Trình bày lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. Ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp..

Lời nói đầu Từ sau đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI,nền kinh tế nước ta đang từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.Trong điều kiện cơ chế quản lý thay đổi, khi hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của mỗi doanh nghiệp thì các doanh nghiệp thuộc kinh tế nhà nước đã bộc lộ yếu kém, lâm tình trạng sa sút và khủng hoảng. Làm thế nào để cấu trúc lại khu vự kinh tế nhà nước, nhằm nâng cao hiệu quả và vai trò của khu vực này theo tinh thần các nghị quyết

doc14 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2923 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Trình bày lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. Ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp.., để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đại hội VI,VII,VIII của Đảng ? Phát triển kinh tế là một yêu cầu đòi hỏi cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Nhưng một nền kinh tế phát triển nhanh hay chậm lại phụ thuộc vào những chính sách cụ thể của từng quốc gia và các bộ, ngành ở quốc gia đó. Vì mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh” Đảng và Nhà nước cùng các bộ, ngành đã nỗ lực cố gắng đưa ra các chính sách đúng đắn và các biện pháp giải quyết phù hợp để đưa nền kinh tế nước ta phát triển nhanh, mạnh theo định hướng XHCN. Cho nên em chọn đề tài: “Trình bày lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Do trình độ có hạn và nhận thức chưa cao, hy vọng em sẽ nhận được lời góp ý chân thành từ phía bạn đọc và thầy cô giáo. ở đề tài này ngoài phần mở đầu với phần kết luận và phần nội dung gồm: I. Tuần hoàn tư bản. ii. chu chuyển của tư bản. iii. Sự vận dụng ở nước ta trong việc quản lý các doanh nghiệp. Mở đầu. 1. Cơ sở lý luận. Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất và quá trình lưu thông, giữa quá trình tạo ra giá trị thặng dư và quá trình thực hiện giá trị thặng dư. Vì vậy, sau khi đã nghiên cứu các quá trình khác, cần nghiên cứu quá trình lưu thông để xác định rõ hơn nữa vị trí của lưu thông và tác dụng tích cực của nó đối với sản xuất cũng như đối với nền kinh tế góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, mạnh đưa đất nước ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu để nhân dân ta được no, ấm hơn và thoả mãn các nhu cầu khác cao hơn. Nước ta đang có nguy cơ bị tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực do điểm xuất phát thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt, nên nghiên cứu vấn đề này sẽ góp phần rút ngắn khoảng cách tụt hậu ngày một gần hơn. Cơ sở thực tiễn. Nghiên cứu sự tuần hoàn và chu chuyển của tư bản có ý nghĩa thực tiễn đối với chúng ta. Vì nước ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường nên trong sản xuất kinh doanh đòi hỏi chúng ta phải quay vòng vốn nhanh, sử dụng vốn một cách hợp lý có hiệu quả. Có như vậy mới nâng cao được lợi nhuận, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh hơn. Dựa vào nhu cầu về vốn và việc sử dụng vốn của các doanh nghiệp có hiệu quả hay không, Nhà nước và các bộ, ngành có thể đưa ra các chính sách thoả đáng nhằm thu hút vốn ở trong nước hoặc đầu tư nước ngoài về để đáp ứng nhu cầu vốn và có các chính sách cụ thể đối với từng doanh nghiệp, xây dựng công cụ quản lý các doanh nghiệp. Nhà kinh tế A.Smith vì: “tiền là dầu mỡ bôi trơn cỗ xe kinh tế, là bánh xe vĩ đại của lưu thông”. Vì vậy nghiên cứu vấn đề lưu thông có ý nghĩa thực tiễn đối với chúng ta trong khi nền kinh tế thị trường đang diễn ra náo nhiệt, sôi động. Nội dung. I. Tuần hoàn tư bản. 1. Ba giai đoạn của sự vận động của tư bản và sự biến hoá hình thái của tư bản. Mọi tư bản đều xuất hiện trước hết dưới hình thức một số lượng tiền tệ nhất định và được sử dụng để mang lại tiền tệ phụ thêm bằng cách bóc lột lao động làm thuê. Để đạt được kết quả ấy, tư bản phải vận động qua ba giai đoạn: a. Giai đoạn thứ nhất: Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường với tư cách là người mua, thực hiện hành vi T- H. Mới nhìn thì T-H cũng chỉ là một hành vi mua bán thông thường. Tiền tệ ở đây được sử dụng làm phương tiện mua như mọi tiền tệ khác trong lưu thông. Nhưng nếu xét kỹ các loại hàng hoá mà nhà tư bản đã mua thì tiền tệ đóng vai trò khác hẳn. Hàng hoá mua được ở đây là tư liệu sản xuất và sức lao động, tức là những nhân tố vật chất và người của sản xuất hàng hoá. Dĩ nhiên là đặc tính của các nhân tố này phải phù hợp với loại sản phẩm cần chế tạo. Ngoài sự phù hợp về tính chất ra, sức lao động và tư liệu sản xuất còn phải phù hợp với nhau về mặt số lượng nữa. Tư liệu sản xuất phải bảo đảm đầy đủ cho việc sử dụng triệt để toàn bộ thời gian lao động tất yếu và lao động thặng dư của sức lao động. Quá trình này có thể trình bày theo công thức: T - H TLSX SLĐ Trong đó: + SLĐ: sức lao động + T: là tiền tệ + H: là hàng hoá + TLSX: tư liệu sản xuất Ta thấy trong quá trình này, hành vi T - SLĐ là yếu tố đặc trưng khiến tiền xuất hiện là tư bản. Hành vi T - TLSX chỉ cần thiết để cho sức lao động đã mua có thể hoạt động được. Song T - SLĐ được coi là nét đặc trưng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là vì tính chất tiền tệ của mối quan hệ đó. b. Giai đoạn thứ hai. Nhà tư bản tiêu dùng sản xuất các hàng hoá đã mua, tức là tiến hành sản xuất. Kết quả là nhà tư bản có được một hàng hoá có giá trị lớn hơn giá trị của các yếu tố sản xuất hàng hoá đó. Quá trình này có thể được mô tả như sau: H TLSX SLĐ .... SX đ H ’ Quá trình sản xuất diễn ra ở đây cũng giống như mọi quá trình sản xuất của mọi hình thái xã hội là do kết hợp hai yếu tố người lao động và tư liệu sản xuất lại mà có. Song sự kết hợp hai yếu tố vốn hoàn toàn tách rời nhau này là do công lao của các nhà tư bản đã ứng tư bản của mình ra để thực hiện. Vì vậy sức lao động và tư liệu sản xuất trở thành hình thái tồn tại của giá trị tư bản ứng trước, chúng phân thành những yếu tố khác nhau của tư bản sản xuất. Hàng hoá mới này là hàng hoá đã mang giá trị thặng dư, nó đã trở thành H’ có giá trị bằng sản xuất + m tức là bằng giá trị của tư bản sản xuất hao phí để chế tạo ra nó, cộng với giá trị thặng dư (m) do tư bản sản xuất ấy đẻ ra. Như vậy kết quả của giai đoạn thứ hai là tư bản sản xuất biến thành tư bản hàng hoá. c. Giai đoạn thứ ba: H’ - T’ Tư bản bây giờ tồn tại dưới hình thái hàng hoá nên cần phải đem bán hàng hoá để thu tiền về thì mới tiếp tục công việc kinh doanh được. Quá trình này có thể trình bày bằng công thức: H’ - T’. Hàng hoá tư bản đưa vào lưu thông cũng không có gì phân biệt với hàng hoá thông thường, nó cũng chỉ thực hiện chức năng vốn có của hàng hoá là trao đổi để lấy tiền. Nhưng sở dĩ nó là tư bản hàng hoá vì ngay sau quá trình sản xuất, nó đã là H’, đã mang trong mình nó giá trị của tư bản ứng trước và giá trị thặng dư. Vì vậy, chỉ cần tiến hành trao đổi theo đúng quy luật giá trị như các hàng hoá thông thường và nếu bán được toàn bộ H’ đảm bảo thu được T’ nghĩa là thu được số tiền trội hơn so với tiền ứng ra ban đầu. Chức năng của H’, do đó là chức năng của mọi sản phẩm hàng hoá, song đồng thời lại là chức năng thực hiện giá trị thặng dư được tạo ra trong quá trình sản xuất. Kết thúc giai đoạn này, tư bản hàng hoá đã biến thành tư bản tiền tệ. Đến đây, mục đích của tư bản đã được thực hiện, tư bản đã trở lại hình thái ban đầu trong tay chủ của nó nhưng với số lượng lớn hơn trước. Tổng hợp quá trình vận động của tư bản trong cả ba giai đoạn ta có công thức sau: T - H TLSX SLĐ .... SX .... H ’ - T’ ở công thức này, tư bản biểu hiện thành một giá trị thông qua một chuỗi biến hoá hình thái quan hệ lẫn nhau, quyết định lẫn nhau. Trong các giai đoạn thì có hai giai đoạn lưu thông và một giai đoạn trong lĩnh vực sản xuất. Sự vận động của tư bản trải qua ba giai đoạn, lần lượt mang ba hình thái để rồi lại trở về hình thái ban đầu với giá trị không những được bảo tồn mà còn tăng lên, đây chính là sự tuần hoàn của tư bản. II. Chu chuyển của tư bản. 1. Thời gian chu chuyển và số vòng chu chuyển của tư bản. Sự tuần hoàn của tư bản nói lên sự biến hoá hình thái của các giai đoạn lưu thông và sản xuất. Nhưng tư bản không phải chỉ biến hoá hình thái một lần rồi dừng lại mà “tư bản là một sự vận động, chứ không phải là một vật đứng yên”. Tư bản nếu muốn tồn tại là tư bản thì phải không ngừng đi vào lưu thông, tiếp tục thực hiện liên tục quá trình biến hoá hình thái, tức là tiếp tục sự tuần hoàn liên tục không ngừng. Sự tuần hoàn của tư bản được lặp đi lặp lại nhiều lần và có định kỳ, đó là sự chu chuyển của tư bản. Mác nói: “Tuần hoàn của tư bản, khi được coi là một quá trình định kỳ, chứ không phải một quá trình bị cô lập, thì gọi là vòng chu chuyển của tư bản”. Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian kể từ khi nhà tư bản ứng tư bản ra dưới một hình thái nào đó cho đến khi thu về cũng dưới hình thái ấy có kèm theo giá trị thặng dư. Chu chuyển của tư bản chỉ là tuần hoàn tư bản xét trong một quá trình định kỳ nên thời gian chu chuyển của tư bản cũng là tổng số thời gian lưu thông và thời gian sản xuất. iii. Sự vận dụng ở nước ta trong việc quản lý các doanh nghiệp. 1. Việc huy động vốn. a. Huy động vốn trong nước. Đây là nguồn vốn đóng vai trò quyết định. Trong khi đất nước còn nghèo, khả năng tích luỹ còn thấp thì tiết kiệm những chi tiêu có thể tiết kiệm được không chỉ là quốc sách mà cần phải có giải pháp đi thẳng vào thực tế, tức là phải có biện pháp khuyến khích tiết kiệm ở tất cả các khu vực: Nhà nước, doanh nghiệp, hộ gia đình, các tổ chức tài chính,... phải gắn tiết kiệm với tích luỹ dưới tác động của các nhân tố kích thích về lợi ích kinh tế đã huy động tối đa các nguồn vốn trong nước thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cụ thể là: + Đổi mới và kiện toàn hệ thống các tổ chức trung gian tài chính: Phải đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống bao gồm các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, hợp tác xã tín dụng, quỹ bảo hiểm, quỹ trợ cấp và hưu trí, các công ty đầu tư,... Hệ thống này phải là những nhân tố tích cực kích thích tiết kiệm và huy động tối đa các nguồn vốn trong nước. Muốn vậy cần khẩn trương: - Mở rộng mạng lưới hoạt động của các tổ chức nói trên đến mọi khu vực thành thị và nông thôn, kể cả các xã vùng sâu, vùng xa và hải đảo trong nước. - Đa dạng hoá việc huy động vốn thông qua mở rộng và phát triển nhiều hình thức như: phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu có mục đích, có khả năng chuyển nhượng và thanh toán linh hoạt, phổ cập hình thức gửi tiền một nơi rút nhiều nơi; thực hiện cá nhân mở tài khoản, phát triển các hình thức tiết kiệm giáo dục, tiết kiệm bậc thang,... phát triển các loại cổ phiếu, trái phiếu ở các cấp: chính phủ, địa phương và công ty; mở rộng hoạt động của các công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, quỹ đầu tư,... kết hợp các hình thức huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. + Nâng cao hiệu quả huy động vốn qua ngân sách: Thu ngân sách, đặc biệt là thu từ thuế có độ nhạy cảm rất cao đối với sản xuất kinh doanh, cho nên điều chỉnh thuế suất làm tăng nguồn vốn cho ngân sách và định hướng các hoạt động kinh tế phải được coi là một nội dung quan trọng để nâng cao ngân sách. Phương hướng thực hiện điều chỉnh thuế xuất là nâng cao tỷ suất thu trong GDP với mức phổ biến của nước ta hiện nay, chống thất thu mà mở rộng diện thu. Để thực hiện phương hướng này cần phải: - Đổi mới cơ chế quản lý ngân sách và các hoạt động chi trên ngân sách đảm bảo cho ngân sách thực sự đóng vai trò điều chỉnh có hiệu quả nền kinh tế phát triển theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kiên quyết không tham nhũng và lãng phí trong sử dụng ngân sách. Tiếp tục cơ cấu lại một cách hợp lý bộ máy Nhà nước, giảm biên chế hành chính. + Khuyến khích các doanh nghiệp tạo vốn: Tạo điều kiện cho mọi doanh nghiệp đều có quyền huy động đảm bảo cho doanh nghiệp phải có mức vốn cần thiết trước khi tham gia các hoạt động sản xuất kinh doanh. Phát triển thị trường vốn để tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp huy động vốn, thực hiện đa dạng hoá nguồn vốn trong các doanh nghiệp. Nhà nước cần đảm bảo những điều kiện về cơ sở hạ tầng và những nguyên vật liệu thiết yếu để các doanh nghiệp hoạt động. Tài trợ mức cần thiết để kích thích và hướng hoạt động của các doanh nghiệp vào các ngành, lĩnh vực cần ưu tiên trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chấn chỉnh công tác kế toán doanh nghiệp theo luật kế toán mới, tổ chức thi tuyển giám đốc, tìm người có đủ năng lực điều hành doanh nghiệp. b. Thu hút vốn từ nước ngoài. Đối với đầu tư trực tiếp: Do quyền quản lý và sử dụng không tách rời quyền sở hữu về vốn của các chủ đầu tư nước ngoài, nên việc thu hút nguồn này không chỉ tuỳ thuộc vào sự hoàn thiện môi trường đầu tư của nước ta mà còn tuỳ thuộc vào sự tính toán của chủ đầu tư nước ngoài. Mặt khác để thu nhận một lượng vốn nước ngoài, chí ít trong nước phải có một lượng vốn tương đương. Hơn nữa chúng ta lại bị khá nhiều đối thủ trong khu vực và trên thế giới cạnh tranh thu hút nguồn vốn này. Vì vậy, cần phải chủ động lập các dự án để giới thiệu và gọi vốn đầu tư nước ngoài. Các dự án phải có tính chất khả thi cao. Mở rộng các hình thức đầu tư trong cả nước. Đối với các dự án liên doanh đầu tư với nước ngoài, phải phấn đấu: ngoài phần đóng góp về đất cần huy động liên kết nhiều đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế, nâng tỷ suất góp vốn trong nước bằng 50% số vốn trong các dự án, cùng với chính sách ưu đãi có biện pháp giới thiệu hướng dẫn, cung cấp thông tin để người Việt Nam sống ở nước ngoài đầu tư về nước mình. Đối với đầu tư gián tiếp. Giải pháp để thu hút mạnh mẽ nguồn vốn này không chỉ ở chỗ cần làm tốt hơn nữa công việc vận động cá nhân, các tổ chức tiền tệ quốc tế và chính phủ các nước giúp đỡ vốn phù hợp với yêu cầu của nước ta, mà còn phải hết sức coi trọng việc quản lý và nâng cao hiệu quả của việc sử dụng vốn, phải tính đến khả năng trả nợ đúng hạn và những yêu cầu khác về việc đảm bảo độc lập, chủ quyền về kinh tế và chính trị. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, hoạt động dịch vụ, thực hiện tỷ giá hối đoái linh hoạt hợp lý, có chính sách thích hợp đảm bảo huy động có hiệu quả các nguồn thu từ người và các tổ chức nước ngoài vào ta hợp tác đầu tư,... thực tiễn các mặt hoạt động này ở nước ta vừa qua còn nhiều yếu kém, cần phải khẩn trương khắc phục. 2. Những chính sách cơ bản nhằm nâng cao vai trò chủ đạo và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Để phát huy được vai trò của các doanh nghiệp, cần phải có những chính sách về những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Nhà nước có các chính sách đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước, nòng cốt của thành phần kinh tế Nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Nhà nước có thể cạnh tranh một cách công bằng và bình đẳng trên thị trường, cần phải tách mục tiêu phi thương mại ra khỏi các doanh nghiệp kinh doanh, xoá bỏ các lợi thế so sánh và những phân biệt giữa doanh nghiệp Nhà nước với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Phân biệt rõ quyền chủ sở hữu Nhà nước và quyền của pháp nhân doanh nghiệp Đến nay nước ta có hơn 12 triệu đơn vị kinh tế hộ (10 triệu hộ nông nghiệp và 2 triệu hộ trong các ngành nghề khác), khoảng 23.000 doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, gần 6.000 doanh nghiệp Nhà nước và 1.200 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chính sự ra đời và hoạt động năng động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đó đã tạo nên những thành tựu phát triển kinh tế của đất nước ta trong những năm đổi mới vừa qua. Với ý nghĩa như vậy, để phát triển kinh tế, để thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế - xã hội đến năm 2000 do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đề ra. Nhiệm vụ đẩy mạnh đổi mới, phát triển và quản lý có hiệu quả các loại hình doanh nghiệp với nội dung cụ thể là: Tiếp tục đổi mới và phát triển khu vực doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp nhỏ, làm ăn thua lỗ đã được sáp nhập, giải thể, chuyển hình thức sở hữu. Sau khi sắp xếp lại các doanh nghiệp thì phải đặt các doanh nghiệp Nhà nước trong môi trường cạnh tranh theo pháp luật, bình đẳng, với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, tiến tới áp dụng một luật kinh doanh thống nhất với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, làm rõ cơ chế đại diện chủ sở hữu Nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước và quản lý của các bộ, ngành đối với doanh nghiệp. Xác định rõ phạm vi thẩm quyền quản lý Nhà nước của các Bộ quản lý và Bộ Tài chính đối với doanh nghiệp. Trong đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước phải đổi mới tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và vai trò làm chủ của người lao động trong doanh nghiệp. Đánh giá đúng đắn để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất trình độ tay nghề của người lao động, trình độ quản lý của cán bộ trong doanh nghiệp Nhà nước trước hết là các thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng của doanh nghiệp và cán bộ quản lý Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Tạo điều kiện cần thiết cho các doanh nghiệp và nhân dân đầu tư phát triển. Bên cạnh việc xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ chung cho đời sống xã hội, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thuê đất làm mặt bằng cho sản xuất kinh doanh, khuyến khích đầu tư, giảm giá thuê đất. Nhà nước tạo điều kiện cho việc phát triển và mở rộng thị trường vốn, tạo nhiều kênh cho việc huy động vốn đầu tư. Nhà nước có chính sách khuyến khích và trợ giúp việc nghiên cứu và ứng dụng công nghệ mới của doanh nghiệp như hỗ trợ vốn cho các trung tâm khoa học nghiên cứu chuyển giao công nghệ, thông tin công nghệ,... cho doanh nghiệp. Khuyến khích phát triển các Hiệp hội ngành nghề, câu lạc bộ các nhà kinh doanh để trao đổi thông tin, kinh nghiệm,... Phát triển các hình thức hợp tác, liên kết giữa các thành phần kinh tế Nhà nước với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, cả trong và ngoài nước để hình thành và phát triển kinh tế tư bản Nhà nước trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, bảo đảm lợi ích của các bên tham gia, từ các hình thức đại lý mua nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm,... tạo nên sự đan xen giữa các hình thức sở hữu trong doanh nghiệp, sự đan xen của các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Kết luận. Sản xuất kinh doanh bao giờ cũng gắn với mỗi đơn vị kinh tế cụ thể bao giờ cũng diễn ra ở cơ sở, ở các doanh nghiệp. Sức mạnh và hiệu quả của nền kinh tế nói chung là do sức mạnh và hiệu quả của các doanh nghiệp tạo nên. Một nước có nhiều doanh nghiệp mạnh hoạt động có hiệu quả thì nền kinh tế của đất nước mạnh và ngược lại. Quản lý Nhà nước về kinh tế chính là để tạo ra môi trường cho các doanh nghiệp hoạt động, kích thích, điều tiết và hướng dẫn các hoạt động của các doanh nghiệp. Nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa thực tiễn rất lớn đối với nước ta. Vì nước ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường nên trong sản xuất kinh doanh đòi hỏi chúng ta phải quay vòng vốn nhanh, sử dụng vốn một cách hợp lý để đem lại hiệu quả kinh tế cao. Để đạt được mục đích kinh tế thì chúng ta phải nghiên cứu vấn đề này để đưa ra các phương thức quản lý Nhà nước về kinh tế, góp phần làm cho đất nước phát triển nhanh, mạnh trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tài liệu tham khảo - Tạp chí Cộng sản Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin (trường đại học kinh tế quốc dân) Việt Nam quá độ sang cơ chế thị trường (Ngân hàng thế giới khu vực đông nam á và thái bình dương thàng 9-1993) Nghiên cứu kinh tế. Thời báo kinh tế ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28868.doc
Tài liệu liên quan