Trình bày tác động làm ô nhiễm bầu không khí tập thể của điều phối hoạt động của Doanh nghiệp yếu kém

Lời mở đầu Ông cha ta có câu:“Một người lo bằng kho người làm” Từ xa xưa khi con người bíêt phối hợp với nhau để thực hiện một mục đích chung nào đó thì quản lý đã ra đời và vai trò người quản lý cũng được khẳng định qua những cách gọi dân dã như người chỉ huy, người thủ lĩnh…Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường quản lý với chức năng quan trọng đã trở thành nghề không thể thiếu trong bất kỳ hoạt động nào. Một trong những chức năng đó là điều phối (điều hành và phối hợp).

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1362 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Trình bày tác động làm ô nhiễm bầu không khí tập thể của điều phối hoạt động của Doanh nghiệp yếu kém, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bất kỳ trong lĩnh vực quản lý nào, đặc biệt là quản lý trong lĩnh vực quản lý kinh doanh, ngoài việc đòi hỏi người quản lý phải nắm bắt rất vững tổ chức kinh doanh của mình,nắm vững tổ chức kinh doanh của mình, nắm vững đặc tính của từng nhân viên của mình, dù là trong cơ quan hay trên thương trường ...Nền kinh tế Việt Nam bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường được hơn mười năm. Cơ chế thị trường đã thể hiện những ưu điểm đáng kể trong sự tăng trưởng của nền kinh tế, nhưng bên cạnh đó nó cũng bộc lộ những nhược điểm lớn và rất khó khắc phục. Thực tế đã chứng minh doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh khốc liệt của cơ chế thị trường thì phải có đội ngũ cán bộ lãnh đạo giỏi, có trình độ cao và phải có một tập thể vững mạnh đồng tâm nhất trí thực hiện mục tiêu chung của doanh nghiệp . Quản lý một tập thể đông người với các thành phần độ tuổi, giới tính, tâm lý, trình độ khác nhau ... không phải là một công việc dễ dàng. Nó vừa đòi hỏi người cán bộ quản lý phải có đủ trình độ, kiến thức về quản lý, lại vừa đòi hỏi ở người quản lý có tư cách phẩm chất đạo đức tốt cùng với khả năng tư duy cao để được mọi người trong tập thể kính phục, tin yêu. Người quản lý phải biết điều phối hoạt động của doanh nghiệp,biết cách tạo dựng một bầu không khí tốt trong tập thể lao động của mình, phải biết cách giải quyết các mâu thuẫn, xung đột trong tập thể ngay khi chúng mới nảy sinh, sao cho trong tập thể luôn luôn có bầu không khí phấn chấn làm việc, quan hệ giữa mọi người luôn hoà đồng, giúp đỡ, hợp tác với nhau để cùng nhau đạt được mục tiêu chung của doanh nghiệp mình. Xuất phát từ thực tế khách quan trên và dưới sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo: PGS,TS Đỗ Văn Phức đã chỉ dẫn em làm đề tài: “ Trình bày tác động làm ô nhiễm bầu không khí tập thể của điều phối hoạt động của doanh nghiệp yếu kém cho bài tập lớn môn học Tâm lý kinh doanh" do thầy dạy. Em xin chân thành cảm ơn thày! Vì thời gian và trình độ còn rất nhiều hạn chế nên bài tiểu luận của em chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót .Em kính mong nhận được sự nhận xét,đóng góp ý kiên của thầy để sau này làm tốt hơn đề án tốt nghiệp sau này. Em kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thày cô, Em xin chân thành cảm ơn thầy ! Sinh viên: Vương Quốc Khánh lớp QTDN1 _ K46 . Phần 1: Điều phối trong quản lý kinh doanh 1.1. Hoạt động quản lý kinh doanh là gì ? Cho đến nay, người ta đã đưa ra rất nhiều khái niệm về kinh doanh. Có người cho rằng kinh doanh là việc dùng công sức và tiền để tổ chức các hoạt động nhằm kiếm được lợi nhuận trên thị trường, có người lại cho rằng kinh doanh là việc bỏ ra vốn ban đầu đầu tư và các hoạt động trên thị trường để thu được một lượng tiền lớn hơn. Trong điều 3 của luật công ty (ngày 2/1/91) ghi: “Kinh doanh là việc thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện các dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích kiếm lời ” . Tựu chung lại, những quan niệm trên đều có sự thống nhất ở một điểm là: Kinh doanh là các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi của các chủ thể kinh doanh trên thị trường. Như vậy, kinh doanh phải có hai yếu tố cơ bản là: Một là, hoạt động kinh doanh phải diễn ra trên thị trường, tức là kinh doanh phải gắn với thị trường và phải tuân thủ các thông lệ, quy định, quy luật của thị trường. Hai là, hoạt động kinh doanh phải do một chủ thể kinh doanh thực hiện. Chủ thể đó có thể là một cá nhân hay một tập thể. Đặc trưng của chủ thể đó phải là: có quyền sở hữu nào đó về các yếu tố cơ bản trong quá trình kinh doanh như vốn, tài sản, sức lao động…, và phải được tự do chủ động kinh doanh trong khuôn khổ của pháp luật, phải chịu trách nhiệm về kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh. 1.2. Quản lý doanh nghiệp là gì ? Cho đến nay, người ta đã đưa ra rất nhiều khái niệm về kinh doanh. Có người cho rằng kinh doanh là việc dùng công sức và tiền để tổ chức các hoạt động nhằm kiếm được lợi nhuận trên thị trường, có người lại cho rằng kinh doanh là việc bỏ ra vốn ban đầu đầu tư và các hoạt động trên thị trường để thu được một lượng tiền lớn hơn. Trong điều 3 của luật công ty (ngày 2/1/91) ghi: Kinh doanh là việc thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện các dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích kiếm lời. Tựu chung lại, những quan niệm trên đều có sự thống nhất ở một điểm là: Kinh doanh là các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi của các chủ thể kinh doanh trên thị trường. Như vậy, kinh doanh phải có hai yếu tố cơ bản là: Một là, hoạt động kinh doanh phải diễn ra trên thị trường, tức là kinh doanh phải gắn với thị trường và phải tuân thủ các thông lệ, quy định, quy luật của thị trường. Hai là, hoạt động kinh doanh phải do một chủ thể kinh doanh thực hiện. Chủ thể đó có thể là một cá nhân hay một tập thể. Đặc trưng của chủ thể đó phải là: có quyền sở hữu nào đó về các yếu tố cơ bản trong quá trình kinh doanh như vốn, tài sản, sức lao động…, và phải được tự do chủ động kinh doanh trong khuôn khổ của pháp luật, phải chịu trách nhiệm về kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh. Quản lý kinh doanh là sự tác động liên tục, có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý ( người cán bộ quản lý) lên đối tượng quản lý ( tập thể doanh nghiệp ) nhằm sử dụng một cách tốt nhất tiềm năng và cơ hội để đạt được mục tiêu đề ra của doanh nghiệp theo đúng luật định và thông lệ của thị trường. Hay nói cách khác quản lý kinh doanh là quá trình làm việc với tập thể doanh nghiệp và thông qua tập thể doanh nghiệp để thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp trong một môi trường luôn luôn biến động. Sự tác động liên tục có tổ chức, có hướng đích của người quản lý là việc thực hiện các chức năng của quản lý nhằm phối hợp hài hoà các mục tiêu và động lực của mọi người trong doanh nghiệp với mục tiêu chung của doanh nghiệp. Việc sử dụng tốt nhất các tiềm năng, các cơ hội của doanh nghiệp là việc tận dụng tối đa các yếu tố bên trong và bên ngoài của doanh nghiệp trong điều kiện chấp nhận sự cạnh tranh và chấp nhận rủi ro khi kinh doanh trên thị trường. Xét về mặt tổ chức và kỹ thuật của quá trình kinh doanh thì quản lý kinh doanh là sự kết hợp mọi nỗ lực chung của mọi người trong doanh nghiệp để đạt được mục tiêu chung của doanh nghiệp và mục tiêu riêng của mỗi cá nhân một cách hài hoà và hiệu quả nhất. Người quản lý phải tìm cách và biết cách ràng buộc khéo léo, thông minh giữa hai mặt của một vấn đề đó là do con người và vì con người. Vì con người tức là phải thoả mãn tốt nhất các nhu cầu của con người. Do con người là phải làm sao cho họ có thể và có mong muốn đen hết năng lực của mình để hoàn thành công việc chung của tập thể doanh nghiệp. Các cá nhân trong một tập thể doanh nghiệp có những đặc điểm về thể chất và tâm lý khác nhau nên nhu cầu của họ cũng khác nhau. Các nhu cầu này thay đổi có tính quy luật ngày càng trở nên đa dạng, phong phú với chất lượng ngày càng tăng. Tỷ trọng nhu cầu tinh thần có xu hướng ngày càng lớn do các nhu cầu vật chất được đáp ứng ngày càng cao. Muốn quản lý tốt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp người quản lý phải hiểu sâu sắc về con người, từ cấu tạo thể chất, yếu tố năng lực, quy luật tham gia hoạt động và sự tích cực sáng tạo cho đến các nhu cầu và sự đáp ứng các nhu cầu của họ. Tiếp đến người quản lý phải có sự đào luyện về công nghệ ( phương pháp, cách thức) tác động đến con người, phải đánh giá được khả năng của con người thông qua các mặt sức khoẻ ( tầm vóc, sức dẻo dai …), trình độ ( hiểu biết, tay nghề, kỹ năng, kinh nghiệm), tính khí, thói quen, năng khiếu, sở trường… Quản lý kinh doanh là phải tìm ra và biết cách tác động đến con người để họ phát huy cao độ sức sáng tạo và tạo ra nhiều nhất các sản phẩm của sự sáng tạo trong kinh doanh của đơn vị mình. Các hoạt động của con người hầu hết được thực hiện dựa trên hai quá trình là hưng phấn và ức chế. Khi con người hưng phấn thì công việc sẽ được thực hiện một cách trôi chảy, chính xác, hiệu quả công việc sẽ cao, còn ngược lại khi bị ức chế, con người có cảm giác bị ép buộc, có thái độ khó chịu …,làm giảm tính chính xác và hiệu quả của công việc. Người quản lý phải tạo ra hưng phấn cho cấp dưới thì hiệu quả quản lý mới cao và bền lâu, bởi vì các hoạt động sáng tạo tạo của con người chỉ thực hiện được một cách thuận lợi khi người lao động ở trong trạng thái tinh thần hưng phấn. Quản lý kinh doanh là thực hiện những công việc có tác dụng định hướng, điều phối các hoạt động của cấp dưới, của tập thể doanh nghiệp. Định hướng tức là hướng sự chú ý của mọi người vào một hoạt động nào đó. Điều phối là điều tiết, phân bổ, các nguồn lực cho sản xuất như vốn, lao động, máy móc thiết bị, các kết quả lao động( thu nhập, lợi nhuận) một cách hợp lý, phối hợp các yếu tố sản xuất, các hoạt động bộ phận của tập thể doanh nghiệp sao cho nhịp nhàng, ăn khớp để đạt được mục tiêu chung của doanh nghiệp. Các hoạt động của một tập thể doanh nghiệp bao giờ cũng liên quan đến nhiều người và sử dụng nhiều phương tiện, đề cập đến nhiều vấn đề,… do đó người quản lý phải thiết lập và khai thông các mối quan hệ cụ thể theo đòi hỏi của các quy luật khách quan, sao cho các hoạt động kinh doanh diễn ra trôi chảy và đạt hiệu quả cao. Các mối quan hệ này có thể là giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với môi trường( môi trường pháp lý, cấp trên, nhà nước, xã hội,…), giữa chủ doanh nghiệp với cá nhân và tập thể. Kết quả của các quan hệ đó là các quyết định trong quản lý kinh doanh như: mệnh lệnh, chỉ thị, hợp đồng, thỏa thuận…Để tạo được động lực cho hoạt động kinh doanh người quản lý phải kịp thời khắc phục các khó khăn trở ngại, phải có cơ chế phân công quyền hạn và giao trách nhiệm hợp lý, đảm bảo hài hoà lợi ích giữa các cá nhân trong tập thể thì mới khuyến khích người lao động tích cực và sáng tạo trong công việc được giao. Quản lý kinh doanh được chia ra bốn chức năng cơ bản sau: -Chức năng kế hoạch hoá -Chức năng tổ chức -Chức năng điều phối hoạt động - Chức năng kiểm tra 1.3. Điều phối trong quản lý kinh doanh là gì ? Điều phối là cho vận hành, phối hợp tất cả các hoạt động bộ phận trong tổ chức đã được thiết kế nhằm thực hiện những gì đã hoạch định. Chức năng điều phối hoạt động trong doanh nghiệp xuất hiện và tồn tại khách quan ngày càng phát triển trong điều kiện kinh tế, khoa học kỹ thuật và đời sống con người được phát triển . Chức năng điều phối dựa trên cơ sở lý thuyết hệ thống và sự liên kết trong hệ thống sản xuất kinh doanh, trong điêù kiện xã hội ngày nay doanh nghiệp được định nghĩa như là một hệ thống vừa mang chức năng kinh tế, sản xuất, thương mại, dịch vụ đồng thời doanh nghiệp cũng là một hộ tiêu thụ, một khách hàng . Một doanh nghiệp dù là loại hàng gì trước hết nó là một tập hợp của tập thể con người, một tập hợp bao gồm nhiều bộ phận, đơn vị tuy có đặc điểm điều kiện, nhiệm vụ khác nhau nhưng phải xuất phát và phục vụ cho mục tiêu chung của doanh nghiệp, từ đó có thể khẳng định rằng doanh nghiệp là một hệ thống . Theo lý thuyết hệ thống, một hệ thống bao gồm các phân hệ của hệ thống, các phân hệ lại bao gồm các phần tử, các phần tử lại bao gồm các yếu tố . Các phân hệ, các phần tử, các yếu tố trong một hệ thống có những đặc điểm: Cùng có chung một mục tiêu. Có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có mối rằng buộc lẫn nhau . Cùng nhau phối hợp và liên kết để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của hệ thống và đạt được mục tiêu chung cả hệ thống . Từ đó cho ta khẳng định rằng chức năng phối hợp và liên kết giữa các phân tử và các yếu tố là diều tồn tại khách quan. Chức năng phối hợp dưới quyền điều khiển của các nhà quản lý tạo ra sự định hướng đúng đắn của véctơ tức là sự hợp lý trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp để đạt được hiệu quả kinh tế cao. Chức năng phối hợp được thực hiện không tốt sẽ xảy ra tình hình vô chính phủ, mạnh ai lấy làm, bộ phận nào quan tâm, đến bộ phận nào đó, lợi ích và hiệu quả kinh tế chung của doanh nghiệp thấp kém. 1.4 . Các yêu cầu đối với hoạt động quản lý kinh doanh ? Ông Max Weber, nhà xã hội học người Đức, là người đã đúc kết các yếu tố tổ chức quan trọng của quản lý như sau: Cần phân công chuyên môn hoá khá rõ ràng. Đảm bảo cơ cấu quản lý hợp lý để có mạch chỉ huy rõ ràng . Cần có hệ thống nội quy, văn bản chính thức nhằm chỉ đạo, điều tiết phối hợp hành động của các bộ phận hợp thành của cơ quan. Không được để tình cảm lấn át sự đánh giá khách quan, Cần tuyển dụng, đề bạt người làm việc theo năng lực . Đảm bảo cho họ tiền lương và các khoản khác của công lao động một cách hợp lý nhất . 1.5 . Nội dung và phương pháp thực hiện từng công việc điều phối của doanh nghiệp 1.5.1. Nội dung: Điều phối là cho vận hành, phối hợp tất cả các hoạt động bộ phận trong tổ chức đã được thiết kế nhằm thực hiện những gì đã hoạch định. Vậy điều phối hoạt động đông người là phải thực hiện các công việc sau: Các hoạt động chính của chức năng điều phối: Phối hợp thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh thương mại các mặt hàng, số lượng của từng mặt hàng . Phối hợp thực hiện các loại nghiệp vụ ( nguồn vốn, mua sắm vật tư ...) Phối hợp thực hiện sự đồng bộ trong quá trình sản xuất kinh doanh ( đồng bộ giữa các khâu sản xuất và tiêu thụ, đồng bộ giữa khả năng cung và nhu cầu và nhu cầu của khách hàng ...) Phối hợp đảm bảo thực hiện tiến bộ Phối hợp đảm bảo giữ vững và nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá Lập kế hoạch tiến độ trong nghiên cứu khoa học; kế hoạch điều độ, kế hoạch tác nghiệp trong sản xuất kinh doanh; kế hoạch tác chiến trong quân đội; kế hoạch điều động trong vận tải; … Giao nhiệm vụ cụ thể cho các cá nhân, các bộ phận đảm bảo điều kiện vật chất-kỹ thuật cần thiết cho các bộ phận, cá nhân thực hiện, hoàn thành các công việc. Kiểm tra đánh giá thưởng hay là phạt các bộ phân, cá nhân được giao công việc mà hoàn thành tôt hay là kém Lập kế hoạch tiến độ trong nghiên cứu khoa học; kế hoạch điều độ, kế hoạch tác nghiệp trong sản xuất kinh doanh; kế hoạch tác chiến trong quân đội; kế hoạch điều động trong vận tải; … Giao nhiệm vụ cụ thể cho các cá nhân, các bộ phận. Đảm bảo điều kiện vật chất-kỹ thuật cần thiết cho các bộ phận, cá nhân thực hiện, hoàn thành các công việc. Hướng dẫn đôn đốc các bộ phận, các cá nhân thực hiện hoàn thành các công việc theo đúng tiến độ, theo đúng tiêu chuẩn chất lượng đã được đề ra. Kiểm tra đánh giá thưởng hay là phạt các bộ phân, cá nhân được giao công việc mà hoàn thành tôt hay là kém . 1.5.2. Nội dung 1.5.2.1. Lập kế hoạch điều phối: Khi thực hiện chức năng điều phối trong hoạt động của doanh nghiệp phải dựa trên cơ sở chương trình và chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phải đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả kinh tế cao đồng thời đảm bảo cân đối nhịp nhàng và đồng bộ ở tất cả các khâu, các lĩnh vực . Chính vì đảm bảo các yêu cầu đó nên chức năng điều phối phải được thực hiện ở hầu hết các tổ chức các đơn vị, các cá nhân trong doanh nghiệp và phải lập kế hoạch kế hoạch trong điều phối . Điều phối hoạt động đông người là tìm cách và biết cách ràng buộc một cách thông minh, tế nhị việc thoả mãn nhu cầu cho con người với việc con người đem năng lực thực hiện, hoàn thành công việc được giao. Quản lý điều hành là thực hiện một loại quan hệ đặc biệt giữa người với người, về phương pháp tác động đến con người, về bản chất kinh tế của các hiện tượng, quá trình. Trong quản lý điều hành hoạt động có sự tham gia của nhiều người việc thu hút, sử dụng những con người để họ đảm nhiệm, hoàn thành các nhiệm vụ cụ thể của quản trình kinh doanh có ý nghĩa quyết định. Khi thiết kế và thực thì phương án thu hút, sử dụng con người cần hiểu biết, xét đến nhu cầu, động cơ hoạt động và tính cách của từng loại người, của từng con người cụ thể. a. Tác động vào nhu của con người Nhìn chung con người sống và hoạt động để đáp ứng mong muốn của mình và nhu cầu của mình C.Mac nghiên cứu và đi đến kết luận rằng con người bình thường không ai làm gì ngoài mục đích thoả mãn nhu cầu của bản thân mình. Nhu cầu của con người rất đa dạng phong phú và ngày càng tăng về chủng loại, nhất là về chất lượng. Nhu cầu của con người Động cơ của con người Triển vọng thoả mãn nhu cầu Lợi thế và năng lực cuả con người Hình vẽ mô tả động thái của nhu cầu chuyển sang động cơ hoạt động của con người. Từ thực tiễn cho thấy, động cơ hoạt động là sự thôi thúc con người hướng tới một hoạt động cụ thể nào đó nhằm thoả mãn một hoặc một số nhu câu. Nhu cầu của con người là những gì cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của con người. Như vậy nhu cầu là điều kiện cần để có động cơ hoạt động. Nhu cầu đã được thoả mãn và nhu cầu đã chắc chắn có hướng thoả mãn rồi thì sẽ không có khã năng đẻ ra động cơ hoạt động trong trường hợp cụ thể động cơ hoạt động là nhân tố số một của sự thành công (thất bại). b. Tác động vào động cơ hoạt động của con người Hiệu quả hoạt động của con người phụ thuộc vào động cơ (X1), vào trình độ trang bị (X2), vào năng lực (X3), vào môi trường …. Y=F( X1, X2, X3, ... ) Động cơ hoạt động của con người là nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất của sự tham gia hoạt động và của sự tích cức sáng tạo nó được hình thành trên cơ sở tương tác chủ yếu của 3 yếu tố: nhu cầu của con người, khả năng (triển vọng) thoả mãn nhu cần cho con người trong phương án hoạt động và lợi thế so sánh của khả năng con người. Như trình bầy ở sơ đồ dưới đây thì động cơ hoạt động được hình thành về cơ bản từ quá trình tương tác giữa nhu cầu của con người với khả năng, triển vọng thoả mãn nhu cầu cho con người. Như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể thu hút, định hướng hoạt động cho con người bằng cách tạo ra những khả năng, triển vọng và thực tế thoả mãn nhu cầu cho họ. Người lãnh đạo, ông chủ thông minh bao giờ cũng hiểu rằng, con người chỉ tham gia làm một việc cụ thể khi người đó cảm thấy và tin chắc rằng, công việc đó đem lại cho họ những lợi ích thích hợp một cách công bằng tương đối (lợi ích phù hợp, tương đối công bằng và chắc chắn). Lợi ích được đem lại càng thích hợp, mức độ thoả mãn nhu cầu càng cao, con người càng tích cực, say mê sáng tạo trong công việc. Từ lâu các nhà nghiên cứu đã khảng định rằng, trong hoạt động tập thể con người không làm tốt việc gì thường do một hoặc cả hai nguyên nhân là: (1) không biết cách làm, (2) không được tạo động cơ. Như vậy, một trong những bí quyết thách thức nhất đối với người lãnh đạo quản lý là tìm cách khích thích hay tạo được động cơ hoạt động đúng và mạnh cho con người. Việc tạo động cơ hoạt động cho con người tham gia hoạt động tập thể được tiến hành theo phương pháp sau: Trước hết phải tìm hiểu, nhận biết các nhu cầu, nhất là các nhu cầu được ưu tiên đáp ứng, thoả mãn của con người. Nếu trường hợp nhu cầu còn đơn giản, chưa cao thì cần có biện pháp kích cầu. Tiếp đó phải biết tạo ra các hoạt động hấp dẫn thu hút sự quan tâm, chú ý của con người, tức là tạo ra các hoạt động có khả năng, triển vọng đáp ứng, thoả mãn các nhu cầu cấp thiết của con người. Cần nhận định đúng trình đội của con người. con người thường theo cái mà bản thân cân nhắc, lựa chọn. Sự cân nhắc, quyết định lựa chọn phụ thuộc rất nhiều vào hiểu biết của họ. Nếu trường hợp trình độ còn hạn chế thì cần có biện pháp nâng cao trình độ cho con người. Phải biết đưa ra cơ chế ràng buộc sự hưởng thụ, thu nhập với tham gia, đóng góp cống hiến. Ràng buộc càng thông minh, tế nhị, càng chặt chẽ thì càng có tác dụng kích thích đối với người tham gia tập thể. Về cấu tạo thể chất, con người có rất nhiều bộ phận, rất nhiều tế bào, rất nhiều Nơ Ron thần kinh... và chúng có quan hệ tương tác với nhau. Cơ thể người có cấu tạo phức tạp, hoàn chỉnh bên trong và hướng mở để ghép nối với hệ thống khác từ bên ngoài. Hệ thống cơ-khớp của con người có đặc điểm hoạt động riêng, mỗi cơ quan, bộ phận của con người đều có những giới hạn hoạt động nhất định... Con người có rất nhiều nhu cầu, khi quản lý họ cần quan tâm xét đến các loại nhu cầu như: nhu cầu thu nhập nhu; cầu hiểu biết; nhu cầu được coi là quan trọng, được tôn trọng; nhu cầu được vận động để có trạng thái sức khoẻ bình thường; nhu cầu được quan hệ với người khác, được thể hiện trước người khác; nhu cầu được phát triển được thăng tiến... nhu cầu thay đổi có tính quy luật theo hướng ngày càng đa dạng, với chất lượng ngày càng cao tỷ trọng nhu cầu tinh thần ngày càng lớn... Theo nhu thuyết nhu cầu phân cấp của Maslow: theo ông thì nhu cầu của con người có sự phân cấp và khi các nhu cầu ở cấp thấp chưa được thoả mãn thì nhu cầu ở bậc cao chưa có tác dụng khuyến khích mọi người. Ông đưa ra bốn giả thiết cơ bản sau đây: Khi một nhu cầu được thoả mãn thì nó không còn là yếu tố thúc đẩy nữa mà một nhu cầu khác sẽ nổi lên thay thế vị trí của nó. Vì vậy người ta phải luôn cố gắng để thoả mãn một nhu cầu nào đó. Hệ thống nhu cầu của hầu hết mọi người đều rất đa dạng. Luôn có một số nhu cầu khác nhau của con người tác động đến hành vi của con người . Nhìn chung, những nhu cầu bậc thấp phải được thoả mãn trước khi những nhu cầu bậc cao trở nên đủ mạnh để thôi thúc hành động. Có nhiều cách để thoả mãn nhu cầu bậc cao hơn các nhu cầu bậc thấp. Theo ông thì con người có năm nhu cầu và gần đây đã đưa ra nhu cầu thứ sáu theo thứ tự từ thấp đến cao thì nhu cầu của con người tăng dần. Cứ nhu cầu nào được thoả man thì nó không còn trở thành động lực thúc đẩy con người nữa. Nhưng trong thực tế thì rất khó phân biệt các danh giới của nhu cầu. Và chúng ta cũng không thể biết được nhu cầu nào không trở thành động cơ thúc đẩy con người nữa. Và nhìn chung thì mặc du nhu cầu ở cấp thấp chưa được thoả mãn nhưng con người vân có nhu cầu ở bậc cao. Thật là đơn giản khi nhận thấy rằng một người nghèo cũng muốn làm việc lớn để lại danh tiếng cho đời sau. Và đặc biệt với người Việt Nam đa số là người ngheo làm con chưa đủ ăn tức là nhu cầu cấp một cũng chưa được thoả mãn nhưng người Việt Nam nói chung ai cũng thích làm việc ngoài khả năng của mình việc nhỏ thì không làm điều này cũng góp một phần nho làm kinh tế của Việt Nam phát triển chậm. Nhu cầu sinh học Nhu cầu an toàn Nhu cầu liên kết Nhu cầu được tôn trọng Nhu cầu tự thân vận động Nhu cầu lưu danh đời sau Tháp nhu cầu của Maslow 1.5.2.2. Giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ phận, cá nhân thực hiện, hoàn thành công việc . Giao nhiệm vụ cụ thể cho các cá nhân, các bộ phận. Đảm bảo điều kiện vật chất-kỹ thuật cần thiết cho các bộ phận, cá nhân thực hiện, hoàn thành các công việc. Hướng dẫn đôn đốc các bộ phận, các cá nhân thực hiện hoàn thành các công việc theo đúng tiến độ, theo đúng tiêu chuẩn chất lượng đã được đề ra. Kiểm tra đánh giá thưởng hay là phạt các bộ phân, cá nhân được giao công việc mà hoàn thành tôts hay là kém . 1.5.2.3.Đảm bảo điều kiện,vật chất,kỹ thuật cần thiết cho các bộ phận, cá nhân thực hiện, hoàn thành công việc . Điều phối hoạt động đông người là tìm cách và biết cách ràng buộc một cách thông minh, tế nhị việc thoả mãn nhu cầu cho con người với việc con người đem năng lực thực hiện, hoàn thành công việc được giao. Quản lý điều hành là thực hiện một loại quan hệ đặc biệt giữa người với người, về phương pháp tác động đến con người, về bản chất kinh tế của các hiện tượng, quá trình. Trong quản lý điều hành hoạt động có sự tham gia của nhiều người việc thu hút, sử dụng những con người để họ đảm nhiệm, hoàn thành các nhiệm vụ cụ thể của quản trình kinh doanh có ý nghĩa quyết định. Khi thiết kế và thực thi phương án thu hút, sử dụng con người cần hiểu biết, xét đến nhu cầu, động cơ hoạt động và tính cách của từng loại người, của từng con người cụ thể . 1.5.2.4. Hướng dẫn đôn đốc các bộ phận cá nhân thực hiện hoàn thành các công việc theo tiêu chuẩn tiến độ đã đề ra. Năng lực (khả năng) của con người bao gồm các mặt như: sức khoẻ ( độ mạnh cơ bắp, tầm vóc, độ dai sức...), trình độ (hiểu, biết, kỹ năng, kinh nghiệm...), tính khí, mức độ quyết tâm cố gắng, thói quen sở trường, sở đoản, năng khiếu... Chúng ta đã hiểu biết nhiều về con người, nhưng chưa hiểu biết về cấu tạo thể chất của con người (ví dụ con người có khoáng 100000 gen nhưng đến năm 2000 mới biết được 1000 gen). Chúng ta rất khó thống kê hết các nhu cầu của con người. Chúng ta chưa có cách nhận biết, đánh giá chính xác khả năng (năng lực) của con người nói chung và đối với từng công việc cụ thể. Ngày nay người ta tăng cường quan tâm đầu tư nghiên cứu tổng kết thêm về con người và nghiên cứu vận dụng các thành tựu khoa học về con người vào các lĩnh vực hoạt động thực tế. Khi tác động đến con người, thu hút, thu phục, điều khiển con người, quan hệ với con người...lên lưu ý những kết luận khoa học sau đây: Các hoạt động và hành vi của con người do trung ương thần kinh chỉ huy và kiểm soát. như vậy có nghĩa là: muốn có sự tiến bộ trong hành động và hành vi của con người phải tìm cách, biết cách làm cho cái đầu của con người sáng ra, sáng hơn lên... Chẳng hạn đầu tư nâng cao dân chí là cách tôt nhất hạn chế sinh đẻ; khi trình độ của người tiêu dùng tăng lượng tiêu dùng hàng giả sẽ giảm... Thực tế đã chứng minh: ngu dốt là đêm tối của tâm hồn, là nguồn gốc của nhiều sự khổ đau. Nếu ai đó mà hiểu biết còn nhiều hạn chế, nhưng tham gia hoạt động càng tích cực, càng chếm vị chí quan trọng thì càng phá nát nhiều. Các hoạt động và ứng xử của con người hầu hết dựa trên hai quá trình: hưng phấn và ức chế; những gì có ở con người đều được hình thành từ từ và chỉ có thể mất đi từ từ. Chúng ta phải có quyết tâm và biết cách đổi mới mọi hoạt động, hành vi...nhưng cũng phải hiểu biết và thừa nhận yếu tố thời giangười của mọi vấn đề. Quản lý là phải tìm cách, biết cách tạo được ra hưng phấn cho người dưới quyền thì hiệu lực quản lý mới cao mới bền lâu. Con người thường quan tâm, thực hiện trước hết những gì cần thiết cho bản thân, sát với thực tế. Những thứ xa vời viển vông, hão huyền không thu hút được con người, không hấp dẫn đối với con người hoặc có chăng chỉ nhất thời. Trong đời biết lo cho minh không làm hại tới bất kỳ ai khác đã là có thể chấp nhận được? Tuy nhiên trong cuộc sống thì hãy vì lợi ích của người khác hãy giúp người khác ắt có người giúp ta trong lúc vân hạn, lúc khó khăn. Con người thường chỉ thực hiện tốt những gì họ hiểu, biết và thấy có lợi. Thực tế đã khảng định rằng, con người không làm tốt việc gì đó thường là do một hoặc cả hai nguyên nhân sau: Không biết cách làm. Không được tạo động cơ. Con người không chịu đựng được mỗi khi bị tước đoạt, bị người khác xúc phạm. Cùng làm ra thành quả để chia nhau hưởng, nếu để xẩy ra người này được hời người khác bị thiệt thòi, bị tước đoạt, bị bóc lột. Khi bị thiệt thòi đủ lớn con người rễ gây lên xung đột và tiếp đó không được thoả mãn thì thường họ thu hẹp dần sự cống hiến (đóng góp) hoặc có cơ hội là chuyển sang hoạt động khác nơi khác... quản lý mà để xẩy ra tình trạng xúc phạm lẫn nhau nghiêm trọng, thường xuyên thì sớm hay muộn sẽ sụp đổ. Xúc phạm nhau gây nên ức chế và tiếp đó là tiêu cực ngầm. Trong thực tế con người thường chịu nhiều tác động khác nhau của quản lý như: Cung cách cho tồn tại và phát triển hoặc cấm các loại hoạt động; Cung cách tách hoặc gộp tổ chức, cung cách đề ra chu trình và các tiêu chuẩn lựa chọn hoặc bãi miễn cán bộ chủ chốt; Cung cách hoạch toán chi phí, chọn và tính toán các chỉ tiêu hiệu quả hoạt động; Cung cách đánh giá thành tích đóng góp, đãi ngộ điều tiết thu nhập; Sự tôn trọng của lãnh đạo trên thực tế là các quyền: tự do cá nhân, tự quyết, tự kiểm tra, được thông tin được bình đẳng trước các cơ hội... SMST=HD*ĐK*TV Với SMST: niềm say mê sáng tạo của con người trong hoạt động; HD: sức hấp dẫn của nội dung công việc và sự hưởng thụ; ĐK: điều kiện làm việc và môi trường lao động; TV: triển vọng phát triển của cơ quan ( doanh nghiệp ) và cá nhân; HD,ĐK,TV được đánh giá theo thang điểm từ 0=>1 Từ công thức trên cho thấy muốn khích thích khả năng sáng tạo của công nhân viên chúng ta phải kích thích thông qua các biến số HD,ĐK,TV tức là qua cách tìm ra công việc có nội dung hấp dẫn với mỗi điều kiện và môi hoàn cảnh của mỗi người khác nhau và chúng ta những người lãnh đạo phải tìm cho công ty một hình ảnh đẹp phải xây dựng cho công ty một tương lai tốt đẹp và dài lâu. Để tối đa hoá SMST thì chúng ta phải tối đa hoá HD, ĐK, TV trong ba yếu tố này mà có một yếu tố nhỏ thì sẽ dẫn đến SMST sẽ nhỏ theo. Vậy để có SMST tối ưu chúng ta phải có đươc cả ba yếu tố HD, ĐK, TV đồng thời tối ưu. Sau khi xem xét cung cách giải quyết các vấn đề quan trọng nêu trên người ta đánh giá, nhận ra trình độ thực sự của người lãnh đạo quản lý, tìm được hoặc không tìm được minh chủ để phụng sự. Do đó, lãnh đạo quản lý cần tập trung trí tuệ giải quyết tốt vấn đề đó. Tuy nhiên mỗi vùng đất, mỗi lãnh thổ đều có những điều kiện khác nhau gây ra tính cách con người ở mỗi khu vực cũng có những đặc đểm khác nhau. Với người Việt Nam cũng cần phải lưu ý một số vấn đề sau đây: Con người là quả và cũng là nhân, dựa vào con người chúng ta biết được chúng ta thành đạt đến đâu. Khi con người là nhân, dưa vào con người chúng ta thấy được chúng ta nhìn xa trông rộng, thông minh đến đâu. Hồ chủ tịch đã căn dặn chúng ta, phải làm cho nhân dân hạnh phúc và để xây dựng xã hội phải đầu tư tạo ra con người xã hội chủ nghĩa. Con người vừa có đức vừa có tài. Giáo sư, tiến sỹ Robert B.Reich, đại học Harvard( Mỹ ) đã nói: “tài nguyên duy nhất thực sự có tính quốc gia là con người, năng lực trí tuệ và óc sáng tạo của họ, đó là những gì sẽ quyết định sự thịnh vượng của tương lai”. 1.5.2.5. Kiểm tra đánh giá và thưởng phạt . Kiểm tra là quá trình tìm hiểu,đối chiếu nhằm phát hiện những sai lệch so với những gì đã hoạch định, đã thiết lập để kịp thời xử lý, điều chỉnh . Kiểm tra tạo ra các căn cứ, bằng chứng cụ thể, rõ ràng phục vụ cho việc hoàn thiện các quyết định trong quản lý. Kiểm tra thẩm định tính đúng sai của đường lối, chiến lược, kế hoạch, chương trình và dự án, tính tối ưu của cơ cấu tổ chức quản lý, tính phù hợp của các phương pháp mà cán bộ quản lý đã và đang sử dụng để đưa tổ chức, doanh nghiệp tiến tới mục tiêu của mình . Kiểm tra góp phần đôn đốc việc thực hiện kế hoạch với hiệu quả cao . Trong thực tiễn những kế hoạch tốt nhất cũng có thể khô._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35661.doc