Chương II
Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 tại pjico.
I . một vài nét về PJICO
1 – Lịch sử hình thành
Từ khi đất nước chuyển sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nền kinh tế nước ta có nhiều thay đổi. Sự chuyển đổi đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Bảo hiểm ngày càng trở nên cần thiết và để đáp ứng thực tế khách qu
56 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1553 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại PJICO (chương 2, 3), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an đặt ra, ngày 18/12/1993 Chính phủ đã ban hành nghị định 100 CP cho phép các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài(nếu đủ điều kịên) được phép thành lập công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm.
Thực tế ở Việt Nam cho đến năm 1994 thì thị trường bảo hiểm Việt Nam chỉ có một mình Bảo Việt là đơn thương hoạt động . Xuất phát từ nhu cầu cần phải phát triển thị trường bảo hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng hoá các loại hình kinh doanh và đầu tư trong nền kinh tế thị trường. Xuất phát từ chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và thành lập các công ty cổ phần. Ngay từ đầu năm 1994, Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam đã tiếp xúc với một số công ty tham gia góp vốn cổ phần để thành lập công ty cổ phần đầu tiên của Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm.
Ngày 27/5/1995 Công ty được Bộ tài chính cấp giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện kinh doanh bảo hiểm số 06 –TC/GCN. Ngày 8/6/1995 Công ty được UBND TP. Hà Nội cấp giấy phép thành lập số 1873/GP-UB và ngày 15/6/1995 Uỷ ban kế hoạch nay là Sở kế hoạch đầu tư TP. Hà nội cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh
Tên công ty : Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex
Tên giao dịch quốc tế : Petrolimex joint- stock insurance company
Tên viết tắt : PJICO
Hình thức hoạt động : Công ty cổ phần.
Vốn điều lệ : 55 tỷ
Thời gian hoạt động : 25 năm
Ngành nghề kinh doanh : Bảo hiểm phi nhân thọ
Trụ sở chính của công ty Cổ phần bảo hiểm Petrolimex:
- Trước 15/01/ 2000 : tại số 1 Khâm Thiên - Đống Đa - Hà Nội
- Sau 15/01/2000 : tại 22 Láng Hạ - Đống Đa - Hà Nội
- Sau 01/04/2003 : tại tầng 3 số nhà 105 - Đống Đa - Hà Nội
- Sau 01/04/2004 : tại 22 Láng Hạ - Đống Đa - Hà Nội
PJICO Là sự hội tụ của 7 cổ đông và cũng là các cổ đông có số vốn góp cao và 1251 cổ đông thể nhân.
Cơ cấu vốn đăng kí ban đầu của các cổ đông như sau
TT
Đơn Vị
Tỷ Trọng(%)
Vốn góp (triệu đồng)
Số cổ phiếu
1
Tổng CTy xăng dầu Việt Nam (Petrolimex)
51
28050
14025
2
Ngân hàng ngoại thương Việt Nam(Vietcombank)
10
5500
2750
3
Công ty tái bảo hiểm quốc gia(VINARE)
8
4400
2200
4
Tổng CTy thép Việt Nam(VSC)
6
3300
1650
5
CTy vật tư thiết bị toàn bộ(MATEXIM)
3
1650
825
6
Cty điện tử Hà Nội(HANEL)
2
1100
550
7
Cty thiết bị An toàn(A-T)
0.5
275
138
8
Thể Nhân
19.5
10275
5362
Tổng cộng
100
55000
27500
Nguồn: PJICO
Tổng số vốn góp của cổ đông chiếm tới 80% vốn góp. Số còn lại là của các cán bộ nhân viên của các cổ đông sáng lập.
Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex ra đời là rất phù hợp với xu thế của nền kinh tế đất nước và tăng thêm sức sống cho thị trường bảo hiểm Việt Nam.
2 . Quá trình phát triển.
Kể từ khi thành lập đến nay PJICO không ngừng phát triển và hoàn thiện. Là công ty lần đầu tiên hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ PJICO gặp không ít khó khăn, từ ngày đầu chỉ có 8 cán bộ nhân viên hầu hết vừa tốt nghiệp đại học cho đến nay số cán bộ nhân viên là trên 800 người với 92% trình độ đại học và trên đại học, là những cán bộ trẻ, năng động, nhiệt tình và có nhiều cán bộ có kinh nghiệm trong lĩnh vực bảo hiểm được đào tạo không chỉ ở trong nước mà còn ở nước ngoài. Mạng lưới hoạt động kinh doanh không ngừng được mở rộng từ chỗ chỉ có một trụ sở chính, hiện nay công ty có 46 chi nhánh, 2 trung tâm và hơn 1000 đại diện, tổng đại lý và đại lý khắp cả nước.
Từ chỗ chỉ triển khai một số nghiệp vụ cơ bản đến nay PJICO đã triển khai khoảng 70 sản phẩm bảo hiểm trong các lĩnh vực bảo hiểm tài sản, bảo hiểm kỹ thuật, bảo hiểm con người, bảo hiểm hàng hải, xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm. đáp ứng nhu cầu bảo hiểm ngày càng đa dạng của khách hàng. Nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng, trong năm 2004, PJICO đã cho ra đời các sản phẩm mới như : Du lịch ngắn hạn, Trách nhiệm nghề nghiệp, Tiết kiệm bảo an, Tư vấn thiết kế... Công ty đã vươn lên vị trí hàng đầu trên thị trường bảo hiểm trong một số lĩnh vực như bảo hiểm xây dựng các nhà máy xi măng, các công trình giao thông vận tải ( cầu, đường), công trình năng lượng (thuỷ điện, nhiệt điện ), công nghiệp, xăng dầu, dân dụng…
Từ chỗ khách hàng chỉ là các cổ đông, đến nay công ty có hàng nghìn khách hàng thuộc tất cả các ngành nghề, lĩnh vực, các thành phần kinh tế. Nhiều công trình bảo hiểm lớn đã tham gia bảo hiểm tại PJICO : khách sạn DEAWOO, cao ốc HITC tại Hà Nội, DIAMON PLAZA tại TP. HCM, cầu Bãi Cháy, nhà máy thuỷ điện Sông Hinh, các tàu dầu lớn của Petrolimex, VOSCO. Công ty đã và đang thiết lập được quan hệ hợp tác tốt với nhiều khách hàng lớn, tiềm năng trên tất cả các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế (giao thông, điện lực, xi măng, thép, hoá chất, khoáng sản, hàng hải, đóng tàu, xây dựng).
công ty bảo hiểm PJICO đã phát triển nhanh chóng về mọi mặt và được đánh giá là một trong những công ty bảo hiểm có chất lượng dịch vụ hàng đầu trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Trong những năm qua công ty đã không ngừng nghiên cứu và đã đưa ra các sản phẩm bảo hiểm nhằm đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Các sản phẩm bảo hiểm mà công ty đang triển khai có thể chia thành các nhóm nghiệp vụ sau :
-Nhóm nghiệp vụ bảo hiểm phi hàng hải:
+ Bảo hiểm xe cơ giới
+ Bảo hiểm kết hợp con người
+ Bảo hiểm học sinh, giáo viên
+ Bảo hiểm tai nạn hành khách
+ Các loại hình bảo hiểm khách du lịch
+ Bảo hiểm bồi thường cho người lao động
- Nhóm nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải
+ Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển, đường bộ, đường sông, đường hàng không
+ Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu sông, tàu
+ Bảo hiểm thân tàu
+ Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu
+ Bảo hiểm nhà thầu đóng tàu
+ Bảo hiểm tàu sông, tàu cá
- Nhóm nghiệp vụ bảo hiểm Kỹ thuật và Tài sản
+ Bảo hiểm mọi rủi ro về xây dựng và lắp đặt
+ Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt
+ Bảo hiểm mọi rủi ro công nghiệp
+ Bảo hiểm máy móc
+ Bảo hiểm trách nhiệm
+ Bảo hiểm hỗn hợp tài sản cho thuê
- Nhóm nghiệp vụ Tái bảo hiểm
+ Nhượng và nhận tái bảo hiểm các nghiệp vụ bảo hiểm
- Các nghiệp vụ khác
+ Thực hiện các nghiệp vụ liên quan tới bảo hiểm: Giám định, điều tra, tính toán phân bổ tổn thất, xét giải quyết bồi thường và đòi người thứ ba
+ Hợp tác đầu tư, tín dụng liên doanh liên kết với các bạn hàng trong và ngoài nước
3 - Nguyên tắc hoạt động của PJICO .
Kể từ khi bắt đầu hoạt động và trên chặng đường phát triển của mình, là một doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, PJICO luôn bám sát vào phương châm và coi đó là kim chỉ nam trong mọi hoạt động của mình: “ Nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu tốt nhất cho khách hàng và tạo mọi điều kiện để khách hàng luôn cảm thấy hài lòng với những sản phẩm mà công ty cung ứng”. Chính sách của PJICO là : “Chúng tôi chỉ cam kết những gì chúng tôi thực sự có khả năng và thực hiện đầy đủ những gì chúng tôi đã cam kết”. PJICO đưa ra cam kết:
Tư vấn để khách hàng lựa chọn được sản phẩm bảo hiểm thích hợp nhất với biểu phí và điều kiện bảo hiểm tối ưu.
Luôn phục vụ khách hàng tận tâm, đưa sản phẩm tận nơi theo yêu cầu
Đảm bảo chi trả đúng mức trách nhiệm đã cam kết
Giám định tốt nhất và tiến hành bồi thường một cách nhanh chóng, chính xác và thuận tiện, tránh các thủ tục gây phiền hà cho khách hàng
Cung cấp đầy đủ dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ khách hàng.
Tạo điều kiện và kênh tiếp nhận thông tin một cách thuận lợi nhất để có thể tiếp thu các ý kiến phản ánh của khách hàng, nhằm đáp ứng nhanh nhất lợi ích cao nhất cho khách hàng.
Không ngừng nghiên cứu, phát triển sản phẩm và dịch vụ để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của đông đảo khách hàng.
4. Tình hình hoạt động kinh doanh trong giai đoạn 2000-2005.
Trong những năm vừa qua PJICO đã đạt được một số kết quả nhất định.
Về doanh thu bảo hiểm gốc ta có bảng số liệu sau
Năm
Đơn vị tính
2000
2001
2002
22003
2004
2005
Doanh thu
tỷ vnđ
131.8
164.6
227
333
605
730
Tốc độ tăng
%
-
24.9
37.9
46.70
81.68
20.66
Nguồn số liệu : PJICO
Từ bảng số liệu ta thấy doanh thu của PJICO liên tục tăng nhanh qua các năm:
Năm 2000 doanh thu là 131.8 tỷ
Năm 2001 mặc dù do ảnh hưởng của sự kiện khủng bố 11/9/2001. Sự kiện này đã làm giảm giá đồng đô la Mỹ, đã tác động xấu đến toàn thị trường bảo hiểm nói chung, thị trường bảo hiểm Việt Nam nói riêng. Nhưng PJICO vẫn đạt được sự tăng trưởng cao, tăng 24.9%.
Năm 2002 doanh thu là 227 tỷ, tăng 37.9% .
Năm 2003 doanh thu đạt 333 tỷ, tăng 46.70%. Năm 2003 công ty đã vinh dự nhận được giải thưởng Sao Đỏ. Năm 2003 ngoài các khách hàng truyền thống, công ty đã mở rộng thị trường khai thác cả về chiều rộng và chiều sâu. Khả năng khai thác các khách hàng thuộc khu vực đầu tư nước ngoài vốn là mảng mà công ty chưa tiếp cận được thì đến năm 2003 công ty đã khai thác được một số khách hàng lớn như Habinpower ( dự án nhiệt điện Cao Ngạn 85.5 triệu USD), Vimas ( khách sạn 5 sao Sheraton trị giá 60 triệu USD), Lake view.
Năm 2004 doanh thu là 605 tỷ, tăng 81.68%. Kết thúc năm 2004 PJICO đạt được kết quả ấn tượng về mọi mặt, với tốc độ tăng trưởng trên 80% PJICO là doanh nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất thị trường bảo hiểm Việt Nam, gấp 4 lần so với mức tăng trưởng bình quân của thị trường. PJICO đã đạt được danh hiệu thương hiệu mạnh và giải thưởng Sao Vàng Đất Việt. Các doanh nghiệp bảo hiểm đều khẳng định PJICO là doanh nghiệp bảo hiểm mạnh nhất trên thị trường bảo hiểm Việt Nam trong năm 2004.
Năm 2005 doanh thu là 730 tỷ, tăng 20.66%. Mặc dù vẫn đạt mức tăng cao hơn so với mức tăng chung toàn thị trường(16.5%) nhưng tốc độ tăng doanh thu đã giảm xuống, không đạt mục tiêu tăng 25% đó là do :
- Khó khăn chung của toàn thị trường, toàn thị trường chỉ tăng 16.5% so với mức tăng 24,85% năm 2004.
- ảnh hưởng của sự kiện 14/5 đã ảnh hưởng tới hoạt động của cả công ty trên toàn hệ thống.
- Sức ép cạnh tranh của các công ty bảo hiểm đã hoạt động lâu năm và sự thâm nhập thị trường của các công ty cổ phần bảo hiểm mới như Viễn Đông, AAA.
….
5. Phương hướng và nhiệm vụ năm 2006
a) Những định hướng lớn năm 2006
- Duy trì thị phần và tập trung vào nâng cao chất lượng tăng trưởng
- Tập trung xây dựng tính chuyên nghiệp và nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý trong mọi khâu hoạt động của Công ty và từ công ty tới tất cả các đơn vị :
+ Hoàn thành mục tiêu xây dựng hệ thống ISO 9000
+ Đầu tư hệ thống giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin tổng thể để quản trị hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc, tái bảo hiểm, giám định bồi thường và tài chính kế toán.
Triển khai cơ chế khoán lương kết hợp theo doanh thu và hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng khai thác, giảm tỷ lệ bồi thường và từ đó tăng hiệu quả kinh doanh bảo hiểm.
Thực hiện việc tái tổ chức lại các phòng ban công ty theo hướng chuyên môn hoá và tách quản lý ra khỏi kinh doanh. Thành lập phòng công nghệ thông tin và phòng bảo hiểm con người trên cơ sở phát triển từ các bộ phận sẵn có của công ty.
Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác thanh tra kiểm tra tài chính, giám định bồi thườn, tổ chức nhân sự tại tất cả các chi nhánh.
Tiếp tục đầu tư mạnh mẽ và thực hiện quyết liệt kế hoạch đào tạo phát triển nguồn nhân lực.
Hoàn thiện lại danh mục đầu tư hợp lý và quản lý sát sao các dòng tiền để tối đa hoá lợi nhuận đầu tư. Tiến tớí thành lập trung tâm đầu tư để đảm bảo phát triển bền vững, đa dạng hoá nguồn thu…
Thực hiện phương án tăng vốn điều lệ từ 70 tỷ lên 140 tỷ vào quý I/2006 để đảm bảo biên khả năng thanh toán và đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển
b) Các mục tiêu cơ bản năm 2006:
- Tổng thu kinh doanh : 971 tỷ trong đó:
+ phí bảo hiểm gốc : 850 tỷ, tăng trưởng 10% so với năm 2005, bằng mức tăng chung dự kiến của thị trường.
+ thu nhận tái : 44,6 tỷ , tăng 12%
+ hoa hồng nhượng tái : 51,5 tỷ
+ thu đầu tư : 25 tỷ, tăng 47%
Lợi nhuận trước thuế : 30 tỷ, tăng 100%( chi vừa đủ chi mức cổ tức tối thiểu 12% cho các cổ đông)
Năm 2006 công ty sẽ phải khắc phục những khó khăn của năm 2005. Mục tiêu an toàn, ổn định, hiệu quả sẽ là mục tiêu xuyên suốt trong mọi hoạt động của công ty
II . tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại PJICO
Mỗi nghiệp vụ bảo hiểm thường được doanh nghiệp bảo hiểm triển khai theo một quy trình thống nhất bao gồm ba khâu cơ bản:
- Khai thác bảo hiểm.
- Đề phòng và hạn chế tổn thất.
- Giám định và bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm (giải quyết khiếu nại).
Ba khâu trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, mỗi khâu đóng một vai trò quan trọng trong toàn bộ quy trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm. Vì vậy để phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại PJICO, em sẽ phân tích thực trạng hoạt động của các khâu:
1.Khâu khai thác.
Sản phẩm bảo hiểm là một sản phẩm dịch vụ nên nó có đặc điểm là có tính vô hình. Tính vô hình làm cho sản phẩm bảo hiểm trở nên trừu tượng khiến cho việc giới thiệu chào bán sản phẩm trở nên khó khăn. Khi mua sản phẩm khách hàng chỉ nhận được những lời hứa, lời cam kết của doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cam kết bồi thường cho những thiệt hại xảy ra. Một đặc điểm riêng của sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm không mong đợi. Khách hàng không mong muốn rủi ro xảy ra để được doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hay trả tiền bảo hiểm. Khi rủi ro xảy ra thì đồng nghĩa với thương tích, thiệt hại, thậm chí là mất mát, số tiền mà họ nhận được từ doanh nghiệp bảo hiểm cũng khó có thể bù đắp được. Đặc tính này cũng làm cho việc giới thiệu chào bán sản phẩm trở nên khó khăn. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba cũng mang những đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm nói chung. Ngoài ra Nghị định 30/HĐBT ban hành ngày 10 tháng 3 năm 1988 quy định các chủ xe bắt buộc phải tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba nên việc khai thác cũng sẽ có nhiều thuận lợi hơn so với các sản phẩm bảo hiểm khác.
Khai thác là khâu đầu tiên và cũng là khâu quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của nghiệp vụ bảo hiểm. Xuất phát từ nguyên tắc chung của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là lấy số đông bù số ít, nhằm tạo lập nguồn quỹ bảo hiểm đủ lớn để dễ dàng san xẻ rủi ro. Doanh nghiệp bảo hiểm phải tổ chức tốt khâu khai thác.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác khai thác với hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. ý thức được PJICO là một công ty còn non trẻ, nguồn vốn và kinh nghiệm còn hạn chế so với các công ty bảo hiểm hoạt động lâu năm trên thị trường như Bảo Việt, Bảo Minh. Mặt khác nhận thức được tâm lý của người dân là thích tham gia bảo hiểm ở công ty nhà nước nên trong thời gian vừa qua dưới những khó khăn của môi trường cạnh tranh đầy bất lợi, để tăng doanh thu, mở rộng thị phần, chiếm được lòng tin và sự ủng hộ của khách hàng đối với công ty, để đạt được mục tiêu PJICO đã rất quan tâm và tổ chức khâu khai thác với những kế hoạch, chiến lược và mục tiêu khai thác cụ thể. Ngay từ khi hoạt động và nhất là từ sau khi Chính phủ ra Nghị định 30/HĐBT ban hành ngày 10 tháng 3 năm 1988 và sau đó là Nghị định 155/CP/1997 quy định các chủ xe bắt buộc phải tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba thì PJICO đã không ngừng có những kế hoạch, chiến lược đặt ra đối với ngiệp vụ này.
Để có thêm nhiều khách hàng công ty không ngừng mở rộng mạng lưới khai thác, các chi nhánh văn phòng đại diện được mở ở các tỉnh, thành phố trên cả nước. Tính cho đến năm 2005, công ty đã có trên 40 chi nhánh, công ty đã thành lập thêm 07 chi nhánh ( trên cơ sở nâng cấp từ văn phòng đại diện) tại Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Bắc Ninh, Hà Nam, Tiền Giang, Cà Mau : tách 3 phòng bảo hiểm khu vực của Sài Gòn thành trung tâm PJICO Sài Gòn. Năm 2005 Công ty đã tổ chức được 3 lớp tập huấn nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới cho 304 cán bộ. Ngoài ra việc mở rộng và phát triển hệ thống đại lý khai thác cũng là một công tác rất quan trọng bởi vì nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là một nghiệp vụ đại chúng và có tính bắt buộc, tất cả các chủ phương tiện đều phải tham gia. Đại lý là lực lượng bán hàng, tiếp thị có hiệu quả nhất, giúp doanh nghiệp bảo hiểm đưa sản phẩm đến tận tay khách hàng và giải thích cho khách hàng biết được tầm quan trọng cũng như ý nghĩa của nghiệp vụ bảo hiểm này. Hàng năm công ty đều mở các lớp tập huấn đại lý, giúp đại lý nhận thức và nắm rõ những nội dung quan trọng của nghiệp vụ chính vì vậy mà công tác khai thác của nghiệp vụ bảo hiểm này đạt được kết quả rât khả quan.
a)Tình hình tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba giai đoạn 2001- 2005.
b) Công tác thu phí.
Trong giai đoạn vừa qua bên cạnh những yếu tố tích cực khả quan của nền kinh tế thì công ty luôn phải đối diện với những khó khăn:
-Sự thâm nhập thị trường của các công ty cổ phần bảo hiểm mới làm cho tình hình cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm vốn đã rất khốc liệt thì nay càng mạnh hơn. Đa số các công ty đều đánh giá PJICO là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của mình nên càng làm tăng sức ép cho công ty
- ý thức tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới chưa cao. Việc nhận thức về tầm quan trọng và ý nghĩa của việc tham gia còn hạn chế. Hiện nay chế độ bắt buộc bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ở Việt Nam chưa được người dân thực sự quan tâm và tham gia vì chính lợi ích của bản thân người tham gia giao thông. Đây là loại hình bảo hiểm bắt buộc nhưng đa số người tham gia giao thông không được biết rõ, thậm chí nhiều người còn bất bình : Bảo hiểm là chuyện tự nguyện của mỗi người, tại sao lại bắt họ phải tham gia trong khi họ không có nhu cầu và không thấy được lợi gì
- Tâm lý của người dân là thích tham gia bảo hiểm ở công ty Nhà nước hơn là một công ty cổ phần, mặt khác công ty mới được thành lập từ năm 1995, bước vào thị trường muộn hơn so với Bảo Việt và Bảo Minh, điều này cũng gây khó khăn cho công ty khi phải cạnh tranh trong việc tìm kiếm khách hàng
- về phía công ty:
• Hệ thống quy trình nghiệp vụ do nhiều phòng ban cùng quản lý (phòng quản lý nghiệp vụ, phòng hàng hải, phòng xe cơ giới) đã có nhiều văn bản hướng dẫn dẫn tới sự chồng chéo, lộn xộn không có sự thống nhất trên toàn hệ thống dẫn tới việc bán hàng ở các chi nhánh, văn phòng gặp nhiều khó khăn.
• Chi phí giao dịch chăm sóc khách hàng tương đối thấp và không đồng đều giữa các khu vực dẫn đến tình trạng cạnh tranh nội bộ
• Công tác theo dõi tái tục hợp đồng chưa được triệt để dẫn tới nhiều khách hàng muốn tham gia bảo hiểm nhưng nhiều khi họ không để ý khi nào hết hạn hợp đồng. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là bảo hiểm bắt buộc nên họ có thể mua ở công ty nào cũng được( thường với những sản phẩm tự nguyện các công ty bảo hiểm sẽ có chính sách khuyến mại khác nhau). Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến doanh thu phí của nghiệp vụ này.
• Hầu hết các cán bộ đều là các cán bộ trẻ, mới ra trường chưa có nhiều kinh nghiệm, nhiều mối quan hệ
Tuy nhiên công ty có những thuận lợi :
+Thương hiệu PJICO đã được nhiều khách hàng biết đến hơn nữa nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là nghiệp vụ đại chúng, và là loại hình bảo hiểm bắt buộc, mọi chủ xe cơ giới đều phải tham gia theo quy định của pháp luật.
+ PJICO đã xây dựng được hệ thống bán hàng các đại lý tại khắp các tỉnh thành, trên toàn quốc, duy trì và phát triển hệ thống bán bảo hiểm xe máy qua các Đại lý chủ yếu tại các Cây Xăng, các tổng đại lý và đại lý bán gas,đặc biệt chú ý duy trì qua các trạm xăng dầu. Các cửa hàng bán gas và dầu nhờn trong Hệ thống của Tổng Công ty xây dựng Việt Nam. Và ở các Điểm đăng ký xe, thu thuế trước bạ, bán xe mới, Các bãi gửi xe trên địa bàn Hà Nội....
+Một số đơn vị hành chính đã tham gia Bảo hiểm tại PJICO (cơ quan chính quyền địa phương, Bộ Quốc phòng…). Đây là những khách hàng lớn ít gặp rủi ro.
+ PJICO có đội ngũ lực lượng cán bộ trẻ năng động, nhiệt tình trong công việc
+ Các cán bộ lãnh đạo cơ sở là các cán bộ có kinh nghiệm, các chuyên gia trong lĩnh vực bảo hiểm nên việc khai thác, giám định bồi thường có nhiều thuận lợi khiến cho khách hàng ngày càng tin tưởng vào công ty.
Khách hàng của doanh nghiệp bảo hiểm thường được chia làm hai loại : khách hàng là các cá nhân và khách hàng là các tổ chức trong xã hội. Mặc dù có mong muốn và kì vọng tương tự nhau nhưng giữa hai nhóm khách hàng vẫn có sự khác nhau về nhu cầu bảo hiểm:
Khách hàng là các cá nhân : Do kinh tế xã hội ngày càng phát triển và thu nhập, đời sống của dân cư ngày càng cao nên các cá nhân tham gia bảo hiểm ngày càng nhiều.
Khách hàng là các tổ chức kinh tế xã hội: Nhóm này bao gồm các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội nghề nghiệp và cả các đơn vị hành chính sự nghiệp. Họ là những khách hàng lớn, có giá trị bảo hiểm hoặc số tiền bảo hiểm rất cao. Đặc điểm này đòi hỏi doanh nghiệp bảo hiểm phải có chính sách giữ khách hàng để giữ được thị phần, đảm bảo sự tái tục hợp đồng.
Theo sự quy định của pháp luật mọi cá nhân và các tổ chức kinh tế xã hội đều phải tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Việc phân ra hai nhóm khách hàng này sẽ giúp doanh nghiệp bảo hiểm có các chính sách tiếp cận, khai thác khách hàng hợp lý.
Hiện nay việc phân phối sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba được thực hiện qua hai kênh:
Kênh phân phối trực tiếp: tuy nhiên chỉ áp dụng đối với những khách hàng lớn, các công ty liên doanh hay các khách hàng truyền thống, họ mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới cho hệ thống xe của mình cùng với bảo hiểm vật chất thân xe ( chủ yếu là xe ô tô). Công ty sẽ cử cán bộ khai thác đến tận công ty để thu phí, cách này sẽ tạo thêm được mối quan hệ mật thiết với khách hàng.
Kênh phân phối gián tiếp : Loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba thường được phân phối qua kênh này. Đội ngũ cộng tác viên, đại lý sẽ đưa sản phẩm đến tận tay khách hàng. Ngoài ra các khách hàng có thể đến các chi nhánh, văn phòng đại diện của công ty được đặt ở trên khắp các tỉnh thành trên cả nước để mua bảo hiểm.
Trong những năm vừa qua công ty đã sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền, quảng cáo như qua báo, tạp chí ( thời báo kinh tế, tạp chí vinare), qua các tờ rơi, sách nhỏ, qua trang web, qua các hoạt động yểm trợ nhờ vậy mà thương hiệu PJICO đã được nhiều người biết đến, do đó ngày càng có nhiều người tham gia bảo hiểm tại PJICO, góp phần làm tăng doanh thu của nghiệp vụ và của toàn công ty.
Nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giớ đối với người thứ ba đã được PJICO triển khai khá thành công, doanh thu của nghiệp vụ tăng dần qua các năm.
Doanh thu phí BHTNDS xe cơ giới của PJICO giai đoạn 2001-2005
Đơn vị : nghìn đồng
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
Doanh thu phí ô tô
13.900.700
19.461.150
32.539.050
54.737.670
52.609.677
Doanh thu phí xe máy
1.704.560
2.961.850
28.933.780
80.786.450
98.517.010
Doanh thu nghiệp vụ
15.605.260
22.423.000
61.472.830
135.524.120
151.126.687
Doanh thu nghiệp vụ BHXCG
35.400.000
40.760.000
132.910.900
277.220.868
322.886.520
Tổng doanh thu phí bảo hiểm gốc toàn công ty
138.300.000
175.800.00
330.760.930
596.024.436
720.000.000
Tốc độ tăng doanh thu nghiệp vụ(%)
-
43,69
174,15
120,46
11,51
Tỷ trọng doanh thu phí BHTNDS so với BHXCG(%)
44,08
55,01
46,25
48,88
46,80
Tỷ trọng doanh thu phí BHTNDSso với phí bảo hiểm gốc(%)
11.,28
12,75
18,58
22.74
20.99
Nguồn: phòng xe cơ giới
Qua bảng số liệu ta thấy :
Doanh thu phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới của công ty tăng qua các năm và nó đóng góp một phần không nhỏ vào trong tổng doanh thu phí bảo hiểm của công ty.
Năm 2001 doanh thu phí là 15.605.260 nghìn đồng chiếm 11,28 % doanh thu phí bảo hiểm gốc toàn công ty,
Năm 2002 doanh thu phí là 22.423.000 nghìn đồng, tăng 43,69% so với năm 2001,chiếm 12,75% doanh thu phí bảo hiểm gốc toàn công ty.
Năm 2003 doanh thu phí là 61.472.830 nghìn đồng, tăng 174,15% so với năm 2002, chiếm18,58% doanh thu phí bảo hiểm gốc toàn công ty. Năm 2003 là năm nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba đạt tốc độ tăng cao nhất. Từ năm 2003 công ty có thêm dịch vụ cho khách hàng tham gia bảo hiểm xe cơ giới như số điện thoại nóng nhằm giải quyết, cứu hộ 24/24 khi có tai nạn xảy ra. Nhờ đó mà uy tín của công ty ngày càng được củng cố, thu hút thêm nhiều khách hàng tham gia và giữ chân được những khách hàng truyền thống. Đối với xe máy năm 2003 doanh thu của nghiệp vụ này tăng 876,88% góp phần đáng kể vào doanh thu nghiệp vụ của năm và là nguyên nhân chính khiến cho năm 2003 doanh thu nghiệp vụ tăng 174,5%.
Để có được thành công này là do có sự chỉ đạo sát sao của cán bộ lãnh đạo công ty đã hướng dẫn các đơn vị triển khai nghiệp vụ:
tập trung phát triển các đại lý bán bảo hiểm xe máy chuyên nghiệp.
Công ty đã bổ xung thêm 3% ( theo doanh thu thực thu bảo hiểm xe máy) chi phí quản lý, bán hàng. tổ chức các đợt khuyến mại( bán một bảo hiểm xe máy thưởng 01 lít xăng, tặng mũ..) để khuyến khích khách hàng.
Dưới sự chỉ đạo của lãnh đạo công ty doanh thu nghiệp vụ đã đạt tốc độ tăng rất cao, tạo đà phát triển cho các năm tiếp theo.
Mặt khác do từ năm 2003 Chính phủ có sự chỉ đạo yêu cầu công an tăng cường kiểm tra các chủ xe máy bắt buộc họ phải xuất trình giấy bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe máy đối với người thứ ba và do có sự hỗ trợ của Nghị Định số 15/2003 của Chính phủ về xử phạt hành chính với các quy định xử phạt xe máy chưa tham gia bảo hiểm. Do đó số người tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe máy ngày càng nhiều và nhờ vậy mà doanh thu của nghiệp vụ này tăng rất nhanh
Năm 2004 doanh thu phí là135.524.120 nghìn đồng tăng 120,46% so với năm 2003, chiếm 22,74% doanh thu phí bảo hiểm gốc toàn công ty. Doanh thu phí từ xe máy là 80.786.450 nghìn đồng, tăng 179,21%, gấp 1,48 lần doanh thu phí từ ô tô. Nghiệp vụ này đã đóng góp một phần không nhỏ vào doanh thu phí của toàn công ty. Năm 2004, để thực hiện tốt chiến dịch bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe máy, PJICO đã huy động mọi cán bộ, nhân viên của công ty cùng thực hiện bán bảo hiểm xe máy, các cán bộ bán bảo hiểm của PJICO đều bắt buộc phải tham gia các lớp tập huấn, đào tạo. Qua các lớp tập huấn đó các cán bộ của PJICO đã hiểu rõ hơn về các nội dung quan trọng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự, vì vậy họ có thể giải thích cho người tham gia bảo hiểm về lợi ích và tầm quan trọng của việc tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, thu hút được đông đảo người dân tham gia bảo hiểm
Năm 2004 là một năm thành công, tạo đà phát triển cho các năm tiếp theo, công ty đã xây dựng được một thương hiệu mạnh và hệ thống phục vụ khắp các tỉnh thành trong cả nước. Thời báo kinh tế bình chọn PJICO là “thương hiệu mạnh nhất năm 2004” của thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Năm 2005, doanh thu phí là 151.126.687 nghìn đồng, tăng 11,51% so với năm 2004, chiếm 20,99% doanh thu phí bảo hiểm gốc toàn công ty. Thị trường bảo hiểm xe máy cạnh tranh rất quyết liệt : năm 2004 Bảo Minh mất thị trường này nên họ làm rất quyết liệt để giành lại thị trường này. Bảo Việt vẫn là doanh nghiệp chiếm thị phần lớn (50%) trong khai thác nhưng do năm 2004 Bảo Việt mất nhiều thị phần về PJICO nên ngay từ đầu năm nay họ đã triển khai đồng loạt việc đại lý nhân thọ kết hợp với việc bán bảo hiểm xe máy. Nhiều đại lý của PJICO đã chuyển sang làm cho các công ty khác. Ngoài ra nhiều đại lý lớn trước đây ( các cây xăng…) là độc quyền bán bảo hiểm cho PJICO nhưng hiện nay họ vẫn bán bảo hiểm cho các công ty khác do được hưởng cơ chế cao hơn. Ngoài ra công tác kiểm tra xe tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe máy của công an giao thông không còn quyết liệt như trước nên bây giờ nhiều chủ phương tiện cũng không thấy cần thiết phải mua vì nếu họ không vi phạm luật thì họ cũng không bị kiểm trá là đã có bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới chưa. Năm 2005 là một năm khó khăn của PJICO ( các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam nói chung và PJICO nói riêng đã trải qua một năm đầy khó khăn), mặt khác cũng do ảnh hưởng của khó khăn chung toàn thị trường (toàn thị trường cũng chỉ tăng 16,5% so với mức tăng của năm 2004) nên tốc độ tăng doanh thu phí nghiệp vụ có giảm so với năm 2005. Nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba vẫn luôn giữ vai trò quan trọng, là nghiệp vụ mũi nhọn của công ty. Đây cũng là nghiệp vụ giúp PJICO giữ được thị phần trong sức ép hội nhập, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động và đại lý.
Hiệu quả khai thác nghiệp vụ BHTNDS xe cơ giới tại PJICO
giai đoạn 2001-2005
Năm
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
Doanh thu phí
( nghìn đồng)
15.605.300
22.423.000
61.472.830
135.524.120
151.126.687
Chi phí khai thác(nghìn đồng)
913.985,6
1.848.894,5
9.836.569
27.286.108
31.860.560
Tốc độ tăng chi phí(%)
-
102,29
432,02
177,39
16,76
Hiệu quả khai thác(nghìn/nghìn)
17,07
12,13
6,24
4,97
4,74
Nguồn: phòng xe cơ giới
Hiệu quả khâu khai thác=Doanh thu phí bảo hiểm gốc/ Chi phí khai thác.
Chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí bỏ ra thì thu được bao nhiêu đồng doanh thu phí. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hoạt động khai thác của công ty càng có hiệu quả
Qua bảng số liệu ta thấy: Mặc dù doanh thu phí bảo hiểm của nghiệp vụ tăng dần qua các năm( từ năm 2003 tăng rất nhanh) nhưng chi phí cũng tăng theo và hiệu quả khai thác nghiệp vụ có xu hướng giảm xuống qua các năm đó. Điều này có nghĩa là cùng với một đồng chi phí bỏ ra thì doanh thu phí bảo hiểm gốc của năm sau sẽ thấp hơn năm trước
Năm 2001, một đồng chi phí khai thác thu được 17,07 đồng doanh thu. Đến năm 2002 thì với tốc độ tăng doanh thu là 43,69% nhưng chi phí khai thác tăng 102,29% khiến cho hiệu quả khai thác là một đồng chi phí bỏ ra thu được 12,13 đồng doanh thu. Năm 2003, nếu tốc độ tăng doanh thu là 174,15%, tốc độ tăng chi phí cũng rất cao 432,02%, cao hơn so với tốc độ tăng của doanh thu và hiệu quả khai thác còn 6,24 đồng. Năm 2004 cũng tương tự như thế tốc độ tăng doanh thu là 120,46% nhỏ hơn tốc độ ._.tăng chi phí là 177,39% và hiệu quả khai chỉ còn là 4,97 đồng. Năm 2005 là một năm khó khăn của PJICO, cùng với xu hướng chung thì hiệu quả khai thác của nghiệp vụ giảm xuống còn 4,74 đồng.
Nguyên nhân là do chi phí khai thác gồm có chi phí hoa hồng, chi tiếp thị và một số khoản chi khác. Chi hoa hồng thì do sự quy định của Bộ tài chính, để đảm bảo sự cạnh tranh công bằng giữa các doanh nghiệp bảo hiểm, tránh tình trạng tuỳ tiện tăng hoa hồng khai thác cho các đại lý, môi giới, Bộ tài chính có quy định một tỉ lệ phần trăm nhất định so với doanh thu và các doanh nghiệp bảo hiểm phải áp dụng tỉ lệ đó để tính hoa hồng, Để nâng cao quyền lợi cho các đại lý thì gần đây, tỉ lệ phần trăm đó ngày càng tăng khiến chi hoa hồng của các doanh nghiệp bảo hiểm cũng tăng theo. Mặt khác do sự cạnh tranh khốc liệt ở trên thị trường, ngoài những công ty bảo hiểm lâu năm như Bảo Việt, Bảo Minh, PTI… còn có rất nhiều công ty mới thành lập như Viễn Đông,AAA… và các công ty bảo hiểm nước ngoài khiến cho PJICO gặp không ít khó khăn trong việc khai thác nghiệp vụ, công ty phải bỏ ra một khoản chi phí tiếp thị cho nghiệp vụ ngày càng nhiều. Khoản chi phí tiếp thị này cũng tính trên một tỷ lệ phần trăm nhất định so với doanh thu phí bảo hiểm. Do vậy càng khai thác được nhiều doanh thu thì khoản chi hoa hồng và chi tiếp thị cũng tăng theo khiến cho hiệu quả khai thác giảm dần.
2. Công tác giám định và bồi thường tổn thất.
Khi sự kiện bảo hiểm xảy ra doanh nghiệp bảo hiểm phải có trách nhiệm và nghĩa vụ bồi thường. Để bồi thường hoặc chi trả, người tham gia bảo hiểm phải tiến hành khiếu nại đòi bồi thường. Giải quyết khiếu nại một cách chủ động nhanh chóng, chính xác, hợp lý là sự biểu hiện cụ thể trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm đối với khách hàng của mình. Để xác định chính xác số tiền bồi thường, trước hết doanh nghiệp bảo hiểm phải tiến hành giám định tổn thất và từ kết quả giám định doanh nghiệp bảo hiểm sẽ tiến hành bồi thường.
2.1 Công tác giám định
Khi xảy ra tổn thất việc giám định là cần thiết để đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên khách hàng và nhà bảo hiểm, thông qua giám định nhà bảo hiểm xác định được rủi ro có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không, nếu thuộc phạmvi bảo hiểm thì mức độ lỗi của chủ xe là bao nhiêu để từ đó tiến hành bồi thường. Và cũng dựa vào kết quả giám định công ty có thể tìm ra nguyên nhân của rủi ro để từ đó kịp thời đề ra các biện pháp đề phòng, ngăn ngừa tổn thất.
Giám định tổn thất được thực hiện bởi các chuyên viên giám định bảo hiểm. Chuyên viên giám định phải công minh, cẩn thận và hiểu biết một cách thấu đáo về nghiệp vụ bảo hiểm mà mình phụ trách, nắm vững Luật dân sự, luật an toàn giao thông... Phải thi hành công vụ một cách mẫn cán, chấp hành nghiêm chỉnh những chỉ thị, ý kiến của doanh nghiệp bảo hiểm.
Xe cơ giới có đặc trưng là hoạt động trên phạm vi rộng toàn quốc, do đó tai nạn có thể xảy ra bất cứ ở đâu, khi nào. Khi đó, để đáp ứng được nhu cầu, tính chất của công việc là kịp thời, chính xác, cũng như đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng với mục đích tăng cường chất lượng phục vụ, PJICO đã quy định các giám định viên ở các chi nhánh thuộc địa bàn nơi xảy ra sự cố tai nạn phải đi giám định thu thập thông tin ngay để việc liên lạc giữa các đơn vị với nhau, cũng như giữa các đơn vị với công ty trong lĩnh vực giám định được thông suốt, công tác giám định và thu thập thông tin ban đầu sẽ không bị chậm chễ đáp ứng được đòi hỏi của khách hàng, nhất là các vụ tổn thất xảy ra ngoài giờ hành chính. Từ năm 2003 PJICO đã thiết lập đường dây điện thoại nóng chuyên phục vụ cho công tác giám định tổn thất và phân công cán bộ giám định trực 24/24 giờ để nhận thông tin tai nạn và xử lý ban đầu. Đây là một bước cải tiến đáng kể trong công tác giám định nhờ vậy mà việc giám định tổn thất sẽ được chính xác, kịp thời. Đó là nhờ có sự quan tâm của cán bộ lãnh đạo luôn theo dõi sát sao tình hình thực tế trên thị trường và với sự nhanh nhạy của mình PJICO đã kịp thời đưa ra những biện pháp để khắc phục cũng như ngày càng hoàn thiện công tác giám định của mình
Quy trình giám định ở PJICO cũng phải tuân thủ theo những quy định chặt chẽ của Bộ tài chính.
Các quy định cụ thể của PJICO trong công tác giám định :
Đảm bảo kịp thời, đầy đủ, chung thực, khách quan, đảm bảo tốt cho công tác giải quyết bồi thường sau này.
Công ty có thể trực tiếp giám định hoặc chỉ định đại lý giám định, hoặc thuê các công ty giám định trong và ngoài nước.
Tai nạn xảy ra ở đâu thì đơn vị PJICO ở đó có trách nhiệm giám định, thu thập hồ sơ và khắc phục hậu quả tai nạn. Trường hợp tại nơi xảy ra tai nạn chưa có đơn vị của PJICO thì đơn vị PJICO gần nhất thực hiện. Việc giám định được thực hiện tự động khi có thôg báo từ khách hàng hoặc của đơn vị trong hệ thống PJICO, không nhất thiết phải có văn bản yêu cầu của đơn vị cấp bảo hiểm gốc.
Đơn vị PJICO nơi xảy ra tai nạn phải thông báo ngay cho đơn vị PJICO cấp đơn bảo hiểm biết để phối hợp giải quyết. Những vụ việc lớn hoặc phức tạp thì đồng thời báo ngay cho với Công ty để phối hợp chỉ đạo
*Quy trình giám định :
C. Nhận thông tin:
- Bộ phận có trách nhiệm trong việc tiếp nhận thông tin là phòng giám định- bồi thường, phòng nghiệp vụ của chi nhánh hay bộ phận được giao nhiệm vụ thực hiện công tác giám định bồi thường của văn phòng đại diện, khi các bộ phận khác không có chức năng giám định nhận thông tin tổn thất thì phải thông báo về bộ phận giám định.
- Người tiếp nhận thông báo tổn thất phải nắm được các thông tin về tình hình tai nạn (tên chủ xe, biển số xe, thời gian địa điểm xảy ra tai nạn, sơ bộ về tai nạn. Việc tham gia bảo hiểm (nơi cấp giấy chứng nhận bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm). Tình hình giải quyết ban đầu của chủ xe và các cơ quan chức năng.
- Cán bộ giám định nhận được thông tin tai nạn vào sổ tiếp nhận thông tin tổn thất.
C. Hướng dẫn xử lý ban đầu
Trách nhiệm thực hiện là cán bộ giám định và lãnh đạo phòng, thực hiện ngay khi nhận được thông tin.
C. Tiến hành giám định, lập biên bản giám định.
* Nguyên tắc tiến hành:
- Việc giám định phải tiến hành sớm nhất ngay sau khi nhận được thông báo tai nạn, tối đa không quá 24 giờ. Nếu chậm trễ phải có lý do hợp lý.
- Mọi thiệt hại về tài sản đều phải tiến hành giám định. Thiệt hại về người thì không phải giám định mà căn cứ vào các chứng từ điều trị y tế xét bồi thường
- Trường hợp không giám định được phải có lý do, mức độ thiệt hại cân cứ vào Biên bản của cơ quan chức năng, ảnh chụp, kết quả thẩm định, điều tra của PJICO để xác định.
- Quy trình giám định phải có mặt và ký xác nhận của các bên có liên quan.
* Lập biên bản giám định.
Biên bản giám định phải ghi đầy đủ, chính xác, trung thực theo mẫu biên bản giám định. Biên bản giám định phải lập hoàn thành tại chỗ ngay sau khi giám định.
C.Báo cáo giám định
Cán bộ giám định phải lập báo cáo giám định trong vòng một ngày ngay sau khi giám định đối với các tổn thất trên 50 triệu đồng, hoặc sau khi có bản dự toán đầu tiên đối với các tổn thất trên 10 triệu đồng.
C. Lựa chọn phương án khắc phục thiệt hại
Căn cứ vào tổn thất thực tế, quy tắc bảo hiểm, yêu cầu của chủ xe. để cùng dự kiến một phương thức bồi thường:
Bồi thường theo chi phí sửa chữa theo thực tế.
Bồi thường theo đánh giá thiệt hại.
Bồi thường tổn thất toàn bộ.
Cán bộ giám định lập báo cáo trình lãnh đạo duyệt giá trị thiệt hại hợp lý chấp nhận. Cán bộ giám định phải chịu trách nhiệm về tính đúng đắn , hợp lý, mặt bằng giá cả thị trường.
C. Hoàn chỉnh hồ sơ bồi thường
Cán bộ giám định chuyển hồ sơ sang bộ phận xét bồi thường sau khi đã hoàn chỉnh hồ sơ. Trong vòng 01 ngày kể từ ngày có đầy đủ hồ sơ, cán bộ giám định phải chuyển hồ sơ sang bộ phận xét bồi thường
Trên đây là toàn bộ quy trình giám định thiệt hại của PJICO. Nhờ có quy trình giám định được phân bố một cách có khoa học, nhờ vậy mà trong những năm vừa qua tình hình giám định ở PJICO đã đạt được những kết quả khả quan.
Giám định rủi ro và tổn thất là hoạt động hết sức phức tạp liên quan, ảnh hưởng đến nhiều bên, ở nhiều vùng còn bị ảnh hưởng bởi các thông lệ, thủ tục . Đặc biệt nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là nhằm để bảo vệ lợi ích công cộng và quyền lợi chính đáng của người thứ ba nên công tác giám định càng khó khăn hơn.
Việc giám định đòi hỏi đội ngũ cán bộ giám định phải có trình độ và kinh nghiệm thực tiễn cao. Dưới sự chỉ đạo đúng đắn, quan tâm của các cấp lãnh đạo công ty, để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giám định, công ty đã trang bị rất nhiều các phương tiện cần thiết để giám định được chính xác hơn. Cùng với sự cố gắng nỗ lực của các cán bộ giám định nên công tác giám định ở PJICO ngày càng có sự chuyển biến tích cực và đã khẳng định được vai trò của mình. Công tác giám định không chỉ do một phòng giám định trên công ty thực hiện mà được thực hiện tại tất cả các chi nhánh của công ty, đảm bảo cho việc giám định được thuận lợi nhanh chóng và chính xác. Trên thị trường bảo hiểm PJICO ngày càng chiếm được sự tin tưởng của khách hàng, một nguyên nhân đó là do công tác giám định tổn thất và khiếu nại bồi thường được công ty tiến hành một cách nhanh chóng kịp thời.
Hiện nay công tác giám định tổn thất ở PJICO đang được hoàn thiện và đạt những kết quả đáng khích lệ.
2.3 Công tác bồi thường
Bồi thường và chi trả bảo hiểm là vấn đề trọng tâm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Khi tổn thất xảy ra thì khách hàng thường bị xốc về tinh thần, lúc này thì năng lực, sự trung thực, tính hiệu quả, sự tế nhị và tính nhân đạo của doanh nghiệp bảo hiểm được thừa nhận qua cách xử sự của mình với các nạn nhân. Nếu giải quyết tốt thì đó là cách quảng cáo tốt nhất đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Giám định và bồi thường tổn thất là khâu quan trọng quyết định tới uy tín và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm. Vì vậy các doanh nghiệp bảo hiểm thường đề ra tiêu chuẩn:”nhanh chóng, kịp thời, chính xác, hợp pháp và đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của khách hàng”.
phương châm hoạt động số 1 của PJICO đó là việc giải quyết bồi thường nhanh chóng, thoả đáng cho khách hàng. Nhận thức sâu sắc vấn đề này, Công ty luôn coi đó là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu trong hoạt động kinh doanh của mình, coi đây không chỉ thuần tuý là vấn đề đền bù tài chính mà còn phải quan tâm động viên, chia sẻ tình cảnh khó khăn với khách hàng mỗi khi không may gặp tai nạn, rủi ro. Công tác bồi thường ngày càng được nâng cao chất lượng phục vụ, đây là một công tác rất quan trọng. PJICO những năm gần đây đã được khách hàng đánh giá cao trong công tác này. Hệ thống phục vụ đã được tăng cường tại các tỉnh và các nút đường quốc lộ giao thông chính.
Quy trình bồi thường mà PJICO đưa ra là :
CTiếp nhận hồ sơ:Cán bộ bồi thường tiếp nhận hồ sơ.
C.Kiểm tra hoàn thiện hồ sơ.
Cán bộ xét bồi thường tiến hành kiểm tra lại toàn bộ hồ sơ, nếu thấy hồ sơ chưa đảm bảo đủ căn cứ để xét bồi thường thì phải thông báo lại cho cán bộ giám định trong vòng 01 ngày kể từ ngày nhận hố sơ từ cán bộ giám định để bổ sung hoặc giải trình
C.Tính toán bồi thường
Trên cơ sở hồ sơ, căn cứ vào báo cáo giám định tổng hợp của cán bộ giám định, cán bộ bồi thường tiến hành tính toán bồi thường.
Phòng nghiệp vụ bồi thường có thể lấy ý kiến góp ý thuộc các lĩnh vực chức năng chuyên môn của các phòng khác (phòng kế toán, thanh tra, quản lý nghiệp vụ, phòng cấp giấy chứng nhận bảo hiểm), phòng góp ý kiến trả lời trong vòng 01 ngày.
Cán bộ bồi thường tiến hành tính toán, lập tờ trình bồi thường. Sau đó chuyển hồ sơ trình Lãnh đạo duyệt theo phân cấp. Lãnh đạo duyệt tờ trình trong vòng 01 ngày.
C.Trả tiền bồi thường.
Phòng giám định bồi thường hoặc phòng nghiệp vụ của chi nhánh lập bản thông báo bồi thường gửi cho khách hàng trong vòng 01 ngày kể từ khi hồ sơ được lãnh đạo duyệt.
Về nguyên tắc, mọi trường hợp bồi thường phải có giấy báo bồi thường.
Tuy nhiên để đơn giản, giảm bớt công việc trong trường hợp không cần thiết, thì không cần làm giấy báo nhưng phải nói cho khách hàng biết việc không làm giấy báo, trong trường hợp : khách hàng ký biên nhận tiền trực tiếp và không yêu cầu làm giấy báo bồi thường.
Phòng kế toán làm thủ tục trả tiền cho khách hàng trong vòng 02 ngày
C.Xử lý tài sản hỏng
Hoạt động bồi thường của PJICO dược đánh giá là có hiệu quả cao nhờ có quy trình giải quyết bồi thường nhanh gọn, hợp lý. Hệ thống quy trình giám định bồi thường của nghiệp vụ đã được hoàn thiện ban hành và công bố công khai cho khách hàng theo hướng đơn giản hoá thủ tục, thuận tiện, nhanh chóng cho khách hàng. Việc quy định thời gian trong từng khâu cụ thể, rõ ràng từ đó làm cho công tác bồi thường được chính xác. Mặt khác công ty có đội ngũ giám định bồi thường là những người có trình độ chuyên môn, hiểu biết sâu rộng và năng động đã được tiêu chuẩn hoá, sàng lọc và kiện toàn. Đối với những vụ bồi thường phức tạp công ty sẵn sàng thuê giám định viên độc lập cùng phối hợp nghiên cứu xác minh để bồi thường nhanh chóng, thoả đáng cho khách hàng.
Hiểu được những khó khăn khi khách hàng gặp rủi ro, công ty bảo hiểm PJICO cam kết cố gắng giải quyết bồi thường thiệt hại một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất cho khách hàng
Thời gian giải quyết bồi thường theo quy định
Số tiền bồi thường
Số ngày xem xét bồi thường
Ngày trả tiền chậm nhất (kể từ khi nhận hồ sơ khiếu nại)
STBT≤1 Trđ
≤ 6 ngày
Ngày thứ 7
1 Trđ≤STBT<20 Trđ
≤8 ngày
Ngày thứ 9
20 Trđ≤STBT<30 Trđ
≤11 ngày
Ngày thứ 12
Nguồn: công ty bảo hiểm PJICO
Thời gian giải quyết bồi thường là khoảng thời gian kể từ khi doanh nghiệp bảo hiểm nhận được thông báo tổn thất của khách hàng đến khi khách hàng nhận được thông báo bồi thường (hoặc từ chối bồi thường) của doanh nghiệp bảo hiểm.
Qua bảng số liệu trên ta thấy thời gian giải quyết bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới là tương đối nhanh. Nó được công ty quy định rõ ràng, khẳng định lời cam kết của công ty là nhanh chóng, kịp thời bồi thường cho khách hàng, nhằm bù đắp tổn thất cho khách hàng cả về vật chất và tinh thần. Nhờ đó mà uy tín của công ty ngày càng được nâng cao.
Tình hình bồi thường nghiệp vụ BHTNDS của PJICO
giai đoạn 2001-2005
Năm
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
Sô tiền bồi thường
(nghìn đồng)
ô tô
Xe máy
10.616.530
10.440.980
175.550
15.045.830
14.847.400
198.430
22.950.500
21.460.000
1.490.500
42.390.850
33.950.850
8.440.000
52.391.000
35.970.800
16.420.200
Tốc độ tăng(%)
ô tô
Xe máy
-
-
-
41,72
42,20
13,03
52,54
44,54
651,15
84,71
58,20
466,25
23,59
5,95
94,55
Doanh thu phí(nghìn đồng)
ô tô
Xe máy
15.605.260
13.900.700
1.704.560
22.423.000
19.461.150
2.961.850
61.472.830
32.539.050
28.933.780
135.524.120
54.737.670
80.786.450
151.126.687
52.609.677
98.517.010
Tỷ lệ bồi thường(%)
ô tô
Xe máy
68,03
75,11
10,30
67,1
76,29
6,70
37,33
65,95
5,15
31,28
62,02
10,45
34,67
68,37
16,68
Nguồn: báo cáo thống kê của PJICO
Qua bảng số liệu ta thấy:
• Thứ nhất là tổng số tiền bồi thường của nghiệp vụ là rất lớn và tăng dần qua các năm:
Năm 2001 Tổng số tiền bồi thường là 10.616.530 nghìn đồng, trong đó ô tô là 10.440.980 nghìn đồng, xe máy là 175.550 nghìn đồng.
Năm 2002 tổng số tiền bồi thường là 15.045.830 nghìn đồng, tăng 41,72%. Trong đó ô tô là 14.847.400 nghìn đồng, tăng 42,20%. Xe máy là 198.430 nghìn đồng,tăng 13,03%.
Năm 2003 tổng số tiền bồi thường là 22.950.500 nghìn đồng, tăng 52,54%. Trong đó ô tô là 21.460.000 nghìn đồng, tăng 44,54%. Xe máy là 1.490.500 nghìn đồng, tăng 651,15%.
Năm 2004, tổng số tiền bồi thường là 42.390.850 nghìn đồng, tăng 84,71%. Trong đó ô tô là 33.950.850 nghìn đồng, tăng 58,20%. Xe máy là 8.440.000 nghìn đồng, tăng 466,25%. Tổng số tiền bồi thường cho trách nhiệm dân sự của chủ xe máy vẫn tăng với tốc độ cao.
Năm 2005, tổng số tiền bồi thường là 52.391.000 nghìn đồng, tăng 23, 59%. Trong đó ô tô là 35.970.800 nghìn đồng tăng 5,95%. Xe máy là 16.420.200 nghìn đồng, tăng 94,55%.
Tốc độ tăng số tiền bồi thường cho xe máy từ năm 2003 có sự tăng vọt, một nguyên nhân là do xe máy gây ra tai nạn ngày càng nhiều, mặc dù số tiền bồi thường bình quân cho một vụ tai nạn do xe máy gây ra khoảng hai triệu đồng một vụ nhỏ hơn so với xe ô tô là khoảng 5 triệu đồng một vụ nhưng do xe máy là có số lượng lớn và hiện nay nó là phương tiện giao thông chính của người dân ở nước ta, tốc độ tăng xe máy rất nhanh, nó đáp ứng được nhu cầu đi lại của người dân vì nó rất cơ động và giá cả hợp lý. Đặc biệt trên thị trường hiện nay xe máy Trung Quốc, Đài Loan rất nhiều, có giá cả rẻ và kém chất lượng. đây chính là nguồn nguy hiểm cao độ, các vụ tai nạn do xe máy gây ra tuy không gây thiệt hại nhiều như ô tô nhưng số vụ tai nạn do xe máy gây ra lại nhiều hơn so với xe ô tô. Mặt khác từ năm 2003 do có sự quy định chặt chẽ hơn, số lượng xe máy tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giớ đối với người thứ 3 tăng rất nhanh. Do đó trách nhiệm của các công ty bảo hiểm là rất lớn, PJICO cũng không nằm ngoài trách nhiệm đó. Từ năm 2003 số lượng xe máy tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ở PJICO tăng rất nhanh và vì thế số tiền bồi thường cho xe máy cũng tăng rất nhanh.
Ngoài ra do trong bảo hiểm xe cơ giới hiện tượng trục lợi bảo hiểm là rất dễ xảy ra, đặc biệt là đối với xe máy:
* Khi tai nạn xảy ra, do để đảm bảo lưu thông nên thường không giữ hiện trường nguyên cho tới khi người có trách nhiệm đến nên rất khó xác định được mức độ lỗi của người gây tai nạn.
* Tai nạn giao thông xảy ra bất ngờ, diễn biến nhanh, ít có người chứng kiến đầy đủ chi tiết diễn biến vụ tai nạn.
* Những người biết sự việc diễn ra trong vụ tai nạn giao thông thường không có điều kiện ở thị trường lâu để giúp đỡ các cơ quan có thẩm quyền điều tra.
* Hiện trường vụ tai nạn giao thông dễ bị thay đổi do tác động các yếu tổ chủ quan và yếu tố khách quan khác nhau.
* Thiệt hại trong vụ tai nạn giao thông thường có những biến đổi nhất định, dẫn đến sự thay đổi về tổ chức tiến hành hoạt động điều tra.
* Các bên có liên quan trong vụ tai nạn giao thông thường có điều kiện gặp gỡ, trao đổi, thoả thuận đền bù dân sự, làm ảnh hưởng đến tính khách quan của hoạt động điều tra xử lý.
Nguyên nhân nữa là do ý thức của người điều khiển xe : mức trách nhiệm được nâng lên 30 triệu đồng/người/vụ và 30 triệu đồng/vụ về tài sản so với trước đây là 12 triệu đồng/người/vụ và 30 triệu đồng/vụ về tài sản khiến cho nhiều chủ xe kém hiểu biết xem thường tính mạng, cố tình điều khiển xe vi phạm luật giao thông, khi tai nạn xảy ra thì không thực hiện các biện pháp cữu chữa thiệt hại mà để mặc mọi thứ cho bảo hiểm lo. Những nguyên nhân này đã khiến cho chi bồi thường cho nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ngày càng lớn ã
thứ hai là tỷ lệ bồi thường:
tỷ lệ bồi thường= số tiền bồi thường/ doanh thu phí bảo hiểm
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy mặc dù số tiền bồi thường tăng qua các năm nhưng do doanh thu phí bảo hiểm thu được từ nghiệp vụ tăng nhanh và chi bồi thường ngày càng chiếm tỷ lệ nhỏ hơn so với doanh thu phí nên tỷ lệ bồi thường của PJICO là có xu hướng giảm qua các năm
Năm 2001 tỷ lệ bồi thường là 68,03%, trong đó ô tô là 75,11%, xe máy là 10,30%.
Năm 2002 tỷ lệ bồi thường chung là 67,1%, trong đó ô tô là 76,29%, xe máy là 6,7%.
Năm 2003 tỷ lệ bồi thường chung là 37,33%, trong đó ô tô là 65,95%, xe máy là 5,15%. Tỷ lệ bồi thường của xe máy và ô tô đều giảm so với năm 2002.
Năm 2004, tỷ lệ bồi thường chung vẫn giảm là 31,28%, trong đó tỷ lệ bồi thường của ô tô là 62,02%, của xe máy là 10,45%. Như vậy tỷ lệ bồi thường của xe máy tăng, tỷ lệ bồi thường của ô tô giảm nhưng tỷ lệ bồi thường ô tô của PJICO vẫn cao.
Đến năm 2005 tỷ lệ bồi thường chung tăng, tỷ lệ bồi thường của cả nghiệp vụ là 34,67%. Trong đó tỷ lệ bồi thường của ô tô là 68,37%, của xe máy là 16,68%.
Nhìn chung có thể đánh giá công tác giám định- bồi thường ở PJICO năm 2005 gặp một số khó khăn như sau:
Phòng giám định - bồi thường công ty quá tải công việc nên chưa làm tốt chức năng quản lý hướng dẫn công tác giám định bồi thường ở các chi nhánh.
Chất lượng công tác thanh tra- kiểm tra về công tác giám định bồi thường đối với các đơn vị còn yếu.
- Trình độ cán bộ giám định bồi thường chưa được đồng đều tại Văn phòng Công ty cũng như các khu vực.
- Cán bộ giám định bồi thường hầu hết không được đào tạo cơ bản về các kỹ thuật xe cơ giới, thậm chí về nghiệp vụ xe cơ giới cũng không nắm bắt được nhuần nhuyễn để giải thích các thắc mắc với khách hàng
- Lực lượng cán bộ giám định- bồi thường còn mỏng về lực lượng và nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu tính chuyên nghiệp, công tác rèn luyện tu dưỡng đạo đức nghề nghiệp và hiểu biết về pháp luật chưa được coi trọng
Hệ thống quy trình hướng dẫn giám định -bồi thường đã có nhưng chưa hoàn thiện và đặc biệt chưa tuân thủ một cách đầy đủ trong thực tế.
Thực tế tỷ lệ bồi thường tại các chi nhánh là rất cao so với chính các đơn vị này trong những năm trước đây và so với các công ty bảo hiểm khác trên cùng địa bàn.
Hiện nay có một nghịch lý là tỷ lệ bồi thường của PJICO thuộc hàng cao nhất thị trường nhưng mức độ thoả mãn chính đáng của khách hàng về chất lượng dịch vụ lại có chiều hướng đi xuống. Cần phải có bài toán vừa đảm bảo hiệu quả kinh doanh vừa đảm bảo thoả mãn nhu cầu của khách hàng.
Tóm lại công tác giám định bồi thường là vấn đề bức xúc nhất của PJICO trong giai đoạn hiện nay.
3. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất.
Kiểm soát tổn thất liên quan đến cả trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm. Nếu doanh nghiệp bảo hiểm làm tốt khâu này thì số vụ tổn thất sẽ giảm đi và mức độ tổn thất trong mỗi vụ cũng giảm từ đó doanh nghiệp bảo hiểm sẽ tiết kiệm được số tiền bảo hiểm hoặc số tiền chi trả. Kiểm soát tổn thất bao gồm cả đề phòng và hạn chế tổn thất, vì thế khâu này có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà nó còn mang lại lợi ích kinh tế xã hội rất lớn. Tổn thất không xảy ra và kiểm soát được tổn thất tạo thêm niềm tin cho khách hàng với doanh nghiệp bảo hiểm và hơn thế nữa nó góp phần bảo đảm an toàn cho xã hội. Đối với bảo hiểm xe cơ giới nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới nói riêng công tác đề phòng hạn chế tổn thất có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó góp phần giúp công ty bảo hiểm hạn chế được tai nạn giao thông và từ đó sẽ giảm được số tiền công ty phải bồi thường, giảm chi phí từ đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ này. Đối với xã hội, nguy cơ xẩy ra tai nạn giao thông giảm đi sẽ góp phần tiết kiệm của cải cho xã hội, mang lại cuộc sống yên bình cho người dân
Đối với nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba nói riêng và các nghiệp vụ liên quan đến bảo hiểm xe cơ giới nói chung. Để giảm thiểu tổn thất, thiệt hại công ty đã thực hiện một số biện pháp như:
-Công ty đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng có liên quan như : công an, giao thông công chính để tăng cường các biển báo chỉ đường, lắp các pano, áp phích để cảnh báo trước và chỉ rõ những đoạn đường nguy hiểm các chủ xe cần phải chú ý khi điều khiển xe. Việc làm này giúp cho các người điều khiển xe ý thức được từ trước và sẽ lái xe an toàn hơn.
-Lắp các gương cầu ở những đoạn đường cua hẹp, xây dựng đường lánh nạn, đường rào trên các đèo dốc nguy hiểm : Cù Mông, Măng Giang, Hải Vân, Gió, Ngoạn Mục..,
- Công ty đã hỗ trợ kinh phí tổ chức các cuộc thi lái xe tải an toàn. Phổ biến, tuyên truyền luật lệ an toàn giao thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, nhằm nâng cao ý thức chấp hành luật lệ giao thông của những người tham gia giao thông từ đó góp phần hạn chế tai nạn giao thông.
- Công ty còn phối hợp chặt chẽ với các chủ xe yêu cầu chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ giao thông, khuyến khích và hướng dẫn họ thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất. Mở các lớp học lái xe an toàn và thi lấy bằng lái cho các chủ xe
Tình hình chi đề phòng hạn chế tổn thất
nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
ở PJICO giai đoạn 2003-2005
Năm
chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng chi ĐPHCTT
( nghìn đồng)
358.920
504.520
1.395.433
3.130.607
3.521.251
Tốc độ tăng(%)
-
40,57
176,59
124,35
12,48
Doanh thu phí BHTNDS
(nghìn đồng)
15.605.300
22.423.000
61.472.830
135.524.120
151.126.687
Chi ĐPHCTT/tổng doanh thu(%)
2,29
2,25
2,27
2,31
2,33
Nguồn : Báo cáo thống kê PJICO
Qua bảng số liệu ta thấy:
Năm 2001, tổng số tiền chi cho đề phòng và hạn chế tổn thất là 358.920 nghìn đồng, chiếm 2,29% doanh thu. Sang năm 2002, tổng chi là 504.520 nghìn đồng, chiếm 2,25% doanh thu phí. Năm 2001, 2002 là năm có số vụ tai nạn giao thông xảy ra nhiều nên phải chi nhiều cho công tác đề phòng và hạn chế tổn thất, mặt khác do doanh thu phí tăng nên số tiền chi cho công tác này tăng 40,57% so với năm 2001.
Năm 2003, tổng chi là 1.395.433 nghìn đồng, chiếm 2,27% doanh thu phí, tăng 176,59% so với năm2002. Năm 2004, tổng chi là 3.130.607 nghìn đồng, chiếm 2,31%, tăng 124,35% so với năm 2003. Năm 2005, tổng chi là 3.521.251 nghìn đồng, chiếm 2,33% doanh thu phí, tăng 12,48% so với năm 2004.
Ta thấy số tiền chi cho công tác đề phòng và hạn chế tổn thất của PJICO tăng lên qua các năm, đó là do chi cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất thường được tính bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng doanh thu phí thu được trong năm tài chính theo quy định của công ty( khoảng 2-3%) nên doanh thu phí thu được càng nhiều thì chi cho đề phòng và hạn chế tổn thất càng nhiều. Từ năm 2003 tình hình tai nạn giao thông trên toàn quốc có xu hướng tích cực hơn, số vụ tai nạn giao thông giảm xuống nhưng qua bảng số liệu ta thấy tỉ lệ chi đề phòng và hạn chế tổn thất trên tổng doanh thu phí có xu hướng tăng lên chứng tỏ công ty ngày càng quan tâm tới công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Công ty cần phải quan tâm hơn tới công tác này bởi vì nó sẽ giúp công ty nâng cao được hiệu quả kinh doanh của mình.
Trong tổng chi đề phòng hạn chế tổn thất thì chi cho tuyên truyền, quảng cáo là khoản chi lớn nhất, sau đó là chi cho khen thưởng, tiếp đó là chi cho hỗ trợ, chi hội nghị và chi khác
Hiệu quả công tác đề phòng và hạn chế tổn thất
của nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
giai đoạn 2001-2002
Năm
chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
Chi ĐPHCTT
(nghìn đồng)
358.920
504.520
1.395.433
3.130.607
3.521.251
Lợi nhuận
(nghìn đồng
1.040.640
1.491.130
19.913.595
46.453.661
45.218.675
H(nghìn đồng/nghìn đồng)
2,90
2,95
14,27
14,84
12,84
Nguồn: Phòng kế toán
Hiệu quả công tác đề phòng và hạn chế tổn thất : H
H= Lợi nhuận nghịêp vụ trong kỳ/ Chi đề phòng hạn chế tổn thất trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí đề phòng và hạn chế tổn thất chi ra trong kỳ tham gia tạo bao nhiêu đồng lợi nhuận nghiệp vụ.
Qua bảng số liệu ta thấy công tác đề phòng và hạn chế tổn thất của công ty thực sự có hiệu quả.
Năm 2001 một đồng chi đề phòng và hạn chế tổn thất tham gia trong kỳ chỉ tạo ra 2,9 đồng lợi nhuận. Năm 2002, tạo ra 2,95 đồng lợi nhuận. Hai năm này hiệu quả của công tác đề phòng và hạn chế tổn thất còn thấp. Đó là do trong hai năm này tai nạn giao thông xảy ra nhiều, tỉ lệ bồi thường của nghiệp vụ cao: năm 2001 là 68,03%, năm 2002 là 67,10% đã làm cho lợi nhuận của nghiệp vụ giảm xuống.
Năm 2003, số vụ tai nạn giao thông giảm xuống, tuy số tiền bồi thường của công ty tăng lên ( số lượng xe tham gia bảo hiểm tăng lên) nhưng phí thu được là rất lớn và như vậy tỷ lệ bồi thường giảm xuống chỉ còn 37,33%, năm 2004 là 31,28% và năm 2005 là 34,67%, lợi nhuận thu được từ nghiệp vụ ngày càng tăng. Năm 2003 một đồng chi đề phòng và hạn chế tổn thất tham gia trong kỳ tạo ra 14,27 đồng lợi nhuận, năm 2004 tham gia tạo ra 14,84 đồng lợi nhuận doanh thu, năm 2005 tuy có giảm xuống còn 12,84 đồng lợi nhuận nhưng đây vẫn chứng tỏ từ năm 2003 công tác đề phòng và hạn chế tổn thất của công ty thực sự có hiệu quả, hiệu quả nghiệp vụ cao chứng tỏ công ty đã rất quan tâm tới công tác này và công ty cần phải có những biện pháp, kế hoạch để thực hiện công tác này tốt hơn nữa
4. Đánh giá tình hình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ở Công ty bảo hiểm PJICO.
4.1 Kết quả kinh doanh.
Kết quả kinh doanh là kết quả quá trình thực hiện nghiệp vụ kể từ khâu khai thác bảo hiểm đến các khâu giải quyết khiếu nại bồi thường và kiểm soát tổn thất. Kết quả kinh doanh giúp doanh nghiệp bảo hiểm đánh giá được toàn diện thực trạng hoạt động kinh doanh của mình. Kết quả kinh doanh một nghiệp vụ bảo hiểm cũng được thể hiện ở hai chỉ tiêu : Doanh thu và lợi nhuận
Doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là toàn bộ số phí thu được từ những người tham gia bảo hiểm trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm.
Chi phí của nghiệp vụ là toàn bộ số tiền chi ra trong tất cả các khâu gồm:
Chi khai thác.
Chi đề phòng và hạn chế tổn thất
Chi bồi thường bảo hiểm, đây là khoản chi lớn nhất.
Chi quản lý, nộp thuế, trích lập dự phòng nghiệp vụ…
Dựa vào kết quả doanh thu và chi phí sẽ tính được chỉ tiêu lợi nhuận của nghiệp vụ. Chỉ tiêu này cho biết nghiệp vụ có lãi hay không, thực tế tình hình triển khai nghiệp vụ để từ đó doanh nghiệp liên hệ so sánh, đối chiếu, tổng hợp để rút ra quy luật, bản chất và xu hướng phát triển của hiện tượng.
Lợi nhuận = Doanh thu nghiệp vụ- Tổng chi nghiệp vụ
Nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là một nghiệp vụ bắt buộc. Chính phủ quy định tất cả các chủ xe cơ giới đều phải tham gia, tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đều phải kinh doanh loại hình bảo hiểm này, không được phép từ chối bán bảo hiểm khi người tham gia bảo hiểm có nhu cầu. Mặc dù đối với nghiệp vụ này, Bộ tài chính có quy định biểu phí, số tiền bảo hiểm bắt buộc nhưng nó vẫn là một nghiệp kinh doanh độc lập của từng công ty, các công ty có thể dựa vào mức bắt buộc đó để đưa ra các mức tự nguyện riêng của từng công ty mình. Các công ty bảo hiểm phải dựa vào thế mạnh của mình để triển khai kinh doanh nghiệp vụ thu càng nhiều lợi nhuận càng tốt.
Trong giai đoạn vừa qua, tình hình kinh d._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32726.doc