Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ

MỞ ĐẦU I. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Giao thông vận tải nói chung, GTVTĐB nói riêng đóng một vị trí quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, bảo đảm an ninh quốc phòng của mỗi quốc gia. Bên cạnh những lợi ích to lớn do GTVT mang lại, trong quá trình sử dụng các phương tiện GTVT cơ giới đường bộ đã có không ít vụ tai nạn xảy ra gây những thiệt hại nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe của con người và của cải vật chất của xã hội. Mỗi năm, trên thế giới có 700.000 ng

doc208 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2207 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ười bị chết và trên 10 triệu người bị thương vì TNGT, thiệt hại về kinh tế khoảng 500 tỷ USD (Báo cáo của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, 2000). Đó là một trong những nhân tố gây ra sự thiếu ổn định, sự mất an toàn trong trật tự chung của xã hội. Các nước trên thế giới đều phải đối mặt với tình trạng TNGT gia tăng. Để làm giảm đến mức thấp nhất thiệt hại do hoạt động của các phương tiện giao thông đường bộ gây ra, bên cạnh việc đầu tư nâng cấp hệ thống đường xá, cầu cống, nghiên cứu sản xuất các phương tiện giao thông đường bộ hiện đại có hệ số an toàn cao, các nước đều quan tâm đến việc xây dựng hoàn chỉnh các quy định về trật tự an toàn giao thông, các quy định về việc xử lý các hành vi vi phạm trong đó có các quy định về TNBTTH. Hiện nay đất nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, GTVT chiếm một vị trí hết sức quan trọng, bởi vì đó là một ngành thuộc kết cấu hạ tầng tạo động lực phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Hệ thống GTVTĐB ở nước ta từng bước được đầu tư nâng cấp, sửa chữa, xây dựng mới; phương tiện vận tải tăng nhanh về số lượng, đa dạng về chủng loại, từng bước đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế, an ninh quốc phòng và nhu cầu đi lại của nhân dân. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hiện nay do sự mất cân đối giữa cầu, đường, phương tiện, người tham gia giao thông và các yếu tố xã hội, tình trạng TNGT đã và đang diễn biến hết sức nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn về tính mạng, sức khỏe, về của cải vật chất, ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư nước ngoài, gây tâm lý lo lắng cho người dân, gây mất ổn định trật tự, an toàn xã hội và đang là mối quan tâm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của mọi tầng lớp nhân dân. Theo thống kê, trong thời gian từ năm 1990 đến năm 1999 ở nước ta xảy ra 146.230 vụ TNGTĐB làm chết 49.285 người, làm bị thương 156.270 người, gây thiệt hại lớn về tài sản (Báo cáo của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, 2000). Riêng trong sáu tháng đầu năm 2000 đã xảy ra 11.560 vụ, làm chết 3.685 người, làm bị thương 12.999 người (Báo cáo của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, 2000). Nhiều người đã phải thừa nhận rằng: "Chiến tranh đã qua đi, máu trên chiến trường đã ngừng chảy, nhưng máu trên mặt đường đang chảy và tiếp tục gia tăng". Để làm giảm một cách cơ bản TNGT nói chung và TNGTĐB nói riêng, đòi hỏi phải có một giải pháp đồng bộ mang tính chiến lược và phải có thời gian. Một mặt, phải tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật nâng cao ý thức tự giác chấp hành các quy định về trật tự an toàn giao thông đường bộ, đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, các điều kiện bảo đảm an toàn, năng lực quản lý an toàn giao thông, mặt khác, phải thiết lập kỷ cương trong việc chấp hành pháp luật, áp dụng các biện pháp cưỡng chế một cách đồng bộ nhằm ngăn chặn tình trạng vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ một cách phổ biến như hiện nay, đồng thời hoàn chỉnh các quy định về TNBTTH do TNGTĐB gây ra để khắc phục kịp thời, toàn bộ thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân và tài sản của Nhà nước, góp phần phòng ngừa tai nạn. Thực tiễn công tác giải quyết việc BTTH ngoài hợp đồng nói chung, BTTH trong các vụ TNGTĐB nói riêng cho thấy còn có nhiều vướng mắc, thiếu thống nhất trong việc xác định thiệt hại, tính toán mức thiệt hại, nhất là trong việc tính toán thiệt hại về mặt tinh thần; xác định mối quan hệ nhân quả không thống nhất, chưa chính xác. Đặc biệt, trong các vụ TNGTĐB chưa phân biệt rõ giữa việc phải chịu trách nhiệm hình sự của người có lỗi gây ra tai nạn với TNBTTH, khắc phục hậu quả xảy ra; vấn đề xác định trách nhiệm, giới hạn bồi thường, việc chuyển giao quyền yêu cầu giữa cơ quan bảo hiểm với chủ xe, lái, phụ xe trong việc thực hiện bồi thường theo hợp đồng bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới. Các vấn đề như biện pháp bảo đảm thi hành BTTH, bồi thường trong trường hợp người thành niên gây tai nạn mà không có tài sản riêng để bồi thường, trách nhiệm bồi thường của người hành động trong tình thế cấp thiết... chưa được quy định cụ thể, thế nhưng cũng chưa có các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong phần lớn các vụ TNGTĐB các bên tự thỏa thuận với nhau về việc BTTH trong đó có nhiều trường hợp việc thỏa thuận không tuân theo hoặc tuân theo không đầy đủ nguyên tắc trình tự, cách tính toán thiệt hại, mức BTTH nên sau đó xảy ra nhiều khiếu kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết. Hiện nay, mặc dù đã có quy định của BLDS, nhưng thực tiễn giải quyết việc BTTH của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền vẫn thực hiện theo tinh thần hướng dẫn của Thông tư số 173/UBTP ngày 23-3-1973 "Về việc xét xử các tranh chấp BTTH ngoài hợp đồng" và Thông tư số 03/TATC ngày 5-4-1988 "Hướng dẫn BTTH trong các vụ tai nạn ôtô" của Tòa án nhân dân tối cao. Đây là những văn bản được ban hành trong thời kỳ nền kinh tế tập trung, bao cấp, chỉ mang tính định hướng, không cụ thể và không còn đáp ứng được đòi hỏi của điều kiện hiện nay, khi những quan hệ xã hội trong đó có các quan hệ dân sự bị chi phối bởi quan hệ kinh tế thị trường. Cho đến nay đã hơn 4 năm, kể từ ngày BLDS có hiệu lực pháp luật, nhưng vẫn chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn các quy định của BLDS về vấn đề BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, bồi thường do tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và tài sản bị xâm phạm... Thực tiễn công tác của các cơ quan bảo vệ pháp luật cho thấy cần sớm phải có các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành về những vấn đề này. Tất cả các vấn đề trên đây cho thấy việc nghiên cứu đề tài "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ" là hết sức cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu Dưới góc độ khoa học pháp lý, chế định BTTH ngoài hợp đồng đã được nhiều nhà khoa học pháp lý trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau. Ở Việt Nam, đến nay đã có luận án Thạc sĩ luật học của Phạm Kim Anh về đề tài "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng"; Luận án Thạc sĩ luật học của Lê Mai Anh về đề tài "Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật dân sự"; Luận án Thạc sĩ luật học của Trần Thị Thu Hiền về đề tài "Những nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong luật dân sự Việt Nam"; Luận án Thạc sĩ luật học của Lê Kim Loan về đề tài "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật dân sự Việt Nam", một số bài viết của Nguyễn Đức Giao, Thạc sĩ Nguyễn Đức Mai về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra... đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Dân chủ và pháp luật cũng như các giáo trình Luật dân sự đề cập vấn đề này. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này mới dừng lại ở mức độ chung nhất hoặc chỉ đề cập ở phạm vi hẹp trong nội dung nghiên cứu về các vấn đề khác nhau, mà chưa có tác giả nào nghiên cứu đầy đủ có hệ thống TNBTTH ngoài hợp đồng để trên cơ sở đó nghiên cứu một trường hợp cụ thể của loại trách nhiệm này - trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ, một đề tài đang cần được làm rõ về mặt lý luận và rất cấp bách về mặt thực tiễn. Ở nước ngoài có các công trình của một số tác giả về các vấn đề liên quan đến đề tài này; ví dụ như tác giả: V.T.Mirnop, M.M. Agarkop, V.P Pobdopylo - Liên Xô (cũ), Palemana - Cộng hòa Pháp, Vicodavarkallo - Ba Lan. Tuy nhiên, các công trình này chỉ nghiên cứu việc BTTH ngoài hợp đồng nói chung hay BTTH do ôtô, xe máy gây ra nói riêng ở các nước đó. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn của TNBTTH trong các vụ TNGTĐB. Từ đó, đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này, cũng như đưa ra được những kiến nghị nhằm góp phần vào thực tiễn giải quyết việc BTTH trong các vụ TNGTĐB. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây, tác giả của luận án đã đưa ra và giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Phân tích làm rõ khái niệm, nguyên nhân, điều kiện và đặc điểm tình hình của các vụ TNGTĐB ở Việt Nam. - Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của chế định BTTH ngoài hợp đồng nói chung và TNBTTH trong các vụ TNGTĐB trong lịch sử lập pháp Việt Nam; làm rõ những nội dung cụ thể của chế định này, đồng thời so sánh với quy định của pháp luật một số nước về vấn đề này. - Nghiên cứu, tìm hiểu những quan điểm khoa học xung quanh vấn đề TNBTTH ngoài hợp đồng để xây dựng lý luận về khái niệm TNBTTH ngoài hợp đồng, từ đó đi sâu nghiên cứu và làm rõ khái niệm TNBTTH trong các vụ TNGTĐB. - Tổng kết thực tiễn giải quyết BTTH trong các vụ TNGTĐB trong những năm qua gắn với lý luận, căn cứ vào các quy định của BLDS và các quy định khác của pháp luật, đưa ra những kiến nghị có căn cứ khoa học và thực tiễn về việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho việc giải quyết BTTH trong các vụ TNGTĐB. - Đề xuất các biện pháp phòng ngừa các vụ TNGTĐB cũng như các biện pháp bảo đảm việc BTTH trong các vụ TNGTĐB. Phạm vi nghiên cứu: TNBTTH trong các vụ TNGTĐB là một vấn đề phức tạp không những về mặt lý luận mà cả về mặt thực tiễn. Vì vậy luận án chỉ giới hạn ở phạm vi nghiên cứu một số vấn đề cơ bản dưới góc độ điều tra xã hội học và Luật dân sự, như: làm rõ khái niệm TNBTTH trong các vụ TNGTĐB, nguyên nhân điều kiện và tình hình của TNGTĐB, các nguyên tắc cơ bản và cơ sở pháp lý của việc BTTH trong các vụ TNGTĐB; trên cơ sở đó đưa ra một số biện pháp cả về mặt lý luận cả về mặt thực tiễn dưới góc độ của Luật dân sự. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận chung về TNBTTH ngoài hợp đồng nói chung và TNBTTH ngoài hợp đồng trong các vụ TNGTĐB nói riêng; căn cứ pháp lý của TNBTTH và thực tiễn giải quyết BTTH trong các vụ TNGTĐB. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật, về phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; những thành tựu của các khoa học: triết học, lôgíc học, luật dân sự, tâm lý học... Luận án được trình bày trên cơ sở nghiên cứu các văn bản pháp luật dân sự, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật dân sự, các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân các cấp, các tài liệu của Cục Cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt thuộc Bộ Công an, các tài liệu pháp lý trong và ngoài nước. Phương pháp nghiên cứu: Đi từ cái chung đến cái riêng, từ khái quát đến cụ thể dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử - tác giả đặc biệt coi trọng phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh, phương pháp lôgic pháp lý, phương pháp phân tích, phương pháp thống kê, tổng hợp, phương pháp điều tra xã hội học và phương pháp dự báo. 5. Những đóng góp mới của luận án - Là luận án tiến sĩ đầu tiên ở Việt Nam khái quát một cách có hệ thống cơ sở lý luận về TNBTTH ngoài hợp đồng từ đó nghiên cứu một loại trách nhiệm cụ thể "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ". Luận án đóng góp vào lý luận trách nhiệm bồi thường thiệt hai ngoài hợp đồng các khái niệm TNGTĐB theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp; khái niệm TNBTTH trong các vụ TNGTĐB. Trong hoàn cảnh vấn đề an toàn trong hoạt động GTVT nói chung, an toàn GTVTĐB nói riêng không còn là vấn đề của một quốc gia, nhất là ở nước ta do sự mất cân đối giữa kết cấu hạ tầng, sự gia tăng của phương tiện, ý thức chấp hành các quy định về trật tự an toàn giao thông; thiếu các quy định của pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông; sự yếu kém trong quản lý của các cơ quan nhà nước nên tình hình TNGT đặc biệt là TNGTĐB diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng gây thiệt hại lớn về tính mạng, sức khỏe của con người, gây thiệt hại lớn về tài sản, gây mất an toàn xã hội; do đó, luận án góp phần tìm ra những nguyên nhân, điều kiện của các vụ TNGTĐB, dự báo tình hình TNGTĐB trong những năm tới. Đồng thời, luận án góp phần giải quyết một cách có hệ thống những vướng mắc xung quanh chế định BTTH ngoài hợp đồng nói chung, BTTH trong các vụ TNGT nói riêng. - Trên cơ sở lý luận chung về TNBTTH ngoài hợp đồng, luận án đã làm rõ về mặt lý luận cơ sở pháp lý của TNBTTH cũng như việc xác định TNBTTH trong các vụ tại nạn giao thông đường bộ. - Xuất phát từ những đòi hỏi thực tiễn gắn với việc nghiên cứu hoàn chỉnh về mặt lý luận, trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật, của BLDS hiện hành, luận án đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về BTTH ngoài hợp đồng nói chung và BTTH trong các vụ TNGTĐB nói riêng. Xác định được mối quan hệ giữa việc BTTH với việc phòng ngừa và đấu tranh làm giảm tai nạn, mối quan hệ giữa TNBTTH với các trách nhiệm pháp lý khác là một trong những cơ sở cho việc hoàn thiện hệ thống các quy định của pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ. Những kiến nghị, giải pháp này có thể tham khảo trong việc xây dựng luật giao thông đường bộ, xây dựng các văn bản hướng dẫn việc giải quyết BTTH ngoài hợp đồng nói chung và BTTH trong các vụ TNGTĐB nói riêng, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. - Một đóng góp mới khác của luận án đó là từ việc tổng kết thực tiễn vấn đề BTTH trong các vụ TNGTĐB, trong luận án đã có những kiến nghị về các biện pháp bảo đảm việc BTTH trong các vụ án TNGTĐB. 6. Ý nghĩa của luận án Các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có ý nghĩa tham khảo trong việc hoàn thiện pháp luật về chế định BTTH ngoài hợp đồng cũng như trong việc hướng dẫn việc giải quyết BTTH ngoài hợp đồng nói chung và BTTH trong các vụ TNGTĐB nói riêng. Kết quả nghiên cứu có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về việc giữ gìn trật tự an toàn giao thông, phòng ngừa, đấu tranh làm giảm tai nạn và làm tài liệu tham khảo trong việc biên soạn giáo trình cũng như giảng dạy tại các cơ sở đào tạo bậc đại học về chuyên ngành luật dân sự và làm tài liệu tham khảo cho các Viện nghiên cứu về khoa học pháp lý. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm có 3 chương, được chia thành 11 mục. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ 1.1. KHÁI NIỆM TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ 1.1.1. Khái niệm tai nạn giao thông đường bộ Thuật ngữ "tai nạn" xuất hiện trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống của con người. Tùy từng trường hợp tai nạn xảy ra mà có các tên gọi cho mỗi một loại tai nạn đó. Ví dụ: nếu tai nạn xảy ra trong lao động, thì gọi là tai nạn lao động; nếu tai nạn xảy ra trong quá trình tham gia giao thông, thì gọi là TNGT; nếu tai nạn xảy ra tại trường học, thì gọi là tai nạn học đường... Tuy nhiên, có thể nhận thấy tai nạn xảy ra phổ biến nhất là trong các lĩnh vực hoạt động sản xuất ra của cải vật chất. Tai nạn là một hiện tượng xảy ra trong đời sống xã hội, gây tổn thất về tính mạng, sức khỏe, tài sản. Tai nạn là một trong những nguyên nhân làm mất ổn định trật tự an toàn xã hội, đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt xã hội mà con người luôn phải tìm cách chế ngự, làm giảm và loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Theo Đại từ điển Tiếng Việt, tai nạn hiểu theo nghĩa phổ biến nhất là "việc không may bất ngờ xảy ra, gây thiệt hại lớn về người và của" [33, tr. 142]. Còn theo Từ điển Tiếng Việt, thì tai nạn là "việc rủi ro bất ngờ xảy ra, gây thiệt hại lớn cho con người" [78, tr. 868]. Theo chúng tôi, các định nghĩa trên chỉ mới đưa ra tai nạn là cái (sự kiện) xảy ra gây thiệt hại cho con người (về tính mạng, sức khỏe, tài sản) mà chưa làm rõ được nguyên nhân của tai nạn. Thực tiễn cuộc sống chứng minh rằng tai nạn do nhiều nguyên nhân khác nhau. Những nguyên nhân này có thể là do hành vi của con người hoặc có thể do các tác nhân tự nhiên khác. Từ những nguyên nhân này gây ra các tai nạn và tai nạn gây ra những hậu quả xấu ngoài mong muốn chủ quan của con người. Các tác nhân khác là nguyên nhân của tai nạn cũng có thể một cách gián tiếp do hành vi của con người, cũng có thể do thiên tai hoặc những cái ngoài khả năng chế ngự của con người. Thiệt hại xảy ra có thể là thiệt hại về tính mạng, thiệt hại về sức khỏe, thiệt hại về tinh thần của con người hay là thiệt hại về tài sản. Trong lĩnh vực pháp luật, chưa có một định nghĩa chính thức về tai nạn nói chung. Tuy nhiên, trong một số quy phạm pháp luật của một số ngành luật và trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học pháp lý, đã có một số khái niệm về tai nạn trong từng lĩnh vực cụ thể. Điều 105 Bộ luật lao động quy định: "Tai nạn lao động là tai nạn gây thương tổn cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể người lao động hoặc gây tử vong, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc và nhiệm vụ lao động". Trong nghiên cứu khoa học thì khái niệm "tai nạn", khái niệm "tai nạn giao thông đường bộ" đã được một số tác giả đề cập đến. Theo tác giả Vũ mạnh Thắng, "Tai nạn là sự việc xảy ra bất ngờ do người tham gia giao thông hoặc vi phạm các quy định về trật tự an toàn giao thông hoặc gặp phải tình huống, sự cố đột xuất, không kịp xử lý, có thiệt hại về tính mạng, sức khỏe con người, thiệt hại về tài sản" [18, tr. 76]. Theo tác giả Đào Công Hải, thì "Tai nạn giao thông là tai nạn xảy ra khi các đối tượng tham gia trên đường giao thông công cộng gây nên: - Thiệt hại về sức khỏe, tính mạng con người - Thiệt hại về tài sản hoặc thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản" [16, tr. 82]. Còn theo Thạc sĩ Đỗ Đình Hòa, thì "Tai nạn giao thông là sự kiện bất ngờ, nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người. Nó xảy ra khi các đối tượng tham gia giao thông đang hoạt động trên đường giao thông công cộng, đường chuyên dùng hoặc ở các địa bàn giao thông công cộng nhưng do chủ quan, vi phạm các quy tắc về an toàn giao thông hoặc do gặp phải các sự cố đột xuất không kịp phòng tránh, đã gây thiệt hại nhất định cho tính mạng, sức khỏe con người hoặc tài sản của Nhà nước và nhân dân" [16, tr. 20]. Theo chúng tôi ba khái niệm trên, đều nêu được TNGT là một sự kiện gây nên thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản. Riêng khái niệm thứ hai chưa nêu lên được vế thứ nhất của TNGT như khái niệm thứ nhất và khái niệm thứ ba. TNGT là một sự kiện và có hai mặt của nó. Mặt thứ nhất là cái gì làm cho TNGT (sự kiện) xảy ra hay nói cách khác nguyên nhân của TNGT. Về mặt này nguyên nhân của TNGT có thể: do vi phạm các quy định về an toàn GTVT; do những hành vi cản trở GTVT; do đưa vào sử dụng các phương tiện GTVT không bảo đảm an toàn hoặc điều động người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện GTVT; do gặp sự cố đột xuất không thể xử lý được hoặc do các trường hợp bất khả kháng. Mặt thứ hai là TNGT (sự kiện) đã gây ra cái gì hay nói cách khác hậu quả của sự kiện đó. Về mặt này hậu quả của TNGT có thể là: thiệt hại về tính mạng, thiệt hại về sức khỏe, thiệt hại về tinh thần, thiệt hại về tài sản (có thể một hoặc hai hoặc ba, có thể là tất cả các loại thiệt hại này trong một TNGT). Theo quy định tại Điều 609 BLDS, thì TNBTTH chỉ phát sinh trong trường hợp người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại. Tuy nhiên, cần phân biệt là không phải mọi trường hợp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của cá nhân, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác trong khi tham gia giao thông đều gọi là TNGT. Chỉ gọi là TNGT nếu hành vi vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ là do lỗi vô ý. Trong trường hợp thiệt hại xảy ra trong quá trình tham gia giao thông được thực hiện do lỗi cố ý, thì không thể gọi là TNGT mà tùy từng trường hợp có tên gọi tương ứng. Ví dụ 1: A có mâu thuẫn với B. Biết B đang trên đường đi từ nơi làm việc về nhà, A đã dùng xe ôtô phóng nhanh cố ý đâm vào B với mục đích giết B. Hậu quả là B bị chết. Trong trường hợp này không thể gọi là TNGT mà đây là một vụ án giết người. Ví dụ 2: C biết D vừa mua một chiếc xe máy Dream II. Do C ghét D vì hay khoe khoang, nên đã có ý định phá hỏng chiếc xe máy Dream II của D. Biết D đi làm thường hay dựng xe máy bên vệ đường giao thông, C đã lấy xe ôtô leo lên vệ đường đâm vào chiếc xe máy Dream II của D làm cho chiếc xe máy đó hư hỏng nặng. Trong trường hợp này cũng không thể gọi là TNGT mà đây là một vụ án cố ý làm hủy hoại tài sản. Từ sự phân tích trên chúng tôi đưa ra khái niệm chung về TNGTĐB như sau: TNGTĐB là một sự kiện do hành vi của con người vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ, do sự cố đột xuất hoặc do các trường hợp bất khả kháng gây ra trong quá trình tham gia giao thông của con người gây thiệt hại về tính mạng, về sức khỏe, về tinh thần của con người hoặc thiệt hại về tài sản. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu cũng như mục đích nghiên cứu của luận án là làm rõ chế định TNBTTH trong các vụ TNGTĐB; vì vậy, nếu khái niệm chung về TNGTĐB như chúng tôi đã đưa ra trên đây thì không phải trong mọi trường hợp (trong mọi vụ TNGTĐB) đều phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng. Theo quy định tại Điều 627 BLDS, thì phương tiện GTVT cơ giới là nguồn nguy hiểm cao độ và chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ chỉ không phải BTTH, nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy, trong các trường hợp này nếu có TNGTĐB xảy ra gây thiệt hại thì cũng không làm phát sinh TNBTTH. Từ sự phân tích trên chúng tôi đưa ra khái niệm TNGTĐB làm phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng như sau: TNGTĐB làm phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng là một sự kiện do hành vi của con người vi phạm một cách cố ý hoặc vô ý các quy định về an toàn giao thông đường bộ gây ra trong quá trình tham gia giao thông của con người, gây thiệt hại về tính mạng, về sức khỏe, về tinh thần của con người hoặc gây thiệt hại về tài sản. Trong luận án này, TNGTĐB được hiểu theo khái niệm này. 1.1.2. Những vấn đề chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 1.1.2.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định: "Các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật. Vốn và tài sản hợp pháp được Nhà nước bảo hộ" (Điều 22); "Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành... Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân" (Điều 58); "Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, danh dự và nhân phẩm" (Điều 71). Các quyền nêu trên đồng thời là khách thể bảo vệ của nhiều ngành luật khác nhau. Mọi hành vi trái pháp luật, đều bị xử lý theo quy định của pháp luật. Nhà nước quy định những hình thức trách nhiệm pháp lý buộc những người có hành vi vi phạm pháp luật khắc phục hậu quả do hành vi trái pháp luật của họ gây ra và phải BTTH (nếu có). Nhiệm vụ của Luật dân sự là bảo vệ các quyền và lợi ích nói trên dưới góc độ đặc thù của ngành luật này. Điều 1 BLDS Việt Nam quy định: "Bộ luật dân sự có trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần cho nhân dân, thúc đẩy sự phát triển của xã hội". Nhà nước sử dụng nhiều phương thức khác nhau để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức khi bị xâm hại bởi những hành vi trái pháp luật. Luật dân sự các nước phân chia TNDS đều dựa vào mối quan hệ với hợp đồng (một hình thức phổ biến, đặc trưng và chủ yếu của giao dịch dân sự). Trách nhiệm phải BTTH do các hành vi trái pháp luật gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, các quyền khác của công dân, tài sản, uy tín, danh dự của các tổ chức (thường được coi là quyền tuyệt đối của các chủ thể) không phát sinh từ một hợp đồng được gọi là TNBTTH ngoài hợp đồng. Khi một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại đối với người khác làm phát sinh các quan hệ pháp luật dân sự về BTTH. Điều 609 BLDS Việt Nam quy định: "Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường". Như vậy, theo quy định trên, người có hành vi gây thiệt hại phải có TNBTTH. Trong giáo trình luật dân sự của các trường đại học luật, cũng như các sách báo pháp lý khác khi đề cập đến vấn đề TNBTTH ngoài hợp đồng chưa đưa ra khái niệm chính thức về TNBTTH ngoài hợp đồng. Theo giáo trình Luật dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội, một trong những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là sự kiện gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật đồng thời đó cũng là căn cứ phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng được quy định trong Chương V, Phần thứ ba BLDS. Như vậy, theo quan điểm này thì sự kiện gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật làm phát sinh nghĩa vụ dân sự, có nghĩa là phát sinh "việc mà theo quy định của pháp luật, thì một hoặc nhiều chủ thể (gọi là người có nghĩa vụ) phải làm một công việc hoặc không được làm một công việc vì lợi ích của một hay nhiều chủ thể khác (gọi là người có quyền)" (Điều 285 BLDS). Đồng thời cũng theo quan điểm này, thì sự kiện gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật làm phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng. Theo chúng tôi, nếu cho rằng "Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật" là căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự, đồng thời cũng là căn cứ làm phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng, thì vô hình chung đã cho rằng nghĩa vụ dân sự và TNBTTH là hai phạm trù độc lập với nhau không có mối quan hệ với nhau. Về vấn đề này hiện nay còn có các ý kiến khác nhau. Chúng tôi cho rằng, dù muốn hay không thì khi nghiên cứu khoa học về một vấn đề trước hết phải nghiên cứu các chế định của pháp luật về vấn đề đó cũng như thực tiễn áp dụng các chế định đó như thế nào, để từ đó có những kết luận của mình về vấn đề đó. Theo quy định của BLDS thì "gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật" là một trong các căn cứ xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 13) và cũng là một trong các căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự (Điều 286). Khi đã phát sinh nghĩa vụ dân sự, thì "người có nghĩa vụ dân sự phải thực hiện nghĩa vụ của mình một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác, đúng cam kết, không trái pháp luật, đạo đức xã hội" (Điều 288). Nếu "người có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, thì phải chịu TNDS đối với người có quyền" (khoản 1 Điều 308). Theo tinh thần quy định tại Mục 3 Chương I Phần thứ ba của BLDS, thì TNDS bao gồm: TNBTTH; trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ giao vật; trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ phải làm một công việc hoặc không được làm một công việc; trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự; trách nhiệm do chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Từ sự phân tích trên, chúng tôi cho rằng, nghĩa vụ dân sự và TNBTTH là hai phạm trù khác nhau, nhưng có mối quan hệ biện chứng với nhau theo cặp phạm trù: "Nguyên nhân - kết quả". Cũng là một trong các căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự, nhưng các căn cứ như: hợp đồng dân sự; hành vi dân sự đơn phương; chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật; thực hiện công việc không có ủy quyền, thì sự phân biệt giữa nghĩa vụ dân sự và TNDS, trong đó có trách nhiệm bồi thường là rõ ràng. Giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng có "khoảng cách", vi phạm nghĩa vụ dân sự, thì phải chịu TNDS. Đối với căn cứ "gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật", thì khi làm phát sinh nghĩa vụ dân sự, thì đồng thời làm phát sinh trách nhiệm dân sự (TNBTTH). Nếu xét về mặt lý luận cũng như căn cứ vào các quy định tại các điều 13, 286, 308 và 310 BLDS thì chúng ta phải phân tích như trên. Tuy nhiên, việc phân biệt này chỉ là tương đối mà thôi. Thực tiễn chứng minh rằng gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật, thì có trách nhiệm phải bồi thường. Dường như Chương V Phần thứ ba của BLDS cũng quy định theo hướng này. Có thể thấy rằng về phương diện lý luận, có sự mâu thuẫn giữa các quy định trong Chương I và Chương V Phần thứ ba của BLDS. Tuy nhiên, sự phân tích, kết luận trên chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận. Hiểu chung nhất về khái niệm TNBTTH ngoài hợp đồng chúng ta cần xuất phát từ các quy định của BLDS cũng như thực tiễn cuộc sống. Với mong muốn đó, chúng tôi đưa ra khái niệm TNBTTH ngoài hợp đồng như sau: TNBTTH ngoài hợp đồng là một loại TNDS bao gồm TNBTTH về vật chất và TNBTTH về tinh thần được phát sinh khi người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại. 1.1.2.2. Các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Kết quả nghiên cứu cho thấy về các căn cứ làm phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng còn có nhiều ý kiến khác nhau. Theo pháp luật dân sự của nước Cộng hòa Pháp, để xem xét TNBTTH của một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại thì phải căn cứ vào ba điều kiện: có thiệt hại; xuất hiện một sự kiện; mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và sự kiện. Người gây thiệt hại phải BTTH, nếu có đầy đủ cả ba điều kiện này. Theo Luật dân sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thì để làm phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng phải có đủ bốn điều kiện: phải có hành vi vi phạm pháp luật; phải có lỗi của người có hành vi vi phạm pháp luật; phải có thiệt hại xảy ra, phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật và thiệt hại xảy ra. Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931 quy định về sự tổn hại trái vụ hay là những "dân sự phạm" cùng "bán dân sự phạm" (theo tác giả thực chất là TNBTTH ngoài hợp đồng) chỉ quy định "Người nào gây ra thiệt hại đến ai bởi lỗi của mình thì người đó buộc phải đền sự thiệt hại ấy" (Điều 712 - Dân luật Bắc Kỳ - 1931). Theo quan điểm này chỉ cần xác định ba điều kiện: thiệt hại, ._.lỗi và quan hệ nhân quả. Ở đây, hành vi chỉ quy định là gây thiệt hại, không quy định bắt buộc là hành vi gây thiệt hại phải là hành vi trái pháp luật. Trong sách "Dân luật tu trị" - xuất bản tại Sài Gòn 1961 - tác giả Phan Văn Thiết đã đưa ra năm điều kiện phát sinh trách nhiệm về sự làm thiệt hại cho người khác (Dân luật tu trị dựa trên nền tảng của dân luật Nam Kỳ 1931). Năm điều kiện đó là: lỗi, sự thiệt hại, sự liên quan giữa thiệt hại và lỗi, sự bắt chịu trách nhiệm, xác định lỗi của người bị thiệt hại. Ba điều kiện đầu cũng giống như luật của chúng ta hiện nay, tuy nhiên ở mức độ hiểu sơ sài hơn. Điều kiện thứ tư nói rằng nếu tự do làm mới phải chịu trách nhiệm, còn nếu là ngẫu nhiên hay bất khả kháng thì không phát sinh trách nhiệm. Điều kiện thứ năm nói rằng chỉ có trách nhiệm bồi thường nếu người bị thiệt hại không có lỗi hoặc lỗi nhẹ. Bộ Dân luật Sài Gòn 1972 chỉ xác định có ba điều kiện: sự tồn tại, lỗi, tương quan nhân quả. Lại có quan điểm cho rằng đã gây thiệt hại thì phải bồi thường. Yếu tố hành vi trái pháp luật không được đề cập đến. Theo pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành thì căn cứ làm phát sinh TNDS nói chung cũng như TNBTTH ngoài hợp đồng nói riêng bao gồm BTTH ngoài hợp đồng và sẽ được phân tích sâu trong Chương II của luận án. Bốn điều kiện (bốn yếu tố): có hành vi trái pháp luật; có thiệt hại xảy ra; có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra. Bốn điều kiện (bốn yếu tố) này chính là cơ sở pháp lý của trách nhiệm. Tuy nhiên, có trường hợp ngoại lệ, đó là trong những trường hợp thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì người chủ sở hữu phương tiện hoặc người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường dù rằng họ không có lỗi, trừ các trường hợp do pháp luật quy định (Điều 627 BLDS). Phân tích "khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt ngoài hợp đồng" trong giáo trình Luật dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội thì TNBTTH ngoài hợp đồng trong Chương V Phần thứ ba BLDS phát sinh chủ yếu do hành vi vi phạm đến các quyền tuyệt đối của các chủ thể khác, có nghĩa là TNBTTH ngoài hợp đồng chỉ phát sinh từ hành vi trái pháp luật gây thiệt hại. Xác định căn cứ phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng như vậy theo chúng tôi là chưa đủ. Theo quy định tại Điều 13 BLDS thì căn cứ xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự bao gồm: Giao dịch dân sự hợp pháp; quyết định của Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác; sự kiện pháp lý theo quy định của pháp luật; sáng tạo giá trị tinh thần là đối tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ; chiếm hữu tài sản có căn cứ pháp luật; gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật; thực hiện công việc không có ủy quyền; chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi tài sản không có căn cứ pháp luật; các căn cứ khác do pháp luật quy định. Theo chúng tôi, trong các căn cứ nêu trên, ngoài căn cứ "Giao dịch dân sự hợp pháp", thì tất cả các căn cứ khác có thể sẽ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự ngoài hợp đồng và nếu vi phạm sẽ làm phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng. Ngoài các quy định về TNBTTH ngoài hợp đồng do hành vi vi phạm các quy định của pháp luật gây thiệt hại tại chương V Phần thứ ba BLDS, còn có các quy định về nghĩa vụ dân sự ngoài hợp đồng phát sinh không từ các hành vi vi phạm pháp luật bao gồm các trường hợp: - Người phát hiện vật vô chủ, vật không xác định được ai là chủ sở hữu được trở thành chủ sở hữu nếu là động sản, được hưởng khoản tiền thưởng nếu là bất động sản (Điều 274); - Người tìm thấy vật bị chôn dấu, bị chìm đắm được hưởng khoản tiền thưởng nếu vật tìm thấy là cổ vật, di tích lịch sử, văn hóa; được hưởng 50% giá trị của vật, nếu vật tìm thấy không phải là cổ vật, di tích lịch sử, văn hóa (Điều 248). - Người nhặt được vật bị đánh rơi, bỏ quên được trở thành chủ sở hữu nếu vật đó có giá trị nhỏ; được hưởng 50% giá trị của vật nếu vật có giá trị lớn; được hưởng một khoản tiền thưởng nếu vật bị đánh rơi, bỏ quên là cổ vật, di tích lịch sử, văn hóa (Điều 249). - Người bắt được gia súc, gia cầm bị thất lạc được thanh toán tiền công nuôi, giữ và các chi phí khác, được hưởng một nửa số gia súc sinh ra hoặc toàn bộ hoa lợi do gia cầm sinh ra và phải BTTH nếu cố ý làm chết gia súc gia cầm (Điều 250 và Điều 251). - Tài sản bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu (Điều 259); - Tài sản bị trưng mua, bị tịch thu (Điều 261 và Điều 262). Trong tất cả các trường hợp nêu trên giữa các chủ thể không tồn tại nghĩa vụ trước khi xảy ra sự kiện; do vậy, có thể xem đây chính là nghĩa vụ dân sự ngoài hợp đồng. Khi có sự vi phạm các nghĩa vụ này sẽ phát sinh TNDS ngoài hợp đồng, trong đó có TNBTTH ngoài hợp đồng. 1.1.2.3. Phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng Trong các hình thức của TNDS, thì có thể kết luận rằng TNBTTH (bao gồm TNBTTH ngoài hợp đồng và TNBTTH trong hợp đồng) là hình thức chủ yếu nhất. Tuy cùng là TNBTTH, nhưng giữa TNBTTH ngoài hợp đồng và TNBTTH trong hợp đồng có sự khác nhau cơ bản về bản chất cũng như nội dung. Việc phân biệt hai dạng của TNBTTH cũng như việc xác định mối quan hệ giữa chúng là hết sức cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đối với TNBTTH trong hợp đồng, thì khi hợp đồng được giao kết, các bên có nghĩa vụ thực hiện đúng những cam kết thỏa thuận trong hợp đồng. Việc một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ là sự vi phạm hợp đồng. Sự vi phạm này dẫn đến không đáp ứng yêu cầu của bên kia, gây thiệt hại về vật chất và thiệt hại phi vật chất. Trách nhiệm bồi thường do vi phạm hợp đồng là TNDS phát sinh trong trường hợp một bên do không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ các điều khoản đã tự nguyện cam kết trong hợp đồng mà gây thiệt hại cho bên kia và phải bồi thường. Các bên có thỏa thuận trước trong hợp đồng về các biện pháp cưỡng chế, mức bồi thường, mức phạt hoặc các biện pháp bảo đảm thực hiện việc BTTH do vi phạm hợp đồng gây ra, có nghĩa là TNBTTH này cũng đã được thỏa thuận trong hợp đồng. Đối với TNBTTH ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có hành vi trái pháp luật và gây thiệt hại, có nghĩa là phát sinh dưới sự tác động trực tiếp của các quy phạm pháp luật, không có sự thỏa thuận trước của các chủ thể. Sự thỏa thuận chỉ có thể có sau khi đã phát sinh TNBTTH. Khi một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản cho người khác thì người thực hiện hành vi đó phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi của mình. Hành vi đó có thể bị xử lý theo pháp luật hành chính nếu xâm hại đến các quan hệ xã hội được luật hành chính bảo vệ; có thể bị xử lý theo pháp luật hình sự nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm; có thể chỉ chịu trách nhiệm bồi thường theo pháp luật dân sự. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp nếu hành vi đó gây thiệt hại thì người thực hiện hành vi đó, phải chịu trách nhiệm bồi thường dù rằng họ đã phải chịu trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm hình sự. Hậu quả bất lợi là việc người gây thiệt hại buộc phải dùng tài sản của mình để bồi thường, bù đắp những tổn thất mà mình đã gây ra cho người khác. Mức độ bồi thường đến đâu phải căn cứ vào khối lượng của sự thiệt hại. Nếu mức độ tổn thất càng lớn thì giá trị bồi thường càng nhiều. Xuất phát từ cơ sở phát sinh như đã phân tích trên, TNBTTH ngoài hợp đồng và TNBTTH do vi phạm hợp đồng có một số điểm khác nhau như sau: Thứ nhất, trong TNBTTH do vi phạm hợp đồng, hai bên có thể dự liệu và thỏa thuận trước về những trường hợp thiệt hại mà mức bồi thường, phương thức thực hiện việc bồi thường, các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ bồi thường. Điều 401 BLDS quy định các bên có thể thỏa thuận trách nhiệm do vi phạm hợp đồng khi giao kết hợp đồng vì trước thời điểm phát sinh trách nhiệm, giữa các bên chủ thể đã tồn tại một quan hệ pháp luật hợp pháp, các bên đã biết rõ về quyền và nghĩa vụ cụ thể của mình. Sự thỏa thuận dựa trên sự tiên liệu những thiệt hại có thể xảy ra khi vi phạm hợp đồng, tùy theo mức độ mà xác định trách nhiệm. Thực tế các bên có thể thỏa thuận về phạt vi phạm hợp đồng, ngay cả khi không cần có thiệt hại xảy ra, nếu một trong các bên có vi phạm các điều khoản mà họ đã tự nguyện thỏa thuận và cam kết thực hiện. Do đó, nếu có phát sinh trách nhiệm bồi thường thì chỉ bồi thường những thiệt hại có thể tiên liệu được hoặc do có sự thỏa thuận trước của các bên. TNBTTH ngoài hợp đồng không thể có đặc điểm này. Trách nhiệm của bên gây thiệt hại là phải bồi thường toàn bộ, cả thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp. Hai bên chỉ có thể đặt ra vấn đề thỏa thuận khi có thiệt hại, xác định rõ bên gây thiệt hại và bên thiệt hại, lỗi của các bên. Thứ hai, trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì họ chỉ liên đới chịu trách nhiệm nếu khi giao kết hợp đồng họ có thỏa thuận trước về vấn đề chịu trách nhiệm liên đới. Trong TNBTTH ngoài hợp đồng, nhiều người cùng gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm liên đới theo các quy định cụ thể của pháp luật dân sự. Thứ ba, về lỗi: trách nhiệm do vi phạm hợp đồng phát sinh cả khi do lỗi của người khác, nhưng phải được chứng minh cụ thể, chính xác. Còn trong TNBTTH ngoài hợp đồng, người có hành vi vi phạm có thể chịu trách nhiệm cả khi không có lỗi nếu pháp luật quy định. Chẳng hạn, trong trường hợp thiệt hại do súc vật nuôi gây ra người chủ sở hữu và người trông coi chỉ không phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu người bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi trong việc làm súc vật gây thiệt hại cho mình. Chủ sở hữu là người được hưởng lợi ích từ việc nuôi con vật đó; nên suy đoán trách nhiệm bồi thường thuộc về họ. Quan niệm của một số luật gia Sài Gòn cũ cho rằng có thể phân biệt sự khác nhau về mức độ lỗi. Họ cho rằng trong trách nhiệm khế ước (TNBTTH do vi phạm hợp đồng) người ta chỉ theo tính chất mức độ trầm trọng của lỗi mà phân biệt thành lỗi nặng, lỗi nhẹ và rất nhẹ, nhiều khi con nợ chỉ phải chịu trách nhiệm về lỗi nặng mà thôi. Còn trách nhiệm bán dân sự phạm (TNBTTH ngoài hợp đồng) tất cả mọi lỗi đều phát sinh trách nhiệm. Thứ tư, về thời điểm phát sinh TNBTTH. Trong BTTH do vi phạm hợp đồng, thời điểm xác định nghĩa vụ và thời điểm xác định trách nhiệm bồi thường là khác nhau. Thời điểm xác định nghĩa vụ là lúc các bên giao kết hợp đồng. TNBTTH chỉ phát sinh nếu có vi phạm việc thực hiện nghĩa vụ mà gây thiệt hại. Điều đó có nghĩa là thiệt hại xảy ra chỉ là một trong những điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường. Đối với TNBTTH ngoài hợp đồng thời điểm xác định nghĩa vụ và phát sinh trách nhiệm bồi thường dường như xuất hiện đồng thời. Như vậy thiệt hại xảy ra vừa là điều kiện xác định nghĩa vụ bồi thường, vừa là điều kiện xác định TNBTTH. Trong cả hai hình thức, khi có thiệt hại xảy ra bên gây thiệt hại đều có TNBTTH. Tuy nhiên, đối với BTTH ngoài hợp đồng thì việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thông thường làm chấm dứt quan hệ nghĩa vụ giữa các bên, còn đối với BTTH do vi phạm hợp đồng gây thiệt hại không là căn cứ làm chấm dứt quan hệ nghĩa vụ đó - nghĩa là phải BTTH, đồng thời vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ. Ngoài ra, giữa TNBTTH ngoài hợp đồng và TNBTTH do vi phạm hợp đồng còn có một số điểm khác biệt như: trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ là phát sinh nghĩa vụ BTTH, không có hình thức phạt vi phạm; mức bồi thường theo nghĩa vụ ngoài hợp đồng chỉ bằng hoặc thấp hơn thiệt hại xảy ra, không thể cao hơn như trường hợp bồi thường do vi phạm hợp đồng. Như vậy dựa theo sự phân biệt với TNBTTH do vi phạm hợp đồng có thể hiểu "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm phát sinh giữa các chủ thể mà trước đó không có quan hệ hợp đồng hoặc có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc phạm vi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng". 1.1.3. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ 1.1.3.1. Khái niệm chung về nguồn nguy hiểm cao độ Theo quy định tại Mục 3 Chương V Phần thứ ba của BLDS thì một trong những trường hợp cụ thể của TNBTTH ngoài hợp đồng, đó là TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (Điều 627). Vậy nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm những đối tượng nào? Nghiên cứu pháp luật của các nước khác nhau, chúng tôi thấy việc quy định về nguồn nguy hiểm cao độ cũng khác nhau. Theo Điều 437 BLDS và thương mại Thái Lan, thì nguồn nguy hiểm cao độ là "bất cứ sự vận chuyển nào được kéo, đẩy bằng máy móc, những vật có thể gây nguy hiểm bởi tính chất, mục đích hoặc sự vận hành cơ khí của chúng" [14, tr. 115]. Luật dân sự Nhật Bản quy định: "Các nhà máy chế tạo, nơi khai thác khoáng sản dễ gây cháy, nổ, độc hại, phương tiện GTVT cơ giới là nguồn nguy hiểm cao độ". Trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam chưa có một khái niệm chung về nguồn nguy hiểm cao độ, mà chỉ quy định các đối tượng nào được coi là nguồn nguy hiểm cao độ - cụ thể là "nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện GTVT cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định" (Điều 627 khoản 1, đoạn 1 BLDS). Theo các quy định nêu trên về nguồn nguy hiểm cao độ của pháp luật một số nước cũng như trong BLDS của nước ta cho phép có thể hiểu khái quát nguồn nguy hiểm cao độ chính là những đối tượng mà khi sử dụng, bảo quản, cất giữ, trông coi tiềm ẩn sự nguy hiểm, sự rủi ro cao độ đối với tính mạng, sức khỏe và tài sản của con người. Tính nguy hiểm của nguồn nguy hiểm cao độ tồn tại trong tính chất, đặc điểm lý, hóa, trong yêu cầu kỹ thuật và các điều kiện an toàn khi sử dụng các đối tượng đó. Có những loại đối tượng rất dễ nhận ra tính nguy hiểm cao độ của chúng, chẳng hạn như thú dữ, chất độc, chất dễ cháy. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp khác cần phải có các tiêu chuẩn chung để xác định một đối tượng có phải là nguồn nguy hiểm cao độ hay không. Theo chúng tôi các tiêu chuẩn đó bao gồm: - Hoạt động của các đối tượng mang tính chất nguy hiểm cao độ cho mọi người xung quanh thường là những hoạt động hợp pháp, chỉ khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại mới bị coi là bất hợp pháp. Các đối tượng được quy định là nguồn nguy hiểm cao độ nêu trên phần lớn thuộc nhiều loại kỹ thuật, lĩnh vực khác nhau như phương tiện giao thông cơ giới, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, hệ thống tải điện, chất độc... Vấn đề không phải tất cả các phương tiện kỹ thuật khi sử dụng đều mang tính chất nguy hiểm cao độ mà chỉ những hoạt động mang tính cơ giới hoặc những đối tượng khác có đặc tính lý, hóa điển hình. - Hoạt động của đối tượng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ cho người xung quanh được thể hiện trong việc sử dụng chúng, con người không thể giám sát được một cách chặt chẽ và toàn diện. Điều này được thể hiện trong việc con người chỉ bảo đảm được sự giám sát cần thiết nhờ những biện pháp kỹ thuật an toàn. Tuy nhiên, những biện pháp kỹ thuật an toàn thường lại lạc hậu hơn, không đồng bộ với kỹ thuật chung hay không tính toán hết được các sự cố kỹ thuật có thể xảy ra trong quá trình sử dụng. Chính vì vậy, việc sử dụng kỹ thuật chung bao hàm tính chất nguy hiểm của việc bất ngờ xảy ra thiệt hại. Từ sự phân tích trên đây, chúng tôi có khái niệm về nguồn nguy hiểm cao độ như sau: Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm những động vật hoặc bất động vật mà khi trông giữ, vận hành chúng hoặc cho chúng hoạt động thì có thể gây nguy hiểm cao độ đối với tính mạng, sức khỏe của con người, cũng như có thể gây thiệt lớn đến tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân... 1.1.3.2. Phương tiện giao thông vận tải cơ giới đường bộ là nguồn nguy hiểm cao độ Pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều quy định phương tiện GTVT cơ giới nói chung và phương tiện GTVT cơ giới đường bộ nói riêng là nguồn nguy hiểm cao độ. Theo quy định tại Điều 627 BLDS của nước ta thì phương tiện GTVT cơ giới là nguồn nguy hiểm cao độ. Điều đó có nghĩa là phương tiện GTVT cơ giới đường bộ là nguồn nguy hiểm cao độ, bởi nó là một trong những loại phương tiện GTVT cơ giới nói chung. Theo chúng tôi, phương tiện GTVT cơ giới đường bộ có những đặc điểm riêng hết sức phức tạp sau: - Phương tiện GTVT cơ giới đường bộ là một loại tư liệu lao động hoạt động được nhờ động cơ, có giá trị sử dụng cao và được sử dụng phổ biến trong lĩnh vực vận tải - một ngành sản xuất vật chất đặc thù chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đồng thời là một loại phương tiện giao thông chủ yếu đáp ứng nhu cầu đi lại của con người. Khi sử dụng phương tiện GTVT cơ giới đường bộ đòi hỏi các điều kiện về người sử dụng, điều kiện an toàn kỹ thuật. - Phương tiện GTVT cơ giới đường bộ là một loại phương tiện khi cho chúng vận hành, hoạt động thì có thể gây nguy hiểm cao độ; cụ thể là có thể gây thiệt hại lớn về tính mạng, sức khỏe cho những người xung quanh cũng như có thể gây thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước, tổ chức, cá nhân. Theo số liệu thống kê trong năm 1999 đã xảy ra 21.746 vụ TNGTĐB làm chết 6.460 người, bị thương 24.779 người, thiệt hại tài sản trị giá hàng chục tỷ đồng (Phụ lục 3). - Phương tiện GTVT cơ giới đường bộ là một loại tài sản có số lượng lớn, đa dạng về chủng loại, có giá trị và mang tính xã hội cao, là đối tượng thường được chuyển nhượng, cho thuê, cho mượn, thế chấp, bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ dân sự mà trong đó có cả việc thi hành nghĩa vụ BTTH. Theo số liệu thống kê, hiện nay trên địa bàn toàn quốc có khoảng trên 6 triệu xe ôtô, xe máy các loại, mỗi năm tăng khoảng 10 đến 12% (chưa tính số xe nhập lậu, không có đăng ký...). Mặc dù có nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh nhưng đến nay vẫn chưa có một khái niệm hoàn chỉnh về phương tiện vận tải cơ giới đường bộ. Điều lệ trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị ban hành kèm theo Nghị định số 36/CP ngày 29-5-1995 của Chính phủ quy định phương tiện cơ giới là tất cả các loại xe hoạt động giao thông trên đường bộ bằng động cơ của chính chiếc xe đó. Thông tư số 03 ngày 24-7-1995 của Bộ Công an hướng dẫn việc đăng ký, cấp biển số các loại phương tiện cơ giới đường bộ quy định những loại phương tiện cơ giới đường bộ phải đăng ký tại cơ quan Công an mới chỉ ra những loại phương tiện phải đăng ký và không phải đăng ký. Theo Thông tư này thì đối tượng phải đăng ký tại cơ quan Cảnh sát giao thông là các loại phương tiện cơ giới hoạt động trên đường bộ, dùng vào mục đích đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển, trừ những xe, máy phục vụ thi công trên đường bộ và nông nghiệp, các loại xe dùng vào mục đích quân sự của cơ quan quân sự. Theo quy định tại khoản 1 Điều 627 BLDS, phương tiện GTVT cơ giới là nguồn nguy hiểm cao độ. Theo tinh thần của quy định này phương tiện GTVT cơ giới bao gồm các phương tiện cơ giới hoạt động trên đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không dùng vào hoạt động giao thông đi lại của con người và vận chuyển hàng hóa. Các quy định trên có sự khác nhau trong việc sử dụng các thuật ngữ để chỉ phương tiện cơ giới hoạt động trên đường bộ. Trong Nghị định số 36/CP ngày 29-5-1995 dùng thuật ngữ "phương tiện cơ giới đường bộ". Trong Thông tư số 03-TT/BNV ngày 24-7-1995, cách dùng thuật ngữ không thống nhất: khi quy định đối tượng phải đăng ký thì dùng thuật ngữ "các loại phương tiện cơ giới đường bộ", khi quy định đối tượng không phải đăng ký thì lại dùng thuật ngữ "những phương tiện giao thông đường bộ". BLDS không có thuật ngữ cụ thể để chỉ phương tiện cơ giới đường bộ nhưng xuất phát từ Điều 627 quy định "phương tiện GTVT cơ giới" là nguồn nguy hiểm cao độ, thì phương tiện cơ giới đường bộ được gọi một cách đầy đủ là "phương tiện GTVT cơ giới đường bộ". Qua đối tượng phải đăng ký là "phương tiện cơ giới đường bộ" quy định trong Thông tư số 03 ngày 24-7-1995 và nguồn nguy hiểm cao độ là "phương tiện GTVT cơ giới (đường bộ)" trong BLDS, theo chúng tôi thực chất hai thuật ngữ này đều dùng để chỉ các loại phương tiện chuyển động được nhờ động cơ, hoạt động được thông qua sự điều khiển của con người trên đường bộ phục vụ cho việc đi lại của nhân dân (hoạt động giao thông) và vận chuyển hàng hóa (hoạt động vận tải). Theo quan điểm của chúng tôi, cách dùng thuật ngữ "phương tiện GTVT cơ giới đường bộ" sẽ xác định được đầy đủ và rõ ràng đối tượng, mục đích, phạm vi hoạt động của loại phương tiện này. Xuất phát từ đặc điểm, tính chất đa dạng, phức tạp như đã nêu trên, nên cần thiết phải có một chế độ pháp lý để điều chỉnh đối với loại phương tiện này. Theo quy định của Điều 174, BLDS: "Những tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, thì phải được đăng ký" nên việc quy định phương tiện GTVT cơ giới đường bộ phải đăng ký là hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi an toàn để chủ sở hữu thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự một cách tự do, đúng pháp luật; khuyến khích, huy động các nguồn lực đầu tư mua phương tiện hoặc đưa các phương tiện hiện có vào kinh doanh nhằm thu lợi, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. "Đăng ký", dưới góc độ chung nhất là việc cơ quan có thẩm quyền chính thức ghi vào văn bản những thông tin cần thiết một sự kiện là cơ sở phát sinh, thay đổi hay chấm dứt những quan hệ pháp lý nhất định; là bằng chứng công nhận sự bắt đầu, tồn tại hoặc chấm dứt một sự kiện, hiện tượng. Như vậy, có thể hiểu "đăng ký" là một sự kiện pháp lý. Đối với phương tiện GTVT cơ giới đường bộ khi "đăng ký" đồng thời với việc xác lập quyền sở hữu cũng đã dự liệu việc phát sinh TNDS và những bất lợi về tài sản mà chủ sở hữu phương tiện phải gánh chịu trong quá trình sử dụng phương tiện là nguồn nguy hiểm cao độ gây ra tai nạn. Đây cũng chính là cơ sở để xác định chủ thể của TNBTTH khi tai nạn xảy ra. Việc xác định trách nhiệm và chỉ ra nguy cơ bất lợi về tài sản góp phần phòng ngừa tai nạn. Hiện nay mới chỉ có quy định đăng ký phương tiện cơ giới đường bộ thuộc thẩm quyền của Bộ Công an. Điều 6 Nghị định số 36/CP ngày 29-5-1995 về bảo đảm, giữ gìn trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị quy định Bộ Công an có thẩm quyền tổ chức đăng ký và cấp biển số các loại phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, kể cả phương tiện cơ giới của các doanh nghiệp kinh tế thuộc Bộ Quốc phòng, trừ phương tiện dùng vào mục đích quân sự. Căn cứ quy định trên, Bộ Công an ban hành Thông tư số 03 ngày 24-7-1995 hướng dẫn việc đăng ký cấp biển số các loại phương tiện cơ giới đường bộ. Việc đăng ký các loại phương tiện cơ giới không thuộc thẩm quyền của Bộ Công an giao cho các ngành chức năng khác. Một số vấn đề cần làm sáng tỏ là: - Đăng ký phương tiện cơ giới đường bộ thuộc thẩm quyền của Bộ công an có bao hàm đăng ký quyền sở hữu tài sản, hay chỉ đơn thuần là một biện pháp hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng ngừa tội phạm? - Ngoài các phương tiện phải đăng ký như quy định hiện nay, thì các loại phương tiện cơ giới thi công trên đường bộ, phương tiện GTVT cơ giới hoạt động trên đường giao thông nông thôn và một số phương tiện GTVT cơ giới đường bộ do quân đội quản lý có phải đăng ký không? Thiết bị chuyên dùng thi công trên đường bộ hiện nay ngày càng phát triển về số lượng, chủng loại, đa tác dụng. Hoạt động thi công đường bộ được mở rộng và phát triển nhanh về tốc độ, luôn luôn gắn liền với các hoạt động giao thông khác, ảnh hưởng quan trọng đến sự an toàn chung. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn hiện nay, các hoạt động giao thông nông thôn đòi hỏi phát triển ở trình độ cao hơn. Đường xá được xây dựng mới, nâng cấp với tốc độ nhanh do vậy các phương tiện xe, máy phục vụ nông nghiệp không chỉ đơn thuần hoạt động trên đồng ruộng, mà còn được sử dụng đáp ứng các hoạt động GTVT khác; vì vậy, cần phải có quy chế pháp lý điều chỉnh sự hoạt động của các loại phương tiện này. Cần phân biệt rõ các phương tiện GTVT cơ giới đường bộ theo nghĩa chung nhất với các phương tiện cơ giới đặc chủng chuyên dùng vào lĩnh vực quân sự và là thiết bị quân sự. Trước đây trong thời kỳ đất nước có chiến tranh, vì bảo đảm bí mật quân sự và nhiệm vụ của thời chiến nên tất cả mọi phương tiện GTVT cơ giới đường bộ của quân đội được giao cho quân đội đảm nhiệm quản lý. Nay đất nước trong thời bình cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc vấn đề này bảo đảm thống nhất chung. Qua sự phân tích trên, chúng tôi đưa ra khái niệm phương tiện GTVT cơ giới đường bộ như sau: "Phương tiện GTVT cơ giới đường bộ là các thiết bị chuyển động được trên đường bộ nhờ động cơ của chính nó và do con người điều khiển tuân theo những điều kiện an toàn, được dùng trong các hoạt động giao thông, vận tải, thi công đường bộ nhưng có thể gây nguy hiểm cao độ đối với tính mạng, sức khỏe của con người, cũng như có thể gây thiệt hại lớn đối với tài sản của nhà nước, tổ chức và cá nhân". Như vậy, phương tiện GTVT cơ giới đường bộ có đủ các điều kiện của nguồn nguy hiểm cao độ và chúng ta có kết luận "phương tiện GTVT cơ giới đường bộ là nguồn nguy hiểm cao độ". 1.1.3.3. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ Như đã phân tích ở trên, phương tiện GTVT cơ giới đường bộ là nguồn nguy hiểm cao độ. Khi vận hành chúng, đưa chúng vào hoạt động trên đường bộ thì có thể gây nguy hiểm cao độ cho tính mạng, sức khỏe của con người cũng như có thể gây thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước, của tổ chức và cá nhân. Phần lớn các vụ TNGTĐB là do nguồn nguy hiểm cao độ này gây ra dưới tác động của hành vi của con người với lỗi cố ý hoặc vô ý. Ngoài ra, còn có các vụ TNGTĐB xảy ra do những nguyên nhân, điều kiện khác được phân tích trong mục 1.3 của chương này. BLDS quy định về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nhưng nói một cách chính xác thì bản thân nguồn nguy hiểm cao độ không bao giờ gây ra thiệt hại, nếu thiếu hành vi của con người tác động vào chúng (sử dụng, vận hành, bảo quản...). Các vụ TNGTĐB có thể xảy ra nếu con người vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ; có hành vi cản trở giao thông đường bộ; đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn; điều động hay giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ; do sự cố kỹ thuật mà gây ra TNGTĐB làm thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của con người, làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, tổ chức, cá nhân thì phải bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Từ sự phân tích trên, chúng tôi có khái niệm TNBTTH trong các vụ TNGTĐB như sau: TNBTTH trong các vụ TNGTĐB là một loại trách nhiệm dân sự mà phổ biến là TNBTTH ngoài hợp đồng gồm TNBTTH về vật chất và TNBTTH về tinh thần được phát sinh khi người nào có hành vi vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác, xâm phạm đến tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân khác mà gây thiệt hại. Trong luận án này, TNBTTH trong các vụ TNGTĐB được nghiên cứu là một loại TNBTTH ngoài hợp đồng. 1.2. NGUYÊN TẮC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ Nguyên tắc hiểu theo nghĩa chung nhất là các yêu cầu, chuẩn mực cụ thể buộc các cơ quan tiến hành tố tụng, những người có quyền, lợi ích liên quan phải tuân theo. Về khía cạnh pháp lý, nguyên tắc là các tư tưởng pháp lý chỉ đạo có ý nghĩa bao trùm, xuyên suốt trong quá trình thực hiện một hoạt động pháp lý. Nguyên tắc thể hiện tập trung những yêu cầu, đòi hỏi của Nhà nước, của xã hội nói chung, được ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật đang có hiệu lực thi hành. BTTH ngoài hợp đồng nói chung và BTTH trong các vụ TNGTĐB là một vấn đề phức tạp. Yêu cầu đặt ra là giải quyết đúng đắn các yêu cầu bồi thường, bảo vệ kịp thời quyền lợi của bên thiệt hại, bảo đảm trật tự công bằng xã hội nói chung. Trong quá trình giải quyết BTTH trong các vụ TNGTĐB cần tuân thủ các nguyên tắc giải quyết BTTH ngoài hợp đồng được quy định tại Điều 610 BLDS. Cụ thể là: "1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, về phương thức bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. 2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình. 3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế, thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường". Các nguyên tắc nêu trên thể hiện sự công bằng, hợp lý của pháp luật dân sự Việt Nam, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức hoặc pháp nhân khi quyền và lợi ích hợp pháp đó bị xâm phạm. Đồng thời chúng cũng thể hiện sự công bằng từ phía người gây thiệt hại; đó là họ chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường tương ứng với mức độ lỗi, trong trường hợp do lỗi vô ý mà mức bồi thường quá lớn, ảnh hưởng đến khả năng kinh tế trước mắt cũng như lâu dài, thì có thể được giảm mức bồi thường. Tôn trọng và tuân thủ triệt để các nguyên tắc bồi thường sẽ bảo đảm việc giải quyết đúng đắn, kịp thời, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân của toàn xã hội và có ý nghĩa giáo dục ý thức tuân thủ, tôn trọng pháp luật góp phần bảo đảm trật tự kỷ cương xã hội. 1.2.1. Bồi thường thiệt hại toàn bộ và kịp thời Hầu hết pháp luật dân sự các nước bằng hình thức này hay hình thức khác đều quy định nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị hại khi có hành vi trái pháp luật xâm phạm gây thiệt hại. Khoản 1- Điều 610 BLDS ghi nhận nguyên tắc BTTH như sau: "Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời". Đây là nguyên tắc đặc trưng của TNBTTH, xuyên suốt trong cả quá trình xem xét, giải quyết vấn đề BTTH. Theo Từ điển Tiếng Việt "bồi thường" là việc đền bù những thiệt hại mà mình phải chịu trách nhiệm; "toàn bộ" là tất cả các phần, bộ phận của một chỉnh thể. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, BTTH là: "Hình thức TNDS nhằm buộc bên có hành vi gây thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại" [40, tr. 30]. TNBTTH là nhằm mục đích khôi phục lại quyền và lợi._.ắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới". Theo Điều 4 Quy tắc bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới, thì doanh nghiệp bảo hiểm và chủ xe cơ giới có trách nhiệm thực hiện bảo hiểm theo biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm tối thiểu ban hành kèm theo Quyết định số 2999/1998/QĐ- BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Tuy nhiên, cũng theo Điều 4 Quy chế bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới, thì doanh nghiệp bảo hiểm có thể thỏa thuận với chủ xe để bảo hiểm theo biểu phí và mức trách nhiệm cao hơn hoặc phạm vi rủi ro bảo hiểm rộng hơn theo quy tắc bảo hiểm, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm đã đăng ký với Bộ Tài chính. Có thể thấy rằng các quy định của các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ta về bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới tương đối đầy đủ và cụ thể. Nếu thực hiện tốt các quy định này chúng tôi tin chắc rằng vấn đề BTTH trong các vụ TNGTĐB trong nhiều trường hợp được bảo đảm. Thế nhưng qua khảo sát thực tế cho thấy còn rất nhiều chủ xe cơ giới không thực hiện chế độ bảo hiểm bắt buộc TNDS theo quy định Điều 2 Nghị định số 115/1997/NĐ-CP. Mặc dù họ vi phạm nghĩa vụ của chủ xe cơ giới, song họ cũng không bị xử lý, kể cả xử lý hành chính. Để chế độ bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới được thực hiện nghiêm chỉnh, chúng tôi thấy cần phải áp dụng nhiều biện pháp đồng độ: phổ biến, giáo dục và giải thích cho mọi người hiểu ích lợi của chế độ bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới thông qua việc quản lý đầu xe hoặc trong lúc tham gia giao thông; xử phạt nghiêm khắc những chủ xe cơ giới đã không thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ bảo hiểm bắt buộc TNDS. 3.4.2. Ký quỹ Theo quy định của BLDS, ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc các giấy tờ trị giá được bằng tiền vào tài khoản phong tỏa tại một Ngân hàng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, thì bên có quyền được Ngân hàng nơi ký quỹ thanh toán, BTTH do bên có nghĩa vụ gây ra, sau khi trừ chi phí dịch vụ ngân hàng. Như vậy, để bảo đảm việc BTTH trong các vụ TNGTĐB chúng tôi thấy rằng ký quỹ là một biện pháp thích hợp. Đặc biệt đối với các chủ xe cơ giới hành nghề kinh doanh, thì có thể coi việc ký quỹ như một điều kiện hành nghề. Có ý kiến cho rằng đã thực hiện chế độ bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới thì không nên áp dụng biện pháp ký quỹ, vì như vậy sẽ làm tăng thêm gánh nặng cho chủ xe cơ giới. Chúng tôi cho rằng chế độ bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới với việc chủ xe cơ giới ký quỹ là hoàn toàn khác nhau, bởi các lý do sau đây: Thứ nhất, việc thực hiện chế độ bảo hiểm bắt buộc TNDS có nghĩa vụ là chủ xe cơ giới phải đóng một khoản tiền hàng năm. Còn ký quỹ thì khoản tiền hoặc kim khí quý, đã quý hoặc các giấy tờ trị giá được bằng tiền vẫn thuộc quyền sở hữu của chủ xe cơ giới, sau khi trừ đi một khoản tiền nhỏ cho chi phí dịch vụ ngân hàng. Thứ hai, việc thực hiện chế độ bảo hiểm bắt buộc TNDS trong một số trường hợp khoản tiền trách nhiệm bảo hiểm đủ chi phí hợp lý cho các thiệt hại thực tế xảy ra, nhưng trong một số trường hợp khác thì không thể đủ chi phí hợp lý cho các thiệt hại thực tế xảy ra đòi hỏi phải có việc bồi thường khoản tiền chênh lệch giữa mức trách nhiệm bảo hiểm và thiệt hại thực tế. Từ sự phân tích trên đây, chúng tôi cho rằng, ký quỹ là một trong những biện pháp bảo đảm việc BTTH trong các vụ TNGTĐB có hiệu quả. Tuy nhiên, cần có quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về biện pháp này, đặc biệt là cần xem xét việc ký quỹ trong trường hợp có thực hiện chế độ bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới. 3.4.3. Bảo lãnh Hình thức bảo lãnh là việc người thứ ba cam kết với bên bị thiệt hại sẽ bồi thường thay cho người đã gây thiệt hại. Người bảo lãnh có thể là một cá nhân hay nhiều cá nhân hoặc có thể một pháp nhân. Người bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình và số tài sản đó phải có giá trị tối thiểu bằng giá trị thiệt hại mà người đó nhận bảo lãnh. Khi nhiều người cùng bảo lãnh việc BTTH thì phải liên đới thực hiện việc bảo lãnh, trừ những trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định bảo lãnh theo phần độc lập. Việc bảo lãnh nhất thiết phải lập thành văn bản. Nếu bảo lãnh bằng tài sản có giá trị lớn phải có chứng thực của Công chứng Nhà nước hoặc chứng nhận của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Tùy từng trường hợp cụ thể mà các bên thỏa thuận lựa chọn hoặc bên bị thiệt hại có thể lựa chọn biện pháp bảo đảm phù hợp để yêu cầu bên có nghĩa vụ bồi thường thực hiện. Từ trước đến nay, bảo lãnh ít được áp dụng để bảo đảm bồi thường trong các vụ TNGTĐB. Do vậy, trên cơ sở quán triệt các nguyên tắc của TNBTTH ngoài hợp đồng và các quy định khác của pháp luật để quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, các căn cứ để tính khối lượng tài sản phải bảo lãnh bảo đảm đủ để thực hiện nghĩa vụ bồi thường, bảo đảm quyền lợi cho người bị thiệt hại để thực hiện có hiệu quả, tránh phiền hà, tiêu cực. Ở nước ta việc bảo lãnh bằng tài sản của mình còn ít được thực hiện, thế nhưng ở nhiều nước trên thế giới biện pháp này được áp dụng khá rộng rãi, đặc biệt là trong cơ chế thị trường bằng việc bảo lãnh này khi người được bảo lãnh không còn đủ khả năng thanh toán thì có thể chuyển nhượng không chỉ là tài sản mà có khi chuyển nhượng cả công ty của mình. Chúng tôi cho rằng quy định bảo lãnh như là một biện pháp bảo đảm việc BTTH trong các vụ TNGTĐB ở nước ta là hết sức cần thiết. 3.4.4. Kê biên tài sản Theo quy định của pháp luật tố tụng trong những trường hợp xét thấy để bảo đảm việc BTTH, cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp kê biên tài sản. Tuy nhiên, trong thực tế việc áp dụng kê biên tài sản để bảo đảm BTTH trong các vụ TNGTĐB trong giai đoạn đầu chưa được đặt ra, vì không có quy định nào của pháp luật về vấn đề này. Thực tiễn chứng minh rằng có những chủ xe cơ giới sau khi TNGT xảy ra với ý thức trốn tránh TNBTTH không những đã tẩu tán phương tiện gây ra tai nạn mà còn tẩu tán các tài sản khác có giá trị. Chúng tôi đề nghị, cần có quy định của Nhà nước về vấn đề kê biên tài sản để bảo đảm việc BTTH trong các vụ TNGTĐB, đặc biệt là đối với các trường hợp chủ xe cơ giới không thực hiện chế độ bảo hiểm bắt buộc TNDS. Tuy nhiên, các quy định về kê biên tài sản để bảo đảm việc BTTH trong các vụ TNGTĐB phải hết sức chặt chẽ và cụ thể, tránh việc kê biên tài sản tùy tiện, gây thiệt hại cho người có tài sản kê biên. Theo chúng tôi, trong văn bản đó cần quy định cụ thể việc đánh giá sơ bộ thiệt hại xảy ra; những tài sản được kê biên và tài sản nào được kê biên trước, tài sản nào kê biên sau (kể cả phương tiện gây ra tai nạn), thủ tục kê biên; tài sản không được kê biên; đánh giá tài sản kê biên; bảo quản tài sản kê biên; xử lý tài sản kê biên... 3.4.5. Phạt vi phạm Nhà nước ta đã có các văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông. Tuy nhiên, việc thi hành các quy định này còn rất hạn chế. Qua điều tra khảo sát của chúng tôi cho thấy trong khi tình hình vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ ngày càng tăng, song việc xử lý vi phạm không tăng. Việc xử lý vi phạm chưa đạt được kết quả như mong muốn có nhiều lý do như lực lượng kiểm tra, kiểm soát mỏng, ý thức chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông chưa cao... Nhưng một trong những nguyên nhân chủ yếu theo chúng tôi là cơ quan có thẩm quyền và người có thẩm quyền trách nhiệm chưa cao, chưa kiên quyết trong việc xử lý vi phạm. Cần phải nghiêm khắc kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, cương quyết xử phạt mọi trường hợp vi phạm. Từ nguồn kinh phí thu được do xử phạt vi phạm chúng ta có thể tạo nên quỹ phòng chống TNGT; quỹ cứu chữa, hỗ trợ những người bị thiệt hại trong các vụ TNGT. Đặc biệt là trong những trường hợp: thiệt hại do lỗi của người thứ ba nhưng không xác định được người gây thiệt hại; người gây thiệt hại bỏ trốn; người gây thiệt hại do lỗi vô ý mà hậu quả quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài; người gây thiệt hại chết. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Qua nghiên cứu các vụ TNGTĐB trong thời gian qua cho thấy tình hình diễn biến phức tạp và ngày càng gia tăng cả về số vụ, cả về tính chất nghiêm trọng. TNGTĐB thường xảy ra nhiều ở những trục đường lớn, đặc biệt là trên quốc lộ. Trong các phương tiện giao thông thường gây ra tai nạn, thì mô tô, xe máy, ôtô chiếm tỷ lệ cao. Chủ thể điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây tai nạn nhiều nhất là ở độ tuổi từ 21 tuổi đến 40 tuổi. Giải thích vấn đề này, theo chúng tôi, đây là độ tuổi tham gia giao thông nhiều nhất, song họ cũng chủ quan nhất với các lý do: đã có kinh nghiệm trong việc điều khiển phương tiện giao thông; còn trẻ, khỏe; có phản xạ nhanh... và hầu hết là nam giới. Tỷ lệ số người không có bằng lái, giấy phép lái xe khá lớn. Đây là một tình trạng báo động ở nước ta. Số vụ TNGTĐB xảy ra trong các tháng của năm xấp xỉ bằng nhau, số vụ TNGTĐB xảy ra vào các ngày nghỉ trong tuần nhiều hơn so với các ngày làm việc. Thông thường các vụ TNGTĐB xảy ra vào buổi chiều nhiều hơn các buổi khác trong ngày. Đánh giá thiệt hại trong các vụ TNGTĐB trong thời gian qua cho thấy số người bị chết, số người bị thương năm sau tăng hơn năm trước. Nếu so sánh năm 1999 với năm 1995 cho thấy năm 1999 số người bị chết nhiều hơn năm 1995 là: 9.518 người; số người bị thương nhiều hơn 10.719 người. Thiệt hại về tài sản năm sau nghiêm trọng hơn năm trước, nhiều phương tiện giao thông bị phá hỏng hoặc bị phá hủy hoàn toàn. Thiệt hại về tài sản của Nhà nước, của các tổ chức và cá nhân rất lớn. Vấn đề BTTH trong các vụ TNGTĐB trong thời gian qua còn được rất ít so với thiệt hại thực tế xảy ra do nhiều nguyên nhân: thiệt hại thực tế xảy ra lớn hơn quá nhiều với khả năng bồi thường của người có trách nhiệm bồi thường; Nhà nước ta chưa có các biện pháp đồng bộ bảo đảm việc BTTH trong các vụ TNGTĐB. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, như sự hiểu biết về pháp luật, ý thức pháp luật của người dân chưa cao; phương tiện giao thông tăng nhanh; kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được đòi hỏi của cuộc sống; vì vậy, tình hình TNGTĐB trong những năm tới sẽ tiếp tục gia tăng kể cả về số vụ, tính chất nghiêm trọng và thiệt hại xảy ra. Để hạn chế đến mức thấp nhất TNGTĐB xảy ra, Nhà nước ta cần phải có các biện pháp phòng ngừa đồng bộ, bao gồm: đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn luật lệ giao thông bằng mọi hình thức; chú trọng công tác tổ chức, điều hành, chỉ huy giao thông để chủ động phòng ngừa TNGT; tăng cường công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông, đặc biệt là hoàn thiện hệ thống pháp luật về trật tự an toàn giao thông; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát và xử lý nghiêm khắc triệt để các vi phạm về trật tự an toàn giao thông... Nhằm bảo đảm việc BTTH trong các vụ TNGTĐB được kịp thời và đầy đủ, Nhà nước ta cần quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện việc BTTH này. Theo chúng tôi, các biện pháp đó có thể là: bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới; ký quỹ; bảo lãnh; kê biên tài sản và phạt vi phạm. KẾT LUẬN 1. Trong hoàn cảnh hiện nay ở nước ta do các nguyên nhân, điều kiện khác nhau tình trạng TNGTĐB đã và đang diễn biến hết sức nghiêm trọng, có chiều hướng gia tăng, gây thiệt hại lớn về tính mạng, sức khỏe của con người, gây thiệt hại lớn về tài sản của xã hội, của Nhà nước, của cá nhân; làm ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư, nước ngoài, gây tâm lý lo lắng cho người dân, gây mất ổn định, trật tự kỷ cương xã hội và đang là mối quan tâm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của toàn thể nhân dân. 2. Nghiên cứu thực trạng TNGTĐB trong những năm qua, chúng tôi rút ra các nhóm nguyên nhân, điều kiện của TNGTĐB bao gồm: nhóm nguyên nhân, điều kiện của chính người tham gia giao thông đường bộ; nhóm nguyên nhân, điều kiện do phương tiện tham gia giao thông đường bộ; nhóm nguyên nhân, điều kiện do kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; nhóm nguyên nhân, điều kiện do quản lý Nhà nước về trật tự an toàn giao thông đường bộ; nhóm các nguyên nhân, điều kiện khác, như: ảnh hưởng của môi trường tâm lý xã hội, thời tiết, khí hậu, những tình huống, sự kiện bất ngờ, ngày lễ, ngày tết, hội hè... 3. Có thể khẳng định rằng TNBTTH trong các vụ TNGTĐB là một loại TNBTTH ngoài hợp đồng. Từ các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn cuộc sống, chúng tôi đưa ra khái niệm: "TNBTTH trong các vụ TNGTĐB là một loại trách nhiệm dân sự mà phổ biến là TNBTTH ngoài hợp đồng gồm TNBTTH về vật chất và TNBTTH về tinh thần được phát sinh khi người nào có hành vi vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác, xâm phạm đến tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân khác mà gây thiệt hại". 4. Giữa TNBTTH ngoài hợp đồng và TNBTTH trong hợp đồng có sự khác nhau cơ bản về bản chất cũng như nội dung. Đối với TNBTTH trong hợp đồng, thì khi hợp đồng được giao kết, các bên có nghĩa vụ thực hiện đúng những cam kết thỏa thuận trong hợp đồng. Việc một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ là sự vi phạm hợp đồng. Trách nhiệm bồi thường do vi phạm hợp đồng là TNDS phát sinh trong trường hợp một bên do không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ các điều khoản đã tự nguyện cam kết trong hợp đồng mà gây thiệt hại cho bên kia và phải bồi thường. Đối với TNBTTH ngoài hợp đồng chỉ phát sinh dưới sự tác động trực tiếp của các quy phạm pháp luật, không có sự thỏa thuận trước của các chủ thể. Sự thỏa thuận chỉ có thể có sau khi đã phát sinh TNBTTH. 5. Từ kết quả nghiên cứu của mình, chúng tôi có khái niệm TNBTTH trong các vụ TNGTĐB là một loại trách nhiệm dân sự mà phổ biến là TNBTTH ngoài hợp đồng gồm TNBTTH về vật chất và TNBTTH về tinh thần được phát sinh khi người nào có hành vi vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác, xâm phạm đến tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân khác mà gây thiệt hại. Các nguyên tắc BTTH trong các vụ TNGTĐB cũng chính là các nguyên tắc BTTH nói chung; đó là: BTTH toàn bộ và kịp thời; căn cứ vào hình thức lỗi và mức độ lỗi; tự do, tự nguyện, cam kết, thỏa thuận; mức bồi thường phù hợp với thực tế và một số nguyên tắc khác, như: xem xét khả năng kinh tế của người gây thiệt hại... 6. Để làm phát sinh TNBTTH trong các vụ TNGTĐB thì cần phải có đủ các điều kiện: có thiệt hại xảy ra; có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra; người gây ra thiệt hại phải có lỗi. Nếu gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng, trong tình thế cấp thiết, trong trường hợp bất khả kháng hoặc trong một số trường hợp khác mà người gây thiệt hại chứng minh được mình không có lỗi thì không phải BTTH. Trong trường hợp nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình thì người gây thiệt hại có thể được giảm mức BTTH. 7. Xác định các khoản chi phí hợp lý do tính mạng, sức khỏe, tài sản bị xâm phạm là hết sức khó khăn, khi BLDS của nước ta quy định còn quá chung chung, trong khi đó chưa có sự giải thích, hướng dẫn cụ thể của các cơ quan có thẩm quyền. Từ sự phân tích các quy định của BLDS, chúng tôi đề xuất, các khoản chi phí được coi là hợp lý trong trường hợp tính mạng bị xâm phạm, trong trường hợp sức khỏe bị xâm phạm và trong trường hợp tài sản bị xâm phạm. Việc xác định đúng chủ thể có TNBTTH trong các vụ TNGTĐB là hết sức quan trọng. Không phải trong mọi trường hợp người gây thiệt hại là chủ thể có TNBTTH trong các vụ TNGTĐB. Cơ quan bảo hiểm là một chủ thể có TNBTTH trong các vụ TNGTĐB, nhưng sự tham gia tố tụng của cơ quan bảo hiểm có đặc thù. Trong mọi trường hợp cơ quan bảo hiểm đều không phải là bị đơn. 8. TNGT năm sau tăng hơn năm trước. Trong tổng số các vụ TNGT, thì số vụ TNGTĐB chiếm tỷ lệ cao từ 90%-95% tổng số vụ. Các số liệu cho thấy thiệt hại trong các vụ TNGTĐB trong thời gian qua là đặc biệt nghiêm trọng, thế nhưng vấn đề thực hiện việc BTTH nói chung chiếm tỷ lệ chưa cao. Trong trường hợp có yêu cầu Tòa án giải quyết, thì sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, tỷ lệ các bản án, quyết định của Tòa án về phần BTTH được rất thấp do số tiền phải thi hành án quá lớn và trong nhiều trường hợp người phải thi hành án không có tài sản để thi hành 9. Dự báo trong những năm tới TNGTĐB tiếp tục gia tăng kể cả số vụ, số người chết, số người bị thương và tài sản bị thiệt hại, nếu chúng ta không có những biện pháp phòng ngừa TNGTĐB một cách hữu hiệu. Theo chúng tôi, trong những năm tới chúng ta cần phải triển khai các biện pháp phòng ngừa sau đây: - Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn luật về giao thông trên bình diện rộng, thường xuyên, có chiều sâu và có hiệu quả, không phô trương lấy thành tích. - Chú trọng công tác tổ chức, điều hành, chỉ huy giao thông để chủ động phòng ngừa TNGT. - Tăng cường công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông. Xây dựng chiến lược phát triển giao thông gắn với xây dựng chiến lược bảo đảm an toàn giao thông đường bộ trong một tổng thể. - Tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm về trật tự an toàn giao thông; xử lý nghiêm và đúng pháp luật các vụ tai nạn. - Ngoài ra cần có các biện pháp phòng ngừa trước mắt như giải pháp an toàn cho người tham gia giao thông bằng việc bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm phải đi kèm với qui định việc xử lý phạt nếu không chấp hành hoặc các biện pháp khác. 10. Để bảo đảm thực hiện việc BTTH trong các vụ TNGTĐB có hiệu quả đúng các nguyên tắc BTTH, nước ta cần phải có các biện pháp hữu hiệu mà theo chúng tôi là: - Thực hiện nghiêm chế độ bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới và các hình thức bảo hiểm khác đối với phương tiện, hàng hóa... trong GTVTĐB. - Ký quỹ. - Bảo lãnh. - Phạt vi phạm. 11. Ngoài một số kết luận trên đây, chúng tôi có một số kiến nghị như sau: - Cần phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định của BLDS về TNBTTH ngoài hợp đồng đặc biệt là các cơ sở pháp lý để xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm, sức khỏe bị xâm phạm, tài sản bị xâm phạm, như chúng tôi đã đề xuất cụ thể trong luận án của mình. - Cần sớm ban hành Luật giao thông đường bộ và các văn bản dưới luật về các biện pháp phòng ngừa TNGTĐB, các biện pháp bảo đảm thực hiện việc BTTH trong các vụ TNGTĐB. - Cần ban hành các văn bản giải thích, hướng dẫn cụ thể về TNBTTH trong các vụ TNGTĐB bảo đảm sự thống nhất về việc BTTH. - Cần phải xử lý nghiêm các vi phạm về trật tự an toàn giao thông đường bộ. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Lê Mai Anh (1997), Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật dân sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Phạm Kim Anh (1997), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Ph. Ănghen (1955), Phép biện chứng của tự nhiên, Nxb Chính trị, Hà Nội. Ph. Ănghen (1959), Chống Đuyrinh, Nxb Sự thật, Hà Nội. Ban dự thảo bộ luật dân sự Việt Nam (1994), Bộ luật dân sự Cộng hòa Liên bang Đức - Những quy định về một số ván đề trong bộ luật dân sự một số nước, tập II, Hà Nội. Ban dự thảo bộ luật dân sự Việt Nam (1994), Bộ luật dân sự Nhật bản, những quy định về một số vấn đề trong bộ luật dân sự một số nước, Hà Nội Ban dự thảo bộ luật dân sự Việt Nam (1994), Bộ luật dân sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, những quy định về một số vấn đề trong bộ luật dân sự một số nước, tập II, Hà Nội. Nguyễn Mạnh Bách (1974), Nghĩa vụ, xuất bản tại Sài Gòn. Nguyễn Mạnh Bách (1998), Nghĩa vụ dân sự trong luật dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bình luận khoa học bộ luật dân sự Nhật bản (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bo-lum-bec và Suslop (1995), Nguyên nhân và kết quả, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. (1996), Bộ luật lao động của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. (2000), Bộ luật hình sự của nước CHXHCNVN (năm 1999), Tạp chí Dân chủ Pháp luật, Hà Nội. (1995), Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. (1972), Bộ dân luật (Sài Gòn), Nhà sách Khai trí, Sài Gòn. Bộ Công an (1997), "Tai nạn giao thông, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa", Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. Bộ Công an (1993), "Chính sách xã hội và vấn đề quản lý cư trú, đi lại trật tự an toàn giao thông trong điều kiện kinh tế thị trường", Kỷ yếu hội thảo khoa học, Đề tài KX 04.14, Hà Nội. Bộ Công an (1999), Tạp chí Công an nhân dân, (2). Bộ Công an (từ 1990 - 2000), Tạp chí Công an nhân dân. Bộ Công an, Bộ Giao thông Vận tải (1998), Sách hướng dẫn cho nhân viên cưỡng chế giao thông - Transport Reseach Laboratory UK Crow Agent, Hà Nội. Bộ Công an (1995), Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính các văn bản pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn đô thị, Hà Nội. Bộ Tư pháp (1995), Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của bộ luật dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ Tư pháp (1995), Bình luận khoa học bộ luật hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ Tư pháp (1995), "Bộ luật dân sự của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam", Dân chủ và pháp luật, Hà Nội. Bộ tư pháp (từ 1990 - 2000), Tạp chí Dân chủ và pháp luật. Bộ tư pháp (từ 1999), Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (6). Bộ tư pháp (từ 1999), Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (8). Các qui định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. Các bản án của TANDTC và của các địa phương, (từ 1990 đến nay). Các văn bản về bảo hiểm xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Christian Atias (1993), Luật dân sự, Nxb thế giới, Hà Nội. (1998), Công báo số 5, 15, 31. (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Nguyễn Ngọc Đào (1994), Luật La Mã, Đại học quốc gia Hà Nội. Đại học Luật Hà Nội (1998), Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Đại học Luật Hà Nội (1997), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập I, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Đại học Luật Hà Nội (1997), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập II, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Đại học Luật Hà Nội (1998), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Công an nhân dân. Đại học Luật Hà Nội (từ 1990 - 2000), Tạp chí luật học. Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. G.M. Reronhith (1987), Trách nhiệm bắt đầu từ khi nào, Nxb Pháp lý, Hà Nội. Trần Thị Thu Hiền (1996), Nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong luật dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. (1995), Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. (1994), Hoàng Việt luật lệ, tập 4, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Nguyễn Duy Lãm (chủ biên) (1998), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Lê Kim Loan (1998), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. (1990), Luật Hôn nhân và gia đình nước CHXHCN Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia. Vũ Văn Mẫu (1968), Danh từ và tài liệu Dân luật và Hiến luật, Tủ sách đại học Sài Gòn,. Vũ Văn Mẫu (1963), Việt Nam Dân luật lược khảo (quyển II) Nghĩa vụ và khế ước, Sài Gòn. Vũ Văn Mẫu (1972), Cổ luật Việt Nam và Tư pháp sử, Sài Gòn. (1999), Một số văn bản pháp luật bảo đảm trật tự an toàn giao thông và những văn bản hướng dẫn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. (1997), Một số vấn đề về quyền dân sự và chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. (1996), Một số văn bản pháp quy về quản lý phương tiện và người điều khiển phương tiện cơ giới đường bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. (1998), Một số văn băn hướng dẫn công tác đăng ký, quản lý phương tiện cơ giới đường bộ, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. (1997)Một số văn bản pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Nghị định 36/CP của Chính phủ (1998), về bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. (1995), Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nước và pháp luật, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội. (1960), Những cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật, Nxb Sự thật, Hà Nội. (1991), Pháp lệnh về hợp đồng dân sự, Nxb Pháp lý. Đinh Khánh Phong (1975), Tìm hiểu dân luật Việt Nam, Nxb Phổ thông, Hà Nội. Đinh Văn Quế (1998), Bình luận án, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. (1991), Quốc triều hình luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội. (2000), Tài liệu hội nghị tập huấn chuyên sâu Bộ luật hình sự 1999, Hà Nội. TAKHO V.A (1966), Trách nhiệm theo pháp luật dân sự Xô viết, Nxb XARATOP. Phạm Hồng Thái - Đinh Văn Mậu (1996), Đại cương về Nhà nước và pháp luật, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Ngô Văn Thâu - Lê Hữu Bắc (1996), Các thuật ngữ cơ bản trong luật dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Chu Khắc Thuật - Nguyễn Văn Thủ (chủ biên) (1998), Văn hóa, lối sống với môi trường, Nxb Thông tin, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (1998), Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao xuất bản (1997), Giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế lao động, hành chính, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (1961), Những vấn đề cơ bản về dân pháp của cộng hòa nhân dân Trung Hoa, tập II, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (từ 1990 - 2000), Tạp chí Tòa án nhân dân. Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (1998), Qui tắc bảo hiểm xe cơ giới, Hà Nội. Trách nhiệm trong quản lý, Nxb Thông tin lý luận. (1995), Triết học Mác - Lênin chương trình cao cấp, tập II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. "Những vấn đề lý luận cơ bản về bộ luật dân sự Việt Nam", Các báo cáo chuyên đề của đề tài, Hà Nội. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn (từ 1990 - 2000), Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Hà Nội. TSU - NEOINAKO (1993), Tìm hiểu pháp luật Nhật Bản, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. (1992), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Ngôn ngữ, Hà Nội. (1998), Từ điển Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1989), Báo cáo sơ kết rút kinh nghiệm công tác kiểm sát điều tra và xử lý án vi phạm các qui định về trật tự an toàn giao thông vận tải, Hà Nội. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, "Vấn đề giải quyết bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ", Chuyên đề cấp Bộ. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, "Công tác kiểm sát điều tra về xử lý an vi phạm cac qui định về an toàn giao thông đường bộ", Chuyên đề cấp Bộ. Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp luật nước ta trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia (7/2000), Báo cáo tình hình tai nạn giao thông và các biện pháp khẩn cấp để khắc phục, Hà Nội. C.R.Qkholmb. A.A.Qmav`i (1983), Naxee rvelhe m dejhiqlzt ma~g`qejypqb`t. b pmbeqpimk co`fd`lpimk no`be. Kelhlco`d Igd`qej{pqbm Kelhlco`dpimcm rlhbeophqeq`. Phụ lục VỊ TRÍ THƯỜNG XẢY RA TAI NẠN GIAO THÔNG TỪ 6 VỤ TRỞ LÊN TRÊN 1 KM (Số liệu thống kê tại 14 địa phương trên quốc lộ 1 từ 01-1-1997 đến 31-12-1997) Tỉnh, thành Quận, huyện Vị trí (km) Số vụ Số chết Bị thương Hà Nội Thanh Trì 180+ 6 0 8 Hà Nội Thanh Trì 184+ 10 0 16 Hà Nội Thanh Trì 187+ 10 0 16 Hà Nội Thanh Trì 188+ 6 0 8 Ninh Bình TX Ninh Bình 264+ 6 3 8 Ninh Bình TX Ninh Bình 265+ 6 1 6 Ninh Bình Yên Mô 274+ 8 2 7 Ninh Bình Yên Mô 274+ 8 2 7 Ninh Bình TX Tam Điệp 277+ 6 2 3 Ninh Bình TX Tam Điệp 279+ 6 2 4 Nghệ An TP Vinh 304+ 9 5 2 Nghệ An TP Vinh 306+ 6 4 7 TP. HCM Bình Chánh 1906+ 9 6 6 TP. HCM Bình Chánh 1916+ 7 3 7 TP. HCM Bình Chánh 1917+ 9 5 6 TP. HCM Bình Chánh 1920+ 7 3 5 Long An TX Tân An 1946+ 21 4 25 Long An TX Tân An 1947+ 20 3 23 Long An TX Tân An 1948+ 9 4 12 Long An TX Tân An 1949+ 8 1 12 Long An TX Tân An 1952+ 19 4 29 Long An TX Tân An 1952+ 19 4 29 Long An TX Tân An 1954+ 6 0 9 Tổng 213 60 235 Nguồn: Trung tâm vi tính Cục Cảnh sát giao thông đường bộ đường sắt (Bộ Công an) Phụ lục THỐNG KÊ TAI NẠN GIAO THÔNG TỪ 1990 ĐẾN 1999 Năm Số vụ xảy ra Số người chết Số người bị thương Số vụ Tăng so với năm trước (%) Số người chết Tăng so với năm trước (% Số người bị thương Tăng so với năm trước (% 1990 6.110 2.268 4.956 1991 7.382 + 20,8 2.602 + 14,72 7.114 + 43,54 1992 9.470 + 28,28 3.077 + 18,25 10.048 + 41,24 1993 11.582 + 22,30 4.140 + 34,54 11.854 + 17,97 1994 13.760 + 18,80 5.897 + 42,42 14.174 + 19,57 1995 15.999 + 16,20 5.728 - 2,87 17.167 + 21,11 1996 19.638 + 22,74 5.932 + 3,56 21.718 + 26,44 1997 19.998 + 1,83 6.152 + 3,70 22.071 + 1,62 1998 20.753 + 3,70 6.394 + 3,90 22.989 + 4,15 1999 21.538 + 3,70 7.095 + 10,96 24.179 + 5,17 Tổng 146.230 49.285 156.270 Nguồn: Báo cáo tình hình tai nạn giao thông và các biện pháp khắc phục, Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, 7/2000. Phụ lục PHÂN TÍCH ĐỘ TUỔI VÀ GIỚI TÍNH CỦA NGƯỜI ĐIỀU KHIỂN PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ GÂY TAI NẠN Độ tuổi của người điều khiển phương tiện Tổng số vụ tai nạn giao thông đường bộ Người điều khiển phương tiện là Nam Người điều khiển phương tiện là Nữ 0-5 0 0 0 6-10 4 2 2 11-15 38 24 14 16-20 211 164 47 21-25 590 558 32 26-30 632 610 22 31-35 437 430 7 36-40 442 422 20 41-45 313 302 11 46-50 190 180 10 51-55 98 92 6 56-60 50 49 1 61-65 29 25 4 66-70 25 25 0 71-75 7 7 0 Trên 75 6 6 0 Tổng số: 3.072 2.896 176 Nguồn: Trung tâm vi tính Cục cảnh sát giao thông đường bộ đường sắt (Bộ Công an). Phụ lục PHÂN TÍCH ĐỘ TUỔI VÀ GIỚI TÍNH CỦA SỐ NGƯỜI CHẾT VÀ BỊ THƯƠNG TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ Độ tuổi Tổng số người bị chết và bị thương Nam Nữ 0 tuổi - 5 tuổi 46 32 14 6-10 44 31 13 11-15 50 25 25 16-20 126 80 46 21-25 176 124 52 26-30 125 99 26 31-35 80 57 23 36-40 105 71 34 41-45 79 57 22 46-50 57 38 19 51-55 36 19 17 56-60 31 22 9 61-65 43 26 17 66-70 26 13 13 71-75 29 17 12 Trên 75 22 12 10 Tổng số 1.075 người 723 người 352 người Nguồn: Trung tâm vi tính Cục cảnh sát giao thông đường bộ đường sắt (Bộ Công an). ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2646.DOC
Tài liệu liên quan