem lại bộ mặt phát triển cho Việt Nam. Để tiến hành công việc sản xuất kinh doanh doanh nghiệp cần phải có tư liệu sản xuất và nhân công mà muốn có nó doanh nhiệp phải có vốn để trang trải cho hoạt động của mình ngoài vốn do chính chủ doanh nghiệp bỏ ra hoặc được bổ xung từ kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra để mở rộng sản xuất thì doanh nghiệp có thể huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ trong dân cư, các tầng lớp xã hội hoặc qua các kênh thu vốn như ngân hàng, các tổ chức tín dụng, từ ngân sách nhà nước, từ nước ngoài. 2. Vai trò của vốn. Vốn có vai trò quyết định trong việc tạo ra mọi của cải vật chất cho xã hội và tiến bộ xã hội, nó là nhân tố vô cùng quan trọng để thực hiện quá trình ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu và đẩy nhanh tốc độ kinh tế nhờ đó đời sống nhân dân ngày một nâng cao các nguồn lực về con người tài nguyên được khai thác hiệu quả hơn từ đó tác động mạnh đến cơ cấu kinh tế của đất nước được chuyển dịch nhanh chóng theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Đại hội Đảng IX đã đặt ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp tiến tới ra nhập các tổ chức thương mại WTO, AFTA... và hội nhập với thế giới. Để thực hiện được mục tiêu đó đòi hỏi sự nỗ lực của toàn Đảng toàn dân, mọi cá nhân mọi tổ chức trong nền kinh tế đặc biệt phải nhấn mạnh vai trò chủ đạo của doanh nghiệp vấn đề đặt ra là phải sử dụng nguồn vốn sao cho đạt hiệu quả cao nhất nhiều yêu cầu đặt ra là các doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ tạo ra sản phẩm nới có sức cạnh tranh cao không những thế vốn còn để tăng cường để mở rộng sản xuất kinh doanh để đầu tư cho lĩnh vực mới vào công nghệ mũi nhọn để mở rộng ảnh hưởng trên thị trường của doanh nghiệp. Thực tế đặt ra cho các doanh nghiệp là phải huy động vón việc này phụ thuộc vào chính sách huy đoọng vốn của nhà nước và khả năng của từng doanh nghiệp. vì vậy doanh nghiệp cần phải thực hiện tiết kiệm dồn tiền cho mở rộng sản xuất ở kì tiếp theo. Ngày nay hệ thống doanh nghiệp ngoài quốc doanh thật đa dạng họ chủ động sản xuất kinh doanh trên môi trường ngày càng hoàn thiện họ hoạt động vì quyền lợi thiết thực của bản thân họ. Doanh nghiệp muốn phát triển sản xuất ngoài việc đưa vào nguồn vốn tự có họ phải dựa vào nguồn lực từ nội bộ và từ bên ngoài doanh nghiệp. III. ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu. 1. Thực trạng của doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Quá trình hội nhập kinh tế buộc doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách thức. Điều cần thiết nhất là gắn liền với việc thực hiện lộ trình hội nhập cần phải xây dựng và thực hiện cho được một lộ trình nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế xác định các công việc cụ thể cho từng ngành, từng giai đoạn đồng thời khẩn trương ban hành các chính sách biện pháp cụ thể và tổ chức thực hiện triệt để kiên quyết nhằm thực hiện lộ trình đó. Nền kinh tế thị trường hiện nay đã tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp đồng thời có thêm một số loại thị truờng mới như thị trường chứng khoán, thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ... Về vốn đầu tư năm 2000 chính phủ và ngành ngân hàng đã đưa ra nhiều biện pháp khuyến khích đầu tư vay vốn song tỷ lệ số doanh nghiệp có số vay ngân hàng vẫn giũ ở mức là 74% trong khi đó tỷ lệ doanh nghiệp đi vay từ nguồn khác tăng lên 63%. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp tư nhân việc đi vay các nguồn vốn cho đầu tư phát triển vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Hoạt động xuất nhập khẩu hiện nay còn nhiều bất cập về cơ chế xuất khẩu và chất lượng hoạt động nhất là những yếu kiện trong việc ổn định thị trường thiếu linh hoạt và chủ động trong xử lý giá và thiết lập các kênh phân phối cho hàng hoá Việt Nam tỷ lệ hàng gia công còn lớn, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao chiếm tỷ trọng không đáng để dịch vụ cho việc coi trọng như một lĩnh vực đem lại hiệu quả cao cho xuất khẩu. Một vấn đề quan trọng khác có liên quan đến sức cạnh tranh trong doanh nghiệp là chi phí đầu vào của chúng ta quá cao. Tính chung từ 1996 đến nay chi phí đầu vào tăng 32,42% trong khi tỷ lệ tăng giá đầu ra là 22,82% làm cho tỷ suất doanh lợi bình quân của doanh nghiệp từ 16,8% giảm xuống còn 6,2% thấp hơn xấp xỉ 2 lần so với các nước trong khu vực và 3 lần so với Châu Âu. Vấn đề giá nông sản thấp thu nhập của nông dân ngày càng thu hẹp mặt khác không kém phần quan trọng dẫn các chi phí đầu vào quá cao về điện, xăng dầu, phân bón, thuỷ lợi, cày bừa... mà trong thời gian qua chúng ta quan tâm nhiều hơn đến các biện pháp bảo hộ xử lý đầu ra hơn là các biện pháp đầu vào để chi phí sản xuất và bán hàng cho nông dân. Tất cả những điều đó là cho Việt Nam trở thành một nơi đắt đỏ sức cạnh tranh của hàng hoá và thị trường Việt Nam giảm dần các nhà đầu tư e ngại, thậm chí một số nhà đầu tư lớn đã rút vốn khỏi Việt Nam ... Vấn đề là ở chỗ hầu hết các chi phí đầu vào hiện nay của doanh nghiệp đều liên quan đến các ngành độc quyền như điện, xăng dầu, bưu chính viễn thông, hàng không... Trong thời gian vừa qua các ngành này liên tục tăng giá hoặc duy trì mức giá cao với nhiều lý do khác nhau, trong đó có lý do phải trả nợ đầu tư. Đã đến lúc chúng ta cần có một sự nhìn nhận đi vào thực chất hoạt động và hiệu quả. Qua những con số điều tra cho thấy số doanh nghiệp nhà nước mới thành lập tăng lên đánh kể, tổng doanh thu hàng năm làm ra sấp xỉ 300 tỷ đồng, sự phân bổ doanh nghiệp theo ngành hợp lý hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của doanh nghiệp nhà nước 11,7% gấp 1,5 lần tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế. Số doanh nghiệp làm ăn có lãi chiếm 11,3% tổng doanh nghiệp trong đó 11,3% số doanh nghiệp nhà nước 69,0% số doanh nghiệp địa phương. Lãi thực hiện năm 1999 là 15.271 tỷ đồng. Đối với khu vực tư nhân khi nhà nước ban hành luật công ty và luật doanh nghiệp thì đến năm 1995 đã có 15.276 doanh nghiệp và đến năm 1999 số doanh nghiệp được thành lập đã lên đến 30.500 tăng gấp 74 lần so với năm 1991. Tổng vốn đầu tư năm 1991 là 6.430 tỷ đồng đến năm 2000 đã lên đến xấp xỉ 160.000 tỷ đồng. Khu vực kinh tế tư nhân có mặt trong hầu hết các ngành kinh tế quốc dân tỷ trọng % của khu vực tư nhân chiếm 22,44% khu vực đầu tư nhà nước 35,4% khu vực doanh nghiệp nhà nước 42,16%. Tuy nhiên vẫn còn nhiều những tồn tại cần phải khắc phục. Số lượng doanh nghiệp nhà nước còn nhiều, qui mô còn nhỏ, chồng chéo về ngành nghề và tổ chức quản lý, sự phân bổ doanh nghiệp theo vùng lãnh thổ còn chưa hợp lý. Còn tồn tại nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ phải giải thể hoặc sát nhập với những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Hiện nay có 1.822 doanh nghiệp làm ăn thua lỗ chiếm 30,8% tổng số doanh nghiệp với số lãi luỹ kế là 5.079 tỷ đồng. Doanh nghiệp còn bị ràng buộc bởi chế độ bảo toàn và phát triển với điều kiện đi vay ngân hàng, chế độ tiền lương, tiền thưởng và các quyền lợi thiết thực khác của người lao động. Đại hội Đảng IX đã khẳng định phải chú trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu, tập trung đầu tư cho các mặt hàng có lợi thì xuất khẩu chủ lực, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự do cạnh tran tìm kiếm thị trường chuẩn bị cho việc tham gia AFTA, APEC... các giải pháp đề ra cho doanh nghiệp hiện nay là hoàn chỉnh chính sách, pháp luật xây dựng môi trường kinh doanh ổn định mở rộng thị trượng trong nước và ngoài nước, tăng cường các dịch vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp tư nhân phát triển ổn định và hiệu quả. Tuy nhiên biện pháp cơ bản vẫn là xuất phát từ nội lực của mỗi doanh nghiệp về sự hưng thịnh và phồn vinh của nước ta. Để tiến hành sản xuất kinh doanh doanh nghiệp cần có vốn đầu tư ban đầu và vốn bổ sung để mở rộng sản xuất kinh doanh. Vốn sản xuất kinh doanh hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: nguồn vốn chủ sở hứu và nguồn vốn vay. Nguồn vốn chủ sở hữu biểu hiển quyền sở hữu của người chủ về các tài sản hiện có ở doanh nghiệp. Các Công ty doanh nghiệp Nhà nước thì nguồn vốn ban đầu có thể lấy từ ngân sách Nhà nước, các Công ty liên doanh thì các thành viên tham gia góp vốn. Đối với Công ty cổ phần hoặc Công ty trách nhiệm hữu hạn thì nguồn vốn được huy động bởi các cổ đông. Ngoài ra nguồn vốn này có thể bao gồm các quỹ phát triển, quỹ dự trữ, quỹ khen thưởng, vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Nguồn vốn vay: nguồn vốn này rất cơ bản và chiểm tỷ lệ đáng kể bởi nó không chỉ bổ sung cho việc mở rộng sản xuất mà còn tạo điều kiện linh hoạt trong việc hoàn trả các khoản nợ hết hạn và giảm số lượng vốn vay. Nguồn vốn này được hình thành từ việc vay tín dụng ngân hàng dưới hình thức tín dụng ứng trước trong đó doanh nghiệp được sử dụng trong một thời gian nhất định, doanh nghiệp có thể phải dùng thế chấp hoặc không dùng thế chấp. Một hình thức vay nữa là phát hành trái phiếu: chỉ riêng doanh nghiệp Nhà nước, Công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu mới có quyền vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu. Doanh nghiệp có thể vay bằng tín dụng thương mại đó là hình thức vay lẫn nhau của các ngân hàng thương mại. Tình hình thu hút vốn đầu tư trong doanh nghiệp thành tựu và hạn chế. Trước đổi mới trong cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp của một nền kinh tế chỉ huy, Việt Nam không có thị trường tài chính. Mọi nguồn lực đều được tập trung vào tay Nhà nước để phân phối theo kế hoạch cho từng dự án đầu tư và từng doanh nghiệp. Những năm đổi mới đã đem lại hậu quả rõ rệt. Trong năm năm 1991 - 1995 ước tính huy động vốn đầu tư cho phát triển toàn xã hội khoảng 15 đến 16 tỷ USD, trong đó phần của Nhà nước chiếm gần 43% bao gồm cả đầu tư từ ngân sách Nhà nước, tín dụng đầu tư Nhà nước. Doanh nghiệp Nhà nước tự đầu tư, phần vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 37% đầu tư của tư nhân chiếm 20%. Đầu tư của các doanh nghiệp được hình thành và hoạt động hiệu quả, phần lớn ở dạng quy mô vừa và nhỏ nhưng có một số doanh nghiệp tư nhân ở quy mô lớn. Thực tế, nguồn vốn mà các doanh nghiệp đã tích luỹ và huy động là khá đa doanh nghiệpạg và phong phú. Việc bản thân doanh nghiệp làm ăn phát đạt đã tạo cho tình hình tài chính của họ trở nên mạnh mẽ là tiền đề cho việc tích luỹ cho mở rộng sản xuất. Mặt khác đáp ứng cho nhu cầu phát triển của doanh nghiệp đã sử dụng các công cụ huy động đạt hiệu quả đó là việc các doanh nghiệp vay lẫn nhau song tỷ lệ này chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Thị trường tín dụng qua hệ thống ngân hàng là thị trường vốn chủ yếu cho tình hình hiện nay và có ý nghĩa đặc biệt đối với các doanh nghiệp. Hệ thống ngân hàng huy dodọng tiền gửi của các tổ chức kinh tế và tiền gửi của dân cư thông qua hệ hống các quỹ tiết kiệm và các hợp tác xã tín dụng. Thị trường trái phiếu và cổ phiếu là hiện tượng mới ở Việt Nam. Đây cũng là bước khởi đầy mới cho việc lập thị trường chứng khoán. Công cụ này cũng được doanh nghiệp sử dụng trong việc huy động vốn đầu tư. Các doanh nghiệp Nhà nước còn tiến hành phát hành trái phiếu lãi suất 21%/năm một số doanh nghiệp khác thuộc các ngành điện, xi măng, giao thông, xây dựng đang lập đề án để phát hành trái phiếu. Trái phiếu và cổ phiếu Công ty do các doanh nghiệp được cổ phần hoá phát hành. Hiện nay đã có khoảng 100 Công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu song các Công ty này có số vốn nhỏ số vốn nhỏ, số lượng cổ động vì hạn chế còn loại cổ phiếu do các doanh nghiệp phát hành gắn với hai hình thức cổ phần hoá. Một hình thức tư nhân hoá một phần vốn của doanh nghiệp bằng cách phát hành và bán cổ phiếu, hình thức khác là giữ nguyên vốn của doanh nghiệp Nhà nước nhưng phát hành cổ phiếu để huy động thêm. cho tới nay mới chỉ có hình thức đầu được thực hiện, 23 doanh nghiệp có đề án xin Chính phủ cho phép cổ phần hoá, trong đó đã có 5 doanh nghiệp thực hiện xong cổ phần hoá. Con số cụ thể của Viện Quản lý Kinh tế Trung ương đến năm 1998 tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp do Trung ương quản lý là 1299 tỷ đồng chiếm 16% doanh nghiệp do địa phương quản lý 6.800 tỷ đồng chiếm 84% phân theo thành phần doanh nghiệp thì doanh nghiệp quốc doanh tổng số vốn đầu tư 589 dự án số vốn đầu tư 6.781 tỷ đồng chiếm 83%, doanh nghiệp dân doanh tổng số dự án 374 dự án huy động 1.325 tỷ đồng chiếm 17%. Như vậy tổng số vốn là 8.106 tỷ đồng. Cho đến năm 2000 tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp quốc doanh là 5.232 tỷ đồng của doanh nghiệp dân doanh là 7.173 tỷ đồng nâng tổng số vốn đầu tư là 12.406 tỷ đồng. Vốn nước ngoài: thành tư huy động vốn của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp và là cơ sở cho các doanh nghiệp. Theo con số của Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư trong năm 1988 - 1995 thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tổng công 18.464 triệu $ vốn đầu tư đăng ký 5.863 triệu $ vốn đầu tư thực hiện viện trợ chính thức phát triển ODA cho Việt Nam bình quân mỗi năm đạt khoảng 480 triệu USD. Thực tế những năm qua cho thấy tiềm năng vốn từ nước ngoài tuy vốn lớn, nhưng việc khai thác và sử dụng còn nhiều bất cập, việc phân bố các dự án ODA dân trả thời gian thẩm định kéo dài ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình thực tệ. Khối lượng vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đã có hàng ngàn doanh nghiệp và nhà đầu tư nước ngoài của 62 nước và nhà đầu tư ở Việt Nam. Ngày càng có nhiều tập tập đoàn lớn có năng lực tài chính và công nghệ cao đến đầu tư tại Việt Nam, qui mô vốn bình quân của một dự án tương đối lớn trong đó có các dự án đầu tư với số vốn hàg trăm triệu USD. Ban đầu xây dựng được một số cơ sở công nghệ quy mô lớn và có trình độ công nghệ cao như dầu khí, thông tin viễn thông điện tử cao cấp tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đi vào hoạt động đã trực tiếp tạo ra hơn 300 ngàn việc làm mới tạo ra hơn một triệu việc làm trong các ngành xây dựng và các ngành dịch vụ khác. Phần nữa tạo điều kiện kích thích đào tạo cán bộ kỹ thuật cán bộ quản lý và công nhân lành nghề. Đạt được những kết quả đó không phải không còn nhiều hạn chế. Việc vay vốn đầu tư ngân hàng của doanh nghiệp đòi hỏi quá nhiều giấy tờ thậm chí nhiều ngân hàng còn từ chối việc cho vay với lý do là khách hàng mới. Chính vì vậy doanh nghiệp phải sử dụng các nguồn vốn khác ngoài ngân hàng có tính rủi ro cao, lãi suất lớn, hoặc gian dối với cán bộ ngân hàng để vay vốn hậu quả là doanh nghiệp đầu tư trong tình trạng bất ổn định, thiếu chắc chắn, kém hiệu quả thậm chí đã xảy ra một số vị đổ bế gây thiệt hại cho xã hội. Từ chính sách đến thực tế còn một khoảng cách lớn và các biện pháp đầu tư, các cam kết về đổi mới thủ tục hành chính trong lĩnh vực này vẫn chưa được thực hiện là bao nhiêu. khu vực quốc doanh vẫn được khuyến khích đầu tư hơn khu vực dân doanh đầu tư mới vẫn được khuyến khích hơn đầu tư mở rộng mặc dù về mặt kinh tế, đầu tư mở rộng có tác dụng trực tiếp tăng hiệu quả nền kinh tế, tăng qui mô vốn cá biệt. Thị trường chứng khoán ở giai đoạn hiện nay đã được hình thành và hoạt động được một thời gian nhưng hầu hết các Công ty sử dụng việc phát hành chứng khoán để huy động vốn nguyên nhân là do các doanh nghiệp chỉ huy động vốn dưới hình thức này khi mà họ cần mở rộng qui mô lớn, việc phát hành chứng khoán phải qua nhiều thủ tục giấy tờ. Trong nội bộ Công ty họ vẫn không muốn chia sẻ quyền sở hữu và quyền kiểm soát cho các cổ đông. Về vốn để huy động vốn nước ngoài thực sự chưa đem lại hiệu quả. Trước hết khối lượng vốn đầu tư thực hiện của FDF trong năm 2001 có biểu hiện chững lại theo ước tính của Bộ kế hoạch và đầu tư con số này chỉ đạt 2,2 tỷ USD tăng khoảng 3,2% so với năm 2000, khá thấp kể từ khi năm 1994 trở lại đây. ước tính trong năm 2001 chỉ có khoảng 40 dự án quy mô vừa và nhỏ hoàn thành xây dựng cơ bản, bắt đầu đi vào sản xuất kinh doanh. Trong hình thức đầu tư BOT nơi tập trung khá nhiều dự án lớn mới đạt 3%. Đặc biệt tình trạng không chấp hành nghiêm chỉnh chế độ thống kê báo cáo các tình hình cơ sở và những ách tắc trong việc triển khai thực hiện dự án do còn nhiều vướng mắc trong kinh doanh. Với phát triển ODA việc công tác quản lý và sử dụng chưa tốt nhất là khâu chuẩn bị và tổ chức thực hiện. Vốn ODA không được hoàn lại được ưu tiên sử dụng cho các chương trình đặc biệt. Khó khăn chung cho việc huy động vốn nước ngoài chủ yếu là do chính sách hai giá và việc áp dụng nhiều loại chi phí khác nhau giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài nhất là các cước hàng không giá điện phí quảng cáo... đang là trở ngại lớn cho việc thu hút vốn. Cân đối ngoại tệ cho các dự án đầu tư nước ngoài đang là vấn đề nổi lên nhiều dự án triển khai sớm nhằm vào thị trường trong nước, khả năng đáp ứng ngoại tệ của các ngân hàng thương mại hạn chế nhất là thời điểm cuối chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. 2. Vấn đề sử dụng vốn hiệu quả. Giờ hết vấn đề tiết kiệm đặt lên hàng đầu, tiết kiệm trong sinh hoạt hàng ngày của chủ thể doanh nghiệp ở các ban ngành cơ quan. Tiết kiệm trong mọi cơ quan của quá trình sản xuất là rất cần thiết bởi nó quyết định trực tiếp đến sự phát triển và mở rộng sản xuất vì vậy vấn đề là làm sao tiết kiệm trở thành một khẩu hiệu phương châm cho mọi doanh nghiệp vì một cuộc sống trong tương lai sẽ trở nên đầy đủ và hạnh phúc hơn nữa. Việc xây dựng cơ sở sản xuất và mua sắm trang thiết bị phải được sự cân nhắc kỹ càng bởi vì khi một quyết định trong đầu tư không phù hợp sẽ dẫn đến tình trạng lãng phí gây thất thoát tài sản. các doanh nghiệp cũng cần phải xem lại bộ máy hành chính và bộ máy hoạt động. Tránh tình trạng cồng kềnh dườm dà, chồng chéo lên nhau cản trở việc thực hành tiết kiệm. Yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp là phải phân bố một cách hợp giữa tiêu dùng và tích luỹ nhận thấy vai trò của việc tiết kiệm đối với sự phát triển để trở thành phong trào thúc đẩy quá trình tích tụ vào tập trung vốn để phát triển bền vững. Trong các dự án đầu tư doanh nghiệp phải lựa chọn các dự án và phương án sản xuất kinh doanh khả thi có hiệu quả biểu hiện ở chỗ doanh nghiệp có thể hoàn trả nguồn vay phù hợp với thời gian vay đây là bài toán khó cho doanh nghiệp vì trong quá trình sản xuất rất nhiều những sai sót hoặc đổ vỡ xảy ra. Việc phân bố hiệu quả thể hiện ở chỗ nhà doanh nghiệp đổi mới công nghệ thúc cho phát triển sản xuất, doanh nghiệp tự tìm tòi nghiên cứu đầu tư tài lực, trí lực để nghiên cứu tạo ra những tư liệu lao độ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0063.doc
Tài liệu liên quan