Lời nói đầu
C
ó thể nói thế kỷ 20 là thế kỷ của những chuyển đổi xã hội quan trọng trong lịch sử nhân loại. Ngay từ đầu thế kỷ, từ một xã hội công nghiệp, kéo dài không đến vài thập kỷ, loài người lại bắt đầu cho một xã hội với một kỷ nguyên mới " kỷ nguyên thông tin". Và thật nhanh chóng nó đã tiếp tục chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn "xã hội nhanh". Thực chất đây là xã hội thông tin hoá cao trong đó công nghệ thông tin bao gồm hai lĩnh vực tin học và viễn thông đóng vai trò chủ đạo cho s
20 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1632 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Triết học phật giáo và ảnh hưởng của nó tới Việt Nam xưa và nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ự phát triển xã hội mà nguồn lực chủ đạo chung là tri thức và khả năng sáng tạo tưởng tượng. Một vài thế kỷ tưởng chừng như rất chậm chạp nhưng với sự phát triển mạnh mẽ của trí tuệ và công nghệ của nhân loại như ngày nay thì thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ gì ? Xã hội tiếp theo là... ? Chúng ta đã bắt đầu bước sang thế kỷ 21 và theo dự báo của nhiều nhà khoa học thì đây sẽ là thế kỷ của nền văn minh tôn giáo.
Dù nhận định trên có đúng hay không, song trong thực tế nhân loại từ trước đến nay vẫn duy trì và nâng niu những tinh hoa của những giáo lý có từ cổ xưa trong đó có giáo lý của Phật giáo. Giáo lý của Phật giáo rất đồ sộ, theo các đệ tử của Phật giáo gọi là ba tạng ( Tam Tạng Kinh) gồm: bộ Kinh, bộ Luật, bộ Luận ( Tạng Kinh, Tạng Luật, Tạng Luận). Trong Tam Tạng Kinh, đạo Phật nói chung, Thích Ca Mâu Ni - giáo chủ nói riêng- đề cập tới những chân lý và những sự kiện mà tất cả mọi người đều có thể chiêm nghiệm thông qua kinh nghiệm của bản thân. Đạo Phật không truyền dạy những lý thuyết triết học có tính chất cách mạng cũng không có ý định sáng tác ra một nền khoa học mà chỉ giải thích những gì có ở bên trong và cái gì có ngay bên ngoài mỗi một con người có liên quan đến sự giải thoát ra khỏi cảnh đau khổ của kiếp người và vạch ra con đường giải thoát. Mặt khác đạo Phật lại không lấy giáo lý làm trọng, chỉ coi đó là phương tiện đến chân lý cuối cùng. Cái cốt của đạo Phật là sự thực hành của mỗi cá nhân để đạt tới sự tự chứng, sự giác ngộ. Do vậy đạo Phật sâu rộng vô cùng, không thể lấy cái tri thức và cái phép suy luận ra mà bàn luận cho rõ được. Chữ Phật là tiếng gọi tắt của từ Hán Việt: Phật Đà, từ này cũng dịch từ tiếng Phạn ( Boudha). Phật hay Boudha nếu diễn dịch ra, lấy nghĩa chân đế là cái nghĩa chân thực tuyệt đối mà xem xét thì Phật hoàn toàn như không, không sinh, không diệt, không tưởng, không khởi, không hoại, không lưu chuyển, không chỉ tức, không thành, tính không dự tính, không đoạn tận, là không độc nhất vô nhị trong vũ trụ... Cái tính chất đó của Phật thường gọi là pháp thân. Pháp thân là phần sáng tỏ kỳ tình mọi vật nhờ đó mà có, rồi chung quy lại quay về nó. Nhưng theo cái nghĩa chân đế này chỉ có một Phật chứ không có hai. Nhưng xét về mặt đời thường con người luôn nhìn vào sự biến đổi thì lại coi Phật là cái danh hiệu để chỉ những bậc có trí tuệ cực kỳ minh triết siêu phàm, có thể hiểu thấu hết mọi sự diễn biến trong vũ trụ. Những bậc ấy chứng được cái pháp thân chân thực vượt ra ngoài vòng diễn biến, biến hoá sau đó đem dự biết của mình để tuyên truyền cho chúng sinh thoát ra khỏi cái vòng luân chuyển sinh tử đó.
Ba tạng kinh điển Phật giáo với hàng vạn quyển nhưng có hai vấn đề cơ bản và quan trọng nhất gồm: 4 chân lý giải thích về kiếp sống sinh, trụ, dị, diệt và 12 nhân duyên giải thích sự tương quan sinh tồn qua kiếp sống của con người nói riêng và các giai đoạn thành, trụ, hoại, không của muôn vật nói chung ( theo phạm trù triết học còn gọi là vấn đề nhân sinh và vũ trụ ) đã sớm du nhập vào Việt Nam và có những ảnh hưởng không nhỏ đến văn hoá, kinh tế, chính trị Việt Nam trong nhiều thế kỷ qua. Không những thế Phật giáo khi du nhập vào Việt Nam đã được người dân bản xứ tiếp nhận tự nhiên và khi hoà nhập đã tạo thành một bản sắc rất riêng cho tôn giáo ở Việt Nam.
Bố cục bài viết như sau:
Lời nói đầu
Phần I. Những hiểu biết chung về Phật giáo
I. Sự ra đời và sự phát triển của Phật giáo
2. Vài nét về người sáng lập ra đạo Phật
3. Con đường truyền đi của đạo Phật
II. Nội dung của đạo Phật
1. Khổ đế
2. Nhân đế hay tập đế
3. Diệt đế
4. Đạo đế
Phần II. Phật giáo du nhập vào Việt Nam và những ảnh hưởng của triết học Phật giáo đến Việt Nam qua các thời kỳ
I. Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
1. Bối cảnh lịch sử
2. Nguồn gốc trung tâm Phật giáo Luy Lâu
II. Những ảnh hưởng của triết học Phật giáo đến Việt Nam qua các thời kỳ
1. Hai thế kỷ đầu Tây lịch
2.Phật giáo trong các triều đại Việt Nam
Phần III. Kết luận
Phần I:
Những hiểu biết chung về Phật giáo
I. Sự ra đời và phát triển của Phật giáo
1. Phật giáo ra đời
Trong lịch sử triết học của ấn Độ, mà thực chất là lịch sử phát triển của các hệ tư tưởng triết học xen lẫn với tôn giáo, có một thời kỳ là thời kỳ Bàlamôn giáo, Phật giáo ( từ thế kỷ VI trước công nguyên đến thế kỷ thứ VI sau công nguyên).
ở thời kỳ này, mặc dù nền kinh tế đã phát triển hơn trước, nhưng nó vẫn bị kìm hãm bởi tính chất tổ chức kiên cố của công xã nông thôn, bởi sự phân chia đẳng cấp khắc nghiệt và sự thống trị của nhà nước trung ương tập quyền.
Trong lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội, các trào lưu triết học, mà thực chất là các hệ tư tưởng của các tầng lớp khác nhau trong xã hội, xuất hiện đa dạng nhưng chia thành hai hệ thống chính đối lập nhau: chính thống và không chính thống. Hệ tư tưởng chính thống với thế giới quan duy tâm, tôn giáo của kinh Veda và giáo lý Bàlamôn trở thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Nhưng hệ tư tưởng không chính thống với đạo Phật, đạo Jaina và phong trào đòi tự do tư tưởng, đòi bình đẳng xã hội ở vùng Đông ấn lại ăn sâu vào mọi tầng lớp nhân dân.
Đạo Phật đã hình thành ở ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VI trước công nguyên, người sáng lập là thái tử Sidharta ( Tất Đạt Đa) ( Cồ - đăm), với tư cách là một trong những hệ tư tưởng tiên phong chống phân chia giai cấp, kì thị màu da và đồng cảm với nỗi khổ của nhân dân ấn Độ nói riêng, với con người nói chung.
2. Vài nét về người sáng lập đạo Phật:
Thái tử Tất Đạt Đa ( Sidharta) là con vua Tịnh Phạn ( Sudhodana) nước Ca Tỳ La Vệ ( Kapila vastu). Truyền kể vào năm 624 trước công nguyên, hoàng hậu MaDa (Maya) sinh hạ một hoàng tử tuấn tú tại vườn ngự uyển Lâm Tỳ Ni (Lumbini) dưới gốc cây Ưu Bát La, thường gọi là cây Vô Ưu ( asokaa) có hoa với sắc màu rực rỡ. Thái tử sinh vào ngày trăng tròn tháng Vésaka, nhằm ngày rằm tháng tư âm lịch và được đặt tên là Tất Đạt Đa. Lớn lên, thái tử văn võ toàn tài, vợ là công chúa Da Du Đà La ( Yasodava) con vua Thiện Giác, cuộc sống rất đầy đủ, sung sướng.
Nhưng những điều mắt thấy tai nghe về những nỗi đau khổ của con người đã ám ảnh tâm tư thái tử. Một ngày kia, thái tử ra đi, tương truyền ngài đến dòng A Nô Ma cắt tóc làm đạo sĩ. Ngài rủ năm người đến vùng Uruvela tu khổ hạnh trong 6 năm. Nhưng sau 6 năm học đạo và khổ hạnh, thái tử thấy kẻ hưởng lạc sẽ bê tha thối nát, còn tu hành khổ hạnh chỉ chuốc thêm khổ thân, chỉ có con đường trung đạo mới mong thành chính quả. Bởi thế, Thái tử đã bỏ 5 anh em ông Kiều Trần Như, dùng bát sữa của mục nữ Tu Xá Đề ( Sajata), xuống sông Ni Liên tắm rửa, rồi lên thiền quán dưới gốc cây pipal ( cây Tất Bát La, xứ Ba La Nại) lớn và ngồi dưới gốc cây suy nghĩ. Tương truyền là qua 49 ngày, ngài đã chứng tam minh tức là Túc mạng minh, Thiên nhân minh và Lậu tận minh, thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, năm 36 tuổi. Gốc cây chỗ ngài ngồi gọi là Bồ đề đạo dưỡng ( Bodhimanda) hay Kim cương toạ ( Vadjrasana).
Sau đó, ngài tìm 5 người bạn trước đây, giác ngộ cho họ, rồi cùng họ trong suốt 40 năm còn lại của cuộc đời đi truyền bá tư tưởng của mình. Có những câu chuyện đã thành huyền thoại về Phật như Phật đã dừng chân bên vệ đường xâu kim cho bà già mù loà, săn sóc, dọn dẹp ô uế cho người bệnh, nhận cơm thừa của một tiện nữ dâng cúng... Từ những việc nhỏ nhất, tất cả đều thể hiện lòng từ bi bác ái của Ngài và đạo của Ngài.
3. Con đường truyền đi của đạo Phật
Sau Phật Niết bàn, các đệ tử Phật kiết tập 4 lần. Qua cuộc kiết tập lần thứ hai, do quan điểm bất đồng, Phật giáo chia thành hai phái: Thượng toạ bộ và Đại chúng bộ. Thượng toạ bộ chủ trương bảo thủ y nguyên Phật giáo ban đầu, đọc kinh bằng tiếng Pali. Đại chúng bộ có tư tưởng cấp tiến, phóng khoáng đọc kinh bằng tiếng Sanskrit.
Dị biệt tiếp tục phát triển, về sau giáo đoàn Phật giáo cho làm hai hệ là Nam truyền và Bắc truyền. Thượng toạ bộ chi phối Nam ấn và Phật giáo Nam truyền liên tục hưng thịnh. Đại chúng bộ chi phối Bắc ấn, nhưng mãi đến thời Bồ Tát Mã Minh ( Asvaghosha) 5 thế kỷ sau Phật niết bàn, mới mở màn hưng thịnh và sáng rỡ nhất là thời kỳ Bồ Tát Long Thọ ( Nagarjuna) đầu thế kỷ II sau công nguyên.
Phật giáo Nam truyền lan đến các nước phía Nam ấn: Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia và đa số trở thành quốc giáo. Phật giáo Bắc truyền lan đến các vùng phía Bắc ấn ( Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản... ) mà mỗi nước lại có màu sắc riêng. Trung Hoa đã làm cho Phật giáo Bắc truyền thêm rực sáng. Sau này còn gọi Phật giáo Nam truyền là Phật giáo Tiểu Thừa, còn Phật giáo Bắc truyền là Phật giáo Đại Thừa.
Với hai con đường thuỷ và bộ Phật giáo cũng vào Việt Nam những thế kỷ đầu công nguyên.
II. Nội dung của đạo Phật
Thực chất của đạo Phật là một học thuyết về "nỗi khổ " và sự giải thoát. Cốt lõi của học thuyết này là " Tứ diệu đế " ( bốn chân lý kì diệu ) hay " Tứ thánh đế " (bốn chân lý thánh ):
- Khổ đế
- Nhân đế hay Tập đế
- Diệt đế
- Đạo đế
1. Khổ đế
Khổ đế là chân lý về bản chất của nỗi khổ.
Nỗi khổ là gì ? Giáo lý đạo Phật nói khổ có khổ khổ, hoại khổ và hành khổ. Cụ thể là khổ gồm có tám thứ: sinh. già, bệnh, ân ái chia lìa ( thụ biệt ly), oan thù gặp gỡ ( oán tăng hội), cầu không được ( sở cầu bất đắc) và năm ấm không điều hoà ( thụ ngũ uẩn ).
2. Nhân đế hay Tập đế
Tập đế là chân lý về nguyên nhân của nỗi khổ.
Khổ là do đâu? Phật giáo cho rằng nguyên nhân trực tiếp dẫn đến nỗi khổ đau của con người là do lòng tham, sân si, vô độ. Không có cái gì là ta, của ta, nên con người khát ái, tham dục, hành động để chiếm đoạt để thoả mãn những ham muốn, dục vọng đó. Chính những hành động chiếm đoạt ấy dẫn đến sự khổ ải, gây nên nghiệp báo, đẩy con người vào bể khổ triền miên.
Giải thích cụ thể các căn nguyên ấy, Phật nên ra thuyết " Thập nhị nhân duyên ", tức 12 nguyên nhân dẫn đến khổ:
(1) Vô minh ( avidya) là không sáng suốt, ngu tối nên thế giới là ảo, là giả mà lại cho là thực.
(2) Hành ( Samskara) là ý muốn thúc đẩy hoạt động .
(3) Thức ( Vijnana) là nhận thức, phân biệt cái tâm trong sáng cân bằng với cái tâm không trong sáng, mất cân bằng.
(4) Danh - Sắc ( Namarupa) là sự thống nhất, kết hợp các vật chất ( sắc) và các tinh thần ( danh). Đối với các loại hình thì sự phối hợp Danh - Sắc sẽ sinh ra 6 cơ quan cảm giác: mắt ( nhãn cầu), tai ( nhĩ căn), mũi ( tỵ căn), lưỡi ( thiệt căn), thân thể ( thân căn) và ý thức ( ý căn).
(5) Lục nhập ( Sadayatana) là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh của lục trần ( sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ) và các giác quan.
(6) Xúc ( Sparsa) là sự tiếp xúc, phối hợp giữa lục căn với lục trần, hay là giữa các giác quan với thế giới bên ngoài.
(7) Thụ ( Vedana) là sự cảm thụ, nhận thức trước sự tác động của thế giới bên ngoài.
(8) ái ( Trsna) là sự yêu thích mà nảy sinh ham muốn dục vọng do cảm thụ thế giới bên ngoài.
(9) Thủ ( Upadana) là giữ lấy, chiếm đoạt cái mà mình ham muốn, yêu thích.
(10) Hữu ( Bhava) là sự tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm được.
(11) Sinh ( Jati) là sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
(12) Lão tử ( Jaramarana) già và chết do có sự sinh thành.
Đó là 12 nguyên nhân tạo ra các vòng luẩn quẩn của nỗi khổ đau của con người, trong đó " vô minh" ( không hiểu lẽ tử sinh là nguyên nhân trước hết, cần diệt trừ.
3. Diệt đế
Diệt đế là chân lý về cảnh giới diệt khổ.
Nỗi khổ sẽ được tiêu diệt nếu nguyên nhân gây ra khổ bị loại trừ. Sự tiêu diệt khổ đau được gọi là niết bàn. Niết bàn là thế giới của sự giác ngộ và giải thoát.
4. Đạo đế
Đạo đế là chân lý chỉ ra con đường diệt khổ.
Làm thế nào để diệt khổ ? Phật đã vạch ra rằng đó là con đường tu luyện, suy tư, chiêm nghiệm nội tâm, thực nghiệm tâm linh theo phương và hướng chủ yếu gọi là Bát chính đạo. Nói rõ ràng hơn, Bát chính đạo chính là con đường tu luyện đạo đức ( giới ), tư tưởng ( định ) và khai sáng trí tuệ ( tuệ ).
Bát chính đạo đó là:
(1) Chính kiên ( Samyak - Dristi) là hiểu biết đúng đắn từ diệu đế.
(2) Chính tư duy ( Samyak - Samkalpa) là suy nghĩ đúng đắn.
(3) Chính ngữ (Samyak - Vaca) là nói năng phải đúng đắn.
(4) Chính nghiệp (Samyak - Karmata) giữ nghiệp một cách đúng đắn, không làm việc xấu, độc ác.
(5) Chính mệnh (Samyak - Ajiva) giữ ngăn dục vọng một cách đúng đắn.
(6) Chính tịnh tiến (Samayak - Vyayama) là cố gắng nỗ lực đúng hướng, không biết mệt mỏi.
(7) Chính niệm (Samayak - Suritisati) là luôn tâm niệm, tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát.
(8) Chính định (Samayak - Samadhi) là kiên định, tập trung tư tưởng cao độ vào một chỗ.
Trong 8 con đường giải thoát đó, thì chính kiến và chính tư duy thuộc về Tuệ ( Panna); chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh thuộc về Giới ( Sila); chính tịnh tiến, chính niệm, chính định thuộc về Định ( Samadhi).
Với nội dung như vậy, đạo Phật đã nêu lên nỗi khát vọng giải thoát con người khỏi những bi kịch của cuộc đời, khuyên con người sống lương thiện, từ bi, bác ái. Chính vì thế mà ngay từ đầu, học thuyết của Phật giáo đã đi sâu vào lòng người, truyền bá một cách nhanh chóng và rộng rãi không chỉ ở ấn Độ mà còn tới nhiều dân tộc khác, trong đó có Việt Nam.
Phần II.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam và những ảnh hưởng của triết học Phật giáo đến Việt Nam qua các thời kỳ
I. Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
1. Bối cảnh Việt Nam
Nước Việt Nam có hình thể chữ S, thuộc bán đảo Đông Dương, thường gọi là ấn Độ Chi Na. Việt Nam chiếm vị thế bảy phần mười bán đảo Đông Dương, tiếp giáp với biển Trung Quốc và vịnh Bengale, được cấu thành bởi các dãy núi chạy từ Tây Tạng đến phía Đông và xoè ra biển như hình rẻ quạt. Giữa các rặng núi là những thung lũng, tạo thành các miền cao nguyên, bình nguyên và các dòng sông lớn. Sông Menam tạo thành đồng bằng Thái Lan, sông Mekong tạo thành đồng bằng Campuchia và Nam Việt Nam, sông Hồng tạo thành đồng bằng Bắc Việt Nam. Địa thế Việt Nam còn nằm giữa hai lục địa lớn và đông dân nhất thế giới là Trung Quốc và ấn Độ. Hai quốc gia lớn này cũng đã có nền văn hoá rất sớm đối với nhân loại. Việt Nam do ở địa thế như vậy nên chịu rất nhiều ảnh hưởng của hai nền văn minh đó. Theo các nhà sử học, dân tộc Việt Nam được hình thành có những thuyết sau:
a- Tổ tiên Việt Nam gốc ở Tây Tạng.Vì đời sống, một bộ lạc theo lưu vực sông Hồng, dần hồi tràn xuống Trung Châu Bắc Việt.
b- Theo Aurousseau, tổ tiên Việt Nam là người nước Việt, miền hạ lưu sông Dương Tử, bị người nước Sở (đời Xuân Thu) đánh đuổi. Để lánh nạn, người Việt chạy về phía Nam, miền Quảng Đông, Quảng Tây, rồi từ từ đến Bắc Việt và Bắc Trung Việt. Từ đó, cho biết xưa kia địa thế Việt Nam có thể bao gồm Quảng Đông, Quảng Tây đến Bắc Trung Việt. Cũng từ đó, người Việt có truyền thống nam tiến, giống loài chim Việt lúc nào cũng sống theo hướng mặt trời. Mùa đông, chim bay xuống phía Nam để được sưởi nắng ấm, tránh lạnh lẽo ở phương Bắc.
c- Theo các nhà nhân chủng học, thời thượng cổ, giống người Indonesian bị giống dân Aryan đánh đuổi, bỏ ấn Độ chạy đến bán đảo ấn Độ Chi Na. Số người tràn về phía Nam lập thành nước Campuchia, Chiêm Thành, theo văn hoá ấn Độ. Còn số người ở phía Bắc kết hợp với giống Mông Cổ trở thành người Việt Nam.
d- Theo các nhà dân tộc học, Việt Nam ở giữa khu vực nối liền ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, chịu ảnh hưởng hai nền văn hoá cổ nhất là ấn Độ và Trung Quốc... Vì thế, Việt Nam là vùng qui tụ thành phần dân tộc khác nhau với 8 nhóm ngôn ngữ như: Mường, Thái, Dao, Miến, Khmer, Hán, Chàm, Nam á... Nhưng thành phần người Việt (Kinh ) chiếm phần lớn, có ưu thế hơn, cùng nói một thứ tiếng, hình thành một cộng đồng dân tộc chung cội nguồn để dựng nước và giữ nước.
2. Nguồn gốc trung tâm Phật giáo Luy Lâu
Luy Lâu là kinh đô của Giao Chỉ, ở trung tâm đồng bằng sông Hồng, thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc, Việt Nam. Xưa còn gọi Luy Lâu là Dâu. Luy Lâu là nơi giao lưu thương mại từ ấn Độ đến Trung Quốc. Vào thế kỷ đầu Tây lịch, thương gia ấn Độ bán cho đế quốc La Mã nhiều vải lụa, hương liệu, trầm hương, ngà voi, quế, tiêu, vàng ngọc... Để đủ cung ứng cho thị trường, thương thuyền ấn Độ theo gió mùa Tây Nam đi về vùng Viễn Đông, đến các bờ biển Mã Lai, Nam Dương, Phù Nam, Giao Chỉ và Trung Quốc. Từ Trung Quốc trở về, các khách buôn lại ghé Giao Chỉ, đợi gió mùa đông Bắc để căng buồm đi theo chiều gió. Trong thời gian lưu lại Giao Chỉ, các khách buôn bày biện lễ nghi thờ cúng và cầu nguyện Phật và các vị Bồ Tát. Với mục đích cầu nguyện, các nhà buôn thường mời Tăng sĩ đi theo. Các nhà sư, ngoài tâm thành cầu nguyện bình an cho khách buôn, còn có mục đích hoằng hoá truyền đạo Phật. Từ đó, người Giao Chỉ không chỉ học hỏi bởi người ấn Độ cách thức làm nông nghiệp, làm thuốc, buôn bán mà còn chịu ảnh hưởng tôn giáo ấn Độ. Đó là Phật giáo.
Theo cuốn Lĩnh Nam Chích Quái, bấy giờ người Giao Chỉ có Chử Đồng Tử và Tiên Dung mở tiệm buôn bán với khách nước ngoài. Chử Đồng Tử đã theo thuyền buôn nước ngoài ra khỏi xứ. Khi ghé lại một hòn núi tên là Quỳnh Viên để lấy nước ngọt, Chử Đồng Tử gặp một nhà sư ấn Độ trong một túp lều. Do ái mộ nhà sư, Chử Đồng Tử đã ở lại đảo học đạo, giao vàng cho bạn đi buôn giúp và hẹn khi trở về hãy ghé lại đón. Trước khi từ giã để trở về đất liền, Chử Đồng Tử được nhà sư cho một cái gậy và một nón lá, với lời dạy có thể làm phép lạ bằng hai vật sẵn có trong tay. Một hôm, đang đi thì trời tối, Đồng Tử chống cái gậy và úp nón lá làm lều trú ẩn. Sau khi về Giao Chỉ, để giáo hoá Tiên Dung, Chử Đồng Tử giảng giải Phật pháp. Do thấm nhuần đạo lý Phật đà, cả hai đều bỏ chuyện đi buôn, tiếp tục con đường tìm thầy học đạo. Chuyện Chử Đồng Tử học đạo cho thấy Phật giáo có dẫn lực mạnh đối với người dân Việt Nam. Cụ thể, người Giao Chỉ đọc tụng Tam qui, cúng đường Phật tháp, bố thí cho người đói khổ, bệnh tật, thiếu may mắn và đọc kinh cầu nguyện chết được siêu sinh, sống được an bình, phúc lạc... Người đời gọi Phật là ông Bụt, Bụt có ở khắp mọi nơi, biết được tâm tư nguyện vọng của mọi người, Bụt có thể trừng trị kẻ ác, cứu giúp người lương thiện. Đó là Bụt trong các câu chuyện dân gian truyền khẩu như " Tấm cám", "Truyện cây nêu" ... Bụt có thể biến hoá các hiện tượng thiên nhiên quanh con người thành các thần, ban phúc, trừ hoạ. Chứng tỏ rằng, đối với dân chúng, Bụt là hiện thân cho cái thiện, cho lẽ phải, cho những gì tốt đẹp nhất mà người dân mong ước.
Trong thực tế, ngay từ thế kỷ đầu, có thể các thuyền buôn đã chở theo các nhà sư đến Giao Châu. Nhưng chưa có sách nào ghi chép lại, do đó các nhà sư trở thành những nhà truyền đạo vô danh. Mãi đến thế kỷ II và đầu thế kỷ thứ III, các nhà sư truyền giáo mới được sử sách ghi chép lại, trở thành những nhà truyền giáo đầu tiên ở Việt Nam. Đó là: Marajivaka ( hay Jivaka), Ksũdara ( hay Kàlacãrya), Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương Lâu ( hay Kalaruci), Mâu Bác ( hay Mâu Tử).
Tiếp nối 3 thế kỷ đầu Tây lịch, Phật giáo Việt Nam vào thế kỷ thứ tư vẫn phát triển. Trong giai đoạn này có hai nhà sư Trung Quốc, trên đường đi Tây Trúc có ghé Giao Châu và đều viên tịch tại đây. Đó là Vu Pháp Lan ( khoảng 270 - 230 ) và Vu Đạo Thuý ( khoảng 285 - 315). Pháp Lan là thầy của Đạo Thuý.
Qua thế kỷ thứ V, nối tiếp sự nghiệp truyền đạo của tiền nhân, Phật giáo Việt Nam có Đạt Ma Đề Bà, Huệ Thắng, Huệ Lâm, Đạo Thiền và Đàm Hoàng, quốc tịch nước ngoài có, quốc tịch Việt Nam có, đây là những nhà sư có công trong việc truyền dựng Phật giáo ở Giao Châu trong thời Bắc thuộc.
II. Những ảnh hưởng của triết học Phật giáo đến Việt Nam qua các thời kỳ
1. Hai thế kỷ đầu Tây lịch
Sự thành lập tăng đoàn, dịch kinh sáng tác và làm chùa hẳn được thực hiện vào thế kỷ thứ hai. Trong thế kỷ đầu của Tây lịch sinh hoạt Phật ở Giao Châu chắc chắn thô sơ lắm. Như ta đã biết, đạo Phật đầu tiên do các thương gia ấn Độ đem đến. Những người này không phải là những nhà truyền giáo; họ chỉ sống đời sống tín ngưỡng của họ trong lúc lưu lại Giao Châu và chính vì vậy mà người Giao Châu biết đến đạo Phật. Sinh hoạt của Phật từ ấn Độ thời ấy thế nào ? Họ học ba điều quy y, giữ tam quy, tin tưởng ở Tam Bảo là Phật, Pháp và Tăng. Họ giữ ngũ giới: không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Họ tin ở thuyết nhân quả: vì vậy họ lo bố thí cúng đường, nhất là cúng đường ẩm thực, y phục và chỗ cư ngụ cho tăng sĩ, bởi các tăng sĩ là " ruộng phước đức tốt nhất" để gieo hạt giống công đức. Họ còn thờ phụng Xá Lợi Phật, đốt hương trầm, đọc thuộc một vài đoạn kinh nhân quả, kể chuyện tiền nhân của đức Phật.
Thế còn tín ngưỡng của người Giao Châu hồi ấy ? Ông trời ở trên cao, có thể nhìn thấu được mọi việc dưới đất, biết trừng phạt kẻ làm ác, giúp đỡ kẻ làm lành. Tuy nhiên, Ông trời không phải là một đấng tạo hoá tạo nên mọi vật, nhất là không phải là vị thần của nhất trần giáo. Ông trời có những thuộc hạ gần và xa. Gần thì có ông Sấm, mụ Sét, xa thì có Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, thần núi Tản Viên, thần cây Đa, ông Táo, ông Địa,...Linh hồn con người không hẳn là bất diệt, nhưng có thể tồn tại thời gian khá lâu quanh quẩn bên xác chết và có thể ở chung quanh người thân thích còn sống một thời gian để che chở bảo hộ.
Ma Xó là linh hồn người chết còn ở quanh quẩn trong nhà, coi sóc bảo hộ gia đình. Nhà mồ là nơi an tri linh cữu người chết trong rừng, trong một thời gian nào đó có cơm canh bày cúng người chết. Thầy Mo là người trung gian, biết liên lạc với Ma Xó và với thế giới người chết. Những ngôi mộ đào được ở Lạch Trường chôn từ thế kỷ trước Tây lịch đều có ba phần: phần giữa để linh cữu, phần bên để bản thờ, đèn đồng và phần bên kia để thực phẩm, vật dụng... Những trống đồng dùng để đánh lên trong những buổi lễ cầu mưa và những tang lễ, trên trống đồng có hình chim. Không những chim là nguồn gốc của dân Giao Chỉ mà rồng cũng vậy.
Trong bối cảnh tín ngưỡng và văn hoá kia, đạo Phật đã được mang vào Việt Nam. Thuyết Nhân Quả Nghiệp Báo phù hợp với quan niệm Ông trời trừng phạt kẻ ác, ban thưởng người lành, Thuyết luân hồi cũng phù hợp với quan niệm linh hồn tồn tại sau khi xác thân tiêu hoại và cũng phù hợp với nhận xét về sự tuần hoàn của loài thảo mộc vốn rất thịnh mậu tại một xứ nóng bức và ẩm thấp. Mâu Tử vào cuối thế kỷ thứ hai đã viết như sau về luân hồi: " Thân thể người ta cũng như cành rễ của cây, linh hồn như hạt giống còn sống và sẽ tạo nên cành rễ mới..." Những quan niệm công đức, tam bảo, cúng đường, luân hồi và nghiệp báo... không có quan niệm nào chống đối với tín ngưỡng tại Giao Châu hồi ấy. Thêm vào đó, người Giao Chỉ chưa ai trở thành những tín đồ trung kiên của Không Lão và trang bị bởi những ý thức hệ vững chãi, nên Phật giáo không gặp nhiều trở ngại như khi đi vào đất Hán. Đạo Phật thấm vào văn minh Giao Châu tự nhiên và dễ dàng như nước thấm vào lòng đất. Thế kỷ đầu Tây lịch, người Giao Chỉ cũng học được của những người ấn Độ những kinh nghiệm về trị liệu y học, những điều về thiên văn, về nhật lịch,... Kho tàng cổ tích Việt Nam đã thâm nhập nhiều yếu tố từ truyện cổ tích và tiền thân trong Phật Giáo ấn Độ... Truyện Tấm Cám là truyện nhân quả nghiệp báo trong đó Bụt đóng vai Ông trời, thấy được những chuyện bất công trên đời. Tiếng Bụt ở đây trực tiếp lấy từ chữ Buddha mà không phải chữ Phật lấy từ phát âm Trung Quốc "Fo". Những người khách trú ấn Độ đã truyền đạo bằng cách sống tín ngưỡng của mình trên đất Giao Chỉ và kể chuyện tiền nhân Phật trong những ngày giờ rảnh rỗi. Để thấy được ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến Việt Nam vào thế kỷ đầu như thế nào ta có thể phác hoạ sơ lược tín ngưỡng Phật Giáo Giao Chỉ thời đó như sau:
Quan niệm về Phật: Bụt ( hay Bụt Đà) như một đấng có phép thần thông, nghe biết hết mọi chuyện trên đời như ông Trời, nhưng không ở trên cao nhìn xuống như ông Trời mà rất thân cận với con người. Bụt có thể hiện ra dưới nhiều hình thức để cứu người, giúp đời, nhất là những người có lòng tốt mà bị điều oan ức. Bụt rất thương người, cứu giúp những người hiền, nhưng khác với ông Trời là không hành phạt kẻ ác. Bụt không bị nước trôi, lửa cháy vì Bụt có phép thần thông và biến hiện.
Quan niệm về pháp: Không biết lúc ban đầu danh từ nào đã dùng để dịch tiếng Dharma; có lẽ tiếng " Phép Bụt " đã được sử dụng. Phép Bụt ở đây có thể là những phép biến hiện thần thông của Phật để cứu đời giúp người. Phép Bụt cũng là những điều người ta làm theo nếu người ta tin Bụt, như đọc ba câu tam quy, ban đầu thì bằng Phạn ngữ, giống như đọc thần chú để tỏ lòng quy kính Bụt mà cũng để Bụt che chở ( Buđham Saranam gacchami; Dharmam Saranam gacchami; Sangham Saranam gacchami). Ba câu tam quy này về sau hẳn cũng được đọc bằng tiếng mẹ đẻ và tiếng Hán Việt. Ngoài việc đọc tam quy, còn có việc cúng đường tăng sĩ, bố thí người nghèo, cho kẻ đói ăn. Phép của Bụt cũng là tin ở nghiệp báo, luân hồi và linh hồn bất diệt.
Quan niệm về Tăng: Danh từ Tang Môn được dùng trước danh từ Sa Môn để chỉ các vị tăng sĩ ngoại quốc, như ta thấy trong các bản dịch kinh điển chữ Hán sớm nhất. Tang Môn không phải là một đoàn thể xuất gia từ sáu người trở lên (định nghĩa Sangha) mà là con người của những tu sĩ khoác áo vàng, đầu cạo trọc, từ bỏ đời sống gia đình, của cải, thờ Bụt, đọc kinh chữ Phạn và sống trên sự cúng đường của người tin theo Bụt. Ngoài những Tang Môn ngoại quốc, có thể có vài người Giao Chỉ cũng được nhận học theo làm Tang Môn. Có lẽ Chử Đồng Tử là một người trong số này. Việc Chử Đồng Tử từ bỏ hết sản nghiệp để nhận một chiếc gậy và một cái nón có thể giải thích như là sự xuất gia làm Tang Môn của Đồng Tử. Cây gậy và bình bát là hai vật tuỳ thân của người tăng sĩ. Chiếc nón đã thay cho bình bát và hình ảnh chiếc nón là hình ảnh của kẻ xuất gia không nhà, du hành đây đó.
Quan niệm về nghiệp báo và luân hồi: Làm lành gặp lành, ở ác gặp ác; quan niệm này của Phật Giáo dĩ nhiên được chấp nhận dễ dàng trong tín ngưỡng dân gian Giao Chỉ. Tín ngưỡng về hồn ma tồn tại sau khi chết cũng là căn bản rộng rãi để chấp nhận luân hồi. Con Tấm trong truyện Tấm Cám dù bị hại bao nhiêu phen cũng vẫn luân hồi trở lại hoặc trong hình thức trái thị hoặc trong hình thức chim hoàng anh... Bà mẹ ghẻ vì ác độc nên phải ăn mắm xác chết con mình. Trong truyện thần thoại Con Muỗi, người vợ xinh đẹp nhưng dâm tà của anh lái buôn si tình đã phải luân hồi thành con muỗi, suốt đời tìm hút lại ba giọt máu để trở lại thành người. Tín ngưỡng nghiệp báo luân hồi khiến người ta lo ăn ở nhân từ, thương người và tu tạo phúc đức.
Từ Bi: Từ bi là đặc điểm của đạo Bụt. Bụt rất thương người. Tang Môn cũng dạy bố thí, cứu người ốm đau tai nạn, cho người đói ăn cơm, đừng trả thù người khác.
Công Đức: Muốn được sung sướng kiếp này và kiếp sau, phải làm công đức (Punyxa). Dâng thức ăn cho các Tang Môn, trọng nể và nghe lời họ tức là gieo hạt giống công đức vào ruộng tốt ( Tang Môn là phúc điền). Đem cơm cho người đói ăn, công đức cũng rất lớn. Sạ Dung cuối thế kỷ thứ hai cũng còn xem chuyện cho người đói ăn là điều quan trọng nhất trong đạo Phật. Sau khi làm cách mạng, ông giữ lấy lúa gạo và nấu cơm cùng thức ăn bày ra đường có tới hàng mười dặm, để người đói ai muốn ăn thì ăn. Có hàng vạn người tới ăn một lúc.
Tiết dục: Giáo lý vô ngã tuy là giáo lý căn bản trong Phật Giáo nhưng có lẽ đã không được giảng dậy trong bước đầu này bởi tính cách khó hiểu khó nhận của nó. Đạo lý Ly Dục cũng chỉ giới hạn trong giới Tang Môn. Chắc hẳn trong khi dạy về đạo lý từ bi và công đức, các Tang Môn cũng đã dạy tiết dục, bỏ bớt những hưởng thụ vật chất cho riêng mình để bố thí cho kẻ khốn khó đói khổ.
Như vậy, nhìn chung ở hai thế kỷ đầu, tuy mới được truyền bá vào Việt Nam nhưng Phật Giáo đã được nhân dân bản xứ đón tiếp một cách tự nhiên do Phật giáo không mâu thuẫn với những tín ngưỡng sẵn có. Không những thế nó còn đem lại cho đương thời những giải thích mới mẻ về nỗi khổ của con người, về nguyên nhân của khổ đau, về con đường thoát khổ đồng thời nó kêu gọi lòng từ bi hỷ xả, một chủ trương đáp ứng được lòng mong mỏi của con người hướng về những đạo đức tốt đẹp trong bối cảnh vốn nhiều rủi ro và lắm tai ương lúc bấy giờ.Vì vậy nó đã nhanh chóng tìm được chỗ đứng và có điều kiện bám rễ chắc chắn trên mảnh đất này.
2. Phật giáo trong các triều đại của Việt Nam
2.1. Phật giáo trong thời hậu Lý Nam Đế và Bắc thuộc lần thứ ba (603 - 939)
Sau hai thời kỳ Bắc thuộc, nước Việt Nam được tự chủ từ thời tiền Lý đến hậu Lý Nam Đế ( 544 - 802 ). Khi nhà Tiền Lý mất, Triệu Quang Phục lên ngôi, xưng là Triệu Việt Vương ( 544 - 571), Tước vị không lâu, họ Triệu bị Phật Tử giành lại cương vị. Họ Lý xưng là hậu Lý Nam Đế (571 - 802).
Năm Nhâm Tuất (602), vua Tuỳ Văn Đế cho quân sang đánh Nam Việt, với thế hùng mạnh của tướng Lưu Phương, hậu Lý Nam Đế phải quy hàng. Việt Nam lại rơi vào thời Bắc thuộc thứ 3 ( 603 - 939).
Từ khi có dấu tích Phật giáo truyền vào Việt Nam khoảng từ thế kỷ đầu đến thời tiền Lý Nam Đế, lịch sử kéo dài cả hơn 300 năm. Dù đã có các nhà sư chính thức đến Giao Chỉ dịch kinh, truyền bá tư tưởng Mật, Tịnh và nhất là Thiền Tông nhưng Phật giáo chưa thực sự được thịnh hành. Mãi đến đời hậu Lý Nam Đế (571- 602) và Bắc thuộc thứ ba, Phật Giáo mới thực sự phát triển cả nội dung lẫn hình thức. Trong giai đoạn này nổi bật nhất có 4 sự kiện, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, ba phái đoàn truyền giáo, sự xướng hoạ giữa các nhà sư Trung Quốc với Việt Nam và thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngót cả bốn thế kỷ, từ khi du nhập đến lúc phái thiền Vô Ngôn Thông xuất hiện, dù Việt Nam nội thuộc phương Bắc, nhưng dân tộc không bị đồng hoá, Phật giáo vẫn liên tục phát triển. Tuy phát triển từ ấn Độ nhưng Phật giáo vẫn hoà đồng với dân tộc Việt Nam trong sứ mệnh tô bồi văn hoá dân tộc. Người Việt Nam cũng tỏ ra sẵn lòng tiếp nhận giáo lý từ bi, trí tuệ, bình đẳng, vị tha vô ngã, thiện ác, nghiệp báo, luân hồi... của Phật giáo, không có một mảy may kỳ thị. Bởi thế, các tông phái Phật giáo, các đoàn truyền giáo hay đi cầu kinh, chiêm bái Phật tích từ ấn Độ qua hay phưong Bắc xuống đều dừng chân ở Việt Nam để dịch kinh hoặc giảng đạo. Từ đó, kinh sách Phật giáo được dịch và viết sớm hơn ở Trung Quốc. Các nhà sư, dù ấn Độ, Trung Quốc hay người bản địa, kể cả người tín đồ hay người dân bình thường vẫn không hề đả kích nhau mà chung sống hoà bình, trong khi bên Trung Quốc đã xảy ra nạn kỳ thị, bài xích tôn giáo như ở đời Đường Võ Tôn. Nhờ thế, các quan Thái thú ở Việt Nam hay cả triều đình phương Bắc phải tôn trọng Phật giáo Việt Nam. Vua nhà Đường mời các nhà sư Việt Nam vào cung giảng kinh, các đại thi hào Trung Quốc làm thơ xướng hoạ với các nhà sư Việ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35203.doc