Triển vọng và giải pháp tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam giai đoạn đến năm 2010

Trường đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương Khoá luận tốt nghiệp Đề tài Triển vọng và giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 Sinh viên thực hiện : nguyễn thái hà Lớp : Nhật 2 -K37 Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS. Vũ chí lộc Hà nội - 2002 Hà nội - 2000 Mục lục Lời nói đầu 6 Chương I: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và kinh nghiệm thu hút FDI của một số nước 9 I. Những khái niệm cơ bản về FDI 9 1. Khái niệm

doc98 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1192 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Triển vọng và giải pháp tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam giai đoạn đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
9 2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp 10 3. Các hình thức chủ yếu của đầu tư trực tiếp 10 4. Vai trò của nguồn vốn FDI đối với các nước đang phát triển 11 II. Xu hướng vận động của vốn FDI trên thế giới sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á năm 1997-1998 12 1. Dòng vốn FDI đang phục hồi từ sau khủng hoảng Châu á và vẫn chịu sự chi phối chủ yếu của các nước công nghiệp phát triển 12 2. ĐTNN dưới hình thức hợp nhất hoặc mua lại các chi nhánh công ty ở nước ngoài vẫn là chiến lược hợp tác phát triển chính của các công ty xuyên quốc gia (TNCs). 15 3. Có sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư trên thế giới. 17 4. Các tập đoàn xuyên quốc gia đóng vai trò quan trọng trong luồng vốn FDI của thế giới. 18 5. Các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước ở Châu á sau khủng hoảng đang là trung tâm thu hút mạnh mẽ vốn FDI. 19 III. Một số kinh nghiệm thu hút vốn FDI từ các nước trong khu vực sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ Châu á. 20 1. Kinh nghiệm từ Thái Lan 21 2. Kinh nghiệm từ Hàn Quốc 22 3. Kinh nghiệm từ Trung Quốc 24 4. Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 26 Chương II : Thực trạng thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam trong giai đoạn 1996-10/2002 28 I. Quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam. 28 II. Thực trạng việc thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam giai đoạn 1996-10/2002. 33 1. Thực trạng thu hút và sử dụng FDI giai đoạn 1996-10/2002 33 1.1 Lượng vốn, lượng dự án, quy mô dự án qua các năm 33 1.2 Cơ cấu đầu tư 35 2. Tình hình thực hiện dự án FDI trong giai đoạn này 42 3. Đánh giá vai trò của FDI trong phát triển kinh tế xã hội 46 III. Những tồn tại trong việc thu hút và sử dụng vốn FDI vào Việt Nam. 51 1. Nhận thức quan điểm về ĐTNN chưa quán triệt, nhất quán 51 2. Sự chưa hoàn chỉnh trong hệ thống luật pháp và chính sách ĐTNN: 52 2.1. Những hạn chế về luật pháp 52 2.2 Những hạn chế trong chính sách 54 3. Công tác quy hoạch còn chậm, chất lượng chưa cao, thiếu cụ thể dẫn đến cơ cấu vốn đầu tư chưa hợp lý 59 4. Môi trường đầu tư của Việt Nam chưa được chuẩn bị tốt để thu hút và sử dụng vốn FDI hiệu quả 61 Chương III: Triển vọng và giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư vào Việt Nam giai đoạn 2003-2010. 68 I. Triển vọng thu hút vốn FDI của nước ta giai đoạn 2003-2010 68 1. Mục tiêu, nhiệm vụ thu hút FDI tại Việt Nam trong thời tới 68 2. Những thuận lợi và khó khăn trong thu hút FDI 69 2.1 Những thuận lợi 69 2.2 Những khó khăn 71 II. Giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư vào Việt Nam trong giai đoạn 2003-2010 72 1. Thống nhất nhận thức, xây dựng chiến lược và nâng cao chất lượng quy hoạch vốn FDI 73 2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động ĐTNN 74 3. Đổi mới và triển khai hiệu quả các chính sách về vốn FDI 79 4. Nâng cao hiệu quả quản lý và hiệu lực điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực ĐTNN 87 5. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động và xúc tiến đầu tư 90 6. Chú trọng công tác đào tạo cán bộ, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và các tổ chức đoàn thể trong các doanh nghiệp ĐTNN 91 Kết luận chung 93 Tài liệu tham khảo 95 Phụ lục 98 Một số thuật ngữ viết tắt trong đề tài FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài ĐTNN : Đầu tư nước ngoài CNH-HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá GDP : Thu nhập quốc nội Phần mở đầu Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định đường lối phát triển kinh tế đất nước là “tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và chủ động hội nhập quốc tế" [2], trong đó, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được xem là một giải pháp quan trọng hàng đầu về nguồn lực để thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Nhìn lại 15 năm đổi mới (1986-2001), nguồn vốn FDI đã đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Tỷ trọng FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội trung bình khoảng 24-25%/năm. Thành phần kinh tế có vốn FDI phát triển khá thành công. Riêng năm 2001, các doanh nghiệp có vốn FDI đã tạo được 34% giá trị toàn ngành công nghiệp, hơn 22% kim ngạch xuất khẩu và đóng góp trên 10% GDP của cả nước. Bên cạnh việc tạo vốn, nguồn vốn FDI còn mang lại sức sống mới cho nền kinh tế quốc dân thông qua cung cấp khoa học kỹ thuật và quy trình công nghệ hiện đại, kỹ năng quản lý tiên tiến, chuyển giao các bí quyết kỹ thuật, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế... Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian qua đã giải quyết 35 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp đang dư thừa trong nước ta... Những đóng góp trên cho thấy vốn ĐTNN là một nguồn lực hỗ trợ quan trọng không thể thiếu trong quá trình thực hiện CNH, HĐH ở nước ta. Tuy nhiên, trong những năm 1997-1999, vốn FDI vào Việt Nam có xu hướng chậm lại. Hiện tượng này được lý giải bởi nhiều nguyên nhân, trong đó một nguyên nhân khách quan là tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á năm 1997. Tuy nhiên, có thể nói, nguyên nhân cơ bản là môi trường đầu tư tại Việt Nam trở nên kém hấp dẫn hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Bộ Luật ĐTNN, tuy được đánh giá là khá cởi mở và thông thoáng, song vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế; thêm vào đó, tình trạng cơ sở hạ tầng yếu kém, cơ chế hành chính nặng nề, thủ tục hành chính rườm rà, chưa đảm bảo tính bình đẳng trong môi trường kinh doanh... đã làm nản lòng không ít nhà đầu tư, từ đó làm giảm khả năng cạnh tranh thu hút vốn đầu tư so với các nước trong khu vực. Mặt khác, đất nước ta đang tiến hành công cuộc CNH, HĐH trong bối cảnh nguồn lực trong nước còn rất hạn chế: mức GDP tính bình quân đầu người chưa quá 400 USD, và mức tích luỹ chỉ đạt 26% GDP (7 tỷ USD), thì nhu cầu thu hút vốn FDI đối với nước ta càng trở nên cấp bách. Trước thực trạng trên, tiến hành nghiên cứu việc thu hút vốn FDI một cách toàn diện, có hệ thống; trên quan điểm nhìn thẳng vào những hạn chế đang còn tồn tại, đề xuất những giải pháp khoa học, hữu hiệu và khả thi, nhằm tăng cường việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam là rất cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Từ những lý do trên, em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Triển vọng và giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn đến năm 2010" làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp của mình trên danh nghĩa là một công trình tập sự nghiên cứu với mục đích nâng cao sự hiểu biết, tạo điều kiện đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu một vấn đề mà mình tâm đắc, đồng thời cũng là một chút đóng góp nho nhỏ những kiến nghị mà qua quá trình sưu tầm, nghiên cứu đã đúc rút được. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, khoá luận này được trình bày trong 3 chương: Chương 1 : Cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm chung về đầu tư nước ngoài Chương 2 : Thực trạng thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam trong giai đoạn 1996-10/2002 Chương 3 : Một số giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư vào Việt Nam giai đoạn 2003-2010. Đề tài là một vấn đề hết sức phức tạp, đặc biệt với sinh viên như em vì lẽ trình độ hiểu biết còn hạn chế, kinh nghiệm của bản thân chưa tích luỹ được nhiều, việc thu thập và xử lý thông tin gấp, gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, nội dung bài viết còn rất nhiều vấn đề chưa được đề cập và còn nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến và sự chỉ bảo của thầy cô và bạn bè về nội dung cũng như cách trình bày. Cuối cùng, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Vũ Chí Lộc – trưởng khoa sau Đại học, Trường Đại học ngoại thương đã dành nhiều thời gian và tâm đắc, đóng góp nhiều ý kiến quý báu, bổ sung cũng như chỉnh lý nội dung và hình thức nhằm giúp em hoàn thành khoá luận này. . Chương I Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và kinh nghiệm thu hút FDI của một số nước I. Những khái niệm cơ bản về FDI: 1. Khái niệm: Theo khoản 1 điều 2 Luật ĐTNN ban hành năm 2000:”Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này”. Hiểu rộng ra, có thể thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động đầu tư do các tổ chức kinh tế và các cá nhân nước ngoài tự mình hoặc cùng các tổ chức kinh tế nước sở tại bỏ vốn vào một đối tượng nhất định, trực tiếp quản lý hoặc điều hành để thu lợi nhuận trong kinh doanh. Quan điểm nghiên cứu của Cac-Mac cũng chỉ ra: đầu tư trực tiếp là người sở hữu tư bản tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Cho nên nếu khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho thực thể kinh tế này của nước ngoài có “ảnh hưởng quyết định” đối với thực thể ấy hoặc tăng thêm “quyền cầm cái” trong thực thể kinh tế mà nó ảnh hưởng ấy, thì đó là đầu tư trực tiếp. Như vậy, dưới góc độ kinh tế, đầu tư trực tiếp được hiểu là một hoạt động kinh doanh mà ở đó có sự tách biệt ở tầm vĩ mô về chủ thể (bên đầu tư và bên nhận đầu tư), nhưng lại có sư kết hợp vi mô trong việc sử dụng vốn và quản lý đối tượng đầu tư. Ngoài ra, đầu tư trực tiếp không chỉ là một quan hệ buôn bán đơn thuần mà còn là sự di chuyển những điều kiện sản xuất giữa các quốc gia nhằm thu lợi nhuận. Như vậy, hàng hoá đầu tư chỉ bao gồm C+V là tư bản bất biến và tư bản khả biến sẽ kết hợp với sức lao động của nước sở tại trong quá trình sản xuất để tạo ra m và hàng hoá được tạo ra trong đầu tư được thực hiện trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh để sinh ra lợi nhuận. Các nhà kinh tế học Phương Tây khi nghiên cứu về đầu tư trực tiếp không chỉ dừng ở khái niệm mà còn đưa ra các quan điểm lý thuyết để lý giải, như: thuyết cấu thành hữu cơ của đầu tư (Kindlebeger), lý luận về đầu tư ra nước ngoài để phân tán rủi ro (M.Markawitey), lý luận về chu kỳ sản phẩm (R.Vermon), lý luận gắn đầu tư nước ngoài với chính sách khuyến khích của Chính phủ, lý thuyết về lợi thế so sánh (S.Hirock)... 2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài: Từ những quan điểm lý thuyết ở trên, có thể rút ra những đặc điểm về đầu tư trự tiếp nước ngoài như sau: - Đây là hình thức đầu tư mà các chủ đầu tư có quốc tịch khác nhau tự quyết định đầu tư bằng nguồn vốn của mình, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế. - Đầu tư trực tiếp chịu sự chi phối mãnh liệt của quy luật thị trường, vì vậy lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của các nhà đầu tư. - Nguồn vốn FDI không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định, trong quá trình hoạt động, nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được. - Hình thức đầu tư này giúp nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, hcọ hỏi kinh nghiệm quản lý... Đây là ưu điểm mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được. 3. Các hình thức chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài: Đầu tư trực tiếp nước ngoài có ba hình thức chủ yếu sau: (Theo Luật đầu tư nước ngoài năm 2000 tại Việt Nam) - Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, được thành lập ở nước nhận đầu tư do chủ vốn đầu tư tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp này được thành lập dưới hình thức công ty TNHH có tư cách pháp nhân. - Doanh nghiệp liên doanh: là doanh nghiệp được thành lập do các chủ đầu tư nước ngoài góp vốn chung với doanh nghiệp của nước nhận đầu tư trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Các bên tham gia góp vốn cùng điều hành hoạt động kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Hình thức này cũng có tư cách pháp nhân. - Hợp đồng hợp tác kinh doanh: là hình thức mà ở đó chủ đầu tư nước ngoài có thể hợp tác kinh doanh với nước sở tại trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh mà không thành lập pháp nhận mới. 4. Vai trò của nguồn vốn FDI đối với các nước đang phát triển: Đối với các nước đang phát triển, nguồn vốn FDI có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế. Sau đây là một số đánh giá về vai trò của FDI được xem xét dưới góc độ là các nước nhận đầu tư. Một là, nguồn thu FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển khác. Hơn nữa, ở các nước đang phát triển, do tích luỹ nội địa còn thấp, tổng đầu tư toàn xã hội không đáng kể. Do đó để tạo đà phát triển nhanh, nguồn vốn từ nước ngoài trở thành nhân tố có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của các nước này. Hai là, ĐTNN góp phần phát triển nguồn nhân lực, giúp giải quyết lao động dư thừa hiện tại. Đồng thời, giúp tiếp thu được những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại, từ đó phát triển chất lượng nguồn nhân lực theo hướng tiếp cận kinh tế tri thức. Ba là, việc thu hút và sử dụng vốn FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước đang phát triển theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển phù hợp với xu hướng chung của phân công lao động quốc tế. Qua nguồn vốn này, cơ cấu xuất nhập khẩu cũng biến đổi theo hướng phù hợp hơn. Bốn là, nguồn thu FDI góp phần bổ sung quan trọng cho ngân sách của các nước này thông qua các khoản lệ phí như: tiền thuê đất, phí cho các loại hình dịch vụ khác, thuế doanh thu... II. Xu hướng vận động của vốn FDI trên thế giới sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á năm 97-98: Trong xu thế bùng nổ đầu tư và thương mại, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ngày càng gia tăng đã góp phần không nhỏ vào quá trình tăng trưởng kinh tế toàn cầu: mang lại “phép lạ” cho nền kinh tế Châu á và thúc đẩy toàn cầu hoá kinh tế ngày một phát triển và lan rộng. Cuối năm 1997, cuộc “khủng hoảng kép” tài chính - tiền tệ Châu á lớn nhất trong lịch sử đã bùng nổ với quy mô và mức độ tàn phá chưa từng thấy. Cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ sự phát triển quá nóng của nền kinh tế, từ những bất cập về chính sách tỷ giá, từ sự yếu kém của hệ thống tài chính ngân hàng [9]. Chỉ trong 2 năm 1997-1998, nó đã làm thay đổi cơ bản bàn cờ đầu tư thế giới, tác động làm chuyển hướng luồng vốn FDI, đưa nền kinh tế thế giới vào thời kỳ tăng trưởng thấp. Theo đánh giá của IMF và WB, tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2001 đạt 1,3-1,5% so với 3,9% năm 2000, đây là mức thấp nhất trong vòng một thập kỷ qua. Tăng trưởng thương mại toàn cầu năm 2001 cũng chỉ bằng 1/6 năm 2000, giảm từ 12% xuống còn 2%. Như vậy, cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ 1997-1998 đã có tác động không nhỏ đối với vận động của dòng FDI trên thế giới? Dòng FDI đang chảy về đâu, xu hướng của nó hiện tại và trong tương lai như thế nào? 1. Dòng vốn FDI trên thế giới đang phục hồi từ sau khủng hoảng Châu á và vẫn chịu sự chi phối chủ yếu của các nước phát triển: Mặc dù cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á đã tác động tiêu cực đến mọi mặt của nền kinh tế toàn cầu, song dòng vốn FDI vẫn tự điều chỉnh và gia tăng. Theo báo cáo của tổ chức Hội nghị về buôn bán và phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD) thì FDI của thế giới năm 1998 tăng 40% so với năm 1997, năm 1999 tăng 25% đạt 1075 tỷ USD, năm 2000, tăng với tốc độ tương tự đạt mức kỷ lục 1271 tỷ USD. Sang năm 2001, suy giảm kinh tế Mỹ-Nhật ngày một trầm trọng đã khiến nguồn vốn FDI của thế giới có dấu hiệu sụt giảm, từ 1271 tỷ USD năm 2000 xuống còn 760 tỷ USD [27]. Dù mức suy giảm như vậy, song FDI năm vừa qua vẫn cao hơn so với năm 1998 và cao hơn mức tăng trung bình của thế giới thời kỳ 1996-2000. Bảng 1: Sự phân bổ vốn FDI theo khu vực (1998-2001) 1998 1999 2000 2001 Toàn thế giới 693 1075 1271 760 Các nước phát triển 483 830 1005 510 Các nước đang phát triển 188 222 240 225 Châu Phi 8 9 8 10 Mỹ La Tinh 83 110 86 80 Châu á - Thái Bình Dương 96 100 144 125 Nam , Đông và Nam á 86 96 137 120 Nguồn: UNCTAD, World Investment Report - 2001. Cũng như những năm trước đây, đại bộ phận dòng vốn FDI được thu hút vào các nước công nghiệp phát triển - nơi vốn được coi là “quê hương” của dòng vốn này. Năm 1995, các nước công nghiệp phát triển chiếm 85% tổng vốn FDI toàn thế giới thì giai đoạn 1999-2001 con số này vẫn duy trì ở mức cao là 76,5% trong tổng 1075 tỷ USD vốn FDI trong năm. Trong các nước phát triển, Mỹ và Anh là hai nước đứng đầu thế giới về tiếp nhận FDI và đầu tư ra nước ngoài. Năm 1999, Anh vượt Mỹ và trở thành nước có lượng đầu tư ra nước ngoài lớn nhất thế giới, đạt 199 tỷ USD; đồng thời cũng là nước tiếp nhận FDI lớn nhất với 276 tỷ USD gần bằng 1/3 tổng lượng FDI toàn cầu. Trong khối EU, Anh, Pháp, Đức là ba nước đầu tư ra nước ngoài lớn nhất. Ngoài ra, Thụy điển do hoạt động sáp nhập của các tập đoàn trong nước diễn ra mạnh mẽ, nên đã trở thành nước nhận FDI lớn thứ hai trên thế giới sau Mỹ. Năm 1999, luồng FDI vào Nhật Bản tăng kỷ lục gấp 4 lần so với năm 1998, đạt 13 tỷ USD. Như vậy ngay cả Nhật Bản - một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu á - cũng đã bắt đầu có dấu hiệu phục hồi, sản xuất bắt đầu tăng trở lại, đầu tư ra nước ngoài tuy có giảm nhẹ song vẫn đạt mức ổn định cao 23-24 tỷ USD [35]. Luồng vốn FDI vào các nước đang phát triển cũng đang khẳng định những dấu hiệu phục hồi vững chắc. Sau thời gian giảm sút năm 1998, luồng vốn FDI tăng 16% vào năm 1999 và là mức tăng cao nhất từ trước đến nay. Như chúng ta thấy, dòng FDI quốc tế sau khủng hoảng có mức độ tăng khá cao. Lý giải cho hiện tượng này, có thể xuất phát từ quá trình hồi phục nền kinh tế thế giới và xu hướng vận động của dòng vốn quốc tế. Thứ nhất, FDI của thế giới bị chi phối bởi hơn 100 công ty xuyên quốc gia (TNCs) khổng lồ của Hoa Kỳ, Nhật Bản. Các công ty này để củng cố sự tồn tại của mình sau khủng hoảng, đều có chiến lược vươn dài ra các khu vực trên thế giới. Thứ hai, năm 1998 là năm đánh dấu thời kỳ bùng nổ các vụ sáp nhập, thôn tính của các TNCs. Thông qua các vụ sáp nhập này, FDI được rót trực tiếp vào thị trường địa phương và khu vực, để tận dụng ưu thế về chi phí vận chuyển và chi phí sản xuất thấp của thị trường nội địa. Thứ ba, các nước tiếp nhận vốn đầu tư đều đang tích cực cải thiện môi trường đầu tư nước mình để tăng khả năng cạnh tranh thu hút vốn; ngược lại, việc nới lỏng các hàng rào buôn bán và đầu tư giữa các nước trên thế giới đã làm tăng dòng FDI trong hệ thống sản xuất toàn cầu [13]. Thứ tư, xu hướng gia nhập Liên minh Châu Âu của các nước Đông Âu tăng lên cũng làm vốn FDI vào khu vực Châu á tăng. Tóm lại, luồng vốn FDI trên thế giới trong năm qua đã có những bước gia tăng đáng kể. Năm 2000-2001, với việc thương mại toàn cầu đang bắt đầu lấy lại nhịp độ tăng trưởng hơn 6%, tương đương với tốc độ tăng trưởng GDP toàn cầu, và việc hầu hết các nền kinh tế các nước đang trên đà phục hồi, sẽ là những động lực chính thúc đẩy dòng FDI hướng vào xuất khẩu tăng. Vì vậy, ta hoàn toàn có thể dự đoán về viễn cảnh gia tăng trở lại của dòng FDI trong những năm tới. Bảng 2: Dự đoán 10 địa chỉ thu hút vốn FDI hàng đầu thế giới STT Nước tiếp nhận FDI tiếp nhận trung bình các năm (tỷ USD) Tỷ trọng trong tổng FDI toàn thế giới 1 Mỹ 236,2 26,6 2 Anh 82,5 9,3 3 Đức 68,9 7,8 4 Trung Quốc 57,6 6,5 5 Pháp 41,8 4,7 6 Hà Lan 36,1 4,1 7 Bỉ 30,2 3,4 8 Canada 29,6 3,3 9 Hồng Kông 20,5 2,3 10 Braxin 18,8 2,1 2. ĐTNN dưới hình thức hợp nhất hoặc mua lại các chi nhánh công ty ở nước ngoài vẫn là chiến lược hợp tác phát triển chính của các công ty xuyên quốc gia (TNCs): Trong thập kỷ qua, hoạt động sáp nhập và thôn tính của các TNCs ngày càng mạnh mẽ và trở thành động lực chính của làn sóng toàn cầu hoá vốn FDI trên thế giới. Năm 1999, tổng giá trị các vụ sáp nhập và thôn tính lên tới hơn 3000 tỷ USD và đạt kỷ lục vào năm 2000 là 3500 tỷ USD (so với mức chưa đến 100 tỷ USD năm 1987 và 229 tỷ USD vào năm 1995). Tổng giá trị các vụ sáp nhập-thôn tính gia tăng với tốc độ kinh ngạc là 42%/năm, chiếm 75-80% tổng giá trị FDI toàn thế giới. Các cuộc sáp nhập - thôn tính những năm 1997-1999 gia tăng không chỉ về số lượng mà cả quy mô và chất lượng, chủ yếu là các giao dịch mua bán cổ phần hợp vốn trị giá hàng chục tỷ USD, điển hình có những vụ đạt trị giá hàng trăm tỷ USD, như vụ “hỗn hợp” giữa Vodaphone của Anh và Mannesman của Đức thực hiện trong Quý I/2000 với trị giá 2000 tỷ USD, hay vụ thôn tính Times Warner của American On Line đạt tới trị giá 160 tỷ USD. Đáng chú ý là đa phần các vụ sáp nhập - thôn tính đã thay đổi hẳn về mục đích, không phải là hướng tới lợi ích về kinh tế tài chính ngắn hạn như trước mà mang tính chiến lược và kinh tế. Rõ ràng trong bối cảnh nền kinh tế như hiện nay thì đây là một biện pháp để các tập đoàn công ty lớn bắt tay nhau cùng tồn tại. Qua phân tích tính hình sáp nhập và thôn tính của các TNCs năm 1999-2000, ta thấy thực sự đây là giai đoạn bùng nổ của hoạt động mang tính quốc tế này. Đó là kết quả của sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, những thay đổi trong cơ cấu, và đặc biệt là do sự hoàn thiện vượt bậc của cơ chế tín dụng mới như: trao đổi chứng khoán trên thị trường chứng khoán, vay vốn ngân hàng để tạo kênh cung cấp vốn tham gia vào hoạt động sáp nhập và thôn tính... Năm 2001, xu thế sáp nhập và thôn tính cho thấy dấu hiệu chững lại, trái ngược hẳn với dự đoán của nhiều nhà kinh tế. Số lượng các hợp đồng sáp nhập trên trị giá 1 tỷ USD đã không còn duy trì tốc độ phát triển mạnh mẽ như hai năm trước. Theo đánh giá của UNCTAD, tổng trị giá các vụ sáp nhập - thôn tính năm 2001 chỉ đạt 1300 tỷ USD, giảm 1/3 so với năm trước. Còn theo thống kê của Trung Quốc thì con số này đã giảm những 40% trong năm 2001 so với năm 2000. Một trong số cuộc sáp nhập được cho là lớn trong năm 2001 cũng chỉ đạt 24,6 tỷ USD - giữa Voice Stream Wireless Corp với Deutche Telecom; tiếp đến là cuộc sáp nhập trị giá 13,8 tỷ USD giữa British telecommunication Plc với Viag Intercom GmbH&Co. Có thể nhận thấy sự suy giảm này bắt nguồn từ sự suy giảm chung của nền kinh tế thế giới. Đặc biệt, sự suy giảm mạnh mẽ của kinh tế Mỹ - Nhật làm thị trường vốn bị chi phối nặng nề, thêm vào đó là tác động của cuộc khủng bố ngày 11/9 tại Mỹ mà người ta gọi là “hiệu ứng Bilađen về kinh tế” đã càng làm trầm trọng thêm tình hình kinh tế Mỹ, đẩy Nhật trượt dần vào suy thoái nặng nề và kinh tế EU cũng không sáng sủa hơn. Hiện tượng “lắng dịu” của làn sóng sáp nhập thôn tính của các TNCs cũng có thể được lý giải dưới góc độ tiêu dùng và sản xuất [27]. Do hàng điện và điện tử vốn được coi là mũi nhọn phát triển của các tập đoàn xuyên quốc gia đang nắm giữ công nghệ nguồn nay đã trở nên bão hoà, cung vượt quá cầu; vì thế tất yếu các tập đoàn không còn quan tâm đến đầu tư ra nước ngoài để mở rộng sản xuất như trước đây. Hơn nữa, tính hiệu quả của các vụ sáp nhập, thôn tính còn là điều cần cân nhắc. Có phải khả năng tối đa hoá lợi nhuận bao giờ cũng gắn liền với việc mở rộng quy mô và tăng khả năng huy động vốn không? Như vậy, tác động gián tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vẫn còn những dư âm đối với nền kinh tế toàn cầu, và luồng vốn FDI vẫn bị chi phối bởi xu thế sáp nhập - thôn tính của các công ty lớn đang gia tăng trong những năm gần đây. 3. Có sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư trên thế giới. Trước đây, nhà đầu tư thường chạy theo lao động rẻ để thu lợi nhuận trong những ngành sản xuất truyền thống thu hút nhiều lao động và khai khoáng, chế biến nông sản của công nghiệp chế tạo. Đối với những nước đang phát triển, đầu tư vào lĩnh vực sản xuất vật chất là chủ yếu chiếm 70%. Ngày nay, nhà ĐTNN lại có xu hướng tìm đến những ngành công nghiệp chất xám mũi nhọn với tỷ lệ lợi nhuận cao hơn, chiếm hơn 50% (đặc biệt là công nghiệp điện tử). Đầu tư vào các ngành: điện, giao thông vận tải, thuỷ lợi... cũng gia tăng, do các nước đang phát triển cam kết mạnh mẽ không quốc hữu hoá, đồng thời dành các chính sách ưu đãi để thu hút vốn FDI vào kết cấu hạ tầng nhằm khắc phục sự hạn hẹ về ngân sách. Đầu tư vào các ngành công nghệ thông tin và kinh tế mạng đang chững lại, song chỉ là hiện tượng nhất thời. Trong những năm tới, dự đoán về nhu cầu mặt hàng điện- điện tử sẽ vẫn tăng cao, đặc biệt là những máy móc hiện đại [27]. Mặt khác, cầu về hàng hoá này sẽ kích thích cầu về mặt hàng khác. 4. Các tập đoàn xuyên quốc gia đóng vai trò quan trọng trong luồng vốn FDI của thế giới. Ngày nay, các TNCs - với khoảng 63000 công ty mẹ và 69000 chi nhánh ở nước ngoài có mặt hâù hết các quốc gia và lĩnh vực kinh tế - đã trở thành lực lượng chủ chốt của nền kinh tế thế giới, chi phối hoạt động sản xuất quốc tế. Năm 1999, giá trị của các TNCs chi nhánh nước ngoài lên tới 2000 tỷ USD, chiếm 1/8 tổng giá trị tài sản của các chi nhánh nước ngoài trên thế giới. Các chi nhánh nước ngoài của hơn 100 TNCs đã tuyển dụng 6 triệu nhân viên [35] . Về phương diện ngành, chiến lược của khu vực của các TNCs chủ yếu tập trung vào các ngành mũi nhọn, như điện tử, chế tạo ôtô, công nghệ thông tin... Hoạt động chính của các TNCs là tăng cường đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, một hình thức cắm rễ sâu và chi phối các nền công nghiệp địa phương. Thời kỳ 1996-2000, tỷ trọng vốn đầu tư ra nước ngoài trong tổng vốn đầu tư của các TNCs EU đã tăng cao chiếm 510 tỷ USD, gần 2/3 tổng luồng FDI của toàn thế giới. Các NICs Mỹ tỷ trọng vốn đầu tư ra nước ngoài trong tổng vốn đầu tư tăng mức 50%, TNCs Nhật đạt hơn 60%. Trong thời kỳ sau khủng hoảng, các TNCs Châu á tiếp tục bị thu hẹp hoạt động kinh doanh do ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng Châu á, nên phải bán các cơ sở kinh doanh, và tiến hành hoạt động sáp nhập và thôn tính lẫn nhau. Đầu tư của các TNCs giai đoạn này vẫn hướng mạnh vào các nước phát triển ở Châu Âu, tuy nhiên đầu tư vào khu vực Châu Phi cũng tăng nhanh. Trái lại, do khủng hoảng Châu á, các TNCs nhanh chóng rút vốn khỏi khu vực này và chờ đợi để bảo toàn vốn. Xu thế thôn tính, sáp nhập trong thời gian qua của các TNCs càng làm tăng sức mạnh về kinh tế. Các TNCs ở các nước càng phát triển mạnh càng gia tăng về số lượng. Chỉ tính riêng 100 TNCs này đã chiếm gần 70% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài trên thế giới. 5. Các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước ở Châu á đang phục hồi trong thu hút vốn FDI sau một giai đoạn suy giảm trầm trọng từ 1997-1999. Hội nhập kinh tế đang trở thành vấn đề toàn cầu. Các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước nghèo, các nước đang phát triển đã tự thay đổi và cải tiến các chính sách kinh tế của mình cho phù hợp với quan hệ kinh tế quốc tế. Đầu tư FDI không chỉ tập trung ở các nước phát triển mà đã có sự dịch chuyển dần sang các nền kinh tế mới. Luồng FDI chảy vào các nước đang phát triển phân bố không đều. Khoảng 2/3 tổng số vốn FDI tập trung vào 10 nước chủ chốt, trong đó có Trung Quốc và Brazin là hai nước tiếp nhận số vốn này lớn nhất. Riêng Trung Quốc tiếp nhận 1/2 tổng số vốn đầu tư vào các nước đang phát triển và chỉ đứng thứ hai thế giới sau Mỹ và Anh về thứ hạng tiếp nhận [29]. Mặc dù ít nhiều chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng khu vực, song đồng nhân dân tệ vẫn được giữ giá, thể chế và môi trường đầu tư được cải thiện theo hướng thích nghi, do đó giới kinh doanh quốc tế vẫn coi trọng Trung Quốc như một miều đất đầy hứa hẹn để đầu tư lâu dài. Đến năm 2001, đã có khoảng 400 trong số 500 công ty xuyên quốc gia lớn trên thế giới chuyển nguồn vốn đầu tư vào các khu vực khác vào Trung Quốc. Có thể nói, Trung Quốc đang là điểm sáng trong bức tranh thương mại và đầu tư đang còn tối màu của Châu á. FDI năm 1999 ở các Đông Nam á giảm với mức độ khác nhau, tùy thuộc vào khả năng ứng phó với cuộc khủng hoảng. Inđonêxia và Philippin đứng đầu danh sách các nhóm nước suy giảm nguồn vốn FDI; tiếp đến Malayxia giảm 27%, Singapo giảm 25%, Việt Nam giảm 23%. Trong khi đó, Hàn Quốc và Thái Lan vẫn duy trì được nguồn vốn đầu tư lớn. Tại Thái Lan, năm 1998 đã thu hút được 7,8 tỷ USD, cao gấp đôi mức của năm 1997. Hàn Quốc thành công hơn với 8,8 tỷ USD năm 1998, tăng 30% so với năm 1997, năm 2000, số vốn FDI thu hút được đạt 10 tỷ USD, tăng gấp 4 lần so với mức trung bình hàng năm. Trên thực tế, hai quốc gia này đã tiến hành những cải cách sâu rộng trên cả bình diện kinh tế vĩ mô và môi trường đầu tư nói chung. Bước sang năm 2001, FDI tại Đông và Đông Nam á đã có những dấu hiệu phục hồi nhưng chưa vững chắc, tăng 11%, đạt 93 tỷ USD, chủ yếu vào các nước Trung Quốc, Đài Loan... tăng 70%. Tại Hàn Quốc, luồng FDI đạt kỷ lục 10 tỷ USD. Luồng FDI vào Singapo và Đài Loan đã tăng nhanh trở lại sau khi giảm mạnh vào năm 1998. III. kinh nghiệm thu hút vốn FDI từ một số nước trong khu vực sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu á. Thế giới vừa chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á với những hậu quả có sức tàn phá lớn nền kinh tế toàn cầu. Và thế giới cũng đang chứng kiến các nền kinh tế bị ảnh hưởng đã phục hồi nhờ những đối sách đúng đắn phù hợp với xu thế phát triển chung. Cuộc khủng hoảng đã qua đi, nhưng có lẽ không ai dám chắc những tác động của nó không còn nữa. Với thái độ khoa học, khi nghiên cứu xu hướng vận động của dòng FDI trên thế giới, để tìm ra các giải pháp hữu hiệu và phù hợp cho nền kinh tế Việt Nam, cần thiết phải xem xét các kinh nghiệm của các nước trong khu vực trong việc đưa ra những giải pháp để nhanh chóng vượt qua khủng hoảng. Kinh nghiệm từ Thái Lan: Thái Lan là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng trực tiếp của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực Đông Nam á, song đã có những cải tổ kịp thời thoát khỏi khủng hoảng nhanh chóng. Theo số liệu điều tra của tổ chức Ngoại thương Nhật Bản thì Thái Lan được xếp thứ 3 sau Trung Quốc và Mỹ về địa điểm đầu tư được ưa thích. Những cải tổ kinh tế của Thái Lan mang tính chất cơ cấu, nhằm cải cách cơ bản môi trường đầu tư gắn với tái cấu trúc cơ cấu kinh tế. - Một trong những biện pháp quan trọng là Chính phủ Thái Lan đã ban hành Luật kinh doanh mới (10-1998) theo hướng cởi mở và tự do hơn cho các nhà ĐTNN [19]. Danh mục hạn chế đầu tư đã giảm từ 68 ngành xuống còn 38 ngành, đồng thời tăng tỷ lệ sở hữu của bên nước ngoài lên tới 75%. Đối với các sản phẩm xuất khẩu 50% thì nhà ĐTNN có thể chiếm đa số cổ p._.hần, còn các sản phẩm xuất khẩu 100% thì có quyền bỏ 100% vốn để mua cổ phần của công ty đó. Danh mục các ngành ưu đãi hướng về xuất khẩu cũng được mở rộng trên nhiều lĩnh vực... - Tiến hành sửa đổi Luật đất đai và Nhà ở, trong đó quy định các trường hợp ưu đãi người nước ngoài được mua bán sở hữu đất đai và được quyền chuyển nhượng. - Thái Lan tiến hành cắt giảm thuế mạnh trong nhiều lĩnh vực, trong đó nhằm vào vật tư và trang thiết bị nhập khẩu: miễn thuế thu nhập và thuế nhập khẩu thiết bị máy móc 8 năm cho một số ngành thuộc da, mạ kim loại, phương tiện truyền thông..., thuế nhập khẩu nguyên liệu thô có thể giảm đến 90%... - Ngoài ưu đãi về thuế, Nhà nước Thái Lan còn bảo đảm: không quốc hữu hoá, không lập xí nghiệp quốc doanh cạnh tranh, chống độc quyền, không kiểm soát giá cả hay hạn chế xuất khẩu...; cho phép kiều dân Thái Lan và các nhà kỹ thuật ngoại quốc trong các dự án nằm trong danh mục khuyến khích đầu tư được phép sở hữu đất đai để tiến hành các hoạt động kinh doanh, cho phép tự do nhận hoặc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. - Cải cách cơ bản lĩnh vực tài chính ngân hàng, thực hiện tự do hoá tài chính, tức là trong vòng 10 năm, các nhà ĐTNN có quyền mua lại 100% ngân hàng Thái Lan, như vậy có thể mượn vốn nước ngoài để khắc phục tình trạng thiếu vốn của hệ thống ngân hàng. Sau thời hạn 10 năm này, các nhà đầu tư được phép sở hữu 49% cổ phần của các thể chế tài chính. Biện pháp này đã lấy lại lòng tin của các nhà đầu tư, mang lại cảm giác an toàn và chủ động trong việc đầu tư vốn vào đất nước này. - Bên cạnh các biện pháp trên, Chính phủ Thái Lan còn mở rộng hoạt động xúc tiến đầu tư ở nhiều nước chủ đầu tư lớn như Nhật Bản, Pháp, Đức, Thuỵ Sỹ, Anh... Thông qua các cuộc tiếp xúc này, Thái Lan có thể tiếp cận những mong muốn của nhiều nhà đầu tư, từ đó cải thiện môi trường đầu tư theo hướng thích hợp. Thái Lan cũng khuyến khích các công ty nước ngoài mở văn phòng đại diện và các trung tâm thương mại tại Thái Lan và miễn các loại thuế kèm theo. Trên đây là một số giải pháp cải tổ toàn diện mà Chính phủ Thái Lan đang thực thi sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á. Nhờ đó nền kinh tế Thái Lan sau những năm khủng hoảng đã có những bước tiến vững chắc hồi phục nền kinh tế. Đây là những bài học kinh nghiệm hết sức thiết thực đối với chính sách của Việt Nam trong những năm tới. Kinh nghiệm từ Hàn Quốc: Phải trực tiếp gánh chịu những ảnh hưởng kinh tế nặng nề, song Hàn Quốc cũng là một trong những tấm gương sáng trong việc đưa đất nước nhanh chóng thoát khỏi vòng ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng khu vực 1997... Đến năm 2000, tổng số vốn Hàn Quốc thu hút được đã đạt mức 10 tỷ USD, gấp 4 lần so với mức trung bình trong các năm trong khủng hoảng, lấy lại được niềm tin từ phía các nhà đầu tư. Chính phủ Hàn Quốc đã nghiêm túc xem xét lại những khe hở lớn trong cơ cấu kinh tế - tài chính dẫn đến khủng hoảng và xác định cải cách toàn diện và đồng bộ môi trường đầu tư là biện pháp then chốt để phục hồi nền kinh tế. Thực tế trước khủng hoảng, Hàn Quốc không phải là địa chỉ hấp dẫn đầu tư so với các nước Đông Nam á. Giai đoạn 1986-1996, lượng FDI thu hút vào chỉ chiếm phần nhỏ trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tỷ lệ FDI trên tổng đầu tư vào tài sản cố định trung bình chiếm 1% so với tỷ lệ 7,5% ở các nước Đông Nam á. Phần lớn các công ty hoạt động trong lĩnh vực tài chính, bảo hiểm do một thời gian dài bị hạn chế đầu tư đã chuyển đổi hàng loạt sang hình thức đầu tư bằng vay nợ nước ngoài. Chính vì lý do này, Hàn Quốc đã phải chịu những cú sốc nặng nề trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua. - Để khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng, Hàn Quốc đã sớm ban hành Luật xúc tiến ĐTNN (tháng 11-1998) theo hướng khuyến khích và hỗ trợ đầu tư. Trong đó, chỉ hạn chế đầu tư vào 13 ngành đặc biệt của nhóm A, và danh mục hạn chế đầu tư chỉ có 18 ngành nghề trên tổng số 1150 lĩnh vực. Như vậy, cơ hội đầu tư của nhà ĐTNN được mở rộng. - Bên cạnh đó, Nhà nước cho các nhà đầu tư được hưởng quy chế đãi ngộ quốc gia khi thành lập và hoạt động doanh nghiệp. Cơ chế đăng ký thành lập doanh nghiệp có vốn ĐTNN được đơn giản hoá theo hướng cởi mở. - Năm 1999, Chính phủ Hàn Quốc cho thành lập Trung tâm dịch vụ ĐTNN theo cơ chế “một cửa, một dấu”, thay thế cho chế độ cấp giấy phép như trước đây, dễ gây phiền hà cho nhà ĐTNN. - ở các địa phương, thành lập các khu ĐTNN theo yêu cầu của người nước ngoài, qua đó các địa phương có thể tận dụng những lợi thế riêng của mình trong cạnh tranh thu hút vốn đầu tư. Sửa đổi Luật đất đai và Nhà ở, mở cửa thị trường bất động sản, cho phép nhà ĐTNN được mua bán và sử dụng đất, thời hạn thuê đất được mở rộng thành 100 năm. - Hàn quốc cũng tiến hành tự do hoá thị trường tài chính, mở cửa thị trường chứng khoán và thị trường vốn. Từ ngày 1/4/1999, thực hiện tự do hoá tài khoản vốn, tức là áp dụng chế độ giao dịch ngoại hối tự do.[19] Ngoài ra, Hàn Quốc còn cho phép nhà đầu tư trong một số trường hợp nhất định có thể mua lại công ty và ngân hàng của Hàn Quốc như là một trong các điều kiện để đổi lấy nguồn tài trợ theo chương trình của IMF. Do tính chất khan hiếm lợi nhuận và thị trường, rất nhiều ngân hàng nước ngoài đã không bỏ qua cơ hội dù mạo hiểm nhưng có mức lợi nhuận tiềm năng rất cao này. Với hàng loạt những chính sách này, Hàn Quốc đã nhanh chóng thoát khỏi khủng hoảng và có mức độ hấp dẫn vốn đầu tư với tốc độ kinh ngạc. Mặc dù nền kinh tế Hàn Quốc và Việt Nam có những nét khác biệt lớn về chính trị và trình độ kinh tế, song đây cũng là những bài học kinh nghiệm cho nước ta trong giai đoạn tới. Kinh nghiệm từ Trung Quốc. Trong bối cảnh suy giảm chung của nền kinh tế toàn cầu, Trung Quốc là nền kinh tế duy nhất trên thế giới duy trì được tốc độ tăng trưởng trên 7%. ĐTNN vào quốc gia này trong những năm qua vẫn tăng vững chắc. Tính đến tháng 10/2001, lượng FDI vào Trung Quốc đã tăng 18,6% đạt 37,3 tỷ USD. Chỉ riêng năm 2001, Trung Quốc đã phê chuẩn 26.139 dự án, tăng 17% so với năm 2000, với tổng số vốn đăng ký 69,191 tỷ USD (tăng 10,3%), vốn thực hiện đạt 46,846 tỷ USD (tăng 14,9%). Bình quân mỗi ngày Trung Quốc thu hút được 192 triệu USD vốn ĐTNN. Theo điều tra tháng 10/2001 của tổ chức Ngoại thương Nhật Bản cho thấy có 20% số công ty đa quốc gia của Nhật Bản dự định chuyển nhà máy sản xuất vào Trung Quốc, gần 70% trong số đó sẽ trực tiếp chuyển từ Nhật sang Trung Quốc, số còn lại 4% được chuyển từ Mỹ về. - Thực tế trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, Trung Quốc cũng đã không ít lần đứng trước nguy cơ phá giá đồng nhân dân tệ, nhất là sức ép khi đồng Yên Nhật liên tục giảm giá. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng thực hiện hàng loạt các biện pháp để ổn định môi trường đầu tư, coi thu hút vốn ĐTNN là quốc sách để phát triển, kiên định trong chính sách mở cửa, chủ trương phát triển kinh tế thị trường. - Để đạt được mục tiêu này, Trung Quốc đã huy động hầu như tất cả các ngành, các cấp tham gia thu hút vốn. ở cấp Nhà nước, thực hiện sửa đổi Hiến pháp và hệ thống luật phục vụ ĐTNN: xoá bỏ độc quyền trong một số lĩnh vực kinh tế quan trọng, điều chỉnh các chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, thủ tục giấy tờ... cho các nhà ĐTNN. ở cấp địa phương, phát huy thế mạnh và thế chủ động của từng vùng trong cạnh tranh thu hút vốn bằng cách đơn giản hoá các thủ tục phê chuẩn dự án, đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của nhà đầu tư cũng như hoạt động của các xí nghiệp có vốn ĐTNN. - Về đối tác đầu tư, Trung Quốc rất chú trọng thu hút vốn của các công ty xuyên quốc gia và Hoa Kiều. Đến nay, có khoảng 400 trong số 500 công ty xuyên quốc gia lớn đầu tư vào Trung Quốc trong các lĩnh vực mũi nhọn của nền kinh tế. Đối với Hoa Kiều, Trung Quốc đã có những chính sách ưu tiên đặc biệt tương đương với nhà đầu tư trong nước. Mặt khác, để thực sự thu hút các nhà đầu tư là Hoa kiều, Trung Quốc cho thành lập các đặc khu kinh tế lớn nằm ở các tam giác kinh tế trọng điểm. Khuyến khích các ngành sản xuất hướng về xuất khẩu trong những đặc khu kinh tế này. Ước tính, tổng kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc tăng từ hơn 300 tỷ USD trước khủng hoảng, lên hơn 500 tỷ USD năm 2001 (đứng thứ 8 thế giới)... - Về khu vực đầu tư, Trung Quốc khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa thông qua việc thực hiện các chính sách “thưởng bằng kinh tế” cho những ai mời được các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào những vùng này; cho phép các tỉnh vùng sâu, vùng xa, các khu tự trị được phép phê chuẩn các dự án dùng vốn ĐTNN với tổng số vốn lên tới 30 triệu USD. - Xoá bỏ các hạn chế về lĩnh vực được nhận FDI. Một số hạn chế về thị trường cũng được xoá bỏ thông qua từng bước để loại dần các quy định về tỷ lệ hàng hoá giành cho xuất khẩu... Những cải cách của Trung Quốc trong các chính sách thu hút ĐTNN đã làm cho môi trường đầu tư của Trung Quốc được cải thiện vượt bậc, nâng cao sức hấp dẫn “mời chào” các nhà ĐTNN. Những bài học từ kinh nghiệm thu hút FDI thành công sau khủng hoảng đối với Việt Nam: Thực tiễn những nước thu hút FDI thành công sau khủng hoảng trong khu vực đã phân tích ở trên, cũng như việc xem xét rộng hơn thực tiễn FDI trong các nước khu vực khác trên thế giới cho phép chúng ta rút ra bài học kinh nghiệm về thu hút và sử dụng FDI trong quá trình phát triển kinh tế đất nước: Thứ nhất, đánh giá lại vai trò của quan trọng của FDI trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước và đảm bảo kết hợp tối ưu giữa FDI và các nguồn vốn đầu tư khác theo tỷ lệ thích hợp với chiến lược đầu tư. Thứ hai, không ngừng cải thiện môi trường đầu tư thu hút FDI thông qua đảm bảo sự ổn định vĩ mô về kinh tế và chính trị; cải tổ sâu rộng, triệt để hệ thống ngân hàng tài chính; tăng cường các chính sách đảm bảo vốn cho nhà ĐTNN; chú trọng phát triển đồng bộ và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng;... Những cải thiện mạnh mẽ về các vấn đề này đã làm cho các nước NICs, Trung Quốc lấy lại được sức hấp dẫn vốn cao ở Châu á. Thứ ba, nhìn nhận lại tầm quan trọng đầu tư trong nước, vốn trong nước không chỉ là nguồn vốn đối ứng cần thiết cho các dự án FDI, mà xét về dài hạn còn là nguồn lực chính để phát triển nền kinh tế bền vững, giảm thiểu tác động tiêu cực của dòng vốn nước ngoài, chủ động hội nhập quốc tế. Thứ tư, giảm thiểu sự phân biệt đối xử giữa ĐTNN và đầu tư trong nước. Điều này tạo thế cân bằng về lợi thế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có vốn ĐTNN và doanh nghiệp nội địa, nhằm mục tiêu thiết lập môi trường đầu tư an toàn bình đẳng và thuận lợi cho tất cả doanh nghiệp. Kinh nghiệm này đã được thực hiện thành công ở các nước trong khu vực: Singapo, Malaysia, Inđônesia... Thứ năm, cần xây dựng thêm chiến lược cụ thể, đúng đắn và thích hợp để giảm thiểu rủi ro do mặt trái của FDI mang lại, nâng cao tính hiệu quả kinh tế-xã hội của khu vực ĐTNN. * * * Kết luận chương I Qua kết quả nghiên cứu ở chương I, đề tài đã phân tích được các khái niệm và một số quan điểm lý thuyết về vốn FDI, cũng như các đặc điểm và các hình thức chủ yếu của nó. Đặc biệt đề tai cũng phân tích được các kinh nghiệm thu hút vốn FDI của một số nước trong khu vực, từ đó đưa ra các kinh nghiệm mà Việt Nam có thể áp dụng trong thời gian tới. Chương II Thực trạng thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam trong giai đoạn 1996-10/2002 . Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam Vốn là nguồn lực quan trọng hàng đầu cho sự tăng trưởng ở mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, cần phải có một khối lượng vốn rất lớn. Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế còn kém phát triển với GDP đầu người chỉ đạt 400 USD/năm, và tích luỹ xã hội đạt 20% tổng GDP, thì việc tăng cường huy động các nguồn vốn ĐTNN bổ sung cho tổng vốn đầu tư toàn xã hội, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa quyết định. Trong các nguồn vốn ĐTNN, nguồn vốn FDI có vai trò quan trọng nhất, bởi nó không chỉ thuần tuý là vốn đầu tư, mà nó còn kèm theo chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm sản xuất, quản lý, và mạng lưới makketing phân phối toàn cầu; đồng thời không kéo theo gánh nặng nợ nần của nước tiếp nhận... Chính vì thế, thu hút vốn FDI là chủ chương quan trọng, góp phần khai thác các nguồn lực trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tạo sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH phát triển đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng không thể thiếu của nguồn vốn này, Nhà nước ta vẫn kiên trì thực hiện chính sách đổi mới về kinh tế- xã hội nhằm cải thiện môi trường đầu tư, liên tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện khung pháp lý liên quan nhằm tăng cường thu hút và tận dụng hiệu quả mọi nguồn lực nước ngoài. Ngay từ năm 1977, hệ thống pháp luật về ĐTNN ở Việt Nam bắt đầu được hình thành với sự ra đời của Điều lệ ĐTNN ban hành kèm theo Nghị định 115/CP ngày 19/4/1977. Đây là bước đột phá đầu tiên quan trọng, mở đường cho hoạt động ĐTNN vào Việt Nam. Theo Điều lệ này, ĐTNN được hiểu đơn thuần là việc đưa vào Việt Nam những tài sản có giá trị ngoại tệ để mở rộng hoặc nâng cấp cơ sở vật chất hiện có [28]. Hình thức đầu tư cũng được giới hạn ở hình thức các xí nghiệp sản xuất hỗn hợp và hợp tác xã chia sản phẩm. Tuy nhiên, Điều lệ này trong giai đoạn bấy giờ hầu như không có tác dụng. Các quy định trong Điều lệ quản lý các hoạt động ĐTNN bị ràng buộc bởi sự tác động của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, do đó quyền lợi của các nhà ĐTNN cũng bị xem nhẹ, như quy định về khoản thuế ở mức cao, tài sản của nhà đầu tư dễ bị tịch thu hoặc quốc hữu hoá...Do đó, trên thực tế, Điều lệ này chưa đủ tầm pháp lý để có hiệu lực. Quyết định tiếp nhận vốn FDI chỉ thực sự có ý nghĩa kể từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam, trên cơ sở thay đổi cơ bản đường lối chính trị và chính sách kinh tế. Trong văn kiện Đại hội đã khẳng định rõ: “Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế cũng như sự nghiệp phát triển khoa học kỹ thuật và CNH XHCN ở nước ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó một phần quan trọng phụ thuộc vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại...” [1]. Dựa trên tinh thần này, FDI được coi là có vị trí quan trọng trong sự tăng trưởng và phát triển của đất nước. FDI vừa là điều kiện, vừa là hiệu quả tất yếu của quá trình hội nhập của Việt Nam trong quan hệ kinh tế-chính trị quốc tế. Từ quan điểm coi hợp tác đầu tư FDI là bộ phận không thể tách rời với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, hệ thống pháp luật về ĐTNN kể từ đây không ngừng được hoàn thiện. Năm 1987, Bộ luật ĐTNN đầu tiên tại Việt Nam đã được ban hành. Có thể nói, Luật ĐTNN năm 1987 là một bước tiến dài so với Điều lệ năm 1977, tạo điều kiện thuận lợi, thông thoáng cho nhà ĐTNN vào Việt Nam. Nó phản ánh nhận thức của ta đã rõ ràng hơn về vai trò, vị trí, tác dụng của dòng vốn FDI đối với nền kinh tế quốc dân; thông qua hàng loạt những quy định mang tính chất nới lỏng: các quy định về mức góp vốn và mức thuế, các biện pháp đảm bảo cho vốn của nhà ĐTNN, và đặc biệt là việc đa dạng hoá hình thức đầu tư [28]...Với hàng loạt các quy định này, Luật ĐTNN của nước ta đã được đánh giá là bộ luật hấp dẫn và thông thoáng nhất trong khu vực giai đoạn bấy giờ. Tuy nhiên, Luật ĐTNN ra đời trong bối cảnh đất nước mới bước vào thời kỳ đổi mới, nền kinh tế về cơ bản vẫn quản lý theo nguyên tắc kế hoạch hoá tập trung, đồng thời chưa hề có một đạo luật nào về phát triển nền kinh tế thị trường, do đó một văn bản pháp luật sẽ bộc lộ nhiều hạn chế, thể hiện sự thiếu đồng bộ và rủi ro cao. Trước đòi hỏi của thực tế luôn thay đổi, Bộ luật ĐTNN ở nước ta liên tục được sửa đổi bổ sung vào những năm 1990, 1992, 1996. Sau mỗi lần sửa đổi bổ sung, Luật ĐTNN lại được hoàn thiện thêm một bước, đáp ứng hơn với yêu cầu thực tế, đồng thời mở ra những khả năng thu hút vốn mới. Nếu như Luật ĐTNN năm 1987 chỉ tập trung vào 3 hình thức đầu tư là liên doanh, đầu tư 100% vốn nước ngoài, và hợp đồng hợp tác kinh doanh, thì các luật sửa đổi sau này đã bổ sung thêm hình thức đầu tư mới như BTO, BOT, BT, tăng quyền chủ động cho các doanh nghiệp, mở rộng khuyến khích lĩnh vực đầu tư, rút ngắn thời gian thẩm định giấy phép đầu tư xuống còn 60 ngày và giảm nhẹ các thủ tục hành chính khác... Cùng với sự thay đổi Luật ĐTNN, Quốc hội Việt Nam đã lần lượt sửa đổi và thông qua nhiều Luật quan trọng như Luật Thương mại, Luật Công ty... tạo khung pháp lý đồng bộ thu hút vốn đầu tư. Gần đây, FDI vào Việt Nam có xu hướng giảm sút mạnh do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á, đồng thời cạnh tranh thu hút vốn FDI trên thế giới và trong khu vực diễn ra ngày càng gay gắt, Luật ĐTNN tại Việt Nam lại tiếp tục được sửa đổi vào tháng 6/2000. Những sửa đổi tập trung vào các quy định nhằm tháo gỡ kịp thời khó khăn, giảm thiểu rủi ro và các quy định nhằm mở rộng quyền tự chủ trong quản lý, kinh doanh cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN; đồng thời miễn giảm một số mức thuế nhằm hỗ trợ và khuyến khích thêm cho các doanh nghiệp. Những sửa đổi bổ sung này đã giúp cải thiện cơ bản môi trường đầu tư ở nước ta, củng cố lại niềm tin của các nhà đầu tư, tạo điều kiện hơn cho các thành phần kinh tế có vốn FDI phát triển. Bên cạnh việc sửa đổi bổ sung Luật ĐTNN, Chính phủ Việt Nam cũng ban hành hàng loạt Nghị định, văn bản pháp lý dưới luật nhằm cụ thể hoá và hướng dẫn thực hiện Luật. Hiện nay, mảng pháp luật về ĐTNN đã có tới 14 Nghị định, 32 thông tư, 24 Quyết định và 7 Công văn, đây được coi là hệ thống luật đầy đủ và hoàn chỉnh nhất tại nước ta. Cụ thể, trong thời gian qua, nhằm hỗ trợ cho các nhà ĐTNN vượt qua giai đoạn khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp lý quan trọng về ĐTNN. - Nghị định số 36/CP ngày 24/4/97 của Chính phủ về ban hành quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Các doanh nghiệp KCN, KCX được hưởng mức ưu đãi cao về nộp thuế lợi tức và thuế chuyển lợi nhuận; ngoài ra thủ tục hành chính đối với các dự án đầu tư vào KCN, KCX được cải tiến gọn nhẹ theo quy chế một cửa, các nhà đầu tư chỉ cần đăng ký theo mẫu quy định và được cấp giấy phép sau 15 ngày kể từ khi nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ. - Theo Nghị định số 08/1998/NĐ-CP ngày 22/1/1998, Chính phủ Việt Nam cho phép thành lập Hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam, tạo thuận lợi cho cộng đồng các doanh nghiệp nước ngoài hỗ trợ nhau trong sản xuất kinh doanh ở Việt Nam, cũng như tập hợp những khó khăn chung đề nghị Chính phủ giải quyết. Đến nay đã có 10 Hiệp hội doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép thành lập như: Nhật Bản, Anh, Đức, Canada, Thái Lan...[33] - Quyết định 53/QĐ-TTg ngày 26/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ: Về một số biện pháp khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài và Quyết định 189/2000/QĐ-BTC ngày 24/11/2000 của Bộ Tài chính về việc ban hành Bản quy định về tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển áp dụng đối với các hình thức ĐTNN tại Việt Nam. Theo quyết định này, giá một số hàng hoá dịch vụ được điều chỉnh hợp lý, các loại phí và lệ phí cũng được giảm và bãi bỏ. Ngoài ra, quyết định còn quy định về lương, tuyển dụng và đào tạo lao động... theo hướng thuận lợi cho nhà đầu tư. - Thông tư 37/2000/TT-BTC ngày 05/5/2000 của Bộ Tài chính: Sửa đổi, bổ sung Thông tư số 95/1997/TT-BTC ngày 29/12/1997 của Bộ Tài chính hướng dẫn và giải thích nội dung các điều khoản của Hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và các nước đã ký kết và có hiệu lực thi hành tại Việt Nam. - Nghị định 24/ND-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ: quy định chi tiết thi hành Luật ĐTNN tại Việt Nam. - Thông tư 13/TT-BTC ngày 8/3/2001 của Bộ tài chính: Hướng dẫn thực hiện quy định về thuế đối với các hình thức đầu tư theo Luật ĐTNN tại Việt Nam. - Ban hành Nghị quyết số 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài và chỉ thị 19 cùng ngày nhằm hướng dẫn thi hành nghị quyết số 09/2001/NQ-CP. ... ... ... Nhìn chung, các nhà ĐTNN tại Việt Nam đều đánh giá cao chính sách cũng như các hoạt động của Chính phủ Việt Nam trong thời gian qua. Những chính sách này đã kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các nhà đầu tư, làm tăng niềm tin của họ vào cơ sở hạ tầng “cứng” của nước ta. Như vậy, trong những năm qua, khung pháp lý về huy động và sử dụng nguồn vốn ĐTNN luôn được Chính phủ Việt Nam đặc biệt chú trọng. Điều này không những được nêu rõ trong các văn kiện Đại hội Đảng VII, VIII, IX, mà còn thể hiện trong hành động thực tế khi khung pháp lý về ĐTNN của ta không ngừng được ban hành và hoàn thiện một cách phù hợp và đồng bộ. Tuy nhiên do còn thiếu kinh nghiệm quản lý cũng như sự phát triển chưa đồng bộ của các lĩnh vực kinh tế khác nhau nên các chính sách, chế định đối với việc huy động và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn bộc lộ không ít hạn chế. Mặc dù vậy cũng không thể phủ nhận sự quan tâm lớn đối với nguồn vốn FDI cũng như những cố gắng trong việc thu hút nguồn vốn này của Đảng và Nhà nước ta. Thực trạng việc thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam giai đoạn 1996-10/2002 Thực trạng thu hút và sử dụng FDI giai đoạn 1996-10/2002: Lượng vốn, lượng dự án, quy mô dự án qua các năm: Kể từ khi ban hành Luật ĐTNN đến hết tháng 12 năm 2001, Nhà nước ta đã cấp phép cho 3760 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, với tổng số vốn đăng ký đạt khoảng 38,9 tỷ USD. Tính bình quân mỗi năm chúng ta cấp phép cho hơn 300 dự án với mức hơn 3 tỷ USD vốn đăng ký mỗi năm. Trong đó, thời kỳ 1996-2000 có 1648 dự án với số vốn đăng ký đạt 20,8 tỷ USD, năm 2001 đã có 495 dự án được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký đạt 2437 triệu USD, 10 tháng đầu năm 2002 đã có 571 dự án được cấp giấy phép với số đạt 2937 triệu USD. Biểu đồ 5: Đầu tư trực tiếp nước ngoài 1996-10/2002 (Nguồn: Số liệu 28/10/2002 - Thời báo kinh tế - Bộ kế hoạch đầu tư) Nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài có xu hướng tăng nhanh từ năm 1988 đến năm 1995, với tốc độ cao trên 30%/năm, năm cao nhất chỉ số này đạt tới 62,5% là năm 1995. Năm 1996, lượng vốn đăng ký tiếp tục tăng vọt, do có 2 dự án quy mô lớn đầu tư vào lĩnh vực phát triển đô thị ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh được phê duyệt [31], làm quy mô bình quân của các dự án tiếp tục tăng với tốc độ cao, 42% so với năm trước. Như vậy, giai đoạn trước năm 1996, quy mô dự án FDI gia tăng liên tục. Từ năm 1997, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu suy giảm, nhất là trong năm 1998, 1999, xu hướng giảm càng rõ rệt hơn. Năm 1997, số dự án được phê duyệt mặc dù vẫn tăng song đã giảm 13% so với mức tăng của năm 1996, đạt 2950 triệu USD. Năm 1998, số dự án được duyệt chỉ bằng 79,7% đạt 1900 triệu USD, giảm 36% so với năm 1997; năm 1999, vốn FDI thực hiện là 1758 triệu USD. Thêm vào đó quy mô dự án theo vốn đăng ký bình quân nhỏ đi một cách đột ngột và ở mức thấp nhất từ trước đến nay (5,5 triệu USD/1 dự án). Tình hình suy giảm này một phần do sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực và một nguyên nhân cơ bản khác là do sự giảm sút về khả năng cạnh tranh của môi trường đầu tư của Việt Nam. Năm 2000, tình hình thu hút vốn đầu tư có dấu hiệu phục hồi. So với năm 1999, số dự án tăng 11% và số vốn đăng ký tăng 22%, nhưng còn chưa vững chắc, vì riêng 2 dự án trong chương trình khí Nam Côn Sơn đã đạt gần 1,1 tỷ USD, chiếm 56% vốn đăng ký và vốn cấp mới của năm 2000 chỉ bằng 23% của năm cao nhất là năm 1996. Bước sang năm 2001, tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài thể hiện những dấu hiệu hết sức khả quan, thậm chí có nhiều ý kiến cho rằng đây là sự thành công ngoài mong đợi. Tổng số vốn đăng ký mới là 2436 triệu USD, tăng 22,6% so với năm 2000, trong đó vốn pháp định đạt 1180 triệu USD, chiếm 48,4% tổng vốn đầu tư. Tính chung cả năm đã có 210 dự án được tăng vốn là 580 triệu USD, tăng 22% về số dự án và tăng 17% về số vốn so với năm 2000. Nhìn chung, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thu hút trong năm 2001 là 3116 triệu USD, tăng 20,4% so với năm 2000. Chỉ trong 10 tháng đầu năm 2002, đã có 209 dự án đầu tư với số vốn đăng ký lên tới 2937 triệu USD. Những dấu hiệu phục hồi của dòng vốn FDI trong năm 2001- 10/2002 đã cho thấy những tác động tích cực của các biện pháp kịp thời và hợp lý của ta trong giai đoạn vừa qua; nhất là khi xem xét những nỗ lực này trong bối cảnh cạnh tranh thu hút đầu tư trên thế giới đang diễn ra hết sức gay gắt và thực tế môi trường đầu tư của nước ta còn nhiều hạn chế nhất định. Có thể nói, năm 2001-2002 đang mở ra một thời kỳ mới đầy triển vọng cho luồng vốn ĐTNN vào nước ta tiếp tục tăng nhanh trong những năm sắp tới. Cơ cấu đầu tư: Theo lĩnh vực đầu tư: Sự thành công trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ là sự gia tăng về số lượng các dự án đầu tư và tổng vốn đầu tư, mà còn ở sự dịch chuyển cơ cấu đầu tư theo lĩnh vực đầu tư. Cơ cấu vốn FDI có sự thay đổi phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Nếu trong những năm đầu, vốn FDI tập trung nhiều vào lĩnh vực xây dựng khách sạn, văn phòng... thì những năm 1996-2002, nguồn vốn này tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất vật chất với cơ cấu ngành nghề điều chỉnh hợp lý hơn, hướng mạnh vào sản xuất hàng xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng, chế biến, sử dụng hiệu quả tài nguyên và sử dụng nhiều lao động.[32] Chính sự điều chỉnh này đã góp phần tăng nhanh năng lực sản xuất, đánh dấu sự chuyển dịch quan trọng của cơ cấu ngành. Nông, lâm, ngư nghiệp 14% Biểu đồ 6: Cơ cấu vốn FDI vào các ngành Dịchvụ 1,6% Công nghiệp và xây dựng 84,4% - Các ngành công nghiệp và xây dựng đã thực sự trở thành khu vực thu hút vốn chủ yếu với số vốn đăng ký lên tới 20,8 tỷ USD tính đến cuối năm 2000; năm 2001 vẫn tiếp tục là điểm thu hút vốn đầu tư với 373 dự án và 1822 triệu USD vốn đăng ký, chiếm 81,2% về số dự án và 84,4% về tổng số vốn. Riêng trong lĩnh vực công nghiệp, số các dự án lớn tăng đáng kể. Có thể kể ra hàng loạt các dự án có quy mô hàng trăm triệu USD như dự án BOT Nhà máy nhiệt điện khí Phú Mỹ 3 với 412,8 triệu USD, dự án phát triển viễn thông với 230 triệu USD, dự án Metro & Carry với 120 triệu USD, cùng hàng loạt các dự án có quy mô xấp xỉ 100 triệu USD. Các dự án lớn tăng là nguyên nhân làm lượng vốn đầu tư vào các ngành công nghiệp tăng tới 30%, đấy là chưa kể đến các dự án tăng vốn cũng tập trung vào mở rộng các cơ sở sản xuất công nghiệp hiện có. - Tiếp sau công nghiệp - xây dựng, lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp cũng chiếm ưu thế với tổng số dự án được cấp là 392 dự án, trong đó số còn hiệu lực là 278 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký 2,1 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 860 triệu USD, chiếm 14% tổng số vốn. Các dự án trong lĩnh vực này đã góp phần cải thiện đời sống kinh tế-xã hội của nhiều vùng nông nghiệp, thu hút hơn 3 vạn lao động trực tiếp và tạo thu nhập cho hàng vạn hộ nông dân cung cấp nguyên liệu thường xuyên cho dự án; đồng thời cũng mở ra khả năng tiếp thu công nghệ sinh học, góp phần cải thiện cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu của các địa phương. - Khu vực dịch vụ thu hút được 66 dự án với tổng vốn đăng ký đạt 345 triệu USD, chiếm 1,6% tổng số vốn. + Tiếp theo là vận tải bưu điện cũng đã có 20 dự án với vốn đầu tư trên 2 tỷ USD. Các dự án trong lĩnh vực này cũng dược triển khai tốt, đối tác nước ngoài là những tập đoàn, những công ty có năng lực về tài chính và chuyên môn, phát huy được hiệu quả trong việc góp phần hiện đại hoá, nâng cấp, mở rộng, phát triển năng lực của mạng lưới viễn thông Việt Nam đạt trình độ quốc tế... + Các ngành khác cũng tỷ lệ khiêm tốn về vốn đầu tư, như tài chính ngân hàng là 0,2%, văn hoá-y tế-giáo dục chiếm hơn 1%, các ngành dịch vụ khác chiếm 0,5%... Theo chủ đầu tư: Quán triệt tinh thần của các kỳ Đại hội Đảng là thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá các đối tác đầu tư, đến hết năm 2001 đã có 70 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Trong tổng số vốn đăng ký cấp mới USD thì các nước Châu á chiếm 63,2% (nếu kể cả Ôxtrâylia và Newzealand là 66,%); Châu Âu chiếm 20,4%; Châu Mỹ chiếm 13,4%; trong đó 5 nước và vùng lãnh thổ đứng đầu đã có tổng FDI vào Việt Nam trên 1,7 tỷ (trong đó Hà Lan đứng đầu với 573 triệu USD, Pháp với 443 triệu USD, tiếp theo là Đài Loan với 407 triệu USD, Singapo chiếm 271 triệu USD và Nhật chiếm 161 triệu USD).[32] Biểu đồ 7: Các đối tác đầu tư lớn vào Việt Nam năm 2000-2001 Riêng trong năm 2001 đã có thêm 4 nước và vùng lãnh thổ đầu tư lần đầu tiên vào nước ta. Đó là Thổ Nhĩ Kỳ (4 dự án với 50,7 triệu USD), Bungari (1 dự án với 4,93 triệu USD), Turk (1 dự án 1 triệu USD) và Tây Ba Nha (1 dự án với 200nghìn USD). Điều này cho thấy môi trường đầu tư Việt Nam đã lấy lại được sức hấp dẫn trong cạnh tranh thu hút vốn và mở ra nhiều triển vọng cho các nhà ĐTNN. Các nước Châu á luôn dẫn đầu trong FDI tại Việt Nam, đặc biệt là ASEAN. Hiện nay đã có 7 nước ASEAN với 440 dự án đầu tư tại Việt Nam với tổng số vốn đạt 8,46 tỷ USD (nếu tính cả tăng vốn đạt 9,4 tỷ USD, chiếm tới 22% tổng vốn đăng ký. Trong đó Singapo là nước đứng đầu các nước ASEAN với số vốn đăng ký đạt 5,78 tỷ USD, chiếm 68% vốn đăng ký của ASEAN và 15% tổng vốn đăng ký của tất cả các đối tác đầu tư. Nhật Bản: là nước đầu tư vào Việt Nam có tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện cao (62% so với vốn đăng ký) so với các nước. Dự án đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam nhìn chung hoạt động tốt, quy mô bình quân vốn lớn và tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất vật chất. Các dự án của Nhật Bản tập trung vào những địa bàn có cơ sở hạ tầng tương đối tốt. Tỷ lệ các dự án bị giải thể thấp (9%); nguyên nhân là các nhà đầu tư Nhật Bản rất thận trọng trong việc khảo sát nghiên cứu trước khi quyết định nên đã giảm thiểu được rủi ro khi đi vào hoạt động. Châu Âu: cũng có 472 dự án đã được cấp giấy phép tại Việt Nam, với tổng số vốn đăng ký gần 7,9 tỷ USD, chiếm khoảng 20% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, trong đó vốn đăng ký còn hiệu lực đạt 6,3 tỷ USD. Các dự án của Châu Âu thường có quy mô vốn đầu tư lớn, vốn bình quân 1 dự án khoảng 18 triệu USD, cao hơn 50% so với các đối tác Châu á [32]. Về mặt công nghệ, các đối tác Châu ÂU thường đưa vào Việt Nam công nghệ tiên tiến, đảm bảo sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế, nhưng cũng vì vậy mà số lượng lao động được sử dụng không nhiều. Thời kỳ 1996-2001, đầu tư trực tiếp từ các đối tác Châu Âu tăng cả về số dự án và quy mô, số dự án tăng 52% và số vốn đăng ký tăng 65%, chủ yếu tập trung._.nh viễn thông, lệ phí đặt văn phòng đại diện..., thậm chí cả giá lắp điện thoại ban đầu, chi phí đi lại, cước phí điện thoại.... Tiếp tục hoàn thành việc hoàn trả cho các doanh nghiệp đầu tư FDI số vốn hợp thức đã bỏ ra để xây dựng các công trình điện ngoài hàng rào [5]. Tiếp đến cần ban hành khung giá thống nhất về đền bù giải toả mặt bằng, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong việc đẩy nhanh tiến độ giải phòng mặt bằng. 3.2 Sửa đổi một số chính sách tạo thuận lợi hơn cho hoạt động ĐTNN: Chính sách đất đai: - Nhà nước cần tiến hành xem xét để cắt giảm giá thuê đất chung, không phân biệt đối xử với dự án ĐTNN, tránh các chi phí đẩy giá thuê đất thực tế lên cao. Các địa phương cần chủ động xem xét mức giá thuê đất hợp lý với điều kiện thu hút vốn của địa phương mình. - Cần sớm chấm dứt cơ chế góp vốn bằng quyền sử dụng đất, chuyển sang chế độ cho thuê đất, thậm chí tiến tới cho phép sử dụng đất đai miễn phí trong tương lai để đạt được tỷ lệ lợi nhuận nội bộ cao hơn. - Ban hành chế độ đền bù đất thích hợp về chính sách, về giá cả; qua đó đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, giải quyết dứt điểm vấn đề giải phóng mặt bằng về giá cả, người thực hiện, thời gian hạn định..., tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp có vốn ĐTNN. - Đơn giản hoá thủ tục giao đất, gỡ bỏ trở ngại cho nhà đầu tư. Chính sách thuế: - Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, nhưng phải tính đến lợi ích đối với nhà ĐTNN. Xác định mục tiêu của việc cải cách là theo hướng đơn giản hoá từng sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế chung cho cả đầu tư trong nước và ĐTNN, mà vẫn đảm bảo tính công bằng và nguồn thu cho ngân sách nhà nước. - Chính sách thuế nên tăng cường thuế gián thu với tỉ trọng cao hơn thuế trực thu trong hệ thống thuế thu. Sử dụng phương pháp này sẽ đảm bảo nguồn thu ổn định cho nhà nước vì ngay cả khi nền kinh tế đi xuống người ta vẫn phải mua sắm và chi tiêu cho nhu cầu thiết yếu mà không cảm thấy gánh nặng thuế khoá. - Nên chú trọng mở rộng đối tượng và phạm vi đánh thuế đồng thời quy định thuế suất thấp ở mức độ vừa phải. Phương pháp này có ưu điểm tạo ấn tượng gánh nặng thuế được san sẻ đều cho mọi người, từ đó kích thích các doanh nghiệp tham gia vào quan hệ cạnh tranh lành mạnh, trong khi đó nhà nước vẫn đạt được hiệu quả trong việc thu thuế. - Thực hiện tốt các sắc thuế liên quan đến doanh nghiệp có vốn FDI như thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài... . Cụ thể là hạ thuế thu nhập của cá nhân Việt Nam làm trong liên doanh, cắt giảm bớt thuế VAT và thuế nhập khẩu cho một số mặt hàng cần khuyến khích... - Xây dựng chính sách thuế ưu đãi theo hướng giảm, thậm chí miễn thuế, hướng vào các ngành cần thu hút đầu tư như, các ngành sản xuất vật chất, sản xuất hàng xuất khẩu; tuy nhiên vẫn đảm bảo tỷ lệ bảo hộ hợp lý. - Cải tiến cách tính thuế, thu thuế sao cho tiện lợi cho việc kiểm tra, kiểm soát của cơ quan có thẩm quyền. - Xử phạt nghiêm minh các hành động trốn thuế để đảm bảo tính công bằng, từ đó nâng cao ý thức chấp hành luật. Chính sách tài chính, tín dụng: - Hệ thống quản lý ngoại hối hiện nay của Việt Nam dược các nhà đầu tư xem như một trở ngại lớn cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Do vậy, các ngân hàng cần phải đưa ra dự thảo áp dụng một hệ thống quản lý ngoại hối rõ ràng và đáng tin cậy, tuy nhiên phải đảm bảo chặt chẽ, đề phòng việc đầu tư chui, hoạt động rửa tiền [32]... - Đổi mới và hoàn thiện chính sách tiền tệ theo hướng giảm dần tỷ lệ kết hối ngoại tệ, thậm chí tiến tới xoá bỏ kết hối bắt buộc; từng bước thực hiện theo mục tiêu tự do hoá chuyển đổi ngoại tệ đối với các giao dịch vãng lai. Chính sách tiền tệ phải linh hoạt để dung hoà được các tác động tiêu cực của việc thu hút vốn nước ngoài với sự gia tăng khối lượng vốn đầu tư. - Đồng thời, Nhà nước thực hiện đảm bảo cân đối ngoại tệ cho một số loại dự án đặc biệt quan trọng theo chương trình của Chính phủ, các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. - Mạnh dạn đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thị trường vốn, thúc đẩy cạnh tranh và phát triển thị trường chứng khoán để doanh nghiệp Việt Nam có thể góp vốn bằng các nguồn huy động dài hạn, chứ không chỉ là quyền sử dụng đất. Đồng thời, các doanh nghiệp nước ngoài cũng có cơ hội huy động vốn từ thị trường này. Tuy nhiên khi mở cửa thị trường vốn và thực hiện tự do hoá tài chính cần phải thực hiện đồng bộ với việc cải cách chính sách tỷ giá, chính sách thương mại theo hướng thị trường, vì bài học đắt giá từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của các nước Châu á vừa qua đã cho thấy sự kết hợp giữa dòng vốn nước ngoài và tính mỏng manh của hệ thống tài chính sẽ tạo thành một “hỗn hợp dễ nổ” [14]. Chính sách tỷ giá: Tỷ giá hối đoái là công cụ vĩ mô để điều hành chính sách tiền tệ, đóng vai trò như một bẩy kinh tế trong những trường hợp nhất định. Hiện nay, Nhà nước ta vẫn đang duy trì tỷ giá hối đoái cố định trong thời gian khá lâu. Hiện tượng này sẽ dẫn đến tình trạng đầu tư tích trữ ngoại tệ, dễ gây ra lạm phát, không khuyến khích kinh tế phát triển. Mặt khác, đồng tiền Việt Nam đang có xu hướng giảm giá, làm giảm sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, gián tiếp gây thiệt hại cho nhà ĐTNN. Trước tình hình này, giải pháp hợp lý là Nhà nước cần thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt, để tỷ giá dần trượt theo tín hiệu thị trường [9], và giữ ở mức hợp lý, phù hợp với quan hệ cung cầu để tăng cường dự trữ ngoại tệ, điều này cho phép giữ ổn định môi trường đầu tư. Tất nhiên, không phải Nhà nước phó mặc cho tỷ giá biến đổi, mà trong những trường hợp nhất định vẫn phải can thiệp điều chỉnh tăng nhẹ tỷ giá, mà không ảnh hưởng đến thị trường. Chính sách công nghệ: Chuyển giao công nghệ sẽ góp phần quan trọng trong CNH, HĐH đất nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế-xã hội phát triển nhanh chóng thoát ra khỏi nghèo nàn lạc hậu, thu hẹp khoảng cách với các nước. Trước bối cảnh như hiện nay, Nhà nước cần phải có một chính sách công nghệ quốc gia đúng đắn được thể chế hoá bằng pháp luật và các văn bản pháp luật. Trước mắt cần thực hiện những biện pháp sau: - Cần có chiến lược thu hút công nghệ theo hướng “đi tắt đón đầu”, nhằm vào các TNC nước ngoài có ưu thế về vốn và khả năng công nghệ cao, đồng thời cũng chú trọng đến các công nghệ “bậc trung” của các đối tác khác. - Quy định cụ thể các yêu cầu đối với công nghệ được nhập khẩu vào Việt Nam, gồm cả yêu cầu về máy móc thiết bị, vận hành... - Quy định các chế tài phạt cụ thể xử lý trong các trường hợp chứng minh nhà ĐTNN đã vi phạm quy định về chất lượng và giá cả công nghệ. - Cần có chiến lược dài hạn và đầu tư thích đáng trong việc đào tạo nguồn nhân lực đồng bộ, có năng lực tiếp cận nhanh với công nghệ hiện đại, để đảm bảo chất lượng thẩm tra chất lượng của công nghệ trong tương lai, thực hiện chính sách công nghệ quốc gia thắng lợi, góp phần đưa đất nước tiến kịp với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính sách về lao động: - Sửa đổi, bổ sung các quy định về chế độ tuyển dụng lao động theo hướng đơn giản hoá thủ tục, tạo điều kiện để nhà đầu tư có thể tuyển dụng trực tiếp lao động. Việc này sẽ giúp giảm chi phí và thời gian cho doanh nghiệp, đồng thời thu hẹp được khoảng cách giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài trong việc tuyển dụng. - Bãi bỏ việc đôla hoá tiền lương lao động trong các doanh nghiệp nước ngoài. Điều này gây sự phân biệt đối xử với doanh nghiệp FDI, đồng thời tạo tâm lý giảm giá trị đồng tiền Việt Nam . - Sửa đổi một số quy định không khả thi về tiền lương, ví dụ quy định nâng lương theo định kỳ mà không quy định kèm theo hiệu quả thực tế của người lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Đưa ra những chế tài cụ thể tương ứng với những hành vi vi phạm quyền lợi của người lao động trong liên doanh về chế độ tiền lương, chính sách lao động, chế độ hợp đồng lao động, bảo hiểm lao động... 3.3 Bổ sung các chính sách ưu đãi cao đối với những lĩnh vực, địa bàn cần thu hút ĐTNN. - Thông qua chính sách thuế để khuyến khích nhà ĐTNN đầu tư có trọng điểm theo ngành, theo vùng như mục tiêu đã đề ra. + Miễn thuế nhập khẩu cho các lĩnh vực sản xuất vật tư, nguyên liệu cho các dự án ở các vùng miền núi, nông thôn xa, khó khăn. + Miễn giảm các thuế liên quan cho các ngành cần thu hút vốn như các dự án có công nghệ cao, công nghiệp chế tạo, điện tử viễn thông, phát triển nguồn lực - Xây dựng cơ chế mới để doanh nghiệp có vốn ĐTNN được kinh doanh, xây dựng nhà ở và khu đô thị mới, vào lĩnh vực nhập khẩu, dịch vụ phân phối trong nước [5]. - Xây dựng những ưu đãi cao đối với các dự án tập trung các ngành nông, lâm thuỷ sản, dự án phát triển hạ tầng cơ sở kỹ thuật. - Có những hỗ trợ nhất định về thủ tục, giảm các khoản thuế và lệ phí đối với các dự án quan trọng gặp khó khăn khi triển khai. - Cho phép tăng tỷ lệ tiêu thụ nội địa đối với những sản phẩm bắt buộc đảm bảo tỷ lệ xuất khẩu. Đối với những dự án đặc biệt có thể được ưu đãi hơn cả trong khuôn khổ cho phép, phù hợp với thông lệ quốc tế. 3.4 Tăng cường thu hút ĐTNN vào các khu công nghiệp, khu chế xuất: Kinh nghiệm nhiều nước đã cho thấy sử dụng biện pháp KCX, KCN để thu hút vốn FDI đã phát huy hiệu quả rất lớn. ở Việt Nam, mô hình KCX đã có từ những năm 1991 (KCX Tân Thuận với tổng vốn đầu tư là 89 triệu USD) [21]. Tuy nhiên, biện pháp sử dụng mô hình này chưa thực sự phát huy hiệu quả trong việc thu hút vốn ở nước ta. Để phát huy đúng tiềm năng thu hút vốn của mô hình KCN trong những năm tới, cần phải thực thi nhiều biện pháp hữu hiệu, kịp thời: - Xây dựng quy hoạch KCX ở những địa phương có vị trí địa lý thuận lợi căn cứ vào quy hoạch chung của cả nước. - Đối với những KCN sắp được thành lập, Nhà nước cần kiểm soát chặt chẽ việc thành lập cũng như đánh giá sát sao tình hình triển khai các KCN này. Tốt hơn cả là nên tạm dừng cấp giấy phép thành lập thêm KCN trong thời gian tới để tạo điều kiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCN đã thành lập, tăng cường thu hút vốn ĐTNN vào các KCN còn triển khai chậm. Đối với các KCN đã hình thành, nếu không đủ yếu tố khả thi thì nhanh chóng tiến hành dừng hoặc giãn tiến độ xây dựng. - áp dụng mô hình KCN có quy mô khác nhau, chú trọng các KCN quy mô vừa và nhỏ, mở rộng mô hình KCN cao để thu hút các dự án ĐTNN sử dụng công nghệ hiện đại; Nghiên cứu và tiến tới thí điểm mô hình “khu trong khu” (trong KCN có KCX, KCN...), phát huy những ưu điểm của các mô hình để bổ sung cho nhau, tạo điều kiện tối đa cho nhà ĐTNN sản xuất kinh doanh. - Cung cấp các điều kiện về cơ sở hạ tầng và lực lượng lao động lành nghề cho các KCN, KCX. - Cần có những giải pháp về vốn cho đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở của KCN. Nhà nước cần hỗ trợ vốn từ ngân sách Nhà nước cho hỗ trợ xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng. Hoặc có thể đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, kêu gọi nguồn vốn từ các thành phần kinh tế hoặc các nhà ĐTNN cùng liên doanh với doanh nghiệp trong nước để đầu tư xây dựng, phát triển cở hạ tầng. Nhà nước có thể khuyến khích đầu tư thông qua các hình thức BOT, để tận dụng nguồn vốn của nhà đầu tư... - Đưa ra các chính sách đảm bảo cho việc đầu tư được thuận lợi thông qua một cơ chế quản lý thích hợp. Cần có một luật riêng hoặc những quy định riêng cho KCX đảm bảo sự rõ ràng trong các thủ tục, hợp đồng, tổ chức hành chính... phù hợp với chủ trương phát huy mọi nguồn lực trong quá trình đổi mới; nhanh chóng thực hiện cơ chế “một cửa, tại chỗ”, uỷ quyền cho ban quản lý các KCX tự quản lý toàn bộ các hoạt động nội bộ của khu. - Cần có cơ chế quản lý đồng bộ giữa các cấp, các ngành về KCN trên cả nước; cơ chế quản lý này cần thống nhất từ trung ương đến địa phương, từ các cơ quan hải quan đến các cơ quan nội vụ. 3.5 Bổ sung chính sách ưu đãi để thu hút những các đối tác đầu tư mới: - Chính sách khuyến khích đầu tư của đồng bào Việt Kiều ở nước ngoài: Hiện nay, người Việt ở nước ngoài có tiềm năng lớn về vốn, tri thức, khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý hiện đại, có nhiều mối quan hệ làm ăn với các đối tác nước ngoài, thông thạo thông lệ kinh doanh quốc tế và thị trường thế giới [8]... Chính vì vậy Nhà nước cần có những hình thức khuyến khích phù hợp, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, ổn định, thủ tục gọn nhẹ... coi họ đúng là “người trong một nhà”, để thu hút tiềm năng to lớn này. - Khuyến khích đầu tư của các công ty xuyên quốc gia: Nhà nước cần có chính sách tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích các công ty này đầu tư nhiều vào Việt Nam, trong đó chú trọng mở cửa mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực để thu hút FDI của TNCs, tiếp cận được với công nghệ nguồn, tranh thủ những yếu tố sản xuất hữu hình và vô hình, như kinh nghiệm quản lý hiện đại, và tăng hiệu quả thu hút vốn thông qua những dự án đầu tư có quy mô lớn... Mặt khác, việc thu hút các đối tác này đầu tư vào Việt Nam sẽ mở đầu cho quá trình quốc tế hoá nội địa diễn ra ngày càng sâu sắc, giúp ta nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Những biện pháp cần thiết là Nhà nước cần tiếp tục từng bước xây dựng môi trường đầu tư thông thoáng thông qua sự an toàn của pháp luật, sự nhất quán về chính sách, sự ưu đãi rõ ràng về chế độ, cải thiện hệ thống thông tin liên lạc mau lẹ, đào tạo đội ngũ công nhân trình độ cao, hiểu biết thông lệ quốc tế... Nâng cao hiệu quả quản lý và hiệu lực điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực ĐTNN. 4.1 Tập trung công tác quản lý điều hành hướng vào việc tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ cho các dự án ĐTNN - Để các dự án đầu tư triển khai hiệu quả, Nhà nước cần trực tiếp “vào cuộc” tiến hành rà soát, phân loại các dự án đầu tư để có những biện pháp thích hợp kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp FDI. Tránh việc Nhà nước chỉ đứng bên ngoài với vai trò quan sát và đảm bảo sự chấp hành pháp luật. + Đối với những dự án đã đi vào sản xuất, cần theo dõi sát sao để phát hiện và tháo gỡ kịp thời những vướng mắc nảy sinh của doanh nghiệp, hỗ trợ cho doanh nghiệp thông qua những chính sách ưu đãi về thị trường, về thuế... + Đối với những dự án bắt đầu được triển khai, thì tiếp tục tháo gỡ cho doanh nghiệp những khó khăn trong khâu đền bù giải phóng mặt bằng và các thủ tục hành chính khác [5]. + Đối với những dự án quan trọng cần khuyến khích đầu tư, như các dự án có quy mô lớn tại các vùng sâu, vùng xa, dự án vật liệu mới, dự án xử lý môi trường, chất thải..., Nhà nước cần thực hiện chế độ bảo lãnh về tài chính, về chia sẻ rủi ro (do đây là các dự án có tỷ lệ rủi ro lớn), và những bảo lãnh khác tuỳ từng trường hợp các dự án khác nhau; qua đó thu hút nhà ĐTNN làm ăn lâu dài tại Việt Nam, trên danh nghĩa Nhà nước cùng đứng về phía các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đồng thời, biện pháp này sẽ cơ hội để ta cơ cấu lại nguồn vốn và công nghệ theo ngành và theo lãnh thổ, đảm bảo cho kinh tế cả nước cùng tăng trưởng cân đối và bền vững. + Ngoài ra, Nhà nước cần nắm vững những thông tin về thị trường, trong tiêu thụ sản phẩm để cung cấp kịp thời cho nhà đầu tư. Đồng thời, thường xuyên gặp gỡ, tổ chức toạ đàm, tiếp cận và lắng nghe những bức xúc của doanh nghiệp cùng doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn. 4.2. Tiến hành phân cấp quản lý Nhà nước hợp lý đối với FDI : - Tiếp tục thực hiện chủ trương phân cấp quản lý Nhà nước về ĐTNN cho Uỷ Ban nhân dân cấp tỉnh, trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tập trung thống nhất quản lý về quy hoạch cơ cấu, chính sách... Tuy nhiên Nhà nước cũng cần có những chính sách riêng nhằm tránh phân cấp quản lý tràn lan đối với nhiều địa phương do thiếu năng lực cần thiết, bộ phận thẩm định của địa phương còn hạn chế, lại thêm bộ máy hành chính cồng kềnh sẽ gây khó khăn cho nhiều nhà ĐTNN, thậm chí nhiều khi có tình trạng phân tán cục bộ trong thẩm định dự án đầu tư, làm giảm hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án. - Tăng cường công tác quản lý Nhà nước phối hợp thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động của doanh nghiệp. Nhà nước cần đưa ra quy định cụ thể về chế độ kiểm tra của các cơ quan quản lý Nhà nước để chấm dứt sự kiểm tra tuỳ tiện, gây phiền toái cho nhà đầu tư. - Có cơ chế xử lý vi phạm đối với hành vi vi phạm pháp luật của doanh nghiệp, đảm bảo lợi ích kinh tế-xã hội cho các dự án đầu tư. 4.3 Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với ĐTNN: - Để nâng cao hiệu lực quản lý cần thiết phải củng cố công cụ quản lý của Nhà nước. Như vậy, Nhà nước cần sớm hoàn chỉnh, rà soát hệ thống văn bản pháp luật rõ ràng, đảm bảo tính minh bạch của luật pháp cũng như cách vận dụng nó, thống nhất từ trung ương đến địa phương, cần tránh việc các địa phương do tính cục bộ đưa ra nhiều văn bản pháp luật trái với định hướng chung. Đặc biệt tránh sự thay đổi liên tục của luật pháp theo hướng không hiệu quả, không giải quyết được vấn đề một cách triệt để. - Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành trong việc quản lý hoạt động ĐTNN, chỉ tiến hành quản lý những vấn đề thực sự thuộc trách nhiệm quản lý của mình. Số lượng các cơ quan tham gia vào quá trình xét duyệt của nên giảm xuống. Bộ kế hoạch và đầu tư là cơ quan đầu mối, phải đảm đương mọi công việc về phân bổ kế hoạch, thẩm định cấp giấy phép, xét thầu các công trình xây dựng trên hạn ngạch, chịu trách nhiệm về các khoản ODA và vay dài hạn... Chính quyền địa phương cũng cần có quyền nhất định. Mọi cơ quan phải thực hiện đúng bổn phận của mình, tránh hiện tượng sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực; tiến tới xoá bỏ cơ chế “xin, cho” - Về lâu dài, tiến hành xây dựng mô hình quản lý gọn nhẹ, tinh giản, với cơ quan chuyên trách có thẩm quyền duy nhất để giải quyết các vướng mắc trong hoạt động ĐTNN của doanh nghiệp. - Tiến hành cải tiến các thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hoá, thi hành chế độ “một cửa, một dấu”: + Các cơ quan Bộ ngành và địa phương phải tăng cường phối hợp chặt chẽ trên cơ sở phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cơ quan, thực hiện chế độ giao ban định kỳ giữa các cơ quan có thẩm quyền [5]. + Tiến hành giảm bớt các thủ tục hành chính, giảm đầu mối quản lý, công khai hoá thủ tục và quy trình giải quyết công việc: cần công khai hoá thủ tục nào qua những khâu nào, bộ phận nào, ai giải quyết và quyền hạn giải quyết đến đâu... Đặc biệt cần giới hạn thời gian giải quyết ở mỗi khâu. + Các thủ tục hải quan, thủ tục xuất nhập khẩu... cũng cần được tiến hành nhanh gọn, thống nhất, giảm bớt thời gian và chi phí cho doanh nghiệp trong quá trình hoạt động. Giải quyết nhanh việc phê duyệt kế hoạch xuất khẩu hàng năm. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động và xúc tiến đầu tư. Hoạt động xúc tiến đầu tư cũng là một trong những giải pháp để mở rộng việc thu hút vốn FDI trong giai đoạn hiện nay. Một môi trường đầu tư dù có nhiều thuận lợi nhưng ít được thế giới bên ngoài biết đến thì cũng không thể thu hút vốn như đúng tiềm năng của nó. Do đó, Nhà nước ta cần có những biện pháp cụ thể để mở rộng hoạt động xúc tiến đầu tư: - Đổi mới về nội dung và phương thức vận động xúc tiến đầu tư theo một chương trình cụ thể: + Thành lập bộ phận xúc tiến đầu tư ở các cơ quan có thẩm quyền để chỉ đạo đề xuất và xúc tiến. Đặc biệt mỗi địa phương cũng cần chủ động xây dựng bộ phận xúc tiến đầu tư của riêng mình để thực hiện xúc tiến đầu tư vào địa phương theo định hướng chung, tạo môi trường cạnh tranh giữa các vùng. + Tổ chức các cuộc gặp gỡ tiếp xúc đối tác, các thành viên của các đoàn cấp Chính phủ về cơ hội đầu tư ở nước mình, cũng như trả lời những câu hỏi có liên quan. Ngoài ra, tổ chức và tạo điều kiện để các doanh nhân nước ngoài có cơ hội thăm quan và khảo sát thực tế môi trường đầu tư của ta. + Tổ chức diễn đàn đầu tư kinh tế khu vực cũng như các cuộc hội thảo khoa học để quảng cáo cơ hội đầu tư, giúp đối tác nước ngoài hiểu rõ hơn về môi trường đầu tư của nước mình. + Thành lập văn phòng đại diện xúc tiến đầu tư ở nước ngoài để giúp các nhà đầu tư ở nước sở tại nắm được nhanh chóng và chính xác cơ hội đầu tư, trợ giúp họ kịp thời trong việc nghiên cứu tiền khả thi và các thủ tục đầu tiên của dự án. Đồng thời nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường nước ngoài, chính sách khuyến khích đầu tư ra nước ngoài của các nước và các công ty xuyên quốc gia, để có các chính sách thu hút kịp thời. + Xây dựng hoàn thiện hệ thống thông tin về ĐTNN, như hệ thống truyền hình, băng đĩa, ấn phẩm, nhất là thông qua mạng Internet quốc tế... để mở rộng tuyên truyền đối ngoại. Xây dựng trang web riêng để giới thiệu kịp thời những thông tin cần thiết cho nhà đầu tư. + Bố trí nguồn tài chính ngân sách sẵn có đảm bảo cho hoạt động xúc tiến đầu tư nhanh, kịp thời, đạt được đúng hiệu quả. - Tập trung chỉ đạo và hỗ trợ kịp thời các nhà đầu tư hiện tại đang có hoạt động đầu tư tại Việt Nam, thông qua đó, khuyến khích họ tái đầu tư vào nước ta cũng như tạo hiệu quả vận động đầu tư từ những đối tác khác. - Thực hiện chủ trương đa phương hoá các đối tác ĐTNN. Trong thời gian tới, Nhà nước cần có những chính sách xúc tiến đầu tư tới các đối tác nắm giữ công nghệ nguồn để tranh thủ tiềm lực về vốn, công nghệ, hướng việc xúc tiến đầu tư vào các dự án vừa và nhỏ. Chú trọng công tác đào tạo cán bộ, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và các tổ chức đoàn thể trong các doanh nghiệp ĐTNN Văn kiện đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ “nguồn lực con người là nhân tố hàng đầu quyết định sự phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” [1]. Đặc biệt, trong hoạt động ĐTNN, con người càng trở thành yếu tố quan trọng. Họ là người bảo vệ lợi ích cho phía Việt Nam, đảm bảo cho hoạt động đối ngoại được thực hiện đúng luật pháp, theo đúng chỉ đạo chung của đất nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy đội ngũ cán bộ của ta trong hoạt động ĐTNN còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính vì vậy, để hoạt động ĐTNN thực sự đạt được hiệu quả trong những năm sắp tới, cần thiết phải đặt công tác đào tạo con người, xây dựng đội ngũ cán bộ, công nhân có trình độ cao, năng lực quản lý chuyên mô vững vàng là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Trước mắt, Nhà nước cần có những biện pháp cụ thể giải quyết vấn đề bức xúc này. - Thứ nhất, phải sớm xây dựng Quy chế cán bộ Việt Nam tham gia trong các liên doanh [5]; trong đó quy định rõ tiêu chuẩn tuyển chọn về năng lực chuyên môn nghiệp vụ, trình độ hiểu biết, ý thức chính trị... cho các cán bộ làm việc trong các liên doanh. - Phối hợp chặt chẽ các cơ quan Bộ, ngành liên quan (Bộ giáo dục đào tạo, Bộ lao động thương binh và xã hội, Bộ kế hoạch đầu tư...) thành lập những trung tâm đào tạo chính quy cán bộ quản lý hoạt động ĐTNN theo những tiêu thức riêng, phù hợp với thực tiễn và tiếp cận với trình độ quốc tế; đào tạo đội ngũ thợ lành nghề, đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư, đồng thời khắc phục được tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” vốn đã tồn tại từ lâu. - Có kế hoạch vận dụng nhiều hình thức bồi dưỡng cho các nhà kinh doanh và cán bộ làm kinh tế đối ngoại đương nhiệm về kiến thức chuyên môn, luật pháp, thông lệ quốc tế... để giảm tình trạng do thiếu hiểu biết mà bị lấn áp trong liên doanh và trong hoạt động ĐTNN. Trong tương lai, nên mạnh dạn cử người sang học tập ở các nước phát triển để nhanh chóng đẩy nhanh quá trình đào tạo này. - Về lâu dài, Nhà nước nên có kế hoạch “đón đầu trong giáo dục con người”: đổi mới hệ thống giáo dục ở các bậc học, đặc biệt là bậc đại học theo hướng ngày càng phù hợp với quốc tế, trong đó quan tâm chú ý hơn cả đến các trường đại học thuộc khối kinh tế và luật học. - Có chính sách khuyến khích và có quy định cụ thể đối với các dự án FDI về đào tạo con người, hoặc hướng vào xây mới, nâng cấp các trường dạy nghề. - Cần đưa ra quy định và phương thức hướng dẫn hoạt động của các tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN; nâng cao hiệu quả của tổ chức Công đoàn để bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người lao động. - Sau cùng là vấn đề đóng vai trò quyết định cho các kế hoạch trên: vấn đề kinh phí. Nhà nước cần dự trữ một khoản kinh phí lớn cho các chính sách đầu tư phát triển còn người; có thể phối hợp sự tương trợ của các nhà đầu tư trong nước cũng như các nhà ĐTNN. Kết luận chung Trong 5 năm đổi mới đất nước (1996-2001), mặc dù chịu nhiều tác động từ nền kinh tế thế giới, song đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể: nền kinh tế tăng trưởng khá (đạt trung bình 6%/năm), tình hình chính trị-xã hội cơ bản ổn định, cuộc sống của nhân dân được cải thiện một bước và quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt. Đóng góp vào sự chuyển mình của đất nước có phần không nhỏ của hoạt động ĐTNN. Hoạt động thu hút vốn FDI những năm qua mặc dù có xu hướng giảm sút năm 97-98, song đến nay đã dần hồi phục, tiếp tục đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước như một nguồn vốn quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên, ngoài những thuận lợi sẵn có, Việt Nam cũng đang gặp phải không ít những khó khăn, thách thức xét về cả chủ quan và khách quan. Trước những thách thức đó đòi hỏi Việt Nam cần phải ngày càng hoàn thiện hơn những chính sách thu hút FDI phù hợp với tình hình mới. Với thái độ khoa học, đề tài đã đưa ra một hệ thống các giải pháp đồng bộ nhằm góp phần tăng cường thu hút và sử dụng vốn FDI tại Việt Nam trong thời gian tới. Trong những giải pháp trên, không có giải pháp nào đứng đơn lẻ là quan trọng nhất, song giải pháp “đào tạo con người” được coi là giải pháp căn bản, mang tính cấp bách và chiến lược hơn cả trong điều kiện của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, mỗi giải pháp đều có tác động 2 mặt, vì vậy chỉ có thể đạt được hiệu quả tối ưu khi vận dụng đồng bộ và linh hoạt các giải pháp này vào thực trạng của nước ta. Có như vậy, môi trường đầu tư của Việt Nam mới thực sự được cải thiện và vươn lên trong cuộc cạnh tranh với các nước khác trong khu vực. Tóm lại, trong thế giới ngày nay, nhiều nước vốn lạc hậu song đã nhanh chóng trở thành nước công nghiệp phát triển chỉ sau vài ba thập kỷ nhờ có những chiến lược đúng đắn. Trong những năm qua, điều đó cũng đã được thực tế ở Việt Nam xác nhận. Xu thế ngày nay đã cho thấy các nguồn vốn nước ngoài đã sẵn sàng. Vấn đề cốt lõi là chúng ta có muốn và có biết khơi dòng để các nguồn vốn ấy chảy vào con kênh của thị trường vốn Việt Nam đang cần được phát triển hay không? Với ý nghĩa như vậy, đề tài mong muốn được góp một tiếng nói vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế chung của đất nước. Tài liệu tham khảo Các văn bản của Đảng và Chính phủ: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và lần thứ IX của Đảng. Nghị quyết hội nghị lần thứ 3 ban chấp hành TW Đảng khoá IX Luật ĐTNN năm 2000. Nghị định 24/2000/NĐ-CP quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật ĐTNN. Nghị quyết của Chính phủ số 09/2000/NQ-CP về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài thời kỳ 2001-2005. Chỉ thị của thủ tướng Chính phủ số 19/2001/CT-TTg về tổ chức thực hiện Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP. Các công trình nghiên cứu: PTS Nguyễn Thị Diễm Châu, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ “Cơ chế tài chính các doanh nghiệp có vốn FDI”- năm 1996. Th.s Hoàng Kim Bảo, Luận án Phó tiến sĩ, “Đầu tư trược tiếp nước ngoài ở Trung Quốc và bài học với Việt Nam” - 1996 . TS Vũ Chí Lộc, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ “Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á tới đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong những năm qua và giải pháp khắc phục. Nguyễn Thị Kim Nhã - Giải pháp tăng cường thu hút FDI ở Việt Nam trong những năm tới - Luận án thạc sỹ - Đại học kinh tế quốc dân 2000. Các tài liệu tham khảo khác: Nguyễn Chiến, “Thu hút vốn đầu tư là quốc sách”, Báo đầu tư, Số 27 (3/2002). Trung Đức, “Đất bó chân nhà đầu tư”, Báo đầu tư, Số 28 (3/2002) Diệp Linh, “Vốn FDI đạt kỷ lục 1000 tỷ USD”, Thời báo kinh tế 2000-2001. Phạm Văn Hùng, “Mở cửa thị trường vốn và bài học với Việt Nam”, Báo đầu tư chứng khoán, Số 119 (3/2002). Th.s Lê Thiên Hương, “Thực trạng áp dụng các quy định về đảm bảo và khuyến khích ĐTNN”, Kinh tế Châu á Thái Bình Dương, Số 2 (4/2002). TS Vũ Chí Lộc, Giáo Trình ĐTNN –Trường đại học ngoại thương –1997. Gs.Ts Nguyễn Mại, “Vốn đầu tư, vấn đề và giải pháp”, Báo chứng khoán Việt Nam, Số 1(1997) Trọng Minh, “ Việt Nam cần có một chiến lược xúc tiến đầu tư”, Thời báo kinh tế, Số 32 (3/2002) Trần Minh, “Xu hướng vận động của vốn FDI trong bối cảnh khủng hoảng tài chính-tiền tệ Châu á”, Nghiên cứu kinh tế, số 264 (5/2000). Th.s Bùi Đường Nghiêu, “Hiệu quả đầu tư và thực trạng hệ số ICOR ở nước ta”, Nghiên cứu kinh tế, số 265 (6/2000) Phùng Xuân Nhạ - Đầu tư quốc tế - Nxb Đại học quốc gia Hà Nội- 2001 Nguyễn Hồng Nhung, “Đặc điểm của dòng vốn đầu tư từ các nước phát triển vào các nước đang phát triển”, Những vấn đề kinh tế thế giới, Số 3 (2001) Koji Suzuki, “ Những vấn đề pháp lý của nhà đâu tư nước ngoài vào Việt Nam”, Những vấn đề kinh tế thế giới, Số 2 (1994). Nguyễn Thắng, “Các yếu tố quyết định đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước đang phát triển”, Những vấn đề kinh tế thế giới, Số 6 (2000). TS Nguyễn Xuân Thiên, “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, vấn đề và giải pháp”, Báo Kinh tế Châu á Thái Bình Dương, Số 1 (2/2002) TS Trần Đình Thiên, “ Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực đến kinh tế Việt Nam” Nghiên cứu kinh tế số 262 (3/2000) Phạm Hồng Tiến, “Nhìn lại FDI thế giới năm 2001” , Những vấn đề kinh tế thế giới, Số 1 (2002). Nguyễn Mạnh Tuân, “Các nguồn vốn nước ngoài tại Việt Nam”, Những vấn đề kinh tế thế giới, Số 2 (2001) TS Trần Văn Tùng, “Những yếu tố tác động đến dòng vốn FDI năm 1999”, Những vấn đề kinh tế thế giới, Số 1 (2000) Nguyễn Trọng Xuân, “Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam”, Nghiên cứu kinh tế, số 268 (9/2000) Nguyễn Trọng Xuân, “Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam”, Những vấn đề kinh tế thế giới, Số 2 (2000) Báo cáo của Bộ kế hoạch và đầu tư trình Chính phủ về tình hình hoạt động ĐTNN 5 năm 1996-2000 và các giải pháp cho giai đoạn 2001-2005. Báo cáo tổng quan thực trạng FDI tại Hà Nội năm 2000 Tình hình và chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, Báo kinh tế-kế hoạch, Số 5 (2001) Tổng quan tình hình FDI thế giới gần đây – Những vấn đề kinh tế thế giới, Số 6 (2000). Tổng quan các quan điểm của các tổ chức quốc tế và các học giả nước ngoài về FDI vào ngành chế tạo Việt Nam, Viện nghiên cứu kinh tế. Tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư tháng 12 và cả năm 2000, Báo tin hàng ngày. Phần phụ lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37158.doc