Trí tuệ cảm xúc của học sinh Trung học phổ thông Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH VÕ HOÀNG ANH THƯ TRÍ TUỆ CẢM XÚC CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ BẢO LỘC – LÂM ĐỒNG Chuyên ngành: Tâm lý học Mã số: 603180 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ THU MAI Thành phố Hồ Chí Minh - 2010 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình của bản thân. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực, chưa được ai công bố trong bất cứ công

pdf122 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3029 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Trí tuệ cảm xúc của học sinh Trung học phổ thông Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trình nào. Nếu có bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin chịu trách nghiệm trước Hội đồng cũng như kết quả luận văn của mình. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm Tác giả Võ Hoàng Anh Thư LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Trần Thị Thu Mai, người thầy đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn sự chỉ dẫn tận tâm của tất cả các giảng viên đã giảng dạy chúng tôi trong suốt thời gian học tập vừa qua, đặc biệt là sự quan tâm, tận tình giúp đỡ của quý thầy cô đang công tác tại phòng Khoa học Công nghệ - Sau đại học và khoa Tâm lý Giáo dục trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Ban Giám Hiệu và các em học sinh của trường trung học phổ thông Bảo Lộc và trường trung học phổ thông Nguyễn Du đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thưc hiện đề tài này. Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến những người thân trong gia đình đặc biệt là ba mẹ và ông xã về sự động viên, giúp đỡ to lớn nhất dành cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu luận văn này. Đây cũng là món quà tôi dành tặng cho con gái bé nhỏ vì đã luôn mang lại cho tôi những niềm vui và hạnh phúc lớn lao. BẢNG DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT RC Rất cao C Cao TB Trung bình T Thấp RT Rất thấp ĐLC Độ lệch tiêu chuẩn ĐTB Điểm trung bình N Tần số TSCN Trị số cao nhất TSTN Trị số thấp nhất P Mức ý nghĩa ĐC Nhóm đối chứng TN Nhóm thực nghiệm RN Rất nhiều KAH Không ảnh hưởng NXB Nhà xuất bản EQ Chỉ số trí tuệ cảm xúc IQ Chỉ số trí thông minh MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Xã hội hiện đại, khoa học kỹ thuật phát triển, cá nhân dễ dàng đạt được thành công trong nhiều lĩnh vực. Đây cũng là lúc con người có sự quan tâm đến những nhu cầu của đời sống tinh thần đặc biệt là trong các mối quan hệ người - người. Mặc dù mục tiêu giáo dục của nước ta là phát triển toàn diện nhân cách học sinh nhưng chương trình giáo dục hầu như chỉ tập trung phát triển các năng lực học tập, cung cấp kiến thức mà ít chú trọng đến vấn đề giáo dục trí tuệ cảm xúc cho học sinh. Do vậy, để đáp ứng yêu cầu của xã hội, giáo dục cần phải có những thay đổi để có thể đào tạo ra những công dân không những vừa có đức vừa có tài mà còn có khả năng giải quyết hiệu quả các mối quan hệ xã hội. Trong đó, giáo dục phát triển trí tuệ cảm xúc cho trẻ là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên sự thành đạt của những công dân tương lai. 1.2. Trí tuệ cảm xúc, một dạng trí thông minh mà các cuộc nghiên cứu gần đây khẳng định rằng chúng quan trọng hơn cả trí thông minh truyền thống trong việc dự đoán sự thành công và hạnh phúc của con người. Giáo sư Daniel Goleman cho rằng: “Nếu bạn không có những khả năng về cảm xúc thì bạn không thể nào tiến xa được”. Và từ thời cổ đại, Aristotle cũng cho rằng: “Bất cứ ai cũng có thể trở nên giận dữ - điều này thật dễ dàng. Tuy nhiên, để giận đúng người, đúng mức, đúng lúc, đúng mục đích, và đúng cách - điều này là không dễ”. Trong một nghiên cứu năm 2005, Gary R. Low và Darwin B. Nelson (trường Cao đẳng Giáo dục Texas Hoa Kỳ) đã kết luận “Trí tuệ cảm xúc là chìa khóa quan trọng của cá nhân trong việc giành được thành tích xuất sắc trong học thuật và sự nghiệp” [29]. Như vậy, có thể nói việc nhận thức đúng về tình cảm và khả năng xử lý cảm xúc sẽ quyết định sự thành công và hạnh phúc của mọi người thuộc mọi tầng lớp và trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. 1.3. Phát triển trí tuệ cảm xúc có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển của học sinh. Ví dụ, trí tuệ cảm xúc giúp trẻ quản lý các tình huống căng thẳng và giải quyết các vấn đề hàng ngày một cách hiệu quả. Điều này tạo cho trẻ một nền tảng tốt về nhân cách cũng như những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống để trẻ có thể thành công vững chắc trong tương lai. Trí tuệ cảm xúc chịu ảnh hưởng bởi kinh nghiệm mà cá nhân gặp phải, nó không cố định và có thể thay đổi. Do vậy, việc giáo dục trí tuệ ở học sinh là một điều cần thiết và rất đáng được quan tâm. 1.4. Trí tuệ cảm xúc được hình thành trong những năm đầu của cuộc đời và tiếp tục phát triển cho đến khi trưởng thành. Đặc biệt, những năm học ở nhà trường phổ thông là những năm thú vị và có ý nghĩa sâu sắc trong cuộc đời, là thời gian các em phát triển về mặt xã hội, tình cảm, nhận thức và thể chất một cách mạnh mẽ. Đây chính là giai đoạn học sinh trải nghiệm sự phát triển to lớn về mặt tình cảm. Đối với học sinh trung học phổ thông, việc học hỏi để hiểu biết và phát triển những khả năng về cảm xúc là vô cùng quan trọng. Điều này giúp cho các em nâng cao năng lực cảm xúc của bản thân và tạo dựng nền tảng cho sự phát triển của trí tuệ cảm xúc. Sự chuẩn bị tốt về mặt cảm xúc ở giai đoạn tuổi học sinh trung học phổ thông là tiền đề để trẻ tự tin, vững bước tiến vào ngưỡng cửa cuộc đời. Như vậy, giai đoạn học sinh trung học phổ thông là giai đoạn cần thiết và quan trọng để giáo dục trí tuệ cảm xúc. 1.5. Tuy vậy, trí tuệ cảm xúc vẫn là một vấn đề mới mẻ, phức tạp nên chưa được nghiên cứu nhiều. Đặc biệt vấn đề trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng chưa được ai nghiên cứu. Từ những lý do nêu trên, chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài: “TRÍ TUỆ CẢM XÚC CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ BẢO LỘC – LÂM ĐỒNG” 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu thực trạng mức độ và biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao mức độ trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông. 3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu 3.1 Khách thể nghiên cứu Học sinh trung học phổ thông Thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông. 4. Giả thuyết khoa học Đa số học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng có mức độ trí tuệ cảm xúc ở mức trung bình. Các mặt biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng chưa đồng đều. Mức độ trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng sẽ được nâng cao nếu học sinh được hướng dẫn và tích cực rèn luyện. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu lý thuyết để làm cơ sở lý luận cho đề tài. Khảo sát thực trạng mức độ và các mặt biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng. Thực nghiệm tác động sư phạm nâng cao mức độ trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao trí tuệ cảm xúc cho học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng. 6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 6.1. Giới hạn đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu thực trạng mức độ và các mặt biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng. Thực nghiệm tác động một số biện pháp sư phạm nhằm nâng cao mức độ một số mặt biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng. 6.2. Giới hạn khách thể nghiên cứu Đề tài nghiên cứu trên phạm vi 230 học sinh lớp 10, 11, 12 thuộc hai trường trung học phổ thông Bảo Lộc và trường trung học phổ thông Nguyễn Du thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng. 7. Phương pháp nghiên cứu Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận a. Mục đích Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tri thức lý luận và thực tiễn có liên quan đến trí tuệ cảm xúc nhằm viết cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu và định hướng cho việc nghiên cứu thực tiễn và thực nghiệm. b. Cách thực hiện Đọc, phân tích, tổng hợp kết quả các công trình nghiên cứu, tài liệu, các bài viết…có liên quan đến trí tuệ cảm xúc. Trên cơ sở đó hệ thống hóa những vấn đề lý luận tâm lý học về trí tuệ cảm xúc để xây dựng đề cương nghiên cứu, xác định khái niệm công cụ, xây dựng cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp trắc nghiệm - Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi - Phương pháp quan sát - Phương pháp phỏng vấn - Phương pháp thực nghiệm - Phương pháp thống kê toán học 8. Đóng góp mới của đề tài - Xác định mức độ và biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng. - Đưa ra một số biện pháp tác động sư phạm nhằm nâng cao mức độ trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông. - Đề xuất một số hướng nhằm nâng cao trí tuệ cảm xúc cho học sinh trung học phổ thông. 9. Cấu trúc luận văn Luận văn gồm có các phần như sau: Mở đầu Nội dung nghiên cứu Chương 1: Cơ sở lý luận về trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông Chương 2: Thực trạng mức độ và biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng Chương 3: Biện pháp tác động sư phạm nhằm nâng cao mức độ trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng Kết luận và kiến nghị Tài liệu tham khảo Phụ lục Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÍ TUỆ CẢM XÚC 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề trí tuệ cảm xúc 1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới Phong trào nghiên cứu trí tuệ cảm xúc bắt nguồn và phát triển mạnh mẽ nhất ở Mỹ với các nhà tâm lý học kiệt xuất. E.L. Thorndike là người đầu tiên tìm cách nhận dạng trí tuệ cảm xúc mà lúc đó ông gọi là trí tuệ xã hội vào cuối những năm 1930. Theo ông, trí tuệ xã hội là “năng lực hiểu và điều khiển mà những người đàn ông, đàn bà, con trai và con gái sử dụng để hành động một cách khôn ngoan, sáng suốt trong các mối quan hệ của con người”. David Weschler (1940) cho rằng yếu tố phi trí tuệ là yếu tố quan trọng cho con người trong việc thích nghi và đạt được những thành tích trong cuộc sống. Theo ông, yếu tố phi trí tuệ được xem là cần thiết để dự đoán khả năng thành công của một người. Howard Gardner (1983) cho ra đời tác phẩm “Frames of mind” như là một tuyên ngôn chống lại độc quyền của trí thông minh, chứng minh rằng không có hình thức duy nhất, toàn khối của trí tuệ quyết định thành công trong cuộc đời, đúng hơn có một thang trí tuệ rộng lớn. Theo lập luận đó, ông đưa ra mô hình đa trí tuệ và cho rằng trí tuệ cá nhân gồm hai loại: trí tuệ liên nhân cách (interpersonal intelligence) và trí tuệ về bản thân (intrapersonal intelligence). Ông cho rằng hai loại trí tuệ này cũng quan trọng như trí thông minh được biểu thị bởi chỉ số IQ (Intelligence quotient) và đo bằng trắc nghiệm IQ. Reuven Bar-On (1985) là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ trí tuệ cảm xúc trong luận án tiến sĩ của mình. Bar-On đặt trí tuệ cảm xúc trong phạm vi lý thuyết nhân cách, đưa ra mô hình Well-being (1997) với ý định trả lời câu hỏi: “Tại sao một người nào đó lại có khả năng thành công hơn những người khác?”. Bar-On đã xem xét lại những nghiên cứu tâm lý về các đặc tính của nhân cách có liên quan đáng kể đến sự thành công trong cuộc sống và đã nhận diện được 5 khu vực (nhân tố) bao quát về mặt chức năng phù hợp với sự thành công trong cuộc sống. Từ đó ông đưa ra mô hình trí tuệ cảm xúc kiểu hỗn hợp. Vào năm 2000, Bar-On định nghĩa: “Trí tuệ cảm xúc như là một dãy các phi năng lực và những kỹ năng ảnh hưởng đến năng lực một người thành công trong công việc đương đầu với những đòi hỏi và sức ép từ môi trường”. Peter Salovey và John Mayer là hai nhà tâm lý học Mỹ đã công bố định nghĩa chính thức đầu tiên về trí tuệ cảm xúc vào năm 1990: “Trí tuệ cảm xúc là khả năng hiểu rõ cảm xúc của bản thân, thấu hiểu cảm xúc của người khác, phân biệt được chúng và sử dụng những thông tin ấy để hướng dẫn suy nghĩ và hành động của mình” [24]. Định nghĩa này đã có ảnh hưởng quan trọng đến lý thuyết trí tuệ cảm xúc tại thời điểm đó. Cũng trong năm 1990, Mayer, Salovey cùng với M.T. Đipaolo đã công bố bộ trắc nghiệm đo trí tuệ cảm xúc và từ đây hai ông đã dẫn đầu sự phát triển khoa học về lý thuyết và phương pháp xác định chỉ số trí tuệ cảm xúc (EQ – Emotional Quotient). Sau bảy năm, Mayer và Salovey (1997) đã chỉnh sửa đôi chút định nghĩa trí tuệ cảm xúc được nêu vào năm 1990 như sau: “Trí tuệ cảm xúc như là năng lực nhận biết, bày tỏ cảm xúc; cảm xúc hóa tư duy; hiểu, suy luận với cảm xúc; điều khiển, kiểm soát cảm xúc của mình và của người khác” [9, tr.98]. Dựa trên định nghĩa này mô hình trí tuệ cảm xúc thuần năng lực được xây dựng. Daniel Goleman – tiến sĩ tâm lý học của đại học Harvard – đã tập hợp các kết quả nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc và cho ra đời cuốn sách đầu tiên “Trí tuệ cảm xúc” vào năm 1995 thì thuật ngữ “trí tuệ cảm xúc” đã trở thành mối quan tâm hàng đầu trong xã hội Mỹ. Daniel Goleman nghiên cứu trí tuệ cảm xúc theo lý thuyết hiệu quả thực hiện công việc, ông xác định: mô hình trí tuệ cảm xúc dựa trên lý thuyết này có thể ứng dụng trực tiếp vào khu vực hiệu quả quản lý và hoàn thành công việc từ người bán hàng đến công việc của nhà quản lý. Mô hình trí tuệ cảm xúc mà D. Goleman đề xuất là một mô hình kiểu hỗn hợp. Theo D. Goleman, trí tuệ cảm xúc bao gồm các năng lực: sự tự chủ, lòng nhiệt thành và kiên nhẫn cũng như khả năng và sự kích thích hành động. Từ năm 1995, Daniel Goleman – người được xem là nhà nghiên cứu hàng đầu về trí tuệ cảm xúc hiện nay, đề xuất chúng ta phải có những năng lực cảm xúc cá nhân gồm: - Năng lực tự nhận biết bản thân; - Năng lực tạo động lực; - Những năng lực thông minh cảm xúc xã hội gồm: năng lực thấu cảm với người khác và năng lực giao tiếp xã hội. Tuy nhiên vào năm 2001, D. Goleman đưa ra bốn biểu hiện của trí tuệ cảm xúc nói lên năng lực của cá nhân trong mối quan hệ với mình và năng lực xã hội của con người trong mối quan hệ với người khác: - Tự biết mình; - Tự kiểm soát, tự quản; - Nhận biết các quan hệ xã hội; - Kiểm soát, điều khiển các mối quan hệ xã hội. Những nghiên cứu của Goleman không chỉ dừng lại ở việc xác định bản chất của trí tuệ cảm xúc mà ông còn đưa ra những biện pháp để giáo dục trí tuệ cảm xúc. Như vậy, nhìn một cách tổng thể có thể nói có ba đại diện tiêu biểu đã đi sâu nghiên cứu trí tuệ cảm xúc dưới những cách tiếp cận khác nhau, trong đó R. Bar-On tiếp cận trí tuệ cảm xúc dưới góc độ nhân cách, P. Salovey và J. Mayer nghiên cứu dưới góc độ nhận thức và D. Goleman tiếp cận dưới góc độ hiệu quả công việc. 1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam Ở Việt Nam, vấn đề trí tuệ, đặc biệt là trí thông minh, trí sáng tạo đã được các nhà tâm lý học nghiên cứu từ lâu. Thế nhưng, những công trình nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc chỉ mới ở những bước đi đầu tiên. Vào năm 2000, tạp chí Tâm lý học lần đầu tiên đăng các bài viết của PGS.TS Nguyễn Huy Tú về trí tuệ cảm xúc. Đề tài cấp nhà nước KX-05-06 giai đoạn 2001 – 2005 do PGS.TS Trần Kiều cùng với các nhà tâm lý và giáo dục thuộc Viện chiến lược và chương trình giáo dục nghiên cứu trí tuệ cảm xúc đã xác định trí tuệ cảm xúc là một trong ba thành tố của trí tuệ (trí thông minh, trí sáng tạo và trí tuệ cảm xúc) trên sinh viên, học sinh và lao động trẻ. Đề tài này mở đầu cho các công trình nghiên cứu trí tuệ cảm xúc sau này. Các tác giả trong các công trình nghiên cứu luận văn, luận án tâm lý học cũng đã chọn trí tuệ cảm xúc làm vấn đề nghiên cứu, chẳng hạn như: luận văn thạc sĩ của Dương Thị Hoàng Yến (2004), luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Dung (2007),…Các đề tài này phần lớn tập trung nghiên cứu trí tuệ cảm xúc của giáo viên trong hoạt động chủ nhiệm lớp. Luận văn thạc sĩ của tác giả Phan Trọng Nam (2004) và Nguyễn Thị Tuấn Anh (năm 2008) tập trung nghiên cứu trí tuệ cảm xúc của đối tượng là sinh viên sư phạm. Ngoài ra còn một số sông trình nghiên cứu khác về trí tuệ cảm xúc tập trung chủ yếu trên đối tượng là sinh viên. Hiện nay, các tác giả Nguyễn Huy Tú, Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Quang Uẩn, Trần Trọng Thủy, Phan Trọng Ngọ, …và nhiều tác giả khác vẫn đang tiếp tục đi sâu nghiên cứu trí tuệ cảm xúc. Như vậy, có thể nói rằng những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về trí tuệ cảm xúc tuy chưa nhiều nhưng đã đạt được những kết quả bước đầu. Tuy nhiên, các đề tài về trí tuệ cảm xúc chưa quan tâm nhiều đến đối tượng học sinh trung học phổ thông. Vì vậy, nghiên cứu trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông là việc làm cần thiết. 1.2. Trí tuệ cảm xúc 1.2.1. Khái niệm trí tuệ Trong tiếng La tinh: Trí tuệ (Intellectus) có nghĩa là trí năng sắc sảo, sự hiểu biết chu đáo [9, tr.7]. Trong từ điển Tiếng Việt: Trí tuệ là khả năng nhận thức lý tính đạt đến một trình độ nhất định [14, tr.1245]. Trong từ điển tâm lý: Trí tuệ là khả năng hành động thích nghi với biến động của hoàn cảnh thiên về tư duy trừu tượng (Nguyễn Khắc Viện, 2001). Cho đến nay, trong Tâm lý học có rất nhiều định nghĩa về trí tuệ tùy theo cách tiếp cận. Nhìn chung trí tuệ được hiểu theo hai quan niệm: quan niệm truyền thống và quan niệm hiện đại.  Trí tuệ theo quan niệm truyền thống Điểm chung của quan niệm truyền thống là đồng nhất trí tuệ với trí thông minh (intelligence). Theo F.S. Freeman (1963), trong vô số các định nghĩa về trí tuệ, có thể thấy rõ có 3 loại: thứ nhất, xem trí tuệ là năng lực học tập; thứ hai, xem trí tuệ là năng lực tư duy trừu tượng; thứ ba, xem trí tuệ là năng lực thích ứng cá nhân. Nhóm quan điểm xem trí tuệ là năng lực học tập Đây là quan niệm đã có từ lâu và khá phổ biến. Nhà tâm lý học người Nga B.G.Ananhev xem trí tuệ là đặc điểm tâm lý phức tạp của con người mà kết quả của công việc học tập và lao động phụ thuộc vào nó [11, tr.41]. V.V.Bogoxlovki và những người khác (1973) xem hệ thống những thuộc tính trí tuệ của nhân cách đảm bảo cho sự tương đối dễ dàng trong việc nắm các tri thức, được hiểu là các năng lực chung [15, tr.71]. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy giữa học tập (đặc biệt là kết quả học tập) với khả năng trí tuệ của cá nhân có mối quan hệ nhân quả và chúng không đồng nhất. Trên thực tế, phần lớn học sinh có chỉ số IQ cao thì kết quả học tập cũng cao, song cũng có những học sinh có chỉ số IQ cao nhưng kết quả học tập lại không cao. Điều này có thể giải thích bằng nhiều lý do như động cơ học tập, ý chí, hứng thú, cách học…Chính A.Binet đã nghiên cứu và chứng minh được những học sinh học kém là do khả năng trí tuệ và những em do lười hoặc những nguyên nhân khác [11, tr.42]. Nhóm quan điểm xem trí tuệ là năng lực tư duy trừu tượng L.Terman (1937) cho rằng trí tuệ là năng lực phát triển tư duy trừu tượng. Theo cách hiểu như vậy thì chức năng của trí thông minh là sử dụng có hiệu quả các khái niệm và tượng trưng [15, tr.72]. N.A.Menchinskaia xem đặc trưng của trí tuệ là sự tích lũy vốn tri thức và các thao tác trí tuệ để con người tiếp thu được tri thức [13, tr.15]. X.L.Rubinstein cho rằng đặc trưng cơ bản hàng đầu của trí tuệ là năng lực tâm thần ở mức cao chẳng hạn như suy luận trừu tượng [1, tr.10]. Theo cách hiểu này, trí tuệ tức là khả năng sử dụng có hiệu quả các thao tác tư duy để giải quyết các vấn đề đặt ra. Trong khi đó, tư duy chỉ là một thành phần, một bộ phận của trí tuệ. Quan niệm như vậy đã thu hẹp nội hàm lẫn hình thức của trí tuệ. Nhóm quan niệm xem trí tuệ là năng lực thích ứng của cá nhân Đây là quan niệm phổ biến nhất và được nhiều nhà nghiên cứu tán thành. V. Stern coi trí tuệ là năng lực thích ứng tâm lý chung của con người với những điều kiện và nhiệm vụ mới trong đời sống [15, tr.72]. D. Wechler (1958) xem trí tuệ là năng lực chung của nhân cách, được thể hiện trong hoạt động có mục đích, trong sự phán đoán và thông hiểu một cách đúng đắn, trong sự làm cho môi trường thích nghi với những khả năng của mình [15, tr.72], [9, tr.96]. J. Piaget xem bản chất của trí tuệ bộc lộ trong việc cấu tạo những mối quan hệ giữa môi trường và cơ thể [15, tr.72]. Ông cũng cho rằng bất kỳ trí tuệ nào cũng đều là một sự thích ứng [13, tr.42]. F. Raynal, A. Rieunier (1997) xem trí tuệ là khả năng xử lý thông tin để giải quyết vấn đề và nhanh chóng thích nghi với tình huống mới [13, tr.42] N. Sillamy (1997) xem trí tuệ là khả năng hiểu mối quan hệ sẵn có giữa các yếu tố của tình huống và thích nghi để thực hiện cho lợi ích bản thân [13, tr.42] Theo cách tiếp cận này, trí tuệ được thể hiện trong mối quan hệ giữa chủ thể và môi trường. Tuy nhiên sự tác động qua lại đó phải được xem xét như là một sự thích ứng tích cực, có hiệu quả nhằm cải tạo môi trường cho phù hợp với mục đích của con người, chứ không phải là sự thích ứng thụ động đơn giản. Nhìn chung, các quan điểm trên không loại trừ lẫn nhau mà do cách tiếp cận khác nhau trong việc lựa chọn dấu hiệu quan trọng nhất của trí tuệ. Các quan niệm này còn có một điểm chung là đã đồng nhất trí tuệ với trí thông minh. Nhưng rõ ràng không một định nghĩa nào trong các định nghĩa trên chứa đựng được hết bản chất của hiện tượng tâm lý phức tạp như trí tuệ của con người. Do vậy, có thể xem những quan niệm trên đây là những quan niệm truyền thống về trí tuệ. Những quan niệm này là nền tảng cho sự ra đời của quan niệm hiện đại về trí tuệ.  Trí tuệ theo quan niệm hiện đại Ngày nay, việc nghiên cứu trí tuệ dưới sự kết hợp các khoa học như: Di truyền học, Thần kinh học, Công nghệ thông tin…đã đem lại một cách nhìn toàn diện và sâu sắc hơn. Từ đó, các nhà tâm lý học cũng thừa nhận trí tuệ là một hiện tượng tâm lý xã hội mang bản chất lịch sử xã hội chứ không phải là cơ cấu khép kín, không thay đổi và có tính bẩm sinh di truyền. Mặt khác, các nhà nghiên cứu có xu hướng cho rằng có nhiều loại trí tuệ khác nhau và trí tuệ theo cách hiểu như vậy được biểu thị bởi thuật ngữ Wisdom. Các nhà tâm lý học như: Hofstatter (1971), Sterberg và Gardner (1984) khẳng định trí tuệ phải có cơ sở và gắn liền với thực tiễn. Trí tuệ theo quan niệm mới không chỉ thể hiện ở việc giải quyết các nhiệm vụ có tính hàn lâm mà còn thể hiện ở việc giải quyết các tình huống trong đời sống hàng ngày. Trí tuệ chính là kết quả tương tác giữa con người với môi trường sống đồng thời trí tuệ cũng là tiền đề cho sự tương tác đó. Theo Neisse (1976), nếu đặt trí tuệ hàn lâm (academic intelligence) vào điều kiện tự nhiên thì sẽ có một dạng trí tuệ khác được thể hiện khi thực hiện các tình huống đời thường [17, tr.35]. Cho đến 1990, Amelang và Bartussek gọi dạng trí tuệ này là trí tuệ thực tiễn (practical intelligence). Con người luôn sống và hoạt động trong mối tương tác với người khác, với cộng đồng, với các nhóm khác nhau,… Vì vậy, nếu con người chỉ trang bị cho bản thân những tri thức trường học, tư duy logic, trí nhớ hay trí sáng tạo thì chưa đủ để hoàn thành nhiệm vụ thực tiễn. Do vậy, ngoài trí thông minh và trí sáng tạo, con người còn cần phải có trí tuệ xã hội (Social Intelligence = SI). Trí tuệ xã hội là năng lực hoàn thành các nhiệm vụ trong hoàn cảnh có sự tương tác với người khác. Nó diễn ra trong hoạt động cùng người khác, với mục đích, tâm lý và tính xã hội nhất định [17, tr.36]. Trí tuệ xã hội được tạo nên bởi ba thành tố sau đây, trong đó trí tuệ cảm xúc là hạt nhân: - Tự nhận thức về bản thân - Năng lực xã hội (social competence) bao gồm ba tiểu thành tố: + Nhận thức (cognitive) + Xúc cảm (emotion) + Vận động (motorie) - Trí tuệ cảm xúc bao gồm bốn tiểu thành tố: + Tri giác (nhận ra) cảm xúc + Khả năng biểu hiện cảm xúc + Điều khiển có hiệu quả cảm xúc (của mình và của người khác) + Sử dụng những thông tin có liên quan đến cảm xúc để thúc đẩy, đặt kế hoạch và thực hiện có kết quả những hành động nhất định. Vào năm 1988, H.J. Eysenck đã đưa ra mô hình trí tuệ ba tầng bậc dựa trên sự kế thừa, phát triển quan niệm truyền thống với quan niệm hiện đại: - Trí tuệ sinh học (biological intelligence) là mặt sinh học của năng lực trí tuệ và là một nguồn gốc của những khác biệt về trí tuệ cá nhân. - Trí tuệ tâm trắc (psychoetric intelligence) hay trí tuệ hàn lâm là mặt trí tuệ được đo bằng các trắc nghiệm IQ, CQ (Creative Quotient: chỉ số sáng tạo) truyền thống được xây dựng trong tình huống giả định, có tính hàn lâm chưa phải là tình huống thực trong cuộc sống. Nó bao gồm trí tuệ hàn lâm, trí thông minh hay năng lực nhận thức và sáng tạo. - Trí tuệ xã hội là sự thể hiện của trí tuệ tâm trắc khi cần phải giải quyết các nhiệm vụ trong cuộc sống thực tế của chủ thể hoạt động có tự nhận thức rõ ràng về bản thân, có nhận thức về xã hội và mối quan hệ giữa bản thân với xã hội đó. Theo Eysenck, trí tuệ là một thuộc tính nhân cách mang bản chất sinh vật, tâm lý, xã hội và văn hóa một cách sâu sắc. Như vậy, trí tuệ theo quan niệm hiện đại không còn được hiểu đồng nhất với trí thông minh, bởi lẽ trí tuệ là một cấu tạo tâm lý động, có phạm vi rộng hơn không chỉ bao gồm trí thông minh mà còn trí sáng tạo và trí tuệ xã hội. Trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, khi nghiên cứu trí tuệ con người cần chú ý đến những vấn đề lý luận và phương pháp luận sau: - Trí tuệ là yếu tố tâm lý có tính độc lập tương đối với các yếu tố tâm lý khác của cá nhân. - Trí tuệ có chức năng đáp ứng mối quan hệ tác động qua lại giữa chủ thể với môi trường sống, tạo ra sự thích ứng tích cực của cá nhân. - Trí tuệ được hình thành và biểu hiện trong hoạt động của chủ thể. - Sự phát triển của trí tuệ chịu ảnh của yếu tố sinh học của cơ thể và chịu sự chế ước của các yếu tố văn hóa – xã hội. Như vậy, trí tuệ là một cấu trúc động, tương đối độc lập của các thuộc tính nhận thức của nhân cách, được hình thành và thể hiện trong hoạt động, do những điều kiện văn hóa – lịch sử qui định và chủ yếu đảm bảo cho sự tác động qua lại phù hợp với hiện thực xung quanh, cho sự cải tạo có mục đích. (Blaykhe V.M và Burolachuc L.F, 1978) [16, tr.5]. Kế thừa và phát huy một cách sáng tạo, các nhà tâm lý học thuộc viện chiến lược và Chương trình Giáo dục Việt Nam đã đưa ra định nghĩa hiện đại và toàn vẹn hơn về trí tuệ như sau: Trí tuệ - đó là một cấu trúc tương đối độc lập của những năng lực nhận thức và xúc cảm của cá nhân, được hình thành và thể hiện trong hoạt động, do những điều kiện văn hóa – lịch sử quy định và chủ yếu đảm bảo cho sự tác động qua lại phù hợp với hiện thực xung quanh, cho sự cải tạo có mục đích của hiện thực ấy nhằm đạt được các mục tiêu quan trọng trong cuộc sống của cá nhân và xã hội [16, tr.6]. 1.2.2. Trí tuệ cảm xúc 1.2.2.1. Khái niệm trí tuệ cảm xúc Nếu trí thông minh được biết đến và nghiên cứu một cách phổ biến, sâu sắc trong gần một thế kỷ nay thì trí tuệ cảm xúc là một khái niệm mới được biết đến khoảng trên một thập kỷ trở lại đây. Những nghiên cứu đầu tiên về trí tuệ cảm xúc được công bố trên các tạp chí vào những năm 90 của thế kỷ XX, được xem là nhân tố dự đoán sự thành công của con người (Daniel Goleman) và là nhân tố mang lại hạnh phúc cho con người (Hein Steve). Thuật ngữ trí tuệ cảm xúc được P. Salovey và J. Mayer sử dụng đầu tiên vào năm 1990. Không lâu sau đó vào năm 1995, D. Goleman cho ra đời cuốn sách bán rất chạy mang tên “Emotional Intelligence” thì thuật ngữ trí tuệ cảm xúc trở nên rất phổ biến và thông dụng ở nước Mỹ. Từ đây, các công trình nghiên cứu trí tuệ cảm xúc diễn ra một cách rộng khắp và phổ biến. Trí tuệ cảm xúc là một vấn đề còn mới mẻ, phức tạp đã và đang được nghiên cứu sâu rộng. Vì thế, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về trí tuệ cảm xúc. Tuy nhiên, nhìn tổng quát có thể nhận ra hai dòng quan niệm tiêu biểu về trí tuệ cảm xúc như sau: Quan niệm trí tuệ cảm xúc theo kiểu thuần năng lực tâm thần Trên cơ sở quan niệm của Howard Gardner về sự tồn tại một dạng trí tuệ cá nhân bao gồm trí tuệ về mối quan hệ giữa các cá nhân và trí tuệ cá nhân hướng nội, năm 1990, P. Salovey và J. Mayer đi tiên phong trong việc phát triển lý thuyết trí tuệ cảm xúc theo kiểu thuần năng lực tâm thần. Hai ông đã đưa ra nội dung chính thức về trí tuệ cảm xúc như sau: “Trí tuệ cảm xúc là khả năng hiểu rõ cảm xúc bản thân, thấu hiểu cảm xúc của người khác, phân biệt được chúng và sử dụng những thông tin ấy để hướng dẫn suy nghĩ và hành động của mình” [24]. Sau nhiều công trình nghiên cứu, năm 1997, Mayer và Salovey đã thay đổi đôi chút định nghĩa trí tuệ cảm xúc được nêu vào năm 1990 nhằm nhấn mạnh hơn nữa khía cạnh nhận thức, suy nghĩ về cảm giác và các giai đoạn phát triển trí tuệ và xúc cảm. Mayer và Salovey đã chính xác hóa nội dung định nghĩa như sau: “Trí tuệ cảm xúc là năng lực nhận biết và bày tỏ cảm xúc; hòa cảm xúc vào suy nghĩ; hiểu và suy luận với cảm xúc; điều khiển, quản lý cảm xúc của mình và của người khác” [9, tr.98]. Trong một cuốn sách xuất bản năm 1996, H. Steve cũng đưa ra định nghĩa tương đồng với các tác giả trên, theo đó: “Trí tuệ cảm xúc là sự kết hợp giữa sự nhạy cảm về cảm xúc có tính chất tự nhiên với các kỹ năng quản lý cảm xúc có được do tự học hỏi, nhằm giúp con người đạt được hạnh phúc trong cuộc sống” [11, tr.176]. Theo đó, ông cho rằng: trí tuệ cảm xúc là một tiềm năng bẩm sinh để cảm nhận, sử dụng, giao tiếp, nhận biết, ghi nhớ, mô tả, xác định, học hỏi, quản lý hiểu và giải thích cảm xúc [22]. Cùng với quan điểm trên, Boyatizis (1999) cho rằng: “Trí tuệ cảm xúc là năng lực nhận biết những tình cảm của mình và của người khác để tự thúc đẩy mình, kiểm soát, điều khiển cảm xúc của mình và của người khác” [9, tr.98]. Quan niệm trí tuệ cảm xúc theo kiểu hỗn hợp R. Bar-On dựa trên cơ sở hiểu biết cảm xúc và xã hội có ảnh hưởng đến khả năng đối phó có hiệu quả của con người đối với môi trường và hoàn cảnh, ông cho rằng: “Trí tuệ cảm xúc là một dãy các năng lực phi nhận thức và những kỹ năng có ảnh hưởng đến khả năng thành công của một người trong hoàn cảnh người đó phải đương đầu với những yêu cầu và sức ép từ môi trường” [9, tr.98-99]. Theo cách tiếp cận trên, quan niệm của D. Goleman (1995) được biết đến một cách rộng rãi hơn: “Trí tuệ cảm xúc bao gồm các năng lực: tự kiềm chế, kiểm soát, nhiệt tình và năng lực tự thôi thúc mình” [9, tr.99]. ._.Goleman nhận thức được rằng ông đang đi từ trí tuệ cảm xúc sang cái gì đó rộng lớn hơn khi cho rằng có một từ có vẻ lỗi thời cho một loạt các kỹ năng mà trí tuệ cảm xúc được xem là đại diện qua các kỹ năng này là: “tính nết”. [9, tr.106] Các quan niệm theo kiểu hỗn hợp cho thấy có sự pha trộn hay kết hợp giữa các năng lực tâm thần và các năng lực không phải là tâm thần, chẳng hạn như các nét nhân cách: nhiệt tình, kiên trì, lạc quan… Hiện nay trí tuệ cảm xúc được các nhà tâm lý học trên thế giới định nghĩa như là khả năng tác động một cách có hiệu quả lên những ham muốn của bản thân (R. Busk, 1991; E.L. Ykovleva, 1997); khả năng hiểu sự thể hiện của nhân cách ra bên ngoài thông qua cảm xúc, cũng như dùng trí tuệ để phân tích, tổng hợp vấn đề, trên cơ sở đó điều tiết cảm xúc của mình (Peter Salovey, John D. Mayer, 1994; G.G. Gorskova, 1999) [1, tr.26]. Như vậy, các cách tiếp cận trên đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về trí tuệ cảm xúc, từ đây sẽ làm nảy sinh các mô hình trí tuệ cảm xúc khác nhau. Nhìn chung chúng ta có thể nhận thấy trí tuệ cảm xúc là một phẩm chất phức hợp, đa diện, đại diện cho những nhân tố khó thấy, khó nắm bắt như tự ý thức, tự nhận thức, tự tin, sự thấu cảm, tính tích cực hoạt động xã hội… Về cơ bản, các tác giả nhất trí xem trí tuệ cảm xúc có liên quan đến những năng lực nhận biết và điều khiển các cảm xúc của mình và của người khác. Nghiên cứu trí tuệ cảm xúc dưới góc độ thuần năng lực đã cho thấy có sự khác biệt giữa trí tuệ cảm xúc và các nét tính cách quan trọng của nhân cách, khu trú trí tuệ cảm xúc vào năng lực tâm lý và chỉ rõ nội dung cốt lõi của trí tuệ cảm xúc là sự tương tác giữa cảm xúc và tư duy. Điều này có nghĩa là những người được coi là có trí tuệ cảm xúc cao phải có khả năng tiến hành xử lý thông tin xúc cảm một cách tinh tế. Do vậy khi con người sử dụng năng lực của bản thân để làm cho suy nghĩ của chính mình dễ dàng thì họ có thể học được cách điều chỉnh cảm xúc. Trên cơ sở này, chúng tôi chọn quan điểm trí tuệ cảm xúc theo kiểu thuần năng lực của Mayer và Salovey làm cơ sở lý luận định hướng nghiên cứu của đề tài. 1.2.2.2. Những nét đặc trưng của trí tuệ cảm xúc * Trí tuệ cảm xúc là một cấu trúc phức hợp của nhiều năng lực khác nhau liên quan đến lĩnh vực cảm xúc Trí tuệ cảm xúc là tổ hợp của những năng lực về cảm xúc của bản thân. Tổ hợp đó bao gồm nhiều năng lực cụ thể khác nhau chẳng hạn như: năng lực hiểu biết cảm xúc của bản thân, năng lực điều khiển, điều chỉnh cảm xúc của bản thân cho phù hợp với hoàn cảnh xung quanh. Các năng lực này đóng vai trò quyết định trong việc một người có thể học các kỹ năng cần thiết để thành công trong công việc và cuộc sống. Trí tuệ cảm xúc mang bản chất xã hội lịch sử, trí tuệ cảm xúc được hình thành trong quá trình cá nhân tham gia vào các dạng hoạt động như học tập, lao động, hoạt động xã hội,…và chịu sự chế ước to lớn của môi trường giáo dục, môi trường xã hội. * Trí tuệ cảm xúc dễ thay đổi và có biên dộ thay đổi rộng Trái với quan niệm truyền thống, những phát hiện gần đây trong tâm lý học và từ thực tế nghịch lý cho thấy trí thông minh, bằng cấp, và các kỳ thi chưa phải là công cụ tiên đoán một cách chắc chắn sự thành công trong tương lai của con người. Vài thập niên gần đây, nhiều nhà tâm lý học cho rằng trí thông minh chỉ là vùng hẹp của những năng lực ngôn ngữ và toán học, khả năng dự đoán của các kết quả trắc nghiệm trí thông minh tốt cũng sẽ không cao và ít quan trọng hơn khi rời khỏi lĩnh vực trường học. Goleman nhận định rằng: “Sự tương quan giữa chỉ số IQ và thành tựu đạt được trong công việc, tỉ lệ này dự kiến đạt mức cao nhất chỉ vào khoảng 25%” [3, tr.48]. Theo Gardner, trong tuyệt đại đa số trường hợp, vị trí chắc chắn mà cá nhân có được trong xã hội được quy định bởi những nhân tố khác. Nhân tố ấy chính là trí tuệ cảm xúc như là năng lực tự thúc đẩy hay kiên trì trong khó khăn, làm chủ những xung năng của mình và nhẫn nại chờ đợi sự thỏa mãn ham muốn, khả năng điều hòa tâm lý và không để sự buồn rầu của mình chi phối khả năng đồng cảm và hy vọng [2, tr.71]. Trí tuệ cảm xúc có thể cho phép tiên đoán sự thành công trong đường đời của mỗi người. Trí tuệ cảm xúc hướng dẫn sự lựa chọn sáng suốt, mang màu sắc lý tính trong những tình huống khác nhau, chúng hoạt động ăn khớp với tinh thần lý trí, cho phép hoặc ngăn cấm hoạt động lý trí. Trí tuệ cảm xúc là khả năng có thể tự học hỏi được và ngày càng sắc sảo hơn trong quá trình sống tức là được tích lũy dần từ kinh nghiệm của chúng ta. Trí tuệ cảm xúc dễ thay đổi và có biên độ thay đổi lớn. Trí tuệ cảm xúc có thể được dạy bởi giáo viên, gia đình…Điều này mở ra khả năng cho việc giáo dục trí tuệ cảm xúc cho mọi người. Thực tế cho thấy rằng trong 2 năm sau khi xuất bản cuốn sách của Goleman, có hơn 700 trường học tiến hành chương trình học tập cảm xúc xã hội (SEL-Social Emtional Learning) được thiết kế để dạy học sinh những kỹ năng cảm xúc xã hội (Ratnesr, 1997). Chương trình SEL tập trung vào khả năng nhận thức cảm xúc, kỹ năng xã hội và trí tuệ cá nhân khi giải quyết vấn đề (Cohen, 2001). * Trí tuệ cảm xúc là một dạng siêu năng lực hay siêu trí tuệ Trí tuệ hàn lâm không chuẩn bị cho con người đủ sức đương đầu với những thử thách, cơ hội và biến đổi không ngừng của cuộc sống. Ngay cả chỉ số trí thông minh cao cũng không đảm bảo cho sự thành công, thịnh vượng và hạnh phúc nếu không có những nét tính cách phù hợp, những xúc cảm thông minh. Đời sống xúc cảm là một lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp mà con người có thể chứng tỏ những năng lực của mình và đòi hỏi vốn hiểu biết nhất định. Sự thành thạo, khéo léo của con người về trí tuệ cảm xúc là nguyên nhân tạo thành công cho người đó, trong khi người khác có trí thông minh tương đương nhưng có trí tuệ cảm xúc kém lại thất bại. Trí tuệ cảm xúc thực sự là loại siêu trí tuệ, siêu năng lực vì nó quyết định việc chúng ta có thể khai thác thế mạnh của mình, kể cả lợi thế về trí thông minh hay không. Thực tế cho thấy những người có sự hiểu biết về đời sống tình cảm, nắm được và làm chủ chúng, đoán được những xúc cảm của người khác và hòa hợp với xúc cảm ấy một cách hữu hiệu thì luôn có lợi thế trong nhiều lĩnh vực. Ngược lại, những người không kiểm soát được đời sống tình cảm của mình thường chịu xung đột nội tâm, mất năng lực tập trung và suy nghĩ thiếu sáng suốt. Điều này chứng tỏ người có trí tuệ cảm xúc cao thường nhanh nhẹn nắm bắt thời cơ để đạt lấy thành công và hạnh phúc. 1.2.2.3. Mô hình trí tuệ cảm xúc Năm 1990, P. Salovey và J. Mayer lần đầu tiên đưa ra mô hình trí tuệ cảm xúc, cho đến nay đã có một số mô hình trí tuệ cảm xúc được đề xuất: mô hình của Goleman (1995), Bar-On (1997), Cooper và Sawap (1997), Weisinger (1998),… Nhìn một cách tổng quát có thể phân thành hai nhóm mô hình trí tuệ cảm xúc bao gồm: mô hình trí tuệ cảm xúc thuần năng lực và mô hình trí tuệ cảm xúc hỗn hợp. Hai mô hình này không chỉ khác nhau về khái niệm, cấu trúc, thành tố mà còn về cách thức, phương pháp đo lường và đánh giá. * Mô hình trí tuệ cảm xúc thuần năng lực (Mental ability models of EI) P. Salovey và J. Mayer (1990) đưa ra mô hình trí tuệ cảm xúc thuần năng lực bao gồm 3 quá trình trí tuệ (mantal process) liên quan đến nhau và hàm chứa các thông tin cảm xúc dựa trên cách hiểu trí tuệ cảm xúc như là năng lực làm chủ, điều khiển, kiểm soát tình cảm của mình và của người khác, để định hướng cách suy nghĩ và hành động của bản thân. Những quá trình của mô hình trí tuệ cảm xúc (1990) bao gồm: - Đánh giá và biểu hiện cảm xúc (bản thân và người khác) - Điều khiển, kiểm soát cảm xúc (bản thân và người khác) - Sử dụng cảm xúc một cách phù hợp để giải quyết vấn đề, bao hàm từ cách suy nghĩ linh hoạt, suy nghĩ sáng tạo, tập trung chú ý trực tiếp và động cơ thúc đẩy. Sau khi đưa ra mô hình trí tuệ cảm xúc (1990), hai ông đã đưa ra hai cách đánh giá đo lường trí tuệ cảm xúc như sau: phương pháp đánh giá trí tuệ cảm xúc dựa vào tự thuật (self-report measures) và phương pháp đánh giá trí tuệ cảm xúc dựa vào năng lực hành động (ability measures). Tuy nhiên, lúc bấy giờ Mayer và Salovey đã lưu ý rằng cần làm sao để những thành phần của trí tuệ cảm xúc có thể đánh giá như một năng lực. Dựa vào mô hình trí tuệ cảm xúc (1990), Shutte và các đồng sự của bà đã soạn thảo một thang đo lường trí tuệ cảm xúc theo kiểu tự đánh giá gồm 33 mục hỏi, còn gọi là EIS. Tuy nhiên người ta nhận thấy EIS có thể không thích hợp cho việc đo lường trí tuệ cảm xúc mặc dù có nhiều nghiên cứu đã cho thấy có nhiều nhân tố có liên quan đến đặc điểm của trí tuệ cảm xúc và quá trình thông tin của trí tuệ cảm xúc. Sau bảy năm nghiên cứu ứng dụng mô hình trí tuệ cảm xúc năm 1990, Mayer và Salovey nhận ra những thiếu sót của mô hình này và đã cùng đồng nghiệp là David Caruso bổ sung, đổi mới để cho ra đời một quan niệm mới về trí tuệ cảm xúc và một mô hình trí tuệ cảm xúc mới vào năm 1997 gồm bốn năng lực cảm xúc sau đây: - Nhận thức cảm xúc (của bản thân, người khác và môi trường xã hội). - Sử dụng cảm xúc để đẩy mạnh tư duy và để tạo ra một sự chia sẻ cảm xúc tương ứng. - Hiểu rõ cảm xúc, chẳng hạn: hiểu nguyên nhân cảm xúc, sự biến đổi của chúng qua thời gian… - Kiểm soát sự kết hợp của lập luận và dữ kiện về những cảm xúc để ra những quyết định chiến lược hay còn gọi là kiểm soát cảm xúc. Mô hình này nhấn mạnh đến mặt nhận thức, tập trung vào khả năng tâm trí cụ thể để phục vụ cho việc nhận biết và tổ chức điều khiển cảm xúc. Điểm nổi bật của mô hình trí tuệ cảm xúc năm 1997 so với mô hình trí tuệ cảm xúc năm 1990 ở chổ là các năng lực trong mô hình trí tuệ cảm xúc năm 1997 không đơn thuần chỉ có mối quan hệ với nhau như những thành phần trong một cấu trúc mà còn như một quy trình liên tục. Ý nghĩa quan trọng của mô hình trí tuệ cảm xúc năm 1997 đem lại là có thể xây dựng một quy trình phát triển trí tuệ cảm xúc gồm 4 giai đoạn tương ứng với 4 thành tố tạo nên trí tuệ cảm xúc. Dựa vào mô hình trí tuệ cảm xúc thuần năng lực năm 1997, D. Caruso và các cộng sự đề xuất một quy trình phát triển trí tuệ cảm xúc gồm 4 giai đoạn như sau: nhận thức cảm xúc, sử dụng cảm xúc, hiểu rõ cảm xúc và kiểm soát cảm xúc. Cũng dựa trên mô hình trí tuệ cảm xúc thuần năng lực năm 1997, Mayer, Salovey và Caruso đã soạn thảo trắc nghiệm đo lường trí tuệ cảm xúc theo kiểu phép đo lường năng lực mang tên MSCEIT (Mayer Salovey Caruso Emotional Intelligence Test) vào năm 2002. * Mô hình trí tuệ cảm xúc hỗn hợp (Mixed models of EI) Khác với mô hình trí tuệ cảm xúc thuần năng lực, các mô hình trí tuệ cảm xúc hỗn hợp đều pha trộn nhiều yếu tố và mở rộng ý nghĩa của cấu trúc. Đại diện cho mô hình trí tuệ cảm xúc hỗn hợp như mô hình của Bar-On, Cooper và Sawap, Goleman,… Tiếp cận trí tuệ cảm xúc dưới góc độ nhân cách, R. Bar-On (1997) đưa ra mô hình trí tuệ cảm xúc hỗn hợp. Lý thuyết của Bar-On kết hợp những đặc tính được xem là năng lực tâm lý chẳng hạn như: tự nhận biết cảm xúc của mình với các đặc tính khác được xem là khác biệt với năng lực tâm lý như là tính độc lập, tính tự trọng và tâm trạng. Theo Bar-On cấu trúc trí tuệ cảm xúc gồm 5 khả năng sau: - Khả năng hiểu mình, thể hiện khả năng làm chủ cảm xúc của mình, thể hiện ở sự nhận thức ra cảm xúc của bản thân, ở tính chủ động, tự trọng, tự lập và sự hiện thực hóa. - Khả năng hiểu người khác, thể hiện trong các quan hệ cá nhân, trong trách nhiệm xã hội và ở sự đồng cảm với người khác. - Khả năng thích ứng, thể hiện trong khả năng giải quyết vấn đề, trong việc kiểm tra cảm xúc qua thực tiễn và trong tính mềm dẻo của tư duy. - Khả năng kiểm soát căng thẳng (stress), thể hiện ở khả năng chịu đựng các căng thẳng gặp phải, khả năng kiểm soát được các bốc đồng, xung tính. - Khả năng giữ tâm trạng cân bằng, thể hiện ở sự hạnh phúc, tinh thần lạc quan. Dựa trên sự tổng kết nhiều công trình nghiên cứu, Daniel Goleman (1995) đã đưa ra mô hình trí tuệ cảm xúc hỗn hợp bao gồm 5 khu vực như sau: - Hiểu biết về cảm xúc của mình (Knowing one’s emotions): thể hiện ở sự tự nhận biết cảm xúc của mình khi nó xảy ra ở mọi lúc. - Quản lý cảm xúc (Managing emotions): thể hiện ở khả năng xử lý cảm xúc một cách thích hợp, ở năng lực an ủi, động viên con người, năng lực tìm ra các phương pháp để loại bỏ những nỗi sợ hãi, lo lắng, giận dữ và buồn đau. - Tự thúc đẩy/ động cơ hóa mình (Motivating oneslf): thể hiện ở năng lực điều khiển cảm xúc hướng vào mục đích hành động: khả năng biết trì hoãn những ham muốn của bản thân, chế ngự, dập tắt sự bốc đồng xung tính và khả năng hòa vào tâm trạng hứng khởi. - Nhận biết cảm xúc ở người khác (Recognizing emotions in thers): thể hiện ở khả năng đồng cảm với người khác, bao gồm sự nhạy cảm, quan tâm đến cảm xúc của người khác và khả năng đoán trước được những triển vọng của họ, làm cho mình phù hợp với điều người khác cần và mong muốn. - Xử lý các quan hệ (Handling relationships): thể hiện ở khả năng điều khiển cảm xúc ở người khác và biết phối hợp hành động hài hòa với người khác. Xử lý các quan hệ sẽ cho thấy trình độ tự nhận thức và năng lực xã hội của cá nhân như thế nào. Xử lý các mối quan hệ còn chứa đựng khả năng kiểm soát xúc cảm trong quan hệ với người khác, năng lực xã hội và kỹ năng xã hội. Tuy nhiên, năm 2001, Goleman lại đưa ra cấu trúc của trí tuệ cảm xúc gồm có hai nhóm năng lực: năng lực cá nhân và năng lực xã hội. Năng lực cá nhân Năng lực xã hội (quan hệ với mình) (quan hệ với người khác) * Tự biết mình * Nhận biết các quan hệ xã hội - Nhận biết cảm xúc của mình - Đồng cảm - Đánh giá chính xác mình - Định hướng sự phục vụ - Tự tin - Biết cách tổ chức * Tự kiểm soát, quản lý mình * Quản lý điều khiển các mối quan hệ xã hội - Kiểm soát cảm xúc của mình - Phát triển người khác - Có lòng tin - Tạo ảnh hưởng - Tự ý thức - Giao tiếp - Thích ứng - Kiểm soát xung đột - Động cơ thành đạt - Lãnh đạo có tầm nhìn, khôn ngoan - Sáng tạo - Xúc tác để thay đổi - Xây dựng các mối quan hệ - Tinh thần đồng đội, sự hợp tác Dựa vào mô hình trí tuệ cảm xúc hỗn hợp, Bar-On đã soạn thảo trắc nghiệm đo lường trí tuệ cảm xúc theo kiểu tự đánh giá là EQ-I (Emotional Quotient-Interview), thang đo trí tuệ cảm xúc của Goleman (1995) hay thang đo trí tuệ cảm xúc của Cooper (1996 – 1997)… Như vậy, trong khi mô hình trí tuệ cảm xúc hỗn hợp có khuynh hướng pha trộn nhiều nét của nhân cách, vừa không chứng minh được trí tuệ cảm xúc là một dạng trí tuệ, vừa ít có điều kiện đo lường nó một cách chính xác, tin cậy thì mô hình trí tuệ cảm xúc thuần năng lực nổi bật và thu hút nhiều nhà nghiên cứu cũng như đem lại nhiều lợi ích hơn trong nhiều lĩnh vực như: giáo dục học, tổ chức nhân sự, lãnh đạo quản lý xã hội,… Ngay từ năm 1993, Mayer và Salovey đã phát biểu rằng trí tuệ cảm xúc tiêu biểu cho những cấu trúc độc nhất vô nhị có thể làm nền tảng cho quá trình hình thành thông tin cảm xúc, không nên xem xét trí tuệ cảm xúc như hỗn hợp những năng lực bẩm sinh và những nét tính cách xã hội, mà nên xem nó như một loại trí tuệ làm phát triển nâng cao sự hình thành các loại thông tin nhất định. Mô hình trí tuệ cảm xúc hỗn hợp chủ trương đánh giá trí tuệ cảm xúc dựa vào sự tự thuật (self-report measures) trong khi mô hình trí tuệ cảm xúc thuần năng lực đưa ra những tiêu chuẩn đánh giá dựa trên những thông tin biểu hiện (performance-based measures). Trên thực tế, con người thường không thông báo chính xác trình độ năng lực trí óc của mình. Điều này cũng xảy ra tương tự đối với sự thông báo của cá nhân về năng lực cảm xúc. Chẳng hạn khi yêu cầu người ta đánh giá trí tuệ cảm xúc của mình rồi cung cấp cho họ một biện pháp khách quan về thực hành trí tuệ cảm xúc, kết quả cho thấy mối tương quan rất thấp và thường không có ý nghĩa về mặt thống kê. Chính vì thế, các nhà tâm lý học thế giới bên cạnh việc tiếp tục khám phá lĩnh vực trí tuệ cảm xúc đã thừa nhận: “Dựa trên bằng chứng hiện thời, chúng tôi đề xuất rằng lĩnh vực này sẽ thu được nhiều lợi ích nếu các nhà nghiên cứu trí tuệ cảm xúc nghiên cứu căn cứ theo mô hình trí tuệ cảm xúc thuần năng lực của Mayer, Salovey và cộng sự (1997)”[21]. Từ những phân tích trên về các mô hình trí tuệ cảm xúc và phương pháp đo lường trí tuệ cảm xúc dựa trên các mô hình của nó, chúng tôi chọn mô hình trí tuệ cảm xúc thuần năng lực của Mayer và Salovey (1997) làm cơ sở lý luận nghiên cứu thực trạng của đề tài. Mô hình này được tạo thành bởi bốn nhóm năng lực cơ bản: nhận thức cảm xúc, cảm xúc hóa tư duy, hiểu biết cảm xúc và điều khiển, kiểm soát cảm xúc. 1.2.2.4. Các mặt biểu hiện của trí tuệ cảm xúc a. Nhận thức cảm xúc Nhận thức cảm xúc là khả năng phát hiện, giải mã những cảm xúc trên gương mặt, tranh ảnh, giọng nói và những giả tạo văn hóa (cultural artifact). Đây cũng là khả năng nhận dạng, nhận biết được cảm xúc của mình, của người khác hay môi trường xã hội nói chung và sự ảnh hưởng của cảm xúc như thế nào đến hiệu quả công việc. Điều này có nghĩa con người phải nhận biết được thời điểm xuất hiện và nguyên nhân của cảm xúc, nhận biết được mối liên hệ giữa tình cảm và suy nghĩ, giữa lời nói và việc làm… của bản thân và của người khác. Nhận thức cảm xúc này có thể thông qua các con đường như: các tác phẩm nghệ thuật, ngôn ngữ, hành vi, nét mặt,… và vô số những tín hiệu khác từ cơ thể. Điều quan trọng trong nhận thức cảm xúc là phải nhận ra được sự khác biệt giữa những biểu lộ cảm xúc có thật và biểu lộ cảm xúc một cách miễn cưỡng giả tạo. Nhận biết cảm xúc là đại diện của một khía cạnh của trí tuệ cảm xúc, nó làm cho các xử lý thông tin cảm xúc khác trở thành có thể. Nhận biết cảm xúc là thành phần cơ bản của trí tuệ cảm xúc bởi lẽ không gọi được tên các cảm xúc, không nhận biết đúng bản chất của nó thì sẽ không phân biệt được một cách chính xác một cảm xúc này với một cảm xúc khác. Do đó, những kỹ năng khác nếu có được cũng không đem lại lợi ích gì. Chẳng hạn làm sao bạn có thể điều khiển, kiểm soát được những cảm xúc của mình nếu bạn không biết mình phải điều khiển hay kiểm soát cái gì. Cảm xúc là một loại thông điệp phản ánh thái độ, tình cảm, suy nghĩ, trạng thái sinh lý và tâm lý của mình và của người khác cho chính bản thân và đối tượng giao tiếp biết được. Điều này cho phép chúng ta biết được những nhu cầu, nguyện vọng… đã được thỏa mãn hay chưa. Sự nhận thức như thế sẽ dẫn đường cho sự điều chỉnh, kiểm soát những cảm xúc, hành vi nhằm giúp cá nhân thành công trong công việc và mối quan hệ với mọi người xung quanh. Nhận thức cảm xúc khơi nguồn bằng sự hòa hợp với dòng cảm xúc, sự hòa hợp này luôn tồn tại trong mỗi chúng ta. Dòng cảm xúc của chúng ta luôn tồn tại song song một cách hoàn hảo với dòng suy nghĩ của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta hiếm khi quan tâm, chú ý hay chịu dừng lại để tập trung quan sát những cảm xúc nên thường cảm nhận được chúng một cách mờ nhạt trước khi chúng phát triển mạnh mẽ. Người có khả năng nhận biết cảm xúc có thể đọc các cảm xúc của mình và của người khác một cách rõ ràng, chính xác cũng như thể hiện, biểu lộ những cảm xúc một cách hợp lý về mặt xã hội. Nhận biết cảm xúc còn thể hiện ở việc hiểu rõ sự ảnh hưởng cảm xúc của bản thân và của người khác đến hiệu quả công việc như thế nào khi hợp tác làm việc. Điều này nói lên khả năng tự đánh giá của cá nhân về những ưu, hạn chế trong cảm xúc để phát huy cảm xúc có lợi và hạn chế cảm xúc gây cản trở, khó khăn trong hợp tác. Những người không có khả năng nhận biết và biểu lộ cảm xúc sẽ ở thế bất lợi, thường bị cảm xúc chi phối, phó mặc thậm chí lệ thuộc vào cảm xúc, tình cảm của mình dù không có lợi. Theo Mayer và Salovey: “Những người biết chắc về cảm giác của mình sẽ có thể sống tốt hơn, cảm nhận chân thật và đúng đắn hơn về các quyết định của mình, dù đó là chọn bạn đời hay một nghề”. [2, tr.86] b. Cảm xúc hóa tư duy (hay hòa cảm xúc vào suy nghĩ) Cảm xúc hóa tư duy thể hiện ở việc cảm xúc hỗ trợ tư duy, hành động một cách có hiệu quả và giúp cho óc phán đoán, trí nhớ hoạt động hiệu quả hơn.. Vai trò của năng lực này không phải ai cũng nhận ra bởi lẽ chúng ta được dạy một cách sai lầm là cảm xúc cản trở, phá vỡ suy nghĩ. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của nhà thần kinh học Antonio Damasio chỉ ra rằng những cảm xúc là nền tảng của việc đưa ra những quyết định đúng đắn. Theo ông, cảm xúc không phải là xa xỉ, chúng hoạt động như là những hướng dẫn bên trong và giúp chúng ta kết nối với những dấu hiệu khác mà dấu hiệu này cũng có thể hướng dẫn những cảm xúc. Người có trí tuệ cảm xúc có thể sử dụng tối đa khả năng của cảm xúc trong việc đưa ra những quyết định đúng đắn và dễ dàng chấp nhận. Cảm xúc hóa tư duy còn thể hiện ở việc cân nhắc để phân biệt cảm xúc với ý nghĩ và làm cho cảm xúc định hướng có chú ý. Các cảm xúc có thể hạn chế hoặc tăng thêm khả năng suy nghĩ và hoạch định của chúng ta cũng như khả năng học tập để đạt tới mục đích lâu dài, giải quyết các vấn đề,… Điều đó đồng nghĩa với việc xác định giới hạn năng lực trong việc sử dụng các năng lực tinh thần bẩm sinh của mỗi người, do đó cảm xúc tham gia vào việc quyết định tương lai cá nhân. Người biết sử dụng cảm xúc của bản thân một cách có ý thức có thể làm tăng khả năng tư duy uyển chuyển, tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên kết các ý tưởng, cho phép khám phá ra những mối liên hệ, dự đoán được hệ quả các quyết định,… Vì thế, khả năng giải quyết vấn đề sẽ dễ dàng hơn dù là những vấn đề lý thuyết hay vấn đề trong mối quan hệ xã hội. Theo ý nghĩa này, trí tuệ cảm xúc là năng lực chủ yếu có ảnh hưởng sâu sắc tới các năng lực khác bằng cách kích thích hay ức chế chúng. Người có khả năng cảm xúc hóa tư duy nhận thức được rằng một sự thay đổi trong trạng thái cảm xúc có thể làm nảy sinh các loại năng lực giải quyết vấn đề khác nhau. Cảm xúc có quyền năng to lớn trong việc hỗ trợ hoặc khống chế, thậm chí làm tê liệt bộ não tư duy. Sự thay đổi cảm xúc có thể làm ảnh hưởng đến trí nhớ, óc phán đoán và cách giải quyết vấn đề. Chẳng hạn như khi thoải mái, chúng ta nhớ lại sự kiện tốt hơn, cân nhắc được mặt mạnh, mặt yếu của một quyết định, phán đoán tình hình đúng đắn hơn, ngược lại khi tâm trạng xấu sẽ dẫn đến việc đưa ra quyết định quá dè dặt, quá thận trọng. Có thể nói rằng cảm xúc hóa tư duy là khả năng quản lý tốt các trạng thái cảm xúc bên trong của bản thân, giúp cho cá nhân chịu trách nhiệm về các hành vi của mình, linh hoạt trong việc giải quyết các vấn đề, nhất là các vấn đề nảy sinh trong điều kiện hoàn cảnh thay đổi. c. Hiểu biết cảm xúc Năng lực hiểu cảm xúc thể hiện ở chỗ hiểu được những loại cảm xúc nào là tương tự, là đối nghịch hay sự pha trộn giữa các loại cảm xúc. Hiểu cảm xúc cũng chính là hiểu những quy luật trong đời sống cảm xúc, chẳng hạn như sự mất mát thường kéo theo sự buồn chán hoặc sự buồn chán có thể làm người ta không muốn tiếp xúc với người khác, sự thành công không thể giải thích được của đối phương dễ dẫn đến cảm giác ghen tỵ,… Hiểu biết cảm cảm xúc liên quan đến khả năng thấu hiểu các ngôn ngữ cảm xúc, hiểu rõ mối quan hệ phức tạp giữa các cảm xúc. Thành phần này liên quan đến khả năng hiểu, thấu hiểu (thông cảm, đồng cảm), tôn trọng, thúc đẩy và truyền cảm xúc để khích lệ, an ủi người khác. Hiểu biết cảm xúc thể hiện ở chỗ cá nhân hiểu xúc cảm, tình cảm của bản thân, nhưng nhấn mạnh ở việc cá nhân hiểu biết xúc cảm và tình cảm của người khác, để tâm và lắng nghe những mối quan tâm, cảm xúc của họ, hiểu được nhu cầu, mong muốn được phát triển của người khác và nâng đỡ các khả năng phát triển đó. Theo Goleman: “Không hiểu được những cảm xúc của chính bản thân mình hay không ngăn cản được việc chúng làm ngập lòng ta thì chúng ta sẽ rơi vào tình trạng hoàn toàn không hiểu được tâm trạng của người khác” [3, tr.230]. Charles Darwin cho rằng hai khả năng gắn bó chặt chẽ với nhau là truyền đạt và hiểu cảm xúc đóng vai trò to lớn trong sự tiến hóa của con người, cả việc thiết lập và duy trì trật tự xã hội. Trong quan hệ với người khác, cá nhân có hiểu biết cảm xúc cao thường có khả năng phán đoán, nhận ra và đáp ứng ở chừng mực tốt nhất những nhu cầu và mong muốn của người khác. Ngoài ra cá nhân còn biết nuôi dưỡng các cơ hội thông qua các mối quan hệ của bản thân với nhiều loại khác nhau trong chừng mực nhất định. Khi tham gia vào các nhóm xã hội khác nhau, cá nhân còn thể hiện ở khả năng nhận ra và hiểu được các dòng xúc cảm của nhóm nào đó để có hành vi ứng xử phù hợp. Để có thể cảm nhận, thấu cảm, đồng cảm với những cảm xúc của người khác, trước hết cá nhân cần có khả năng tự nhận thức, “đọc” được cảm xúc và phân biệt được các dấu hiệu bản chất của cảm xúc bản thân và người khác. Bởi lẽ người khác hiếm khi nói ra trực tiếp những gì diễn ra trong bản thân mà thường ẩn chứa, che giấu trong điệu bộ, nét mặt, ngôn ngữ, cử động toàn thân,… mà chúng ta cần phải khám phá ra được. Hiểu được cảm xúc còn đòi hỏi cá nhân phải gạt sang một bên những cảm xúc riêng của bản thân để có thể tiếp nhận và phân biệt một cách rõ ràng những tín hiệu cảm xúc của người khác để đưa ra những hành vi, ứng xử và quyết định khôn khéo, thông minh. Từ đó có thể đạt được những kết quả tốt trên con đường theo đuổi mục tiêu. d. Điều khiển, kiểm soát cảm xúc Trong mối quan hệ với người khác, cá nhân không chỉ có hành vi, ứng xử hợp lý, đúng mực với đối tượng, hoàn cảnh, mục đích mà những biểu hiện đó phải hài hòa, phù hợp với những biểu lộ của cảm xúc. Điều này phản ánh sự tham gia của ý thức trong việc quản lý các cảm xúc của cá nhân. Năng lực này thể hiện tính chủ động, chủ định của cá nhân trong kiểm soát cảm xúc, do đó nó rất quan trọng và có ích nếu cá nhân biết sử dụng đúng lúc và phù hợp. Theo Mayer và Salovey: “Sự kiểm soát các cảm xúc – tức là có thể trì hoãn sự thỏa mãn ham muốn của mình và đè nén xung lực – là cơ sở của mọi sự hoàn thiện” [2, tr.87]. Điều khiển kiểm soát cảm xúc được thể hiện ở khả năng đưa ra những quyết định thông minh do bản thân xử lý cân bằng giữa lý trí và cảm xúc, không nghiên về bên nào để điều khiển, kiểm soát các cảm xúc của mình và người khác nhằm đạt được những mục tiêu dự định. Đồng thời còn là khả năng điều khiển và chịu trách nhiệm về cảm xúc của mình, đặc biệt là chịu trách nhiệm về động cơ thôi thúc nội tại của hành vi ứng xử trong cuộc sống. Theo ý đó, Goleman cũng cho rằng, thực chất quản lý cảm xúc là bao hàm các kỹ năng xã hội, trong đó có những kỹ năng được đề cao như: biết lắng nghe một cách cởi mở, biết chia sẻ, đồng cảm, biết khuyến khích động viên người khác, biết hợp tác và làm việc với những con người đến từ các nền văn hóa khác nhau để cùng học tập và chia sẻ lợi ích. Quản lý cảm xúc không chỉ ở bản thân mà cá nhân còn phải biết kiểm soát, điều chỉnh cảm xúc của người khác: an ủi, động viên họ, xoa dịu, làm giảm các cảm xúc tiêu cực hay giúp người khác thoát khỏi trạng thái bất ổn, bốc đồng, nhất thời cũng như biết cách kích thích các cảm xúc tích cực. Biết cách an ủi, đỡ nâng tinh thần cho người khác là một kỹ năng rất cần thiết và hữu ích. Theo Mayer và Salovey: “Trí tuệ cảm xúc là sự kết hợp của những thuộc tính nhạy bén về cảm xúc do trời phú (bẩm sinh) với những thuộc tính kỹ năng quản lý cảm xúc có được nhờ con người tự tạo bằng việc học hỏi, luyện tập để giúp con người thành đạt và có cuộc sống hạnh phúc lâu dài” [17, tr.43]. Điều đó nói lên rằng khả năng quản lý cảm xúc không chỉ phụ thuộc vào tri thức mà còn phụ thuộc vào sự tích lũy kinh nghiệm xã hội, các trải nghiệm, kinh nghiệm sống,… của bản thân. Do vậy, cá nhân có thể học tập, rèn luyện, tự nâng cao và bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc của bản thân thông qua con đường luyện tập trong đời sống hàng ngày. Cá nhân kiểm soát và điều khiển cảm xúc một cách có suy nghĩ và chủ động thì sẽ sử dụng có hiệu quả khả năng của cảm xúc để kích thích sự phát triển của trí tuệ, cảm xúc và dễ dàng tiến đến thành công. Các biểu hiện của trí tuệ cảm xúc phát triển từ thấp đến cao, mức độ cao nhất của trí tuệ cảm xúc là năng lực kiểm soát và điều khiển các cảm xúc của bản thân và của người khác. Nhưng không vì vậy mà các năng lực trí tuệ cảm xúc còn lại không quan trọng, bởi lẽ các năng lực trí tuệ cảm xúc vừa là nền tảng của nhau, vừa có quan hệ biện chứng đan xen và hòa quyện vào nhau. Một người thật sự có trí tuệ cảm xúc ít nhất phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn và linh hoạt giữa các năng lực đó. Mỗi người có những biểu hiện ở các năng lực trí tuệ cảm xúc khác nhau, chẳng hạn có người có khả năng nhận biết cảm xúc nhạy bén nhưng lại không có khả năng điều chỉnh, kiểm soát cảm xúc của bản thân. Mức độ biểu hiện các nội dung cụ thể trong từng năng lực trí tuệ cảm xúc cũng khác nhau, chẳng hạn như một số người có thể chế ngự sự lo lắng của bản thân nhưng không biết làm dịu những lo lắng của người khác. 1.2.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển trí tuệ cảm xúc Quá trình hình thành, phát triển trí tuệ cảm xúc chịu sự chi phối của nhiều yếu tố và mỗi yếu tố đều có một vai trò nhất định. Trong đó, mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến sự hình thành và phát triển trí tuệ cảm xúc như sau: - Di truyền không quyết định trực tiếp đến sự phát triển trí tuệ cảm xúc. Yếu tố di truyền là tiền đề, nền tảng vật chất, là điều kiện cần cho sự hình thành, phát triển của trí tuệ cảm xúc. Nếu có được những đặc điểm di truyền ưu việt về hệ thần kinh, não bộ, các giác quan,… thì sẽ có nhiều thuận lợi cho sự phát triển trí tuệ sau này và đặt ra trước chủ thể nhiều tiềm năng khác nhau. Việc khai thác những tiềm năng đó như thế nào còn tùy thuộc vào chủ thể và hoạt động của chủ thể. - Môi trường là nguồn gốc cho sự phát triển nhưng ở dạng tiềm năng và chỉ có ý nghĩa khi có sự tích cực hoạt động của cá nhân. Trong các yếu tố của môi ._. a, b, c ở từng câu chỉ chọn một mức độ. Câu 1: Khi tạo ra các kiểu trang trí mới, gây cảm giác hứng khởi cho một buổi liên hoan sinh nhật thì những cảm xúc dưới đây có thể giúp ích như thế nào? Không có ích Rất có ích a. Bực mình b. Buồn chán c. Vui sướng Câu 2: Khi tổ chức một cuộc diễu binh hấp dẫn thì những xúc cảm dưới đây có thể giúp ích như thế nào? Không có ích Rất có ích a. Tức giận b. Phấn chấn c. Thất vọng Câu 3: Khi phải nấu món ăn theo công thức phức tạp, thì những xúc cảm dưới đây có thể giúp ích như thế nào? Không có ích Rất có ích a. Tức giận b. Phấn chấn c. Thất vọng Câu 4: Những cảm xúc dưới đây có thể giúp ích như thế nào để bạn hiểu được cái gì xảy ra cuộc ẩu đã giữa 3 đứa trẻ, khi mỗi đứa trẻ lại tường thuật khác nhau về cuộc ẩu đả đó? Để hiểu cái gì đã xảy ra đòi hỏi bạn phải chú ý đến các tình tiết của câu chuyện và phải cân nhắc nhiều 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 sự kiện. Không có ích Rất có ích a. Hạnh phúc b. Ngạc nhiên c. Buồn rầu Câu 5: Những cảm xúc dưới đây có thể giúp ích như thế nào cho một bác sỹ khi lựa chọn một kế hoạch điều trị cho bệnh nhân mắc chứng ung thư. Bác sỹ này phải áp dụng một số các nguyên tắc mâu thuẫn nhau trong điều trị bệnh ung thư. Không có ích Rất có ích a. Hạnh phúc b. Không vui cũng không buồn c. Tức giận và chống đối 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 PHẦN C Bạn hãy đọc kỹ từng tình huống dưới đây để hiểu các loại cảm xúc xuất hiện và phát hiện như thế nào. Sau đó bạn chọn 1 phương án trả lời tốt nhất cho mỗi tình huống. Tình huống 1: Hà ngày càng thấy xấu hổ, rồi cảm thấy mình là người vô tích sự. Sau đó Hà cảm thấy……… a. Ngập chìm trong các cảm xúc đó. b. Trầm cảm (u uất). c. Xấu hổ. d. Tủi hổ. e. Lo lắng. Tình huống 2: Kiên cảm thấy hài lòng khi nghĩ về cuộc sống của mình. Càng nghĩ về những điều tốt mình đã làm và những niềm vui mình mang lại cho người khác, Kiên càng cảm thấy……… a. Ngạc nhiên. b. Trầm cảm. c. Chấp nhận. d. Hạnh phúc. e. Sửng sốt. Tình huống 3: Trong cuộc sống của mình, Nga chưa bao giờ ngạc nhiên hơn lúc này. Khi tỉnh lại từ cú sốc do sự mất mát, thì Nga nhận thấy mình có thể tránh được sự bất lợi từ tình huống này, nếu cô lập kế hoạch cẩn thận. Cô trở nên……… a. Sửng sốt. b. Lẫn lộn. c. Phủ nhận tình huống này. d. Mong đợi. e. Suy tư. Tình huống 4: Long buồn vì được người nhà báo tin xấu và anh muốn bày tỏ sự thương tiếc của mình. Sau đó, Long biết rằng mình không được thông tin đúng và vấn đề trở nên xấu hơn lúc đầu anh nghĩ. Long cảm thấy……… a. Tức giận và ngạc nhiên. b. Buồn phiền và lường trước. c. Sốc và hối hận. d. Sợ và lo hãi. e. Tức giận và buồn chán. Tình huống 5: Bảo cảm thấy hạnh phúc với công việc và những chuyện khác ở nhà cũng tốt đẹp. Bảo nghĩ mình và đồng nghiệp nói chung được trả lương thỏa đáng, được đối xử tốt. Hôm nay, tất cả mọi người trong cơ quan đều được tăng lương chút đỉnh như là một phần của chính sách điều chỉnh về lương. Bảo cảm thấy……… a. Ngạc nhiên và bị sốc. b. Thanh thản và im lặng. c. Chấp nhận và phấn khởi. d. Bị làm nhục và mặc cảm tội lỗi. e. Tự hào và nổi trội. Tình huống 6: Hà yêu Kiên, người cô cảm thấy thuộc về mình. Cô bắt đầu nhìn anh như là mẫu người lý tưởng cho cô và cho nhiều người khác. Cô cảm thấy……… a. Tôn trọng anh. b. Thán phục anh c. Ghen tỵ với anh. d. Ngưỡng mộ và coi anh như là thần tượng. e. Nể sợ anh. Tình huống 7: Lan cảm thấy bực mình khi một đồng nghiệp đã nhận được tiền cho một dự án và bây giờ người đó lại nhận được tiền lần nữa. Cô cảm thấy……… a. Tức giận. b. Bực mình. c. Hẫng hụt và thất vọng. d. Hoảng hốt. e. Trầm cảm. Tình huống 8: Sau khi xe bị lấy trộm, Tiến lắp thêm một ổ khóa nữa vào chiếc xe mới mua. Xe mới đó lại bị lấy trộm. Tiến bị sốc và ngạc nhiên, sau đó cảm thấy……… a. Sửng sốt và kinh ngạc. b. Bất lực, thất vọng và tức giận. c. Tức giận và ghê tởm. d. Ghen tỵ và đố kỵ. e. Trầm cảm và khinh bỉ. Tình huống 9: Khi thấy một số sinh viên quay cóp trong kỳ thi, Sơn nghĩ điều này vi phạm qui chế. Anh báo với giáo viên nói chẳng thể làm gì được. Sơn thấy cần báo cáo điều này lên giáo vụ trường, Vì anh cảm thấy…với những điều gì đã xảy ra. a. Khó chịu. b. Bực tức. c. Bất bình (đến mức không thể chịu đựng được). d. Trầm cảm. e. Không vui. Tình huống 10: Vân bị một số người bạn thân thiết nhất của mình xúc phạm, cô cảm thấy tức giận. Vân đã nói với người bạn đó mình bị tổn thương như thế nào. Nhưng người kia vẫn tiếp tục xúc phạm. Vân cảm thấy……… a. Tức giận. b. Sợ hãi. c. Rất bực mình. d. Lo lắng e. Giận điên lên. Tình huống 11: Thuý theo dõi chương trình Dự báo thời tiết trên TV để biết sự di chuyển của một cơn bão đang tiến vào gần bờ, gần nơi bố mẹ nình đang sống. Khi biết cơn bão hướng tới nhà bố mẹ mình cô lo lắng và cảm thấy bất lực. Tuy nhiên vào phút cuối cùng, cơn bão đã đổi hướng và không gây thiệt hại gì cho vùng đó. Cô cảm thấy……… a. Nhẹ người, rối biết ơn. b. Ngạc nhiên rồi bị sốc. c. Căng thẳng, rồi nhẹ người. d. Lường trước và lo lắng. e. Lường trước và bình tĩnh. Tình huống 12: Một phụ nữ cảm thấy được an toàn, được chấp nhận rồi sau đó cảm thấy trầm cảm. Điều gì trong những điều sau đây có nhiều khả năng xảy ra ở khoảng giữa hai trạng thái cảm xuc đó? a. Chị nhận được lời khen dự định dành cho ai đó. b. Chị phát hiện ra chồng đã lừa dối mình. c. Một người bạn bị ốm. d. Gói bưu phẩm gửi cho bạn bị phát nhầm cho người khác. e. Chị thất vọng vì công việc tồi tệ mà chị đã làm ở một dự án. Tình huống 13: Một đứa trẻ mong chờ được hạnh phúc vào ngày sinh nhật của nó, nhưng sau đó nó cảm thấy buồn. Điều gì trong những điều sau đây có nhiều khả năng xảy ra ở khoảng giữa hai trạng thái cảm xúc trên của đứa trẻ này. a. Nó bị bạn chọc tức và nó đã đánh lại. b. Hai người bạn nó mời và mong đợi đã không đến. c. Nó ăn quá nhiều bánh. d. Mẹ nó làm ngượng trước mặt những trẻ khác. e. Bố nó buộc tội nó về cái gì đó mà nó không làm. Tình huống 14: Một phụ nữ tuổi trung niên cảm thấy hạnh phúc và sau đó cảm thấy không tán thành. Điều gì trong những điều sau đây có nhiều khả năng xảy ra ở khoảng giữa hai trạng thái cảm xúc đó?. a. Con trai cô bị thương nhẹ ở nơi làm việc. b. Cô nhận ra mình đã xúc phạm người bạn thân. c. Con dâu cô về nhà muộn khiến cả nhà chờ cơm. d. Chồng cô phê phán cô. e. Cô đánh mất một cuốn sách quan trọng. Tình huống 15: Một người đàn ông cảm thấy thảnh thơi và sau đó cảm thấy thán phục. Điều gì trong những điều sau đây có nhiều khả năng xảy ra ở khoảng giữa hai trạng thái cảm xúc đó?. a. Trong lúc thảnh thơi, ông ta đã giải quyết xong một vấn đề quan trọng liên quan đến công việc. b. Ông ta nghe một câu chuyện về một người anh hùng trong thể thao, người lập kỷ lục mới. c. Bạn của ông ta vừa gọi điện báo tin anh ra đã mua một chiếc xe thể thao với giá khuyến mại. d. Ông ta nhận được gói quà mẹ gửi qua bưu điện. e. Bác sỹ gọi điện báo cuộc kiểm tra sức khoẻ cho kết quả tốt, ông ta hoàn toàn khoẻ mạnh. Tình huống 16: Một phụ nữ cảm thấy có thiện cảm, sau đó thấy yêu. Điều gì trong những điều sau đây có nhiều khả năng xảy ra ở khoảng giữa hai trạng thái cảm xúc này?. a. Cô ta ủng hộ từ thiện và nghĩ về những người mình có thể giúp đỡ. b. Cô mặc một chiếc váy mà nó đặc biệt làm tôn vẻ đẹp của cô. c. Cô đọc một cuốn tạo chí dành cho người hâm mộ viết về một ngôi sao mà cảm thấy rất quyến rũ. d. Mẹ cô gọi điện nói bà đã gửi cho cô món quà sinh nhật, nó có thể làm cô ngạc nhiên. e. Cô đến một cuộc hẹn hò và nhận ra mình có nhiều điểm chung với một người đàn ông hấp dẫn. Tình huống 17: Một giám đốc điều hành công ty cảm thấy không vui và sau đó cảm thấy rất bực tức. Điều gì đã xảy ra ở khoảng giữa hai trạng thái cảm xúc của người giám đốc này?. a. Cấp dưới không đạt được các mục tiêu kinh doanh cho giai đoạn đó. b. Một cán bộ trong công ty, người ta cho là không có năng lực, được tăng lương cao hơn lương ông ta. c. Ông ta đọc mộ bản tin về những người dân ở vùng khác trên thế giới sống trong nghèo khổ và các hoạt động cứu trợ đang gặp trở ngại. d. Vợ ông ta giúp các con làm bài tập về nhà. e. Không ai thích giúp ông ta. Tình huống 18: Một phụ nữ tức giận, sau đó mặc cảm mình có lỗi. Điều gì đã xảy ra ở khoảng giữa hai trạng thái cảm xúc của người phụ nữ này?. a. Chị đánh mất số điện thoại của người bạn thân. b. Chị không hoàn thành công việc tốt như mong đợi vì không đủ thời gian. c. Chị giận dữ một người bạn, sau đó chị nhận ra người bạn này không làm gì gây thương tổn cho mình. d. Chị mất một người bạn thân. e. Chị tức giận vì ai đó đàm tiếu về mình, và sau đó thấy người khác cũng bị người đó bôi nhọ theo cùng một cách. Tình huống 19: Một người đàn ông yêu quý người bạn của mình, nhưng sau đó lại tỏ ý coi khinh người bạn này. Điều gì đã xảy ra ở khoảng giữa hai trạng thái cảm xúc của người đàn ông này?. a. Người bạn mượn của ông ta một cuốn sách đắt tiền và làm mất. b. Người bạn đã phản bội vợ. c. Người bạn đã được tăng lương, mà lẽ ra không đáng được như vậy. d. Người bạn này cho biết anh ta đa chuyển đi chỗ khác. e. Ông ta cảm thấy mình đã xúc phạm bạn nhưng đó cũng một phần là do lỗi của người bạn. Tình huống 20: Một phụ nữ yêu một người, sau đó cảm tháy yên tâm. Điều gì đã xảy ra ở khoảng giữa hai trạng thái cảm xúc của người phụ nữ này?. a. Chị quen biết một người khác và người này yêu chị. b. Chị quyết định không bày tỏ tình cảm của mình. c. Tình yêu của chị đã ra đi. d. Chị nói với một người khác rằng chị yêu anh ta. e. Tự tình yêu của chị mang lại sự bảo đảm đó. PHẦN D Bạn hãy đọc kỹ các tình huống dưới đây. Mỗi hành động ở từng tình huống chỉ chọn 1 trong 5 mức độ từ rất kém hiệu quả đến rất hiệu quả. Tình huống 1: Hà thức dậy cảm thấy sảng khoái, cô đã ngủ ngon, cảm thấy được nghỉ ngơi tốt và không cần có sự chăm sóc hoặc quan tâm đặc biệt nào. Mỗi hành động dưới đây tốt đến mức nào trong việc giúp Hà duy trì được tâm trạng này?. Hành động 1: Cô vùng dậy và thích thú vớ những gì xảy ra với cô trong ngày hôm đó. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Hành động 2: Cô thích tình cảm này nên cô ngẫm nghĩ, thưởng thức tất cả những gì tốt đẹp đang diễn ra với mình. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Hành động 3: Cô nghĩ, cách tốt nhất là không để ý đến trạng thái tình cảm đó, vì nó không thể kéo dài mãi. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Hành động 4: Nhân lúc phấn chấn này cô gọi điện cho mẹ mình, người đang bị trầm nhược và cố động viên bà. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Tình huống 2: Toàn làm việc chăm chỉ, nếu không nói là chăm chỉ hơn các đồng nghiệp của anh. Thực tế những ý tưởng của anh thường là tốt ơn cho việc đạt những kết quả tích cực cho công ty. Trong khi một đồng nghiệp làm việc của anh rất xoàng nhưng lại quen biết lãnh đạo nên được ưu ái. Do vậy khi công ty thông báo rằng phần thưởng thi đua hằng năm sẽ được trao cho người đồng nghiệp này, Toàn rất tức giận. Mỗi hành động dưới đây có hiệu quả như thế nào trong viêc giúp Toàn cảm thấy dễ chịu hơn?. Hành động 1: Toàn ngồi lại và suy nghĩ về tất cả những điều tốt đẹp trong cuộc sống và trong công việc của anh. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 Hành động 2: Toàn cố tìm những ưu điểm khác của người đồng nghiệp này. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Hành động 3: Toàn cảm thấy thật tồi tệ nếu mình cứ giữ thái độ như vậy và anh tự nói với mình không việc gì phải quá bực tức về những việc nằm ngoài tầm kiểm soát của mình. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Hành động 4: Toàn quyết định nói cho mọi người biết công việc kém cỏi của người đồng nghiệp này và anh ta không xứng đáng nhận phần thưởng đó. Toàn tập hợp tư liệu và bằng chứng để chứng minh quan điểm của mình. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Tình huống 3: Ngân không biết khi nào các hóa đơn thanh toán tiền đến hạn trả, liệu có bao nhiêu hóa đơn đòi trả ngay hoặc cô có chạy đủ tiền để trả hay không. Lúc đó, chiếc xe máy của cô lại trục trặc và người sửa chữa nói rằng máy của nó quá cũ và công sửa chữa quá đắt nên không đáng để sửa. Cô cảm thấy khó ngủ, thường thức dậy vài lần trong đêm và cô hiểu rằng mình lúc nào cũng lo sợ. Mỗi hành động sau có hiệu quả như thế nào trong việc giúp Ngân giảm được nỗi lo sợ này?. Hành động 1: Ngân cố tìm hiểu xem cô nợ những khoản gì, nợ bao nhiêu và khi nào các khoản nợ đến hạn phải thanh toán. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Hành động 2: Ngân học các liệu pháp thư giãn để tự làm mình bớt lo sơ. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Hành động 3: Ngân gọi điện thoại nhờ một chuyên gia tư vấn giúp cô học cách làm thế nào để quản lý số tiền của mình một cách đúng đắn. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Hành động 4: Ngân quyết định sẽ tìm một công việc khác có lương cao hơn. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Tình huống 4: Dường như chẳng có gì tốt đẹp xảy ra với Hải. Chẳng có gì nhiều trong cuộc 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 sống của Hải làm anh thích thú và mang lại niềm vui. Năm tới những hàng động sau có hiệu quả như thế nào trong công việc làm cho Hải cảm thấy vui thích hơn?. Hành động 1: Hải bắt đầu gọi điện cho những người bạn mà đã lâu anh không giữ liên lạc và có kế hoạch đến thăm một vài người trong số họ. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Hành động 2: Anh cố ăn tốt hơn, đi ngủ sớm hơn và tập thể dục nhiều hơn. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Hành động 3: Hải cảm thấy mình làm mọi người không vui và quyết địnhở một mình một thời gian, cho đến khi có thể hiểu ra điều gì làm mình buồn chán. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Hành động 4: Hải phát hiện thấy rằng ngồi thư giãn trước TV vào buổi tối với một hoặc hai lon bia thực sự giúp anh cảm thấy tốt hơn. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Tình huống 5: Khi Khải lái xe từ cơ quan về nhà, một chiếc xe khác vượt qua ngang mũi xe anh. Anh không kịp bóp còi, chỉ kịp lái xe sang phải để tránh đâm vào nó. Anh rất tức giận. Mỗi hành động sau có hiệu quả như thế nào trong viêc giúp Khải đương đầu với sự tức giận này?. Hành động 1: Khải quyết định dạy cho người lái xe kia một bài học bằng cách vượt lên liệng sát mũi xe anh ta khi ra khỏi đường cao tốc. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Hành động 2: Khải tự nhủ rằng những điều như vậy thường xảy ra và lái xe về nhà. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Hành động 3: Khải hét lên và chửi hoặc nguyền rủa người lái xe kia. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Hành động 4: Khải thề rằng sẽ không bao giờ lai xe trên con đường cao tốc đó nữa. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 PHẦN E Bạn hãy quan sát kỹ 6 bức ảnh và nhận xét từng loại cảm xúc đã cho biểu hiện như thế nào qua từng bức ảnh theo thang bậc từ 1 đến 5. Câu 1 (Xem ảnh 1): Những cảm xúc dưới đây được biểu lộ như thế nào khi xem bức ảnh này. Mỗi loại cảm xúc a, b, c, d, e chỉ chọn một mức độ phù hợp với bức ảnh. a. Không hạnh phúc Rất hạnh phúc b. Không buồn Rất buồn c. Không lo sợ Rất lo sợ d. Không tức giận Rất tức giận e. Không ghê tởm Rất ghê tởm Câu 2 (Xem ảnh 2): Những cảm xúc dưới đây được biểu lộ như thế nào khi xem bức ảnh này. Mỗi loại cảm xúc a, b, c, d, e chỉ chọn một mức độ phù hợp với bức ảnh. a. Không buồn Rất buồn b. Không tức giận Rất tức giận c. Không ngạc nhiên Rất ngạc nhiên d. Không ghê tởm Rất ghê tởm e. Không phấn chấn Rất phấn chấn Câu 3 (Xem ảnh 3): Những cảm xúc dưới đây được biểu lộ như thế nào khi xem bức ảnh này. Mỗi loại cảm xúc a, b, c, d, e chỉ chọn một mức độ phù hợp với bức ảnh. a. Không hạnh phúc Rất hạnh phúc b. Không lo sợ Rất lo sợ c. Không tức giận Rất tức giận d. Không ngạc nhiên Rất ngạc nhiên e. Không ghê tởm Rất ghê tởm 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 Câu 4 (Xem ảnh 4): Những cảm xúc dưới đây được biểu lộ như thế nào khi xem bức ảnh này. Mỗi loại cảm xúc a, b, c, d, e chỉ chọn một mức độ phù hợp với bức ảnh. a. Không buồn Rất buồn b. Không lo sợ Rất lo sợ c. Không tức giận Rất tức giận d. Không ngạc nhiên Rất ngạc nhiên e. Không ghê tởm Rất ghê tởm Câu 5 (Xem ảnh 5): Những cảm xúc dưới đây được biểu lộ như thế nào khi xem bức ảnh này. Mỗi loại cảm xúc a, b, c, d, e chỉ chọn một mức độ phù hợp với bức ảnh. a. Không hạnh phúc Rất hạnh phúc b. Không buồn Rất buồn c. Không lo sợ Rất lo sợ d. Không tức giận Rất tức giận e. Không ghê tởm Rất ghê tởm Câu 6 (Xem ảnh 6): Những cảm xúc dưới đây được biểu lộ như thế nào khi xem bức ảnh này. Mỗi loại cảm xúc a, b, c, d, e chỉ chọn một mức độ phù hợp với bức ảnh. a. Không hạnh phúc Rất hạnh phúc b. Không buồn Rất buồn c. Không tức giận Rất tức giận d. Không ngạc nhiên Rất ngạc nhiên e. Không ghê tởm Rất ghê tởm 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 PHẦN F Mỗi tình huống dưới đây đòi hỏi Bạn phải tưởng tượng mình đang cảm nhận theo một cách nào đó. Hãy đưa ra câu trả lời tốt nhất theo cách hiểu của Bạn, thậm chí ngay cả khi Bạn không thể hình dung nổi tình cảm đó. Mỗi mục a, b, c bạn chỉ chọn 1 mức độ phù hợp theo thang bậc từ 1 (không giống) đến 5 (rất giống). Tình huống 1: Hãy tưởng tượng rằng Bạn đang mặc cảm rằng mình có lỗi do Bạn quên đi thăm người bạn thân bị ốm nặng. Trưa hôm đó, Bạn chợt nhớ ra quên không đến thăm người bạn thân này đang nằm trong bệnh viện. Vậy mặc cảm có lỗi của Bạn giống những xúc cảm, tình cảm dưới đây ở mức độ nào?. Không giống Rất giống a. Thờ ơ b. Bất an c. Hài lòng Tình huống 2: Bạn hãy tưởng tượng đang cảm thấy hài lòng về một ngày tuyệt vời với những tin tức tốt lành về công việc, về gia đình. Với tình cảm mãn nguyện đó giống những xúc cảm, tình cảm dưới đây ở mức độ nào?. Không giống Rất giống a. Ấp áp, dễ chịu b. Tức giận c. Xót xa Tình huống 3: Hãy tưởng tượng Bạn đang cảm thấy lạnh lẽo, buồn tẻ và đau xót. Tình cảm này giống như những xúc cảm, tình cảm duới đây ở mức độ nào?. Không giống Rất giống 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 a. Bị thách thức b. Bị cô lập c. Ngạc nhiên Tình huống 4: Hãy tưởng tượng Bạn có cảm giác mênh mang, rộng lớn, mềm mại và xanh tươi. Tình cảm này giống những xúc cảm, tình cảm dưới đây ở mức độ nào?. Không giống Rất giống a. Hứng khởi b. Ghen tức c. E sợ Tình huống 5: Hãy tưởng tượng Bạn có cảm thấy có cái gì khép kín, u ám và tê dại. Tình cảm này giống những xúc cảm, tình cảm dưới đây ở mức độ nào?. Không giống Rất giống a. Buồn sầu b. Hài lòng c. Bình tĩnh 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 PHẦN G Bạn chỉ chọn 1 phương án đúng nhất trong số 5 phương án (a, b, c, d, e) cho mỗ câu dưới đây. Câu 1: Sự quan tâm gần nhất với tổ hợp xúc cảm nào dưới đây……… a. Yêu thương, lo âu, ngạc nhiên, tức giận. b. Ngạc nhiên, tự hào, tức giận, sợ hãi. c. Chấp nhận, lo âu, sợ hãi và lường trước. d. Sợ hãi, vui sướng, ngạc nhiên, lúng túng. e. Lo lắng, chăm sóc, lường trước. Câu 2: Từ khác biểu thị sụ vui vẻ, hướng về tương lai một cách kiên định là……… a. Lạc quan. b. Hạnh phúc. c. Thỏa mãn. d. Vui sướng. e. Ngạc nhiên. Câu 3: Chấp nhận, vui sướng và nồng nhiệt thường kết hợp lại với nhau để hình thành……… a. Sự yêu thương. b. Sự sửng sốt. c. Sự đoán trước. d. Sự hài lòng. e. Sự chấp nhận. Câu 4: Sự kết hợp các cảm xúc: ghê tởm và tức giận sẽ hình thành……… a. Mặc cảm tội lỗi. b. Sự nổi khùng. c. Sự xấu hổ. d. Sự thù hận. e. Sự coi thường. Câu 5: Sự ngạc nhiên do buồn rầu dẫn đến……… a. Thất vọng. b. Sửng sốt. c. Tức giận. d. Lo sợ. e. Hối tiếc. Câu 6: Buồn chán, mặc cảm tội lỗi và hối tiếc kết hợp lại sẽ hình thành……… a. Sự bi lụy. b. Sự bực tức. c. Trầm cảm (u uất). d. Sự ân hận. e. Sự đau khổ. Câu 7: Thư giãn, yên ổn và bình tĩnh là những thành phần của……… a. Sự yêu mến. b. Sự mệt mỏi. c. Sự mong đợi. d. Sự điềm tĩnh. e. Sự lường trước. Câu 8: Sợ, vui sướng, ngạc nhiên và lúng túng là những thành phần của……… a. Sư quý trọng. b. Nể sợ. c. Sự lo sợ. d. Sự tôn trọng. e. Đồng cảm. Câu 9: Xấu hổ, ngạc nhiên và lúng túng là những thành phần của……… a. Sự ghen tức b. Buồn chán. c. Mặc cảm tội lỗi. d. Đố kỵ. e. Thẹn thùng. Câu 10: Cảm phục, yêu quý và lo lắng là những thành phần của……… a. Ghen tức. b. Buồn chán. c. Ác tâm. d. Tự hào. e. Lo sợ. Câu 11: Vui sướng, phấn chấn và không chắc chắn là những thành phần của……… a. Sinh động. b. Sự lường trước. c. Lo âu. d. Bình tĩnh. e. Than thảnh. Câu 12: Buồn và hài lòng, cả hai đôi khi những thành phần của……… a. Nỗi luyến tiếc. b. Lo âu. c. Lường trước. d. Trầm cảm. e. Coi thường. PHẦN H Bạn chọn một câu trả lời tốt nhất cho mỗi phương án trong các tình huống dưới đây theo thang bậc từ 1 (rất kém hiệu quả) đến 5 (rất hiệu quả). Tình huống 1: Nam kết bạn thân với một người cùng cơ quan được hơn một năm. Hôm nay, người bạn đó làm anh ngạc nhiên khi nói rằng, anh ta đã xin chuyển công tác sang cơ quan khác và có thể chuyển khỏi vùng này. Anh ta không kể chi tiết việc anh ta chuyển công tác. Những phương án ứng xử dưới đây có hiệu quả như thế nào giúp Nam duy trì mối quan hệ bạn bè tốt với người bạn kia?. Phương án 1: Nam cảm thấy không sao và nói với bạn rằng anh vui mừng vì bạn có chỗ làm mới. Qua vài tuần Nam hẹn gặp để khẳng định họ vẫn là bạn bè. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Phương án 2: Nam cảm thấy buồn vì bạn đã chuyển đi, nhưng những gì đã xảy ra cho thấy người bạn đó đã không quan tâm nhiều đến anh. Người bạn này không nói gì về việc tại sao anh ta chuyển đi, điều này chứng tỏ anh ta không còn là bạn. Nam không để ý đến điều đó, mà thay vào đó anh tìm cách kết bạn với những người khác cùng cơ quan. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Phương án 3: Nam tức giận vì bạn không nói gì với mình. Nam tỏ thái độ không đồng tình bằng cách lờ người đó đi đến khi người đó nói cái gì đó về điều anh ta đã làm. Nam nghĩ rằng nếu người bạn không nói gì, điều đó có thể khẳng định người đó không đáng là bạn. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Tình huống 2: Thầy giáo của Tâm vừa mời bố mẹ của Tâm đến để nói rằng Tâm học rất kém, không tập trung chú ý, là người hay quậy phá và không thể ngồi yên trong giờ học. Thầy giáo này không có nhiều kinh nghiệm để đối phó với những trẻ hiếu động và bố mẹ của Tâm lo lắng không biết điều gì sẽ xảy ra. Sau đó thầy giáo nói rằng con trai họ sẽ không được lên lớp trừ khi có sự tiến bộ, bố mẹ của Tâm cảm thấy rất tức giận. Những phương án sau sẽ giúp ích 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 con họ như thế nào?. Phương án 1: Bố mẹ của Tâm nói với giáo viên rằng đây là cú sốc lớn đối với họ, vì đây là lần đầu tiên họ nghe nói về vấn đề của con họ. Họ đề nghị được gặp lại giáo viên để cùng trao đổi và nếu có thể, mời hiệu trưởng cùng dự. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Phương án 2: Bố mẹ giáo viên nói rằng nếu giáo viên cứ tiếp tục đe dọa không cho con trai họ lên lớp, họ sẽ đưa vấn đề này lên hiệu trưởng. Họ nói “nếu con trai chúng tôi bị đúp, chúng tôi sẽ buộc anh phải chịu trách nhiệm. Anh là giáo viên, công việc của anh là dạy học, không nên đổ lỗi cho học trò. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Phương án 3: Bố mẹ của Tâm không nói chuyện với giáo viên. Họ đi gặp hiệu trưởng và phàn nàn về tái độ đe dọa của giáo viên, đồng thời đề nghị cho con họ chuyển sang lớp khác. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Tình huống 3: Mọi chuyện diễn ra tốt đẹp với Lê. Trong khi những người khác bị quở trách về công việc thì Lê đượ khen, lại được thăng chức. Các con của cô ngoan và học giỏi, gia đình cô hòa thuận và hạnh phúc. Lê bắt đầu cảm thấy mình rất quan trọng và bắt đầu nhận thấy mình bắt đầu khoe khoang về cuộc sống của mình với bạn bè. Những phương án sau có hiệu quả như thế nào cho việc duy trì các mối quan hệ của cô. Phương án 1: Vì mọi thứ đều tốt, Lê cảm thấy tự hào về điều đó nhưng cô cũng cảm thấy một vài người không thích hoặc họ ghen tức với cô. Vì vậy, cô chỉ nên nói với những người bạn thân. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Phương án 2: Lê bắt đầu nghĩ về tất cả những khó khăn trong tương lai để cô có thể có 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 cái nhìn toàn cảnh về cuộc sống của mình. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả Phương án 3: Lê chia sẽ các cảm nhận của cô đối với chồng tối hôm đó. Sau đó cô quyết định gia đình mình nên sử dụng thời gian cùng nhau vào cuối tuần và tham gia vào một vài sự kiện của gia đình để mọi người được ở cùng nhau. Rất kém hiệu quả Rất hiệu quả 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 PHIẾU TRẢ LỜI TRẮC NGHIỆM MSCEIT Họ và tên:………………………………… Nam/Nữ:……………………… Học sinh lớp:…………………………….. Trường:……………………….. Kết quả học tập học kỳ I:…………………………………………………….. Các bạn hãy đọc kỹ phần hướng dẫn và trả lời từng câu hỏi đã nêu trong trắc nghiệm bằng cách viết các con số (1, 2, 3, 4, 5 hoặc 6), hoặc chữ cái (a, b, c, d, e) vào ô trống trong phiếu điều tra. Xin các bạn không bỏ sót câu trả lời nào. PHẦN A PHẦN B PHẦN C Tình huống Câu 1 Câu 2 Câu 3 Câu 4 a… a… a… a… b… b… b… b… c… c… c… c… d… d… d… d… e… e… e… e… Câu 1 Câu 2 Câu 3 Câu 4 Câu 5 a… a… a… a… a… b… b… b… b… b… c… c… c… c… c… 1… 5… 9… 13… 17… 2… 6… 10… 14… 18… 3… 7… 11… 15… 19… 4… 8… 12… 16… 20… PHẦN D Tình huống 1 Tình huống 2 Tình huống 3 Tình huống 4 Tình huống 5 Hành động 1… Hành động 1… Hành động 1… Hành động 1… Hành động 1… Hành động 2…Hành động 2… Hành động 2… Hành động 2… Hành động 2… Hành động 3…Hành động 3… Hành động 3… Hành động 3… Hành động 3… Hành động 4…Hành động 4… Hành động 4… Hành động 4… Hành động 4… PHẦN E Câu 1 Câu 2 Câu 3 Câu 4 Câu 5 Câu 6 a… a… a… a… a… a… b… b… b… b… b… b… c… c… c… c… c… c… d… d… d… d… d… d… e… e… e… e… e… e… PHẦN F Câu 1 Câu 2 Câu 3 Câu 4 Câu 5 PHẦN G Câu 1 Câu 2 Câu 3 Câu 4 Câu 5 Câu 6 Câu 7 Câu 8 Câu 9 Câu 10 Câu 11 Câu 12 a… a… a… a… a… a… a… a… a… a… a… a… b… b… b… b… b… b… b… b… b… b… b… b… c… c… c… c… c… c… c… c… c… c… c… c… d… d… d… d… d… d… d… d… d… d… d… d… e… e… e… e… e… e… e… e… e… e… e… e… PHẦN H Tình huống 1 Tình huống 2 Tình huống 3 Phương án 1… Phương án 1… Phương án 1… Phương án 2… Phương án 2… Phương án 2… Phương án 3… Phương án 3… Phương án 3… a… a… a… a… a… b… b… b… b… b… c… c… c… c… c… PHIẾU Ý KIẾN Chân thành cảm ơn các bạn đã giúp đỡ để chúng tôi có thể hoàn thành đề tài nghiên cứu “trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông”. Các bạn vui lòng đánh dấu (X) vào ô mà các bạn cho là phù hợp. Bạn là học sinh khối:………………………………………………………….. Giới tính của bạn:…………………………………………………………… Kết quả học tập học kỳ I:…………………………………………………. Môn học yêu thích của bạn:……………………………………………………… Theo bạn, những nguyên nhân sau đây có ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển trí tuệ cảm xúc của bạn? Mức độ ảnh hưởng Các nguyên nhân Rất nhiều Nhiều Trung bình Ít Không ảnh hưởng Chưa biết các phương pháp luyện tập để nâng cao trí tuệ cảm xúc Tích cực, chủ động tham gia các hoạt động có tính tập thể ở trường, xã hội Nhu cầu, mong muốn nâng cao trí tuệ cảm xúc Chưa nhận thức vai trò của trí tuệ cảm xúc trong hoạt động sống và công việc Chưa có tri thức, hiểu biết về trí tuệ cảm xúc Phạm vi mối quan hệ còn bó hẹp chủ yếu trong nhà trường Ít tiếp xúc, va chạm, trải nghiệm với cuộc sống xã hội Ảnh hưởng của nhóm bạn thân Di truyền từ cha mẹ Nội dung các môn học trong nhà trường Phong cách dạy và giao tiếp của giáo viên Nghề nghiệp của cha mẹ Các hoạt động tập thể trong nhà trường Giáo dục gia đình: cách cư xử, thể hiện tình cảm… Hoàn cảnh sống BẢNG CÂU HỎI PHỎNG VẤN 1. Bạn hãy kể lại một câu chuyện xảy ra gần đây nhất giữa bạn và một người khác mà giữa hai người do không kiềm chế được cảm xúc đã nảy sinh mâu thuẫn? 2. Bạn hãy tự nhận xét những ưu điểm và hạn chế của bạn trong việc kiểm soát, quản lý cảm xúc trong quá trình giao tiếp? 3. Bạn có những đề nghị gì nhằm giúp bạn nâng cao những năng lực cảm xúc của bản thân? BẢNG XẾP LOẠI HỌC SINH TRƯỜNG THPT NGUYỄN DU VÀ THPT BẢO LỘC Trường Xếp loại Tần số và tỷ lệ % Nguyễn Du Bảo Lộc Yếu Tần số Tỷ lệ % 25 25,3% 2 1,7% Trung bình Tần số Tỷ lệ % 61 61,6% 33 28,4% Khá Tần số Tỷ lệ % 13 13,1% 75 64,7% Giỏi Tần số Tỷ lệ % 0 0% 6 5,2% Tổng Tần số Tỷ lệ % 99 100% 116 100% BẢNG DANH SÁCH HỌC SINH THAM GIA NHÓM THỰC NGHIỆM TT Họ và tên Điểm lần 1 Điểm lần 2 1 Điền Thị An 87.6 90.6 2 Nguyễn Thị Ngọc Yến 91.76 112.5 3 Lê Quang Phương 113.3 117.2 4 Phạm Thị Hoa 90.8 98.91 5 Nguyễn Anh Tuấn 110.8 111.4 6 Đặng Thị Huyền Ly 106.8 111.9 7 Phạm Xuân Kỳ 101.6 99.64 8 Trần Thị Thanh Hương 102.8 110.6 9 Nguyễn Thị Hảo 95.36 114 10 Nguyễn Thị Thùy Linh 101.6 114.8 11 Hoàng Kim Ngân 91.28 107.5 12 Nguyễn Hữu Đức 93.32 95.99 13 Đặng Duy Thiên 105.1 113.3 14 Đoàn Anh Bảo 116.1 116.5 15 Phạm Bích Quỳnh 92.13 110.4 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5189.pdf
Tài liệu liên quan