Lời nói đầu
Thực hiện công cuộc đổi mới hơn mười năm qua, Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng trong phát triển kinh tế, đặc biệt kinh tế đối ngoại. Đó là sự tham gia vào các diễn đàn quốc tế phát triển vùng, tiểu vùng, khu vực và toàn cầu, gia nhập ASEAN, APEC, ký hiệp định khung với Liên minh Châu Âu, là quan sát viên của WTO.
Chương I: những vấn đề lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
i. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.
73 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1373 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Triển vọng & Một số giải pháp chủ yếu để thúc đẩy hoạt động đầu tư của liên minh Châu Âu vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những khái niệm chung
1.1Khái niệm về đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài là một hoạt động kinh tế đối ngoại quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới. Hoạt động đầu tư nước ngoài trong từng giai đoạn lịch sử, mang những đặc điểm riêng phụ thuộc vào sự phát triển sản xuất, phụ thuộc vào thực tiễn ở mỗi quốc gia. Do vậy, quan niệm về đầu tư nước ngoài cũng được nhìn nhận khác nhau trong luật pháp của mỗi nước.
Khái niệm chung nhất thường được các nước sử dụng là: Đầu tư nước ngoài là một hình thức của hoạt động kinh tế quốc tế, trong đó diễn ra việc di chuyển vốn từ nước này sang nước khác nhằm mục đích kinh doanh thu lợi nhuận. Vốn di chuyển này được gọi là vốn đầu tư nước ngoài. Nó có thể là vốn của một tổ chức quốc tế như: Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), hoặc số vốn đó có thể thuộc một quốc gia hay của một cá nhân. Vốn đầu tư nước ngoài này có thể bằng tiền (ngoại tệ mạnh, tiền nội địa), có thể bằng hiện vật cụ thể như sức lao động, công nghệ, bí quyết công nghệ, sáng chế, nhãn hiệu, uy tín hàng hoá,... và các phương tiện đầu tư đặc biệt khác như cổ phiếu, vàng bạc, đá quý.
Về hình thức đầu tư nước ngoài có rất nhiều cách phân loại. Nhưng hiện nay việc phân loại được thực hiện dựa chủ yếu vào phương thức đầu tư. Theo cách phân loại này có thể thấy đầu tư nước ngoài được biểu hiện chủ yếu dưới bốn hình thức sau đây:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư gián tiếp
Tín dụng quốc tế
Tài trợ phát triển chính thức
1.2. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI - Foreign Direct Investment)
Theo quan niệm có tính tổng quan, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức di chuyển vốn trên thị trường tài chính quốc tế, trong đó, công ty (thường là công ty đa quốc gia) tạo ra hoặc mở rộng chi nhánh ở nước khác, đầu tư để mở rộng thị trường, thiết lập quyền sở hữu từng phần hoặc toàn bộ vốn đầu tư và giữ quyền quản lý các quyết định kinh doanh cùng các đối tác nước sở tại cùng chia sẻ rủi ro và hưởng lợi nhuận.
Số vốn đóng góp tối thiểu này được quy định tuỳ theo luật của từng nước. Ví dụ Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam quy định số vốn đóng góp tối thiểu của phía nước ngoài phải bằng 30% vốn pháp định của dự án đầu tư. ở Mỹ tỷ lệ quy định này là 25%. Quyền quản lý, điều hành trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào mức độ góp vốn.
Đối với các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài thì doanh nghiệp hoàn toàn do nhà đầu tư nước ngoài điều hành công việc sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Phần lợi nhuận hoặc thua lỗ được chia theo tỉ lệ đóng góp vốn trong vốn pháp định sau khi đã nộp thuế lợi tức cho nước sở tại.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thể hiện qua các hình thức như:
Đóng góp vốn để xây dựng doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh hoàn toàn mới. Chẳng hạn, ở Việt Nam đã và đang hình thành một số pháp nhân mới trên cơ sở đầu tư trực tiếp nước ngoài như Công ty liên doanh sản xuất ô tô Hoà bình, liên doanh sản xuất ô tô DAEWOO, Trung tâm thương mại Daena...
Mua lại một phần hoặc toàn bộ các xí nghiệp, cơ sở kinh tế đang hoạt động, trang bị thêm, tổ chức lại quá trình sản xuất kinh doanh đã có hiệu quả kinh tế cao hơn. Ví dụ ở Mỹ, theo các chuyên gia Mỹ đánh giá trong giai đoạn 1951-1991 Nhật đã đầu tư vào Mỹ là 148,6 tỷ USD, qua đó đã mua lại nhiều công ty, xí nghiệp có nguy cơ phá sản, giúp cải thiện tình hình thanh toán và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại các cơ sở kinh tế này.
Mua cổ phiếu của các công ty với số lượng lớn, giá trị cao, biến công ty này thành công ty của mình.
ở Việt Nam, luật đầu tư nước ngoài được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua từ năm 1987, và được sửa đổi bổ sung bốn lần, lần đầu vào tháng 6/1990, lần thứ hai vào tháng 12/1992, lần thứ ba vào tháng 11/1996 và lần thứ tư vao tháng 05/2000, theo hướng ngày càng thích hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn vào Việt Nam.
Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác với Việt Nam hoặc tự mình kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định đầu tư trực tiếp nước ngoài được thể hiện qua ba hình thức chủ yếu sau:
Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh: Đây là một hình thức đầu tư trực tiếp trong đó hợp đồng hợp tác hợp tác kinh doanh được ký kết giữa hai hay nhiều bên (gọi là các bên hợp tác kinh doanh) để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh ở mức nhận đầu tư trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên tham gia mà không cần thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc pháp nhân. Hình thức này không làm hình thành một công ty hay xí nghiệp mới. Mối bên vẫn hoạt động với tư cách pháp nhân độc lập của mình và mỗi bên thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy định trong hợp đồng. Kết quả hoạt động phụ thuộc vào sự tồn tại và thực hiện nghĩa vụ của mỗi bên hợp doanh.
Luật còn quy định thêm trong quá trình hoạt động kinh doanh, bên Việt Nam nộp thuế áp dụng cho doanh nghiệp trong nước, bên nước ngoài nộp thuế theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh có thể được kết thúc trước thời hạn nếu thoả mãn đủ các điều kiện quy định trong hợp đồng. Hợp đồng cũng có thể được kéo dài khi có sự đồng ý của Bộ kế hoạch và Đầu tư.
Doanh nghiệp liên doanh:
Đây là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, qua đó pháp nhân mới được thành lập gọi là doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp mới này do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký kết giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài. Doanh nghiệp liên doanh cũng có thể được thành lập do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Nhằm tiến hành các hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Pháp nhân mới thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó phần góp vốn của nước ngoài không hạn chế mức tối đa, nhưng mức tối thiểu theo quy định của luật không dưới 30% vốn pháp định.
Mỗi bên tham gia vào doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân riêng. Như doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân độc lập với các bên tham gia. Khi các bên đã đóng góp đủ số vốn quy định vào liên doanh thì dù một bên có phá sản, doanh nghiệp liên doanh vẫn tồn tại.
Số người tham gia hội đồng quản trị lãnh đạo doanh nghiệp của các bên phụ thuộc vào tỉ lệ góp vốn. Hội đồng quản trị là cơ quan cao nhất lãnh đạo liên doanh. Hội đồng quản trị quyết định theo nguyên tắc nhất trí đối với các vấn đề quan trọng như: duyệt quyết toán thu chi tài chính hàng năm và quyết toán công trình, sửa đổi bổ sung điều lệ doanh nghiệp, vay vốn đầu tư, bổ nhiệm, miễn nhiệm tổng giám đốc, phó tổng giám đốc thứ nhất và kế toán trưởng... Lợi nhuận và rủi ro của doanh nghiệp liên doanh này được phân chia theo tỉ lệ góp vốn của mỗi bên trong vốn pháp định.
Luật đầu tư nước ngoài Việt Nam còn quy định thời gian hoạt động của liên doanh thông thường từ 30 năm đến 50 năm, trong trường hợp đặc biệt không quá 70 năm. Doanh nghiệp liên doanh giải thể khi hết thời hạn hoạt động trừ khi việc kéo dài thời gian hoạt động đã được cơ quan quản lý Nhà nước về hợp tác và đầu tư chuẩn y. Đồng thời doanh nghiệp liên doanh cũng có thể kết thúc hoạt động sớm hơn trong một số các trường hợp đặc biệt như: Gặp bất khả kháng, một hoặc các bên liên doanh không thực hiện nghĩa vụ quy định trong hợp đồng...
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài:
Đây là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, được hình thành bằng toàn bộ vốn nước ngoài và do tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thành lập, tự quản lý, điều hành và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp này được thành lập dưới dạng các công ty trách nhiệm hữu hạn, là pháp nhân Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài Việt Nam.
Vốn pháp định cũng như vốn đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài đóng góp. Vốn pháp định ít nhất bằng 30% vốn đầu tư của doanh nghiệp.
Ngoài ra luật đầu tư nước ngoài Việt Nam cũng quy định thêm đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể được đầu tư theo các phương thức đặc biệt như doanh nghiệp chế xuất, hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT)...
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT: Build - Operate - Transfer) là một phương thức đầu tư trực tiếp được thực hiện trên cơ sở văn bản được ký kết giữa nhà đầu tư nước ngoài (có thể là tổ chức, cá nhân nước ngoài) với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ở Việt Nam để xây dựng kinh doanh công trình kết cấu, hạ tầng trong một thời gian nhất định, hết thời hạn, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao thường được thực hiện bằng vốn nước ngoài 100%, cũng có thể được thực hiện bằng vốn nước ngoài và phần góp vốn của Chính phủ Việt Nam hoặc tổ chức, cá nhân Việt Nam. Trong hình thức đầu tư này, các nhà đầu tư có toàn quyền tổ chức xây dựng, kinh doanh công trình một thời gian đủ thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý, sau đó có nghĩa vụ chuyển giao cho Nhà nước Việt Nam mà không thu bất kỳ khoản tiền nào.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO: Build - Transfer - Operate Centraet) là phương thức đầu tư dựa trên cơ sở văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình cho Nhà nước Việt Nam. Nhà nước Việt Nam sẽ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT: Build - Transfer) là một phương thức đầu tư nước ngoài trên cơ sở văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyên của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
Doanh nghiệp chế xuất: là doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu được thành lập và hoạt động theo quy định của Chính phủ về doanh nghiệp chế xuất.
2. Nguồn gốc và động lực của đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1. Nguồn gốc đầu tư trực tiếp nước ngoài
Quan hệ kinh tế quốc tế xuất hiện từ khi con người biết thực hiện các hành vi trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia. Quy mô và phạm vi của những sự trao đổi ngày càng mở rộng, hình thành nên những quan hệ kinh tế quốc tế gắn bó và phụ thuộc vào nhau giữa các nước trên thế giới.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt động kinh tế đối ngoại ra đời muộn hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác vài ba thập kỷ. Nhưng ngay từ khi xuất hiện, vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có vị trí đáng kể trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Cùng với quá trình phát triển mạnh mẽ của các quan hệ kinh tế quốc tế, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài không ngừng được mở rộng và chiếm vị trí ngày càng quan trọng. Đến nay đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành xu hướng của thời đại và là nhân tố quy định bản chất các quan hệ kinh tế quốc tế.
Thực vậy, từ những năm 1870-1914 đã xuất hiện hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá thô. Luồng vốn chủ yếu là đầu tư gián tiếp. Anh là nước tập trung vốn nước ngoài và cũng chiếm 1/2 tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài trong đó 90% là đầu tư gián tiếp. Tình hình thị trường có sự thay đổi sau chiến tranh Thế giới thứ nhất, vì đầu tư gián tiếp đã giảm dần. Mỹ nổi lên, không những trở thành chủ nợ mà còn nhanh chóng gạt bỏ Anh trở thành nước cung cấp nguồn vốn vay chủ yếu, trong đó phần lớn là đầu tư trực tiếp.
Đến những năm 1950, vai trò của đầu tư gián tiếp gần như đã bị quên lãng. Vào những năm sau đó, Chính phủ của nhiều nước bắt đầu lo lắng đến ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tình hình kinh tế, chính trị trong nước cho nên đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giảm đi rõ rệt. Trong giai đoạn này lượng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp gần như bằng nhau.
Trong suốt những năm 90, đầu tư trực tiếp nước ngoài thay đổi cả về số lượng và cơ cấu. Hầu hết đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung vào những nước phát triển. Các nước Anh, Mỹ, Canada, Italia, có vai trò ngày càng to lớn trong khi đầu tư trực tiếp của Nhật, Đức giảm đi rõ rệt. Chỉ có gần 20% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài dành cho các nước đang phát triển. Trong đó Châu á nhận được nhiều nhất.
Những luồng vốn đầu tư trực tiếp trên toàn thế giới như vậy phản ánh quá trình quốc tế hoá là một tất yếu khách quan của lịch sử. Điều đáng lưu ý là quá trình này càng được phát triển cùng với sự ra đời của các công ty đa quốc gia. Các công ty này thường là các phương tiện cho việc đi vay và cho vay quốc tế, chiếm 70% từ FDI quốc tế. Công ty mẹ thường chuyển giao vốn của mình qua các công ty chi nhánh ở nước ngoài. Vì vậy, FDI gắn liền với các công ty đa quốc gia không chỉ là sự chuyển giao nguồn lực mà còn là sự mở rộng thị trường, mở rộng sự kiểm soát và quản lý.
2.2. Động lực của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Động lực của đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng giống như động lực của hoạt động đầu tư gián tiếp. Đó là tìm kiếm lợi nhuận cao hơn và nhằm mục đích phân tán rủi ro về vốn.
Sở dĩ các công ty đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thu được lợi nhuận cao hơn trong nước là do giữa các quốc gia có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, tiềm lực kinh tế, khoa học và kỹ thuật... Điều này đã làm hình thành nên lợi thế so sánh giữa các quốc gia và đã đưa đến sự khác nhau giữa nhu cầu và khả năng tích luỹ vốn ở các nước.
ở các nước công nghiệp phát triển, cuộc cạnh tranh kinh tế ngày càng trở nên khốc liệt đã làm cho tỷ suất lợi nhuận ngày càng giảm cùng với hiện tượng thừa tương đối tư bản ở trong nước đã làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Chính điều này đòi hỏi các nhà tư bản phải đầu tư ra nước ngoài để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của mình.
Thực tế cho thấy, các công ty có định hướng quốc tế mạnh rõ ràng, xuất khẩu trực tiếp hoặc các dịch vụ thương mại ở nước ngoài sẽ thu nhiều lợi nhuận hơn và biến động lợi nhuận ít hơn so với các công ty quốc nội thuần tuý.
Hơn nữa, ngày nay hầu hết các nước đang phát triển đang thực hiện quá trình công nghiệp hoá nên rất cần vốn đầu tư. Vì vậy mà các nước này ra sức đề ra các chính sách thích hợp và cải thiện môi trường đầu tư trong nưóc nhằm tăng sức hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra còn tồn tại một yếu tố khác quan trọng hơn, đó là các công ty lớn có bí quyết sản xuất, công nghệ, kỹ thuật độc đáo có thể dùng bí quyết này để thu lợi nhuận ở nước ngoài. Hầu hết các công ty này đều muốn duy trì việc quản lý và điều hành trực tiếp.
Việc thực hiện đầu tư nước ngoài kéo theo một liên kết ngang (Horizontal Intergration). Đó là việc thực hiện sản xuất ở nước ngoài các sản phẩm chúng cũng được sản xuất ở trong nước. Ví dụ như Công ty IBM có công nghệ máy tính cá nhân và muốn duy trì sự điều hành trực tiếp của mình. Công ty IBM có thể dễ dàng thiết lập nhà máy ở nước ngoài phục vụ cho thị trường tại đó hơn là việc IBM xuất khẩu trực tiếp. Mặt khác IBM cũng không muốn chuyển giao công nghệ cho các nhà sản xuất khác vì họ muốn duy trì toàn bộ quyền điều hành và quản lý công nghệ, về bí mật và bằng sáng chế. IBM cũng muốn bảo đảm chắc chắn chất lượng sản phẩm và dịch vụ sử dụng. Hơn nữa nếu IBM có ý định thương lượng hợp đồng chuyển giao công nghệ cho các nhà sản xuất nước ngoài thì vấn đề tăng nhanh sáng kiến kỹ thuật trong lĩnh vực máy tính cũng sẽ gặp nhiều khó khăn. Trường hợp này cũng tương tự với các công ty Xerox, Gillett, Toyota và các tập đoàn đa quốc gia khác. Đây cũng chính là động lực quan trọng nhất của việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các nước phát triển.
Mặt khác vấn đề nguyên liệu cần thiết và sự đảm bảo cung cấp nguyên liệu liên tục ở mức giá thấp nhất cũng là động lực của việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Điều này liên quan đến liên kết dọc (Vertical Integration) và cũng là cách thức hoạt động của hầu hết các công ty đa quốc gia trong việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nhằm vào các nước đang phát triển và một số nước phát triển có nhiều tài nguyên. Trong thực tế Mỹ và các công ty nước ngoài là chủ của nhiều mỏ than ở Canada, Jamaica, Venezuela, úc,... Ngược lại các quốc gia khác cũng là chủ một số mỏ than ở Mỹ. Việc liên kết dọc cũng làm cho các công ty đa quốc gia sở hữu luôn cá mạng lưới phân phối sản phẩm và buôn bán ở nước ngoài. Trường hợp này được hầu hết các nhà sản xuất xe hơi trên thế giới áp dụng.
Việc đầu tư ra nước ngoài còn nhằm tránh các hàng rào thuế quan và những hạn chế khác mà nước chủ nhà áp dụng trong nhập khẩu hoặc ngược lại có một số nước tạo điều kiện thuận lợi nhằm khuyến khích đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào địa phương họ muốn.
Động lực của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn nhằm gia nhập thị trường không độc quyền (Oligopolistic market) để chia sẻ quyền lợi hoặc để mua một công ty nào đó có nhiều hứa hẹn phát triển nhằm tránh được sự cạnh tranh trong tương lai có thể mất thị trường xuất khẩu. Hoặc có một lý do khác là chỉ có các công ty đa quốc gia của nước ngoài mới đạt được mức độ độc quyền cần thiết về tài chính để xâm nhập thị trường nước chủ nhà. Xét về một khía cạnh khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài diễn ra theo hai chiều có thể được giải thích là do công nghệ tiên tiến ở một quốc gia A nào đó thúc đẩy việc đầu tư vào một quốc gia B, ví dụ công nghệ máy tính của Mỹ đầu tư trực tiếp vào Châu Âu. Còn các ngành công nghệ khác bị ảnh hưởng bởi nước B lại thúc đẩy việc đầu tư ngược lại vào nước A, ví dụ công nghệ xe hơi của Tây Âu và Nhật Bản đầu tư vào Mỹ.
Hiện nay hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có nhiều thuận lợi hơn nhờ hệ thống lưu thông hiện đại, hệ thống thông tin liên lạc tiên tiến... Các phương tiện này phát triển mạnh từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Hiện nay các trụ sở chính của các công ty đa quốc gia có thể điều khiển trực tiếp hoạt động kinh doanh khắp thế giới trong thời gian rất ngắn. Chính những phương tiện này đã tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ cho việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài phát triển.
II. Vai trò của FDI trong quá trình phát triển kinh tế
Trong quá trình vận động và phát triển, đầu tư quốc tế, chủ yếu là FDI gây ảnh hưởng nhất định (cả tác động tích cực lẫn tiêu cực) đối với nước chủ đầu tư và nước nhận đầu tư.
1.Đối với nước nhận đầu tư
1.1.Chuyển giao vốn
Vốn cho đầu tư phát triển kinh tế bao gồm nguồn vốn trong nước và nước ngoài. Đối với các nước lạc hậu, sản xuất còn ở trình độ thấp, nguồn vốn tích luỹ còn hạn hẹp thì vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế. ở các nước này có nhiều tiềm năng về lao động, tài nguyên thiên nhiên nhưng do trình độ sản xuất còn thấp kém, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn, lạc hậu nên chưa có điều kiện để khai thác các tiềm năng ấy. Các nước này chỉ có thể thoát ra cái vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo bằng cách tăng cường đầu tư phát triển sản xuất, tạo ra mức tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Để thực hiện được điều này, các nước đang phát triển cần phải có nhiều vốn đầu tư. Trong điều kiện hiện nay, khi mà trên thế giới có nhiều nước nắm trong tay một khối lượng vốn khổng lồ và có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài thì đó là cơ hội để các nước đang phát triển có thể tranh thủ nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào việc phát triển kinh tế.
Tại nhiều nước đang phát triển, vốn FDI chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng vốn đầu tư của toàn bộ nền kinh tế, trong đó có một số nước hoàn toàn dựa vào vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là ở giai đoạn đầu của sự phát triển kinh tế. Để đánh giá vai trò của vốn đầu tư nước ngoài, chúng ta có thể xem tỷ lệ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên tổng sản phẩm quốc dân (FDI/GDP) ở một số nước thực hiện khá thành công chiến lược thu hút FDI trung bình trên 10% như: Braxin 11,1%, Columbia 15,8%, Venezuela 10%, HongKong 15,2%, Indonexia 10,9%... Một số nước tích cực thu hút FDI có tỷ lệ trên 20% như: argentina 23,9%, Malayxia 26,6%, và đặc biệt là Singapore 65,3%. ở các nước này FDI đã thực sự đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế. Và nếu chỉ căn cứ vào tình hình thực tại về số lượng vốn đầu tư của toàn bộ nền kinh tế thì có thể đánh giá rằng FDI có ý nghĩa quyết định đến tăng trưởng kinh tế của các nước này.
Tỷ lệ FDI/GDP ở Việt Nam năm 1991 là 8,5% đến năm 1994 tăng lên đạt khoảng 10%. Con số này chứng tỏ chúng ta đã khá thành công trong việc thu hút FDI trong thời gian qua. Nhưng so với nhiều nước, con số này còn ở mức thấp.
Đối với các nước công nghiệp phát triển, FDI vẫn là nguồn bổ xung vốn quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong quá trình phát triển nền kinh tế của những quốc gia này. Bằng chứng là các nước công nghiệp phát triển đã thu hút tới 82% vốn FDI vào nước họ thời kỳ 1987-1991. Khác với các nước đang phát triển, không phải do thiếu vốn đầu tư, cũng không phải do trình độ kỹ thuật thấp kém mà các nước công nghiệp phát triển cần thu hút vốn FDI. Thực tế thì chính các nước công nghiệp phát triển là những nước đầu tư ra nước ngoài nhiều nhất và cũng thu hút phần lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo số liệu báo cáo đầu tư trên thế giới của Liên hợp quốc thì năm 1994, các nước phát triển đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 189 tỷ USD, chiếm 85% tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới và thu hút vào khoảng 135 tỷ USD, bằng 60% tổng số vốn FDI toàn thế giới. Hiện tượng này cũng diễn ra ở khu vực các nước đang phát triển, năm 1994 dòng vốn FDI chảy vào các nước này là 84 tỷ USD chiếm 37% tổng số vốn FDI trên toàn thế giới và dòng vốn FDI từ các nước này chảy ra ngoài là 33 tỷ USD chiếm 15% tổng số vốn FDI toàn thế giới.
Vai trò quan trọng của FDI và vốn FDI trên thế giới ngày càng tăng thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Vốn FDI của thế giới giai đoạn 1982-1996
Năm
Các nước đang phát triển (%)
Các nước phát triển (%)
Toàn bộ thế giới (Triệu USD)
1983-1987
25,7
74,26
71,1
1988-1992
20,76
79,24
177,3
1993
35,16
64,84
207,9
1994
38,55
61,45
225,7
1995
31,66
68,34
314,9
1996
34,44
65,56
356,8
Nguồn: World Investment Report 1997
Bên cạnh đó, điều quan trọng của FDI đối với việc phát triển kinh tế là vai trò của nó đối với nguồn tiết kiệm. Về cơ bản FDI có thể khuyến khích tăng nguồn tiết kiệm đặc biệt đối với những nước nhận đầu tư. Quá trình này có thể dễ dàng xảy ra vì FDI có thể tạo thêm việc làm trong nước và tạo ra thu nhập, do đó nó có thể làm cho nguồn tiết kiệm tăng lên ở nước sở tại. Ngoài tiền lương mà các nhà đầu tư nước ngoài trả và những khoản thu nhập mà những nhà cung cấp địa phương kiếm được thì các nhà đầu tư nước ngoài cũng có ảnh hưởng tích cực đến tiết kiệm. Cùng với thời gian các nhà đầu tư nước ngoài cũng có thể làm tăng tiết kiệm trong nước bằng những cách khác nhau như xây dựng các kế hoạch trả lương, chi trả vào các khoản tiết kiệm,...
Ngoài ra, FDI còn đóng một vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ của nước nhận. Điều này có nghĩa là việc thiếu hụt thương mại có thể được bổ xung bằng nguồn vốn FDI.
Khi FDI chảy vào một nước, nó có thể làm giảm thâm hụt cán cân vãng lai. Nó cũng có thể làm triệt tiêu khoản hâm hụt đó qua thời gian khi các công ty nước ngoài thu được những khoản xuất khẩu ròng. Thêm nữa khi những lợi thế của nền sản xuất nước ngoài được đưa vào nước chủ nhà như công nghệ, kỹ năng sản xuất..., chúng làm nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của các hãng trong nước, do đó có thể làm tăng xuất khẩu, góp phần tạo ra ngoại tệ cải thiện cán cân thương mại.
Vậy đây là một xu hướng phát triển quan hệ kinh tế quốc tế, xu hướng tăng cường hợp tác sản xuất và liên kết kinh tế giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Xu hướng này xuất phát từ lợi ích quốc gia, khi tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, mỗi nước sẽ phát huy được những lợi thế của mình và khai thác được những thế mạnh của các quốc gia khác nhau để phát triển nền kinh tế của mình.
1.2. Chuyển giao công nghệ
Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ chuyển vào nước đó vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn bằng hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu...(hay còn gọi là công nghệ cứng) và cả vốn vô hình như chuyên gia kỹ thuật, công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị trường...(hay còn gọi là công nghệ mềm). Thông qua hoạt động FDI, quá trình chuyển giao công nghệ được thực hiện tương đối nhanh chóng và thuận tiện cho cả bên đầu tư cũng như bên nhận đầu tư.
Một trở ngại lớn nhất trên con đường phát triển kinh tế của hầu hết các nước đang phát triển là trình độ kỹ thuật, công nghệ còn lạc hậu. Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển tự nghiên cứu để phát triển khoa học công nghệ cho kịp với trình độ của các nước phát triển là việc khó khăn và tốn kém. Con đường nhanh nhất để phát triển khoa học công nghệ kỹ thuật và trình độ sản xuất của các nước đang phát triển hiện nay là phải biết tận dụng những thành tựu khoa học tiên tiến của nước ngoài thông qua chuyển giao công nghệ. Tiếp nhận FDI là một phương thức cho phép các nước đang phát triển tiếp thu được trình độ khoa học công nghệ hiện đại trên thế giới, tuy nhiên mức độ hiện đại đến đâu còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố. Nhưng dù thế nào thì đây cũng là lợi ích căn bản của các nước khi tiếp nhận FDI. Trong điều kiện hiện nay, trên thế giới có nhiều công ty của nhiều quốc gia khác nhau có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài và thực hiện chuyển giao công nghệ cho nước nào tiếp nhận đầu tư. Đây là cơ hội cho các nước đang phát triển được “đi xe miễn phí”, mà cũng không phải trả một khoản học phí nào cho việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ này.
Các nước đang phát triển, mặc dù có trình độ sản xuất hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến nhưng không thể nào toàn diện được. Để đạt hiệu quả kinh tế cao, mỗi nước chỉ tập trung vào một số lĩnh vực mà họ có ưu thế hơn và ngược lại chính sự tập trung đó cho phép họ có khả năng phát triển vượt trội lên ở một số lĩnh vực nào đó, điều đó càng củng cố thêm địa vị và quyền lợi kinh tế của họ trên thế giới. Xu hướng phát triển phân công lao động xã hội xũng là quá trình chuyên môn hoá và liên kết chặt chẽ với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động FDI là kết quả trực tiếp của quá trình trên, nó tuân theo các quy luật của quá trình phân công lao động quốc tế.
Chuyển giao công nghệ cũng là yêu cầu tất yếu của sự phát triển khoa học kỹ thuật. Bất kỳ một tổ chức nào muốn thay thế kỹ thuật công nghệ mới thì cũng phải tìm được nơi thải những kỹ thuật công nghệ đã cũ. Việc thải những công nghệ cũ này dễ dàng được nhiều nơi chấp nhận. Và chính sự lan toả những thành tựu khoa học kỹ thuật của nhân loại thường xuyên như thế này đã tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật.
1.3. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, các nước đang phát triển muốn sử dụng nó để thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Đây cũng là điểm nút để các nước đang phát triển thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói. Thực tiễn và kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, quốc gia nào thực hiện chiến lược kinh tế mở cửa với bên ngoài, biết tranh thủ và phát huy tác dụng các nhân tố bên ngoài, biến nó thành các nhân tố bên trong thì quốc gia đó tạo ra được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
Thực tế tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển, nhất là các nước NICs, đã chứng minh thêm cho nhận định trên. Rõ ràng là hoạt động FDI đã góp phần tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở những nước đang phát triển. Nó là tiền đề, là chỗ dựa để khai thác những tiềm năng to lớn ở trong nước nhằm phát triển kinh tế.
Mức tăng trưởng kinh tế ở những nước đang phát triển thường do nhân tố tăng đầu tư là chủ yếu, nhờ đó các nhân tố khác như tổng số lao động được sử dụng, năng suất lao động cũng tăng theo. Vì vậy, có thể thông qua đầu tư để đánh giá một cách tương đối sự tăng trưởng của một nước.
1.4. Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Yêu cầu dịch chuyển cơ cấu kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân sự phát triển nội tại nền kinh tế, mà nó còn là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. FDI là một bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại, thông qua đó các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia tích cực vào quá trình liên kết kinh tế giữa các nước trên thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia phù hợp với trình độ phát triển chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động FDI. Ngược lại thì chính FDI lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Bởi vì:
Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành nghề kinh tế mới ở nước nhận đầu tư.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp cho sự phát triển nhanh chóng trình độ kỹ thuật công nghệ ở nhiều ngành nghề kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động ở các ngành này và làm tăng tỷ phần của nó trong nền kinh tế.
Một số ngành được kích thích phát triển bởi đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng cũng sẽ có nhiều ngành bị mai một đi rồi đi đến chỗ bị xoá sổ.
Góp phần đáng kể vào nguồn thu của ngân sách Nhà nước thông qua việc nộp thuế của các đơn vị đầu tư nước ngoài và tiền thu từ việc cho thuê đất...Cùng với tăng khả năng sản xuất, nhập khẩu hàng hoá, FDI còn giúp mở rộng thị trường._. cả trong nước và quốc tế. Đa số các dự án FDI đều có phương án bao tiêu sản phẩm. Đây gọi là hiện tượng “hai chiều” đang trở nên khá phổ biến ở nhiều nước đang phát triển hiện nay.
Về mặt xã hội FDI đã tạo được nhiều chỗ làm việc mới, thu hút được một số lượng đáng kể người lao động ở nước nhận đầu tư vào làm việc trong các đơn vị cuả đầu tư nước ngoài. Điều này góp phần đáng kể vào việc giảm bớt nạn thất nghiệp, vốn là tình trạng nan giải của nhiều quốc gia. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển, nơi có lực lượng lao động rất phong phú nhưng không có điều kiện khai thác và sử dụng thì FDI được coi là chiếc chìa khoá quan trọng để tạo ra các điều kiện về vốn và kỹ thuật cho phép khai thác và sử dụng các tiềm năng của nền kinh tế trong đó có tiềm năng về lao động.
2. Đối với nước đi đầu tư
Có thể nói đầu tư cũng là một hình thức mở rộng thị trường cho một quốc gia hay một tập đoàn kinh tế. Việc mở rộng này có ý nghĩa nhiều mặt đối với nước đi đầu tư. Điều này được thể hiện qua các góc độ sau.
2.1. Đứng trên góc độ vĩ mô
Thông qua các hoạt động FDI, các nước có thể mở rộng và nâng cao mối quan hệ với nhau, đôi bên cũng có lợi. Hơn thế nữa, các nước đi đầu tư thường có nhiều thế mạnh so với nước nhận đầu tư, điều này có thể tạo nên những sự can thiệp bất lợi vào nền chính trị của các nước này. Hoạt động FDI cũng làm cho sự lưu thông kinh tế giữa các nước trở nên dễ dàng hơn, uy tín của nước đó cũng được nâng cao trên thị trường quốc tế. Giữa các quốc gia sẽ tồn tại một vấn đề cơ bản là có những nước thừa mặt hàng này nhưng cũng mặt hàng đó ở nước khác lại đang rất thiếu và ngược lại. Các nhà đầu tư chủ động được điều này. Họ có thể tiêu thụ những mặt hàng đã cũ, lạc hậu hoặc nhu cầu trong nước đã giảm.
Bên cạnh đó, hoạt động FDI sẽ đem về nước những khoản lợi nhuận hàng hoá, nguồn nhiên liệu các nước này không có hoặc đã cạn kiệt... Các nước đi đầu tư sẽ dễ dàng tìm kiếm lợi nhuận hơn khi họ được hưởng những chính sách ưu đãi về thuế, khai thác tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động rẻ, dồi dào, lợi dụng những kẽ hở về pháp luật, môi trường, trình độ quản lý yếu kém...
2.2. Đứng trên góc độ vi mô
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, mục đích cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Khi thị trường trong nước đã trở nên nhỏ bé và thừa thãi thì bắt buộc họ phải đầu tư ra nước ngoài để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình. Thông qua đầu tư, các hãng không chỉ thu được lợi nhuận mà họ còn có thể tìm thấy nguồn hàng, nguồn tài nguyên mà nước mình đã, đang và có thể sẽ khan hiếm.
Phần lớn các nước nhận đầu tư là các nước đang phát triển nghèo nàn và yếu kém về mọi mặt. Vì thế khi đi đầu tư, khả năng sử dụng vốn của các doanh nghiệp sẽ linh hoạt, dễ dàng hơn, chi phí đầu tư sẽ nhỏ hơn ở trong nước bởi vì ngoài những chính sách ưu đãi, nguồn tài nguyên, lao động rẻ,..., họ còn có thể đưa vào những nước này những máy móc thiết bị đã cũ và lạc hậu, vừa không phải lo chỗ bỏ đi lại còn được tiếp tục sử dụng.
Cũng nhờ vào đầu tư mà một công ty có chi nhánh ở nhiều nước, vì thế uy tín và sức cạnh tranh của nó sẽ được nâng cao trên thị trường quốc tế.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút fdi
1. ổn định môi trường kinh tế, chính trị
Chính trị là yếu tố hàng đầu mà các nhà đầu tư phải xem xét có nên đầu tư vào một nước nào đó hay không. Nghiên cứu đã cho thấy nền chính trị ổn định sẽ khuyến khích FDI. Rủi ro của các nhà đầu tư nước ngoài có liên quan tới sự bất ổn định chính trị bao gồm tổn hao chi phí khi có sự đổ vỡ chính trị, sự quốc hữu hoá của Chính phủ, tỷ lệ hoàn vốn hàng hoá chắc chắn, cung ứng hàng hoá, dịch vụ và nhân lực bị phá vỡ.
Sự ổn định kinh tế là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Đối với vốn nước ngoài điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết. Để thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài, nền kinh tế nội địa phải là nơi an toàn cho sự vận động của tiền vốn, sau đó là nơi có năng lực sinh lợi cao hơn những nơi khác. Sự an toàn của vốn đòi hỏi môi trường kinh tế ổn định, không gặp những rủi ro do các yếu tố xã hội gây ra. Một nền kinh tế ổn định vững chắc nhưng không phải và không thể là sự ổn định bất động, tức là sự ổn định hàm chứa trong nó khả năng trì trệ kéo dài và dẫn tới khủng hoảng. Một sự ổn định được coi là vững chắc nhưng bất động chỉ có thể là sự ổn định ngắn hạn. Trong dài hạn, loại ổn định này tiềm chứa trong nó khả năng gây bất ổn định. Bởi vì sự ổn định không đồng nhất với sự trì trệ, mà bản chất sự ổn định kinh tế gắn liền với năng lực tăng trưởng, ổn định trong tăng trưởng, tức là kiểm soát sao cho quá trình tăng trưởng, nhất là các nỗ lực tăng trưởng nhanh, lâu bền, không gây ra trạng thái “quá nóng” của đầu tư và hậu quả đi liền nó là lạm phát. Theo cách hiểu thông thường thì tăng trưởng tức là phá vỡ thế ổn định cũ, nhưng nếu quá trình tăng trưởng được kiểm soát sao cho có thể chủ động tái lập được thế cân bằng mới thì quá trình đó cũng đồng thời là việc tạo ra cơ sở cho sự ổn định vững chắc và lâu bền.
2. Các chính sách kinh tế
Chính sách kinh tế trực tiếp giải quyết vốn để đầu tư ví dụ như các quy định về hạn chế sở hữu tài sản hay chuyển giao lợi nhuận, các chính sách khác của nước chủ nhà, các chính sách thương mại có ảnh hưởng tới FDI. Chính sách thương mại và đầu tư có ảnh hưởng tới khả năng nhập khẩu các thiết bị máy móc, nguyên liệu sản xuất và do đó thực sự trở thành mối quan tâm của tất cả các ngành đặc biệt là nganh xuất khẩu, mà thường muốn có chi phí sản xuất thấp để tăng tính cạnh tranh. Bên cạnh đó, các chính sách kinh tế cũng phải giải quyết được vấn đề chống lạm phát và ổn định tiền tệ. Để ổn định tiền tệ các quốc gia phải sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ như: lãi suất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, các công cụ của thị trường mở và chính sách tỷ giá hối đoái. Mặt khác, hoạt động ngân sách cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực họn các mục tiêu nói trên. Một ngân ssách thâm hụt triền miên thưưòng đi kèm với tình trạng lạm phát cao và bất ổn định. Trong các công cụ được sử dụng để thực hiện chính sách tiền tệ, hai công cụ lãi suất và tỷ giá hối đoái không chỉ ảnh hưởng tới hoạt động thu hút vốn nước ngoài gián tiếp thông qua vai trò tạo lập ổn định kinh tế mà còn tác động trực tiếp đến dòng chảy của vốn với tư cách là những yếu tố quyết định giá trị đầu tư và mức lợi nhuận thu được tại một thị trường xác định. Nếu mức lãi suất trong nước càng cao hơn so với mức lãi suất quốc tế thì sức hút với dòng chảy càng mạnh.
Trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, mức lãi suất tương đối cao còn giúp chính phủ báo vệ được nguồn lực khan hiếm của mình là vốn, ngăn chặn được nạn đào thoát vốn ra ngoài và huy động được nhiều vốn trong nước hơn. Tuy nhiên việc duy trì lãi suất cao cũng gây ra một tác động ngược lại đối với mục tiêu huy động vốn. Bởi vì lãi suất cao tức phí tổn trong đầu tư cao làm giảm dần lợi nhuận của nhà đầu tư.
Đối với tỷ giá hối đoái càng “mềm” thì khả năng thu lưọi nhuận từ xuất khẩu càng lớn, sức hấp dẫn vốn nước ngoài càng lớn. Vấn đề là ở chỗ khi một nước có mức tăng trưởng xuất khẩu cao thì khả năng trả nợ của nước đó cũng đảm bảo hơn. Điều đó sẽ làm yên tâm các nhà đầu tư vì độ mạo hiểm khi cho vay hay đầu tư giảm xuống. Một tỷ giá hối đoái phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của đất nước sẽ tạo khả năng thúc đẩy xuất khẩu, vì thế có vai trò trực tiếp to lớn đối với việc huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nước ngoài.
Ngoài ra cùng với những chính sách quan trọng khác tác động mạnh đến việc ra quyết định về sở hữu nước ngoài, thuế, chuyển giao lợi nhuận và các yêu cầu hoạt động cũng như các khuyến khích cho các dự án đầu tư nước ngoài, các quy định của nhà đầu tư.
3. Hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật bao gồm các văn bản luật, các quy định, các văn bản quản lý hoạt động đầu tư (giải quyết các thủ tục đầu tư, hướng dẫn đầu tư, đánh giá, thẩm định dự án...). Điều mà các nhà đầu tư quan tâm trong nội dung của các đạo luật là:
Có sự đảm bảo pháp lý đối với tài sản tư nhân và môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Quy chế pháp lý của việc phân chia lợi nhuận, quyền hồi hương lợi nhuận đối với các hình thức vận động cụ thể của vốn nước ngoài tại nước sở tại.
Các quy định về thuế, các mức thuế các loại.
Nếu như các quy định về mặt pháp lý bảo đảm an toàn về vốn của nhà đầu tư không bị quốc hữu hoá khi hoạt động đầu tư đó không phương hại đến an ninh quốc gia, đảm bảo mức lợi nhuận cao và việc di chuyển lợi nhuận về nước dễ dàng thì khả năng hấp dẫn và thu hút vốn FDI càng cao.
Nhìn chung, hệ thống pháp luật là thành phần quan trọng của môi trường đầu tư vì nó xác định mức lợi nhuận của cá nhà đầu tư và quyết định của họ khi thanh lý tài sản do đầu tư tạo ra bằng một hệ thống đồng bộ các biện pháp kinh tế xã hội và tổ chức kỹ thuật cùng các biện pháp khác nhằm đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao trong những điều kiện cụ thể xác định trên cơ sở vận dụng sáng tạo những quy luật kinh tế khách quan nói chung và các quy luật vận động đặc thù nói riêng
4. Cơ sở hạ tầng
Một trong những trở ngại lớn nhất đối với quá trình đầu tư là sự nghèo nàn và lạc hậu của hệ thống cơ sở hạ tầng. Kết cấu hạ tầng có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, trong đó đáng kể là ảnh hưởng tới tốc độ chu chuyển vốn. Đây là vấn đề quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư trước khi ra quyết định đầu tư. Hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm cả mạng lưới giao thông, hệ thống thông tin liên lạc và các cơ sở dịch vụ tài chính ngân hàng. Trình độ của các nhân tố này cũng phản ánh trình độ phát triển của mỗi quốc gia, nó tạo ra bộ mặt của đất nước và môi trường cho hoạt động đầu tư.
Chính phủ cần khuyến khích ưu đãi các nhà đầu tư nước ngoài theo các hình thức: BTO, BOT, BT để phát triển cơ sở hạ tầng. Dành nhiều ngân sách để phát triển cơ sở hạ tầng cho vùng sâu, vùng xa nhằm tạo ra những địa bàn mới hấp dẫn đầu tư.
5. Cải cách thủ tục hành chính
Theo các nhà đầu tư nước ngoài thì hiện nay lực cản lớn nhất đối với nguồn vốn FDI chính là thủ tục hành chính. Vì vậy nếu không giải quyết dứt điểm các khó khăn phức tạp do thủ tục rườm rà thì sẽ làm tê liệt mọi ưu thế về môi trường đầu tư. Việc cải cách thủ tục hành chính là thủ tục hiện nay cần tiến hành theo hướng:
Đơn giản hoá các khâu trong thủ tục cấp đất, xét thẩm định dự án, xét duyệt thiết kế xây dựng, rút ngắn tối đa thời gian trong các thủ tục này nhằm mục đích tạo điều kiện cho dự án nhanh chóng được đưa vào hoạt động, giảm bớt được thiệt hại do lỡ mất thời cơ, do tồn đọng vốn...
Các cơ quan có chức năng thẩm quyền xây dựng các quy định tiêu chuẩn định mức và kiểm tra việc thực hiện, xoá bỏ cơ chế phải xin cấp giấy phép đăng ký kinh doanh sau khi đã được cấp giấy phép đầu tư đối với hoạt động mà giấy phép đầu tư đã cho, thực hiện theo hướng đăng ký không phải xin phép. Chính những phức tạp trong thủ tục hành chính như vậy làm giảm chi phí đầu tư, gây chậm trễ tốn kém cho nhà đầu tư.
Chấm dứt tình trạng khác biệt giữa luật pháp và thực tế thi hành ở các cơ quan các cấp dưới khiến nhà đầu tư nước ngoài hiểu không tốt về luật pháp của nước sở tại, trong những trường hợp có cơ quan cấp dưới cố ý làm sai nguyên tắc hoặc ra những văn bản trái vơí quy định của cấp trên thì phải trực tiếp chịu trách nhiệm trước pháp luật về những thiệt hại mà họ đã gây ra.
Phân định rõ ràng chức năng quyền hạn của cơ quan các cấp để tránh tình trạng chồng chéo lên công việc của nhau.
Việc kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp là nhằm giúp đỡ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, giải quyết những vấn đề nảy sinh.
III. Phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư nước ngoài
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước,moi hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có hoạt động đầu tư phải đượ xem xét từ hai góc độ: người đầu tư quốc tế và nền kinh tế.
Các doanh nghiệp khi đầu tư có nhiều mục đích cụ thể, nhưng quy tụ lại là thu lợi nhuận. Khả năng sinh lời càng cao thì càng hấp dẫn các nhà đầu tư. Tuy nhiên, không phải mọi dự án có khả năng sinh lời cao đều tạo ra những ảnh hưởng tốt đối với nền kinh tế và xã hội. Do đó trên giác độ quản lý vĩ mô phải xem xét, đánh giá những lợi ích kinh tế - xã hội do thực hiện dự án đem lại. Điều này giữ vai trò quyết định để được các cấp có thẩm quyền chấp nhận cho phép đầu tư, các định chế tài chính quốc tế, các cơ quan viện trợ song phương và đa phương tài trợ cho dự án.
Lợi ích kinh tế - xã hội của dự án đầu tư là chênh lệch giữa các lợi ích mà nền kinh tế và xã hội thu được so với các đóng góp mà nền kinh tế và xã hội đã phải bỏ ra khi thực hiện dự án.
Những lợi ích mà xã hội thu được từ việc thực hiện dự án chính là sự đáp ứng các mục tiêu chung của nền kinh tế - xã hội. Chúng có thể được xem như các đáp ứng mang tính chất định tính: các mục tiêu phát triển kinh tế, góp phần chống ô nhiễm môi trường, cải tạo môi sinh...hoặc được đo lường bằng tính toán định lượng như: mức tăng thu cho ngân sách, mức gia tăng sử dụng tài nguyên, số người có công ăn việc làm...
Chi phí mà xã hội phải gánh chịu bao gồm toàn bộ các tài nguyên thiên nhiên, của cải vật chất, sức lao động mà xã hội dành cho dự án thay vì sử dụng vào các công việc khác trong tương lai gần.
Như vậy, lợi ích kinh tế - xã hội chính là kết quá so sánh (có mục đích) giữa cái giá mà xã hội phải trả cho việc sử dụng các nguồn lực sẵn có của mình một cách tốt nhất và lợi ích do dự án tạo ra cho toàn bộ nền kinh tế.
Tuỳ thuộc vào phạm vi xem xét ở tầm vĩ mô hay vi mô mà có các phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án đầu tư khác nhau
1. Đánh giá trên góc độ nhà đầu tư là các doanh nghiệp
Phương pháp được áp dụng là dựa trực tiếp vào số liệu của các báo cáo tài chính của dự án để tính các chỉ tiêu định lượng và thực hiện các xem xét mang tính chất định tính sau:
Mức đóng góp cho ngân sách như thuế doanh thu, lệ phí chuyển tiền, thuế xuất nhập khẩu, ..., từng năm và cả đời dự án.
Cách tính: có thể tính tổng số hay tính bình quân trên 1000 đồng vốn đầu tư.
Số chỗ làm việc tăng thêm từng năm và cả đời dự án.
Cách tính: có thể tính tổng số hay tính bình quân trên 1000 đồng vốn đầu tư.
Công thức:
Số chỗ làm việc tăng thêm = Số lao động của dự án - số lao động mất việc.
Số ngoại tệ thực thu từ dự án từng năm và cả đời dự án.
Cách tính: có thể tính tổng hay tính bình quân trên 1000 đồng vốn đầu tư.
Công thức:
Số ngoại tệ thực thu = Tổng thu ngoại tệ - Tổng chi ngoại tệ.
Tổng chi tiền nội địa tính trên một đơn vị ngoại tệ thực thu.
Mức tăng năng suất lao động sau khi có dự án so với trước khi có dự án từng năm và bình quân cả đời dự án.
Cách tính: có thể tính tổng số hay tính bình quân trên 1000 đồng vốn đầu tư.
Mức nâng cao trình độ nghề nghiệp của người lao động: thể hiện ở chỉ tiêu bậc thợ bình quân thay đổi sau khi có dự án so với trước khi có dự án và mức thay đổi này tính trên 1000 đồng vốn đầu tư.
Tạo thị trường mới và mức độ chiếm lĩnh thị trường của dự án.
Công thức:
Db
Mda = ắ
Dt
Trong đó:
Mda : Mức độ chiếm lĩnh thị trường của dự án.
Db: Doanh thu do bán sản phẩm của dự án tại thị trường.
Dt: Doanh thu tiêu thụ sản phẩm cùng loại.
Nâng cao trình độ kỹ thuật của sản xuất: thể hiện ở mức thay đổi cấp bậc công việc bình quân sau khi có dự án so với trước khi có dự án và mức thay đổi này tính trên 1000 đồng vốn đầu tư.
Nâng cao trình độ của lao động quản lý: thể hiện ở sự thay đổi mức đảm nhiệm quản lý sản xuất, quản lý lao động, quản lý tài sản cố định của lao động quản lý sau khi có dự án so với trước khi có dự án.
Các tác động đến môi trường sinh thái cũng như đáp ứng các nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ.
2. Đánh giá hiệu quả của việc đầu tư đối với nước nhận đầu tư (nước sở tại)
Trên đồ thị 1 xét thế giới chỉ có hai quốc gia (Quốc gia 1 và quốc gia 2), tổng vốn hỗn hợp của hai quốc gia là 00’ và tư bản di chuyển tự do. Trong tổng vốn phát hành: OA thuộc quốc gia 1; O’A thuộc quốc gia 2. Đường VMPK1 và VMPK2 cho biết giá trị sản phẩm vốn cận biên ở quốc gia 1 và quốc gia 2 tương ứng với các mức đầu tư khác nhau. Trong điều kiện cạnh tranh, giá trị sản phẩm vốn cận biên biểu hiện thành lợi nhuận, lợi tức hoặc vốn.
Khi tách riêng quốc gia 1 đầu tư toàn bộ vốn phát hành trong nước (OA) của mình ở mức lợi tức OC. Tổng sản phẩm (được đo bằng diện tích phía dưới của đường giá trị sản phẩm tăng lên) là OFGA, vùng OCGA trở thành tiền vốn của quốc gia 1 và phần còn lại CFG thuộc về các yếu tố hợp tác khác như lao động, đất đai.
Tương tự như vậy quốc gia 2 đầu tư toàn bộ vốn trong nước (O’A) ở lợi tức O’H. Tổng sản phẩm là O’JMA, trong đó O’HMA là tiền vốn của quốc gia 2 và phần còn lại HJM là các yếu tố hợp tác khác như đất đai, lao động...
Tổng số vốn của quốc gia 1 và quốc gia 2
Đồ thị 1: ảnh hưởng phúc lợi và sản lượng của dòng chảy vốn quốc tế.
Trong tổng số vốn OO’ của hai quốc gia, quốc gia 1 giữa OA vàtổng sản lượng của họ là OFGA, trong khi đó quốc gia 2 giữ lượng vốn O’A và tổng sản lượng của họ là O’JMA. Với lượng vốn AB chuyển từ quốc gia 2 sang quốc gia 1, mức thu hồi vốn của hai quốcgia cân bằng (BE), khiến sản lượng chung tăng lên EGM (vùng tô đậm), trong đó EGR phân bổ cho quốc gia 1 và ERM phân bổ cho quốc gia 2.
Do lợi nhuận vốn ở quốc gia 2 cao hơn (O’H) ở quốc gia 1 (OC) nên phần AB của dòng chảy vốn sẽ chuyển từ quốc gia 1 sang quốc gia 2 và cân bằng ở mức BE chính là tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa hai nước. Tổng sản phẩm quốc nội ở quốc gia 1 bây giờ là OFEB, cộng thêm ABER là tổng lợi nhuận thu được nhờ đầu tư ra nước ngoài, như vậy tổng thu nhập quốc gia 1 là OFERA (ERG là phần tăng thêm so với trước khi có đầu tư ra nước ngoài). Nhờ dòng chảy vốn quốc tế di chuyển tự do, tổng lợi nhuận vốn ở quốc gia 1 tăng lên đến ONRA, còn tổng lợi nhuận của các yếu tố hợp tác giảm xuống còn NEF.
Dòng vốn nước ngoài AB đổ vào quốc gia 2 làm tỷ suất lợi nhuận vốn giảm từ O’H còn O’T. Tổng sản phẩm quốc nội của quốc gia 2 tăng từ O’JMA lên O’JEB. Tổng sản phẩm tăng lên là ABEM, trong đó ABER thuộc về các nhà đầu tư ở nước ngoài (các nhà đầu tư của quốc gia 1) còn lại ERM chính là lợi ích thực sự của tổng sản phẩm đổ vào quốc gia 2. Tổng lợi nhuận trong nước của vốn giảm từ O’HMA còn O’TRA, trong khi đótổng lợi nhuận của các yếu tố hợp tác khác tăng từ HJM lên TJE.
Qua đó cho phép chúng ta kết luận rằng: Từ quan điểm coi thế giới là một tổng thể (gồm hai quốc gia cấu thành), tổng sản phẩm tăng từ OFGA + O’JMA lên OFEB + O’JEB hoặc là tổng sản phẩm tăng thêm là EGM = ERG + ERM. Như vậy dòng chảy vốn quốc tế đã làm tăng khả năng phân phối tiềm lực kinh tế quốc tế, tăng phúc lợi và sản phẩm quốc tế.
Giả sử các yếu tố sản xuất, vốn và lao động được sử dụng đầy đủ trước và sau khi có di chuyển vốn, trong đồ thị 1 tổng lợi nhuận và lợi nhuận bình quân của vốn tăng lên nhưng trái lại tổng lợi nhuận và lợi nhuận bình quân của lao động giảm ở nước chủ đầu tư. Vì vậy khi nước chủ đầu tư thu nhập từ việc đầu tư ở nước ngoài, có sự tái phân phối thu nhập quốc nội từ lao động thành vốn (Việc đầu tư ra nước ngoài làm cho cầu tương đối về lao động trong nước chủ đầu tư giảm hay w giảm. Ngược lại r tăng kết quả lợi suất đối với yếu tố lao động giảm và yếu tố vốn tăng). Chính lý do này đã thúc đẩy việc thành lập công đoàn tại các nước phát triển để chống lại việc đầu tư của các nước này ra nước ngoài. Trái lại khi nước chủ nhà nhận được tổng thu nhập từ việc đầu tư của nước ngoài, có sự tái phân phối thu nhập quốc nội từ vốn thành lao động. Nếu chúng ta có ít lao động cần thiết hơn, thì việc đầu tư ra nước ngoài có khuynh hướng giảm mức thuê nhân công ở nước chủ đầu tư và tăng mức thuê nhân công ở nước chủ nhà và như vậy có sự đối kháng về lao động ở nước nhận đầu tư và quyền lợi lao động ở nước chủ nhà.
Một hiệu qủa phúc lợi quan trọng khác của việc đầu tư ra nước ngoài đối với cả nước đầu tư lẫn nước chủ nhà là với tỷ suất thuế khác nhau nên lợi nhuận kiếm được ở nước ngoài cũng khác nhau.
Ngoài ra, đánh giá hiệu qủa các dự án đầu tư nước ngoài trên góc độ các cấp quản lý vĩ mô của Nhà nước, người ta còn sử dụng các báo cáo tài chính, tính lại giá cácđầu vào và đầu ra theo giá xã hội để xác định các chi phí đầy đủ (chi phí của nhà đầu tư, địa phương, ngành và của đất nước) và các lợi ích đầy đủ (lợi ích mà nhà đầu tư, người lao động, địa phương và cả nền kinh tế được hưởng từ việc thực hiện dự án).
Có một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án đầu tư khi xem xét ở tầm vĩ mô.
2.1. Giá trị sản phẩm thuần tuý tăng thêm (ký hiệu là NVA)
Nó là chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án và là mức chênh lệch giữa giá trị đầu ra và giá trị đầu vào.
Công thức: NVA = O - (M1 + IV)
Trong đó:
NVA: Giá trị sản phẩm thuần tuý tăng thêm dự kiến do dự án đem lại.
O: Giá trị đầu ra dự kiến của dự án (doanh thu).
M1: Giá trị đầu vào vật chất thường xuyên và các dịch vụ mua ngoài theo yêu cầu để đạt được đầu ra trên đây (năng lượng, bảo dưỡng...)
Iv: Vốn đầu tư (khấu hao).
Điều kiện để có hiệu quả là NVA > 0 và ngược lại.
2.2. Chỉ tiêu lao động có việc làm do thực hiện dự án và số lao động có việc làm tính trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư:
Số lao động có việc làm ở đây bao gồm số lao động có việc làm trực tiếp cho dự án và số lao động có việc làm gián tiếp (ở các dự án liên đới). Số lao động của đất nước có việc làm nhờ thực hiện dự án sẽ chỉ bao gồm số lao động trực tiếp và gián tiếp phục vụ cho dự án trừ đi số lao động bị mất việc ở các cơ sơ rcó liên quan và số người nước ngoài làm việc cho dự án.
Để tính chỉ tiêu số lao động có việc làm trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư, ta phải tính đến số vốn đầu tư trực tiếp của dự án đang xem xét và vốn đầu tư của các dự án liên đới (vốn đầu tư đầy đủ). Tiếp theo, tính một số các chỉ tiêu sau:
Số lao động có việc làm trực tiếp tính trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư trực tiếp.
Ld
Công thức: L’d = ắắ
Ivd
Trong đó:
Ld: Số lao động có việc làm trực tiếp của dự án.
Ivd: Số vốn đầu tư đầy đủ của dự án đang xem xét và các dự án liên đới.
Toàn bộ số lao động có việc làm tính trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư đầy đủ.
Lt
Công thức: It = ắắ
Ivt
Trong đó:
Lt: Toàn bộ số lao động có việc làm trực tiếp và gián tiếp.
Ivt: Số vốn đầu tư đầy đủ của dự án đang xem xét và các dự án liên đới.
Các công thức có liên quan:
Lt = Ld + Lind
Ivt = Ivd + Ivind
Trong đó:
Lind: Số lao động có việc làm gián tiếp.
Ivind: Số vốn đầu tư gián tiếp.
2.3. Chỉ tiêu mức giá trị gia tăng của mỗi nhóm dân cư (những người làm công ăn lương, những người hưởng lợi tức...) hoặc vùng lãnh thổ.
Chỉ tiêu này phản ánh tác động điều tiết thu nhập giữa các nhóm dân cư hoặc vùng lãnh thổ. Phương pháp này đòi hỏi tính chỉ tiêu tỷ lệ giá trịgia tăng của mỗi nhóm dân cư hoặc mỗi vùng lanhx thổ thu được trong tổng giá trị gia tăng ở năm hoạt động bình thường của dự án. So sánh tỷ lệ này của các nhóm dân cư hoặc vùng lãnh thổ với nhau sẽ thấy được tình hình phân phoói giá trj gia tăng do dự án tảoa giữa các nhóm dân cư và vùng lãnh thổ trong nước.
2.4. Chỉ tiêu ngoại hối ròng (tiết kiệm ngoại tệ)
Xác định mức tiết kiệm ngoại tệ của dự án cho biết mức độ đóng góp của dự án vào cán cân thanh toán của nền kinh tế đất nước.
n-1
Công thức: P(FE) = ồ P(FE)ipv
i=0
Trong đó:
P(FE): Tổng chênh lệch thu, chi ngoại tệ cả đời dự án tính theo mặt bằng thời gian ở hiện tại.
i = 0, 1, 2,..., n-1: Các năm của đời dự án.
Nếu P(FE) > 0 là dự án có đóng góp tích cực làm tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước.
Nếu P(FE) < 0 là dự án có tác động tiêu cực làm giảm nguồn ngoại tệ của đất nước.
2.5. Chỉ tiêu khả năng cạnh tranh quốc tế.
Chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm do dự án sản xuất ra trên thị trường quốc tế. Nó so sánh số ngoại tệ tiết kiệm với giá trị các đầu vào trong nước.
n-1
Công thức: ồ P(EF)ipv
i=0
IC = ắ-----------
n-1
ồDRipv
i=0
Trong đó:
IC: Chỉ tiêu biểu thị khả năng cạnh tranh quốc tế.
DR: Các đầu vào trong nước dùng để sản xuất sản phẩm xuất khẩu hoặc thay thế nhập khẩu.
i = 0, 1, 2, ..., n - 1: Các năm của đời dự án.
P(FE): Như trên
Nếu tỷ số này > 1 là sản phẩm của dự án có khả năng cạnh tranh quốc tế.
Nếu tỷ số này < 1 là sản phẩm của dự án không có khả năng cạnh tranh quốc tế.
V. Kinh nghiệm về thu hút FDI từ Liên minh Châu Âu của một số nước
Trung Quốc:
Trung Quốc có quan hệ ngoại giao với một số nước thành viên của cộng đồng kinh tế Châu Âu (tiền thân của liên minh Châu Âu) từ thập kỷ 60. Trên cơ sở bang giao chính thức, quan hệ mậu dịch và hợp tác kinh tế giữa Trung Quốc với cộng đồng kinh tế Châu Âu đã được triển khai ngay sau thời gian đó. Khi ấy quan hệ Trung Quốc và Liên Xô đang xấu đi nghiêm trọng, quan hệ Trung Quốc - Nhật Bản chưa được bình thường hoá, còn Mỹ đang thi hành chính sách cô lập Trung Quốc về chính trị, bao vây phong toả và cấm vận về kinh tế. Trong tình hình đó Trung Quốc chỉ còn cách phát triển quan hệ mậu dịch và hợp tác kinh tế với một số nước thành viên cộng đồng kinh tế Châu Âu, là những nước tư bản có trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến thời bấy giờ. Giới nghiên cứu kinh tế của Trung Quốc đều nhất trí cho rằng: Trong thập kỷ 60 và mấy năm đầu của thập kỷ 70, các thành viên của cộng đồng kinh tế Châu Âu là nguồn cung cấp chủ yếu nhất về những hạng mục kỹ thuật đồng bộ, cần thiết cho sản xuất và xây dựng đất nước Trung Quốc thời bấy giờ. Những quốc gia này cũng là bạn hàng mậu dịch lớn thứ hai của Trung Quốc trong những năm đó.
Trung Quốc đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng đồng kinh tế Châu Âu vào tháng 5 năm 1975. Tháng 4 năm 1978, Trung Quốc và Cộng đồng kinh tế Châu Âu chính thức ký kết hiệp định mậu dịch song phương. Đây là cột mốc đánh dấu việc chính quy hoá và thể chế hoá quan hệ mậu dịch và hợp tác kinh tế giữa hai bên.
Ngoài trao đổi thương mại và chuyển giao kỹ thuật cho Trung Quốc, từ sau năm 1978, nhiều nước thành viên EU cũng đã triển khai hoạt động đầu tư trực tiếp vào Trung Quốc. Trong thời gian từ năm 1979 đến cuối thập kỷ 80, đầu tư trực tiếp của EU vào Trung Quốc chưa nhiều. Từ năm 1979 đến năm 1990, khoảng 12 năm, tổng số vốn đầu tư trực tiếp của các nước EU vào Trung Quốc mới chỉ khoảng 2.495 triệu USD, tính bình quân mỗi năm khoảng 200 triệu USD. Nhưng bắt đầu từ đầu thập kỷ 90 trở lại đây vốn đầu tư có xu hướng tăng mạnh: năm 1991 là 750 triệu USD gấp 3,5 lần so với những năm trước đó; năm 1993 tăng vọt lên đến 3040 triệu USD với 1543 hạng mục đầu tư. Theo tư liệu do Trung Quốc công bố, tính đến tháng 9 năm 1995, các nước trong EU đã đầu tư vào Trung Quốc tất cả là 5499 hạng mục công trình lớn nhỏ khác nhau, với số tiền vốn đăng ký là 17,1 tỷ USD, trong đó có 5,3 tỷ USD đã được sử dụng. Trong nhiều thành phố lớn, đặc khu kinh tế, khu phát triển của Trung Quốc, như Bắc Kinh, Phố Đông, Thượng Hải, Sơn Đông, Quảng Châu, Thẩm Quyến, v.v... người ta đều thấy có hạng mục đầu tư trực tiếp của nhiều nước EU. Một số xí nghiệp liên doanh giữa Trung Quốc với EU sản xuất kinh doanh rất có hiệu quả, được tín nhiệm ở Trung Quốc, như nhà máy chế tạo xe hơi đại chúng và nhà máy sản xuất kính Diệu Hoa ở Thượng Hải, công ty trách nhiệm hữu hạn điện thoại liên doanh với Bỉ, v.v... giữa Trung Quốc với nhiều nước EU cũng đã ký kết hiệp định bảo hộ đầu tư và hiệp định tránh đánh thuế hai lần, nhằm đảm bảo lợi ích cho người đầu tư, thúc đẩy EU đầu tư nhanh và hiệu quả hơn nữa vào Trung Quốc. Mặc dù, hiện nay đầu tư của các nước EU vào Trung Quốc còn chưa nhiều bằng đầu tư của Hồng Kông, Mỹ và Nhật Bản ở Trung Quốc, nhưng tiềm lực của EU còn rất lớn, khả năng mở rộng đầu tư của họ vào Trung Quốc còn rất nhiều.
2. Một số nước ASEAN (Malaysia, Indonesia, Thailand)
Các nhà đầu tư Châu Âu đã có mặt ở Đông Nam á từ thời thực dân. Sau khi giành được độc lập, các nước ASEAN hoan nghênh sự có mặt tiếp tục của họ trong khu vực ASEAN. Các nước ASEAN xem đầu tư của Châu Âu như một trong những nguồn tư bản quan trọng mà họ có thể huy động cho sự nghiẹep công nghiệp hoá của đất nước họ. Hơn nữa, ASEAN cần tăng thêm dòng đầu tư của EU để cân bằng với ưu thế đang tăng lên của vốn đầu tư từ Mỹ và Nhật Bản. Tuy nhiên, trong thực tế vai trog của vốn đầu tư Châu Âu trong các nền kinh tế ASEAN đã dần dần giảm xuống. Từ năm 1970, EC đã tụt lại đằng sau Mỹ và Nhật trong việc đầu tư vào các nền kinh tế ASEAN. Và một lần nữa đầu tư trực tiếp của EC ở các nước ASEAN lại giảm xuống từ nửa sau những năm 80.
Hiện nay, đầu tư của EU thấp hơn đầu tư của các nước Công nghiệp mới ở Châu á. Trong tất cả khu vực chế tạo của ASEAN, Mỹ và Nhật Bản là các nhà đầu tư hàng đầu. Tuy nhiên, vị trí đầu tư trực tiếp của EU ở các nước ASEAN thay đổi từ nước này sang nước khác. Vào năm 1990, EU là nhà đầu tư lớn nhất ở Philippin với tổng số vốn là 327,89 triệu USD. EU chiếm vị trí hàng đầu trong số các nhà đầu tư nước ngoài ở Indonesia vào năm 1993. Vào năm đó, tổng số vốn đầu tư được phê chuẩn của EU ở Indonesia là 905,5 triệu USD so với 836,1 triệu USD của Nhật, 661,4 triệu USD của Hàn Quốc và 444,5 triệu USD của Mỹ. Trong số các nhà đầu tư Châu Âu có mặt tại Indonesia, Hà Lan đứng thứ nhất với tổng số vốn được phê chuẩn váo năm 1993 là 311,4 triệu USD; Đức đứng hàng thứ hai với tổng số vốn được phê chuẩn là 120,6 triệu USD.
Nước Anh chiếm vị trí hàng đầu ở Singapore vào năm 1994 với tổng số vốn FDI được phê chuẩn là 427,9 triệu USD. Tuy nhiên, ở Malaysia nước Anh chỉ chiếm vị trí thứ ba; Đan Mạch , Hà Lan chiếm vị trí hàng đầu và thứ hai với tổng số vốn là 92,46 triệu USD và 24,66 triệu USD so với 14,11 triệu của Anh.
ở Thái Lan, nhà đầu tư Châu Âu lớn nhất là Anh với tổng số vốn được phê chuẩn là 860,5 triệu USD, tiếp theo là Hà Lan: 248,1 triệu USD và Pháp với 120,8 triệu USD.
Các nhà đầu tư Đức chiếm vị trí khiêm tốn trong tất cả các nước ASEAN. Họ đứng hàng thứ ba ở Philippine vào năm 1991 và đứng hàng thứ năm ở Thái Lan. Tạo Việt Nam, Đức đứng hàng thứ tư trong số các nhà đầu tư Châu Âu. Đầu tư Châu Âu được tập trung vào khu vực chế tạo và ngân hàng của ASEAN.
Tổng số vốn FDI mà Việt Nam thu hút được từ Châu Âu so với các nước ASEAN trên thật bé nhỏ. Vì vậy nghiên cứu những kinh nghiệm thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài (t._.việc thực hiện vốn đầu tư đã cam kết. Tuy vậy, chúng ta cũng không thể phủ nhận sự gia tăng đầu tư của EU ở Việt Nam về mặt giá trị khối lượng nhưng so voứi Mỹ, Nhật Bản và các nước Nies Châu á thì EU đứng hàng thứ 4.
Các dự án tăng hàng năm của EU có quy mô vốn đầu tư bình quân một dự án tăng so với các dự án trước nhưng vẫn thấp so với bình quân chung. Về hình thức đầu tư, lúc đầu có xu hướng chọn hình thức liên doanh vì nhiều lý do như chưa có sự hiểu biết nhiều về thủ tục hành chính, phong cách làm việc của Việt Nam cũng như phong tục tập quán ở đây... Hơn nữa thế mạnh của các nhà đầu tư EU là công nghệ, vốn, kỹ thuật... còn Việt Nam là đất, mặt bằng, nhà xưởng. Nhưng sau một thời gian hoạt động các công ty EU đã chuyển sang hình thức 100% vốn nước ngoài. Phần lớn các dự án đều tập trung ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa-Vũng tàu.
Lĩnh vực được các nhà đầu tư EU đặc biệt quan tâm là công nghiệp dầu khí. Cho đến nay, trong tổng số những hợp đồng thăm dò, khai thác dầu khí ở Việt Nam thì một nửa thuộc về các nhà đầu tư EU là những tập đoàn nổi tiếng thế giới như Tập đoàn BP (Anh), Shell (Hà Lan), Total (Pháp), Fina (Bỉ), OMN (áo).
Nhìn chúng các nhà đầu tư của EU có mặt tại Việt Nam là sớm nhưng không ổn định và chưa xứng với tiềm lực kinh tế của các nước này. Ngoại trừ Pháp, Anh, Hà lan, CHLB Đức, Thuỵ Điển là những nước có nhiều dự án đầu tư, còn lại những nước khác mới chỉ có những dự án “thăm dò” với quy mô nhỏ.
2. Những nguyện nhân gây cản trở đến hoạt động đầu tư của EU tại Việt Nam
Xét về phía Liên minh Châu Âu, các nhà đầu tư EU chưa chú ý nhiều lắm đến công nghiệp sản xuất hàng hoá, trong khi đó các nhà đầu tư tại Châu á lại quan tâm. Các doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ, mô hình phát triển năng động nhất trong nền kinh tế Châu Âu chưa tìm được chỗ đứng cho mình tại thị trường Việt Nam. Do các công ty vừa và nhỏ của EU chưa thích nghi với thị trường, cung cách hoạt động kinh doanh cũng như phối hợp điều hành tại các liên doanh ở Việt Nam nên gặp nhiều khó khăn.
Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khác gây cản trở đến hoạt động đầu tư trực tiếp của EU tại Việt Nam. Đó là:
Thứ nhất, các nhà đầu tư EU thích đầu tư vào các nền kinh tế bên trong EU hơn là đầu tư vào các nền kinh tế của các nước bên ngoài Cộng đồng. Thêm nữa, sau khi các nước Đông Âu thi hành chính sách mở cửa và thực hiện kinh tế thị trường, các nhà đầu tư của Liên minh Châu Âu đã nhìn thấy ở các nước này những cơ hội đầu tư tốt hơn các cơ hội mà ASEAN và Việt Nam có thể cung cấp cho các hoạt động kinh doanh của họ.
Thứ hai, các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng đã mất đi những lợi thế so sánh do sự xuất hiện các thị trường đầu tư mới ở Châu á, đặc biệt là Trung Quốc.
Cuối cùng là sự có mặt của Nhật Bản có thể có ảnh hưởng cản trở đối với các nhà đầu tư EU. Số vốn đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam chiếm 11% trên tổng số vốn đầu tư của các nước tại Việt Nam. Hơn nữa, Nhật bản cũng là nước cung cấp vốn ODA lớn nhất cho Việt Nam.
Về phía Việt Nam, thủ tục hành chính là trở ngại lớn nhất đồng thời là khâu làm tổn hại đến môi trường đầu tư ở Việt Nam trong những năm qua. Để hình thành một dự án đầu tư phải có hàng chục loại giấy tờ và lệ phí cho các khâu: xin thị thực nhập cảnh, tìm hiểu đối tác lập dự án kinh doanh, xin giấy phép, duyệt đồ án thiết kế, xin cấp đất, nhập khẩu thiết bị hàng hoá... Nhiều loại thủ tục chưa được quy định rõ ràng không nhất quán và không ổn định như thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu, thời gian thẩm định dự án ở cấp Trung Ương, những điều khoản không cần thiết trong mẫu hồ sơ dự án. Các nhà đầu tư than phiền là họ tốn quá nhiều thời gian để được thông qua dự án ở cấp địa phương, trước khi hồ sơ của họ được nộp lên Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư. Hơn nữa, việc phân cấp lại chưa rõ ràng, chưa xác định ranh giới giữa trung ương và địa phương dẫn đến tình trạng buông lỏng và trùng chéo nhau trong quản lý kèm theo các ý kiến xử lý rất khác nhau giữa các cấp quản lý.
Bên cạnh đó còn có một số vướng mắc khác. Đó là cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn yếu kém trong khi nguồn vốn lại hạn hẹp, Việt Nam còn thiếu đội ngũ công nhân lành nghề, phần lớn mới tốt nghiệp phổ thông trung học, chưa quen với nền văn hoá công nghiệp, cán bộ quản lý thiếu và năng lực yếu, do đó chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp nước ngoài. Thêm vào đó, ở Việt Nam tệ quan liêu, tham nhũng còn khá phổ biến và đây là một nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch lớn giữa cam kết đầu tư đã được thực hiện.
Theo ông David Fall, đại sứ liên hiệp các Vương quốc Anh và bắc Ailen, cho rằng: “các nhà đầu tư không hài lòng trước sự chậm trễ trong quá trình ra quyết định của Việt Nam, thêm vào đó là sự phức tạp quan liêu gây ra cùng nhiều luật lệ được ban hành nhưng không được thực hiện. Ngoài ra hạ tầng cơ sở ở Việt Nam chưa phát triển đầy đủ khiến các nhà đầu tư kém nhiệt tình hơn, Việt Nam còn thiếu thị trường chứng khoán, hệ thống ngân hàng và bảo hiểm chưa được hoàn thiện.”
Còn các doanh nghiệp Pháp thì cho rằng: “Công việc kinh doanh ở Việt Nam còn đặt ra khá nhiều thử thách và rủi ro. Môi trường luật pháp chưa thật hoàn chỉnh và thường thay đổi, hệ thống những quy định và chế độ quan liêu phiền hà, những khuyết tật lạnh lùng trong cung cách làm việc của cấp cơ sở...” Đây là những trở ngại rất lớn đối với việc đầu tư của các doanh nghiệp EU vốn quen hoạt động trong một môi trường quy củ với những luật chơi chặt chẽ, bài bản và xa lạ với tập quán kinh doanh đầy bất trắc ở Việt Nam.
Chính những lý do trên đã hạn chế việc vận động và kêu gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và của EU nói riêng. Mặc dù Nhà nước Việt Nam đã cả nhiều đoàn tham dự các diễn đàn về đầu tư ở Pháp, Nhật, Mỹ... nhưng cho đến nay vẫn chưa có nguồn đối tác đầu tư với số vốn lớn.
Ngoài ra còn có sự cạnh tranh của các đối thủ mạnh trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Malaysia... làm cho việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp của EU vào Việt Nam càng trở nên khó khăn hơn. Do môi trường đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam còn chưa hấp dẫn, chưa có tính cạnh tranh cao và còn mang tính rủi ro. Đặc biệt do tác động của cuộc khủng hoảng khu vực Châu á (năm 1997) và đồng tiền của nhiều nước bị mất giá, nên lợi thế cạnh tranh của Việt Nam đang giảm mạnh. Nhiều lĩnh vực đầu tư có sức hấp dẫn, nhưng vào thời điểm hiện nay đã và đang bão hoà (khách sạn, văn phòng cho thuê, chất tẩy rửa, mía đường, hàng điện tử gia dụng, sản xuất sắt thép, ...) .
Đối với các nhà đầu tư động lực của họ là lợi nhuận và nhằm vào thị trường nội địa, nhưng quy mô của thị trường Việt Nam còn nhỏ bé, tuy dân số gần 80 triệu người nhưng sức mua thấp. Đồng thời các chính sách của Việt Nam lại khuyến khích xuất khẩu với nhiều sản phẩm sản xuất được trong nước nên chỉ cấp giáy phép đầu tư nếu mức xuất khẩu đạt 80% trở lên (QĐ 229 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
ở các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mâu thuẫn trong quan hệ giữa lao động Việt Nam và chủ đầu tư có xu thế gia tăng. Một số nhà đầu tư không chấp hành luật đầu tư Việt Nam, không tôn trọng truyền thống văn hoá Việt Nam, làm ăn theo kiểu chỉ chú trọng cái lợi trước mắt chứ không tính đến lâu dài. Sự khác biệt về văn hoá và các quan niệm về giá trị giữa người Châu Âu và Châu á cũng là trở ngại của EU đầu tư vào Việt Nam so với các nước Châu á khác đầu tư vào Việt Nam...
Những lý do trên đã và đang tiếp tục cản trở luồng vốn đầu tư trực tiếp của EU vào Việt Nam. Do đó Việt Nam cần phải có những giải pháp kịp thời nhằm khắc phục các tồn tại trên nhằm nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư của EU vào Việt Nam.
II. Triển vọng hợp tác đầu tư trực tiếp Việt Nam - eu
1. kinh tế Châu Âu
Ngày 14/04/2000, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương Đức Bundesbank, ông Ernst Welteke cho rằng lãi suất cao do Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) vừa công bố không kìm hãm tốc độ phát triển kinh tế của 11 nước thuộc khu vực sử dụng đồng Euro, sự thanh toán qua đồng tiền chung Châu Âu vẫn mạnh. Mặc dù ECB đã ba lần thắt chặt các điều kiện tín dụng ở khu vực sử dụng đồng EURO kể từ tháng 11/1999 nhằm tránh nguy cơ bùng nổ lạm phát do giá dầu trên thế giới tăng và đồng EURO mất giá. Lãi suất của khu vực sử dụng đồng EURO hiện nay cao hơn hồi tháng 11/1999, nhưng lãi suất tái cấp vốn chủ chốt hiện nay ở mức 3,5% so với 2,5% trước đây.
Các nhà phân tích kinh tế lạc quan nói rằng xu hướng đi lên của nền kinh tế Châu Âu vẫn tiếp tục. Chủ tịch ECB - Wim Duisenberg nói: “Nhìn lại hơn một năm sau khi đồng EURO ra đời, chúng ta có những lý do để hài lòng”. Ngân hàng này chủ yếu đã đạt được mục tiêu của mình là ổn định giá cả, với tỷ lệ lạm phát của khu vực sử dụng đồng EURO chỉ hơn 1% trong năm 1999. Ông Wim Duisenberg nói: “Việc giá cả có thể được ổn định ở khu vực sử dụng đồng EURO là một thành tựu không thể đánh giá thấp”. Theo ông, ECB sẽ tiếp tục giải thích tầm quan trọng của mục tiêu hàng đầu của khu vực sử dụng đồng tiền chung là duy trì ổn định giá cả và sẽ tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ hợp lý.
Dự báo kinh tế cảu Uỷ ban Châu Âu (EC), mức tăng trưởng kinh tế trong khu vực đồng EURO cũng như trong 15 nước EU có thể đạt 3,4% năm 2000 và 3,1% trong năm 2001. Mức tăng trưởng kinh tế của Đức và Pháp, hai nước có nền kinh tế lớn nhất trong khu vực đồng tiền chung Châu Âu lạc quan hơn nhiều so với dự kiến năm ngoái.
GDP của Pháp năm 2000 sẽ tăng 3,7% và năm 2001 sẽ tăng 3,2% so với 2,9% của dự đoán năm ngoái. Theo Viện thống kê quốc gia Pháp (INSEE), việc tạo thêm được nhiều chỗ làm việc trong 6 tháng đầu năm nay sẽ giúp giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống còn 10% vào giữa năm 2000.
GDP của Đức trong năm 2000 dự kiến tăng 2,9% so với 2,6% và sẽ tăng 2,7% vào năm 2001. Báo Berlin ra ngày 14/04/2000 cho biết 6 viện nghiên cứu kinh tế hàng đầu của Đức nhận xét rằng kinh tế nước này năm nay và năm 2001 sẽ đạt mức tăng trưởng 3%, số người thất nghiệp giảm xuống còn 3,8 triệu người vào cuối năm nay...
Kim ngạch xuất khẩu của EU trong năm 2000 có thể tăng 8,6%, mức tăng cao nhất kể từ năm 1997. Lạm phát trong khu vực sử dụng đồng EURO có xu hướng tăng trong mấy tháng vừa qua do giá dầu tăng, nhưng sẽ ổn định ở mức 1,8% trong năm nay, dưới mức 2% do ECB đặt ra nhằm ổn định giá cả.
Các nhà kinh tế chỉ trích việc tăng lãi suất lại nói rằng với việc thắt chặt các khoản tiền lương, ECB sẽ cản trở sự phục hồi kinh tế trong khu vực. IMF đã cảnh cáo rằng ECB nên thận trọng không kìm hãm kinh tế của khu vực đồng EURO bằng cách nâng laĩ suất quá nhanh. Trong khi Ecb cần duy trì mục tiêu chống lạm phát, thì điều quan trọng hiện nay là trnáh cản trở sự tiếp tục phục hồi kinh tế thông qua việc thắt chặt chính sách tài chính.
Thất nghiệp và tình trạng nhập siêu trong buôn bán vẫn là hai vấn đề đau đầu đối với các nhà hoạch định chính sách kinh tế EU. Tuy trong 12 tháng qua tình trạng thất nghiệp tại 15 nước EU có giảm chút ít. Tỷ lệ này ở Hà Lan giảm từ 3,8% xuống còn 2,7% và ở Ailen giảm từ 6,4% xuống còn 5,1%. Nhưng theo cơ quan thống kế EU (EUROSTAT), trong tháng 2 năm 2000, tỷ lệ thất nghiệp khu vực sử dụng đồng EURO vẫn ở mức 9,5% như tháng 1, so với mức 10,3% của cùng kỳ năm ngoái. Hiện còn khoảng 12,4 triệu người thất nghiệp trong khu vực sử dụng đòng EURO và tính trong cả 15 nước thành viên EU thì có đến 15 triệu người thất nghiệp. Tây Ban Nha có tỷ lệ người thất nghiệp cao nhất là 15,2%.
Cũng theo EUROSTAT, kim ngạch ngoại thương của EU trong tháng 1/2000 thâm hụt 12,3 tỷ EURO (11,8 tỷ USD), riêng 11 nứơc khu vực sử dụng đồng EURO nhập siêu 3,8 tỷ EURO (3,65 tỷ USD)....
Nhận xét về hiện trạng kinh tế khu vực sử dụng đồng EURO, ông Ernst Welteke, Chủ tịch ngân hàng Trung ương Đức nói do sức ép lạm phát còn dai dẳng nên hãy còn quá sớm để có chủ trương tăng thêm lãi suất. Những nguy cơ lạm phát xuất hiện chủ yếu do giá dầu mỏ tăng mạnh và giá nhập khẩu hàng hoá từ khu vực khác vào EU tăng vì đồng EURO mất giá mạnh so với đồng USD vàđồng Yên Nhật. Ngoài ra còn có những yếu tố khác ảnh hưởng đến đồng EURO nằm trong chính khu vực này, như việc cải cách cơ cấu kinh tế, những bất ổn về chính trị, sự bất ổn trong vấn đề mở rộng Liên minh Châu Âu....
2. Triển vọng hợp tác đầu tư Việt Nam - EU
Muốn đánh giá triển vọng đầu tư trực tiếp của Liên minh Châu Âu vào Việt Nam, chúng ta phải xem xét đến hiệu quả, lợi ích về kinh tế và chính trị dưới tác động của các nhân tố như tiềm năng tăng trưởng, bầu không khí đầu tư, khả năng tiếp cận thị trường, việc cung cấp nguyên vật liệu, những rủi ro về kinh tế và chính trị ... của Việt Nam.
Khác với mục đích đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản chủ yếu là nhằm vào chi phí lao động, phần lớn đầu tư cảu EU nhằm khai thác thị trường của nước ngoài. Đối với các nhà đầu tư của EU, thị trường được coi là nhân tố quan trọng nhất khi quyết định thâm nhập vào nền kinh tế của các nước khác. Dưới con mắt của các nhà đầu tư EU, Việt Nam không được coi là thị trường rộng lớn xét theo sức mua của nó. Về thị trường tiêu thụ sản phẩm của EU, Việt Nam rộng mở đối với hàng của EU nhưng kém khả năng thanh toán. Các nước công nghiệp phát triển (ngoài EU) là thị trường rất khó giành giật nhưng có khả năng thanh toán và trước mắt vẫn giữ vị trí quan trọng. Trong số đó EU nhằm vào Mỹ và Nhật Bản, với mục tiêu là nếu không lấn được sâu vào thị trường này thì ít ra cũng giữ được thăng bằng cán cân thanh toán và cán cân thương mại. Ngoài ra, Trung Quốc hiện nay đã trở thành thành viên đối thoại của ASEAN cũng như của Việt Nam cho nên Trung Quốc sẽ không hài lòng với một địa vị thấp hơn địa vị của Mỹ, EU, Nhật Bản trong quan hệ với Việt Nam.
Các nước Eu có thế mạnh trong các ngành chế tạo máy, phương tiện vận tải, kỹ thuật điện, ngành công nghiệp chế biến khác. Song thị trường tiêu thụ các mặt hàng này ở Việt Nam còn ít. Các chuyên gia kinh tế phương Tây cho rằng, hiện nay chưa có dấu hiệu về việc Việt Nam trở thành thị trường xuất khẩu máy móc, thiết bị quan trọng của EU trong những năm tới.
Như vậy, thách thức mà EU phải đương đầu trong chiến lược chiếm lĩnh thị trường là rất lớn. Triển vọng hợp tác Việt Nam - EU phụ thuộc vào khả năng vượt qua được những thách thức đó của EU hay không. Nhưng mặt khác để tăng cường hợp tác Việt Nam - EU, Eu cần tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tăng cường sự có mặt của Việt Nam về kinh tế và vị thế ở Liên minh Châu Âu.
Nhất là sự ra đời của đồng tiền chung Châu Âu (Euro) vào ngày 01/01/1999 đã mở đầu cho quá trình liên kết kinh tế khu vực chặt chẽ và toàn diện. Quá trình liên kết kinh tế đã làm tăng xu thế khu vực hoá và gây ra những biến đổi lớn trong nền kinh tế thế giới. Việc hình thành một thị trường thống nhất Châu Âu rộng lớn, không biên giới đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến thương mại thế giới, sẽ xuất hiện xu hướng co cụm làm thay đổi các luồng đầu tư, sự hợp tác nội bộ trong khối nhiều hơn và xu hướng bảo hộ mậu dịch sẽ có thể tăng lên. EU mở rộng mậu dịch trong khối và như vậy một số hàng hoá vốn nhập từ các nước ngoài khối (nhất là các nước đang phát triển) sẽ được thay thế bởi hàng hoá nhập ngay từ các nước trong khối.
Điển hình là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, tuy là hai nước có trình độ phát triển thấp hơn so với các nước khác trong EU và đòi hỏi có sự trợ giúp về vốn nhưng cũng có những lợi thế hơn hẳn so với Việt Nam như cơ cấu hạ tầng rất phát triển, tình hình chính trị khá ổn định và gần gũi với các nước thành viên khác của EU về mặt lãnh thổ cũng như văn hoá. Chính vì vậy mà Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã trở thành nơi đầu tư lý tưởng đối với các công ty của EU và có sức cạnh tranh rất lớn với Việt Nam. Trong khi đó cơ sở hạ tầng của Việt Nam đã có những cải biến căn bản với chính sách mở để thu hút đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn còn duy trì một số quy định làm hạn chế sự quan tâm đầu tư của nước ngoài như giới hạn mức vốn đối với công ty nước ngoài hoặc đòi hỏi về sự gia tăng bắt buộc của công ty địa phương trong sở hữu và hoạt động của công ty có vốn đầu tư nước ngoài.
Đặc biệt, từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, quan hệ kinh tế Đông-Tây chuyển từ đối đầu sang hợp tác và tương trợ. Các nước Đông-Tây và SNG phá bỏ các quan hệ truyền thống trong khuôn khổ Hội đồng tương trự kinh tế, thiết lập quan hệ chặt chẽ hơn với tất cả các nước trong EU. Các nước này đang dần từng bước đi vào quá trình nhất thể hoá kinh tế Châu Âu, mở rộng thị trường chung đi thu hút đầu tư từ EU giúp cho sự tăng trưởng kinh tế. Điều này cho thấy hiện nay EU đang quan tâm đến các nước trong nội bộ EU và các nước SNG của Đông Âu nhiều hơn là đến các nước Châu á nói chung cũng như Việt Nam nói riêng.
Một vấn đề không kém phần quan trọng là trong những năm gần đây, cuộc cạnh tranh kinh tế - kỹ thuật giữa Mỹa, Nhật Bản và các nước EU trở nên gay gắt và ác liệt. Xu hướng liên kết các khu vực ngoại vi vào các trung tâm sức mạnh trở nên ráo riết do đó các chính sách bảo hộ khối ra đời nhanh chóng. Trước tình thế đó các công ty xuyên quốc gia ở các trung tâm vỗi vã đầu tư vào nhằm đưa các chi nhánh của mình nằm sâu trong các thị trường kỹ thuật cao để tránh các đòn thuế quan nặng nề trước khi các tập đoàn Bắc Mỹ và Tây Âu khép lại. Các công ty xuyên quốc gia phương tây đua nhau đầu tư và lập nhà máy ở những nơi này. Đó cũng là một trong những nguyên nhân làm cho đầu tư của EU vào Việt Nam có phần giảm sút, trong khi đó đầu tư của EU vào các nước công nghiệp phát triển có chiều hướng tăng lên. Ngày nay chi phí lao động thấp không còn là yếu tố quyết định đến đầu tư nước ngoài nữa. Sự ổn định tương đối của nền kinh tế các nước công nghiệp phát triển, khả năng phát triển mạnh các ngành công nghiệp kỹ thuật cao và sự hoàn thiện các ngành công nghiệp phụ trợ như thông tin hiện đại, mạng lưới giao thông phát triển và lao động lành nghề ở các nước này đã trở thành những nhân tố hấp dẫn hơn đối với đầu tư nước ngoài.
Do vậy, để thu hút được vốn đầu tư, kỹ thuật từ EU, Việt Nam cần phải có cơ sở hạ tầng vững mạnh, sự ổn định kinh tế vĩ mô, cạnh tranh và môi trường ổn định cho hoạt động kinh doanh và đầu tư, phải tranh thủ chớp lấy thời cơ từ cuộc cạnh tranh giữa Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu để thu hút được nhiều đầu tư của EU.
Với việc ký kết Hiệp định khung năm 1995 và Hiệp định hợp tác Việt Nam - EU giai đoạn 1996-2000 đã mở ra triển vọng cho mối quan hệ ngày càng vững chắc và toàn diện hơn giữa EU và Việt Nam. Đặc biệt là với sự cởi mở và thông thoáng của Luật đầu tư nước ngoài Việt Nam vừa mới được bổ sung sửa đổi vào tháng 01/1996 và chuẩn bị tới đây là 01/07/2000 sẽ áp dụng Luật đầu tư nước ngoài mới, các chính sách ưu đãi khuyến khích đã và đang từng bước được điều chỉnh để làm tăng tính hấp dẫn.
Bên cạnh đó Việt Nam là một nước đông dân (khoảng 80 triệu người), có trình độ giáo dục cao và các điều kiện về phúc lợi xã hội, chăm sóc y tế là tốt nhất trong các nước có cùng trình độ phát triển. Trong những năm gần đây Việt Nam đã đạt được một số thành tựu kinh tế đáng khâm phục, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 8-9% trong đó tốc độ phát triển công nghiệp đạt 14%. Nếu duy trì tốc độ này thì có thể đẩy nhanh mức thu nhập của nhân dân từ đó làm tăng sức mua, khi đó Việt Nam được xem là thị trường có sức tiêu thụ hàng hoá tương đối lớn. Việt Nam có nhiều tiềm năng về lao động, đất đai và tài nguyên thiên nhiên sẽ trở thành một địa chỉ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Ngày nay với sự phát triển nhanh chóng của tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ trên thế giới đã tạo điều kiện thuận lợi và lôi kéo các nước tham gia ngày càng mạnh mẽ vào quỹ đạo của sự phát triển. Đặc biệt là khu vực Châu á đang nổi lên làn sóng phát triển công nghệ kỹ thuật và Việt Nam đang được cuốn theo làn sóng đó.
Nhìn chung tiềm năng về sản xuất công nghiệp của Việt Nam là rất lớn, hiện tại sản xuất nông nghiệp tạo ra gần 1/3 GDP, khu vực này thu hút 2/3 lực lượng lao động xã hội. Sản lượng thực hiện hiện nay đạt hơn 30 triệu tấn và có thể tăng hơn nữa nếu có sự đầu tư về giống, phân bón, thuốc trừ sâu... và cải thiện các điều kiện bảo quản, chế biến và vận chuyển sau thu hoạch. Cùng với sản xuất nông nghiệp là những khả năng khai thác rừng, biển còn rất lớn.
Một số thuận lợi cho việc thúc đẩy hợp tác đầu tư giữa Việt Nam và EU đó là EU đang chú ý hợp tác với Châu á, trong đó đã hình thành diễn đàn á - Âu (họp lần 1 ở Băng cốc, lần 2 ở Luân Đôn, lần thứ 3 ở Hàn Quốc). Các nước EU có quan hệ sớm với Việt Nam và có kinh nghiệm đầu tư ở Việt Nam.
Ước tính trong vài năm tới Việt Nam sẽ thu hút khoảng 13 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó dự kiến nguồn vốn FDI của EU vào khoảng 5-7 tỷ USD. Tuy vậy, để đạt được những mục tiêu trên thì Việt Nam phải có những giải pháp kịp thời để nâng cao khả năng thu hút đầu tư trực tiếp của EU vào Việt Nam.
III. các giải pháp
Sự hợp tác đầu tư của Việt Nam và EU trong những năm qua đã có những bước phát triển mới. Đó là kết quả Việt Nam đã xây dựng được mối quan hệ hợp tác truyền thống tốt đẹp với từng nước thành viên EU. Giờ đây mối quan hệ này sẽ là nền tảng vững chắc để Việt Nam ngày càng gắn bó hơn với từng nước thành viên EU. Và để tăng cường hơn nữa mối quan hệ này Việt Nam cần phải có những giải pháp cụ thể như sau:
Trước hết là về khuôn khổ pháp lý và thủ tục hành chính vốn được coi là điều kiện tiên quyết để thu hút vốn đầu tư nước ngoài mặc dù cùng với bộ luật đầu tư, Việt Nam đã có cả một hệ thống văn bản dưới luật hướng dẫn cụ thể, song vẫn phải tiến hành sửa đổi bổ sung hơn nữa. Đồng thời làm rõ các quy định hiện nay nhằm bảo đảm thống nhất đồng bộ của hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài. Đặc biệt là việc đơn giản hoá hơn các thủ tục hành chính xây dựng một hành lang pháp lý ổn định. Cần phải có nhiều nỗ lực hơn nữa để hạn chế và xoá bỏ các quy tắc, thủ tục phức tạp gây phiền hà cho quan hệ hợp tác giữa hai bên. Hoàn thiện bộ máy hoạt động đầu tư trực tiếp từ Trung ương đến địa phương, có phân cấp rõ ràng giữa Trung ương và địa phương giữa các Bộ, ngành...
Mặt khác, cần liên tục hoàn thiện và xúc tiến ký kết các HIệp định đã được hai bên bàn bạc và cùng với việc tiếp tục triển khai những HIệp định mới. Bên cạnh đó phải triển khai có hiệu quả các dự án đã ký kết và tăng cường công tác xúc tiến đầu tư thông qua triển lãm, hội chợ, tạo điều kiện để các nhà đầu tư có dịp tiếp xúc và hiểu nhau.
Về môi trường kinh doanh trong nước, để có môi trường kinh doanh lãnh mạnh trong nước bao gồm đầy đủ những điều kiện cho sự phát triển của một thị trường hoàn hảo cần phải thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của các thị trường chứng khoán, tiền tệ và đào tạo. Các nhà doanh nghiệp có trình độ kinh doanh giỏi và đội ngũ công nhân lành nghề... Để có được một môi trường kinh doanh thích hợp, Việt Nam cần xây dựng và ban hành các Luật về từng loại thị trường tiếp tục đường lối cải cách kinh tế.
Việc cung cấp thông tin, phổ biến thực hiện các văn bản pháp quy còn hạn chế. Vì vậy nhiều cơ quan cấp dưới chính quyền địa phương các cấp không nắm vững kịp thời các chính sách và quy định của Nhà nước đã xử lý tuỳ tiện các vụ việc liên quan đến xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đôi khi có những yêu cầu, đòi hỏi không chính đáng.
Việt Nam chưa có biện pháp hữu hiệu cung cấp kịp thời thông tin về tình hình đầu tư nói chung và hướng dẫn thực hiện các quy định của Nhà nước do đó có những nhà đầu tư không nắm vững tình hình, yêu cầu của pháp luật nên đã vi phạm trong điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
Từ tình hình trên, nhiều nhà đầu tư đề xuất nên tổ chức thành lập “câu lạc bộ các nhà đầu tư” để thường xuyên được trao đổi và phổ biến các quy định mới của Nhà nước ta, được học tập kinh nghiệm quản lý của các đơn vị khác.
Có thể nói tiềm năng trong nước của Việt Nam rất lớn (đội ngũ lao động dồi dào, vị trí địa lý thuận lợi, ...), nhưng trình độ công nghệ non kém và nguồn vốn hạn hẹp nên không phát huy được những tiềm năng sẵn có... Vì vậy, Việt Nam cần phải tranh thủ nguồn vốn, kỹ thuật cao của các nước EU.
Để giải quyết vấn đề về cơ sở hạ tầng yếu kém,Việt Nam cần phải có các mối quan hệ kinh tế, chính trị với các quốc gia, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế để có được các khoản hỗ trợ phát triển chính thức đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Vấn đề sử dụng hiệu quả vốn đầu tư và xây dựng các khu chế xuất tập trung, khu công nghệ cao với quy mô thích hợp nhằm tiếp nhận các nguồn vốn và kỹ thuật cao của nước ngoài, vì một mặt bằng không lớn, việc huy động tài lực tập trung vào xây dựng kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh, hiện đại là khả năng có thể thực hiện được. Qua đó, Việt Nam có thể khai thác những mặt mạnh của EU như tranh thủ kỹ thuật tiên tiến trong ngành cơ khí, chế biến nông sản, dệt, may mặc, lắp ráp ô tô, điện tử, kinh nghiệm quản lý kinh tế và sản xuất nông nghiệp.
Nhìn chung, những tồn tại trong quan hệ Việt Nam - EU nói trên không phải là hiện tượng duy nhất. Có thể tin rằng hai bên với tinh thần hợp tác và phát triển sẽ từng bước giải quyết được vấn đề này. Tranh thủ được nguồn vốn FDI của các nước EU là việc làm có ý nghĩa quan trọng giúp Việt Nam tiếp thu được công nghệ tiên tiến để sử dụng trong cuộc cạnh tranh quyết liệt trên thị trường quốc tế. Có cơ sở để tin ràng đầu tư trực tiếp cảu EU sẽ không dừng lại ở mức như hiện nay.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình kinh tế học quốc tế-Chủ biên PGS-PTS Tô Xuân Dân(Trường KTQD)-NXB Giáo dục 1995 -trang 102-108
Liên minh châu âu-Học viện quan hệ quốc tế-NXB Chính trị Quốc gia HN 1995- trang 26-65
Giáo trình Quản trị dự án đầu tư quốc tế và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài -Chủ biên GS.PTS Tô Xuân Dân-PTS Nguyễn Thừa Lạng-PTS Nguyễn Thị Hường-ĐH KTQD-Khoa quản trị và kinh doanh quốc tế-NXB thống kê 1998
Quản trị dự án ĐTNN -PTS Võ Thanh Thu-XB 1992
Xúc tiến quan hệ kinh tế giữa các DN hai nước Việt Nam -Thuỵ Điển -báo Đầu tư số 97-1999- trang 5
Hợp tác kinh tế và thương mại với EU-NXB trung tâm thông tin , HN 1995 -trang 139
Đầu tư trực tiếp NN tại Việt Nam thời kỳ 1988-1999-Nguyễn Trọng Xuân(Viện kinh tế học)- Những vấn đề kinh tế thế giới số 2 (64)2000-trang 56-59
Việt Nam-EU hợp tác kinh tế thương mại-PTS Kim Ngọc-Những vấn đề KTTG số 4(42) 1996 -trang 65-69
Thực trạng và triển vọng hợp tác đầu tư Việt Nam-EU -Thạc sỹ Nguyễn duy Quang (trung tâm nghiên cứu những vấn đề Quốc tế-IPSC)-nghiên cứu Châu Âu số 1 -2000 -trang 63-67
Hiệu quả các dự án hợp tác giữa ĐHKTQD với các trường ĐH Châu Âu
để đẩy mạnh thu hút ĐTNN -Hà Thắng, báo đầu tư -số 7/2000 -trang 5
Viện trợ phát triển chính thức của EU cho khu vực Đông nam á, Nghiên cứu Châu Âu, số1/1999 -trang 20
Đầu tư của các công ty Pháp ở nước ngoài gần đây-nghiên cứu Châu Âu số 6/1995- trang 68-73
EU tài trợ vốn cho Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam-N/C Châu Âu số 3/1998 -trang 55-57
Anh-Việt : quan hệ hợp tác và đầu tư -N/C Châu Âu số 3&4/1996 -trang 69-74
Quan hệ hợp tác Việt -Bỉ-N/C Châu Âu số 3/1999 -trang 67-69
Hợp tác Việt Nam-Đan Mạch hướng tới thế kỷ 21-N/C Châu Âu số 5/1999 -trang 68-72
Vài nét về các công ty xuyên quốc gia của Đức - N/C Châu Âu số 4&5/1995 -trang 78-83
Quan hệ đầu tư-thương mại giữa Việt Nam và CHLB Đức- N/C Châu Âu số 1/1998 -trang 54-58
CHLB Đức với vấn đề đầu tư nước ngoài- N/C Châu Âu số 6/1999 -trang 18-22
Tổng quan tình hình của đồng EURO trong năm 1999- N/C Châu Âu số 6/1999 -trang 69-71
Việt Nam và liên minh Châu Âu- N/C Châu Âu số 2/1998- trang 72-76
Con đường phát triển của liên minh Châu Âu- sự lựa chọn và triển vọng- N/C Châu Âu số 3&4 /1996 -trang 3-7
Quan hệ thương mại và đầu tư EU-Châu á- N/C Châu Âu số 4&5 /1995- trang 18-21
ASEN-I Bước ngoặt mới trong quan hệ EU-ASEAN-N/C Châu Âu số 2/1996 -trang 3-16
liên minh Châu Âu năm 1996 - những thành tựu và thách thức - N/C Châu Âu số 6/1996- trang 3-8
Chiến lược mới của EU đối với Châu á- N/C Châu Âu số 3&4/1996 -trang 8-11
Những chuyển động mới của Liên minh Châu Âu trước thềm thế kỷ XXI- N/C Châu Âu số 1/2000 -trang 11-13
Năm 1997- Một bước tiến mới vững chắc trong quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và EU- N/C Châu Âu số 1/1998 -trang 45-48
Hợp tác ASEAN-EU - N/C Đông Nam á -T4/1996 trang 13-23
Quan hệ thương mại và đầu tư Việt -Pháp-Những vấn đề kinh tế thế giới số 6(62)1999- trang 69-71
Mấy nét khái quát về quan hệ kinh tế thương mại Trung Quốc -Pháp những năm gần đây- N/C Châu Âu số 3/1998 -trang 45-48
ASIAN Investment News, European Community Initiative No 6/May/1999, No 8/November/1999, No 9/January/2000
Investment Update, VN Investment Review, No 410/23-29 August/1999
French Investment in VN -By Hoai Nam
VN Economic News- No 32-1996
Các báo cáo tóm tắt tình hình đầu tư trực tiếp của các nước EU tại VN - Vụ quản lý dự án ĐTNN-Bộ KH-ĐT tháng 4&5/2000
Ký hiệu viết tắt
Chữ viết tắt
Tên Tiếng Anh
Tên Tiếng Việt
Eu
European Union
Liên minh Châu Âu
Ecu
European Currency Unit
Đơn vị tiền tệ Châu Âu
Ecsc
European Coal and Steel
Cộng đồng Than và Thép Châu Âu
Eec
European Economic Comunity
Cộng đồng Kinh tế Châu Âu
Euratom
European Atomic Energy
Cộng đồng Năng lượng
Ec
European Comunity
Cộng đồng Châu Âu
Efta
European Free Trade Area
Khu vực mậu dịch tự do Châu Âu hẹp
Gdp
Gross Domestic Products
Tổng sản phẩm xã hội
Acp
African Caribean and Pacific countries parties to the Lomé Convention
Các nước Châu Phi, vùng Caribee và Thái bình dương tham gia công ước Lomé
Stabex
Export earning stabilization scheme
Hệ thống ổn định thu nhập xuất khẩu
Fdi
Foreign Direct investement
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Asean
Association of South-East Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông nam á
Ngo
Non-Govermental Organization
Tổ chức phi chính phủ
Gsp
Generalised System of Preferences
Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập
Asem
Asian-European Meeting
Hội nghị thượng đỉnh hợp tác á-Âu
Tfap
Chương trình thuận lợi hoá thương mại
Jcc
Joint-Cooperation Committee
Uỷ ban hợp tác chung
Mfn
The Most Favoured Nation
Chế độ đãi ngộ tối huệ quốc
Tpp
The Pure Process
Gia công thuần tuý
Emu
European Economic and Monetary Union
Liên minh kinh tế và tiền tệ Châu Âu
Ebic
European Bisiness Information centre
Trung tâm thông tin kinh doanh Châu Âu
Aia
Asean Investment Area
Khu vực đầu tư Châu á
Oda
Official Direct Assitance
Viện trợ phát triển chính thức
Chxhcn
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Chlb
Cộng hoà liên bang
Tnhh
Trách nhiệm hữu hạn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0039.doc