Tour du lịch lễ hội nhằm khai thác bản sắc văn hoá dân tộc của Công ty Tân Đại Phát

LỜI NÓI ĐẦU Hơn bốn nghìn năm văn hiến,lịch sử đất nước ta trải qua nhiều thăng trầm biến cố.Nhiều kẻ thù mưu toan đồng hóa văn hóa việt nam để hòng đô hộ đất nước ta lâu dài.Nhưng nền văn hóa việt nam không những được bảo vệ ,giữ gìn mà cha ông ta còn biết tiếp thu những tinh hoa văn hóa của các nước khác làm giàu thêm bản sắc văn hóa Việt Nam.Có được một nền văn hóa truyền thống độc đáo, giàu bản sắc như ngày nay là cả một quá trình lao động,sáng tạo và đấu tranh bền bỉ của dân tộc, vừa xây d

doc43 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1355 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tour du lịch lễ hội nhằm khai thác bản sắc văn hoá dân tộc của Công ty Tân Đại Phát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ựng cái đẹp, cái văn minh,cái tiến bộ,vừa chống lại cái xấu cái lạc hậu,phản động,tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại,bài trừ văn hóa lai căng,vọng ngoại.Qủa thật để giữ gìn và phát huy được “cái hồn” của văn hóa dân tộc quả là một cuộc đấu tranh gay gắt.Cuộc đấu tranh đó đã trở thành sống còn, bởi lẽ một dân tộc đánh mất bản sắc dân tộc của văn hóa là dân tộc đó tự đánh mất chính mình. Đất nước ta mới từ bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường chưa có sự chuẩn bị đầy đủ.Kinh tế thị trường với văn hóa truyền thống đem lại cái được, cái mất, cái thoát khỏi cái đang bị nhiễm. Đối với du lịch Việt Nam vấn đề khai thác bản sắc văn hóa dân tộc trong sự phat triển du lịch, trong những năm gần đây rất được Đảng và Nhà nước quan tâm. Mong muốn của du khách khi thực hiện chuyến du lịch không đơn thuần chỉ để ngắm nhìn những danh lam thắng cảnh những di tích cổ, nghe những câu chuyện huyền thoại về đất nước con người thông qua những di tích lịch sử mà đó còn là nhu cầu hiểu biết về phong tục tập quán, nét sinh hoạt văn hóa truyền thống văn hóa dân gian cũng như đời sống hiện tại đòi hỏi những người làm công tác du lịch phải đưa ra được những sản phẩm du lịch đặc thù mang đậm đà bản sắc văn hóa Viêt Nam để thu hút hơn khách du lịch. Ở Việt Nam, vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc đang là một vấn đề trao đổi tìm kiếm lời giải đáp. Vì vậy em chọn đề tài nghiên cứu: Tour du lịch lễ hội nhằm khai thác bản sắc văn hóa dân tộc của Công ty Tân Đại Phát. Với đề tài trên trong bài viết này em xin được trình bày những nội dung sau: Chương I: Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam . Chương II: Tour du lịch khai thác bản sắc văn hóa dân tộc của công ty Tân Đại Phát. Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm khai thác bản sắc văn hóa dân tộc của Công ty Tân Đại Phát nói riêng và trong phát triển du lịch Việt Nam nói chung. Do hiểu biết thực tế và thời gian có hạn nên đề tài không tránh khỏi những sai sót, em mong nhận được những ý kiến quý báu của thầy giáo hướng dẫn và các thầy cô giáo trong khoa để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy TRẦN TẤT CHỦNG đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành đề tài này. CHƯƠNG I: BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM I-/ KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM. 1-/ Bản sắc văn hóa là gì ? Mỗi tộc người đều có một nền văn hóa với một bản sắc riêng được hình thành trong lịch sử và trong mỗi không gian xã hội cụ thể, dù đó là dân tộc đa số hay dân tộc ít người. Các nền văn hóa đều có giá trị theo chức năng xã hội của nó và các nền văn hóa ấy đã làm phong phú thêm cho nền văn minh nhân loại. Bản sắc văn hóa là những giá trị vật chất và tinh thần đặc thù riêng của một dân tộc, do họ sáng tạo và tích lũy trong sự tương tác giữa môi trường tự nhiên và xã hội của mình. Bản sắc văn hóa riêng của từng dân tộc biểu hiện cụ thể và dễ nhận biết sự riêng biệt này.Người ta có thể nhận biết bản sắc dân tộc qua trang phục truyền thống,cách ăn nói, món ăn thức uống, cách ứng xử, lễ hội, dân ca, âm nhạc dân gian, kiến trúc, mỹ thuật dân gian…Đây cũng chính là sự khác biệt giữa dân tộc này với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa bao gồm hai loại : - Các giá trị văn hóa vật thể: Là các di tích kiến trúc, các phong cảnh thiên nhiên…do vị trí địa lí và con người sáng tạo, tích lũy. Nó có tính đặc thù riêng do mỗi dân tộc sống ở một lãnh thổ riêng điều kiện tự nhiên khác nhau. Ở Việt Nam, kiến trúc chủ yểu là theo kiểu thấp về chiều cao nhưng trải dài trên diện rộng vì thường xuyên chống đỡ với thiên nhiên khắc nghiệt. Các công trình kiến trúc có xu hướng hòa mình vào thiên nhiên và ẩn hiện trong thiên nhiên. Ngược lại, ở Mỹ các công trình kiến trúc đồ sộ, to lớn như thách thức với thiên nhiên. - Các giá trị văn hóa phi vật thể: Là âm nhạc, ngôn ngữ, huyền thoại, nghi thức phong tục tập quán…do con người sáng tạo ra trong quá trình lao động. Âm nhạc Việt Nam dịu dàng thiết tha sâu lắng với cây đàn bầu, ở Tây Âu thì lại là những bản nhạc hùng tráng với giàn nhạc gồm nhiều người, nhiều nhạc cụ khác nhau. Dù là vật thể hay phi vật thể thì hai loại hình này vẫn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, đan xen vào nhau, sự phân biệt chỉ là tương đối. Vì những loại phi vật thể đa số được thể hiện ở những hình thái và trạng thái vật hóa. 2-/ Đặc điểm Mỗi dân tộc đều có một bản sắc văn hóa riêng. Đó là sự sáng tạo vào tích lũy của cả một cộng đồng trong một thời gian dài từ khi xuất hiện những thành viên đàu tiên.Chính vì vậy, nó trở thành bản chất tính cách của dân tộc truyền từ đời này sang đời khác. Nhưng bản sắc dân tộc cũng không phải là yếu tố bất biến. Trải qua nhiều thế hệ, bản sắc văn hóa không ngừng được phát triển và bổ xung những tinh hoa văn hóa của dân tộc khác làm giàu thêm bản sắc văn hóa của mình. Mặt khác, nếu không biết giữ gìn thì bản sắc văn hóa dân tộc đó sẽ dần dần lai tạp đi. Dân tộc đó sẽ đánh mất bản sắc văn hóa riêng cũng như đánh mất chính mình. Bản sắc văn hóa dân tộc là niềm tự hòa của cả dân tộc. Dù ai đi ngược về xuôi thì trong lòng mỗi người luôn giành cho nó một chỗ quan trọng nhất với cả tấm lòng yêu thương, trân trọng. Đó là niềm hãnh diện với dân tộc khác. Trong thời đại bùng nổ thông tin, khoa học kĩ thuật, sự bành chướng của nền kinh tế thương mại đang ngày càng toàn cầu hóa, sự xâm lăng của truyền hình tới mọi hang cùng ngõ hẻm, đã làm thế giới ngày càng trở nên đồng nhất, các dân tộc ngày càng bị mất đi giá trị của riêng mình. Chính trong bối cảnh đó các quốc gia bắt đầu nhìn lại mình và tìm lại chính mình trước khi quá muộn. II-/ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM 1-/ Văn hóa Việt Nam theo thời gian lịch sử: 1.1. Lớp văn hóa bản địa:( Văn hóa thời tiền sử và thời Văn lang Âu lạc) Theo những kết quả nghiên cứu của những nhà khảo cổ học Việt Nam thì văn hóa núi Đọ (Thanh Hóa) xuất hiện cách đây 30 vạn năm. Trên đất nước Việt Nam đã có bầy người tối cổ sinh sống (thuộc vào thời đại đồ đá cũ). Cách đây một vạn năm có văn hóa Hòa Bình (Thuộc thời đại đồ đá giữa) con người đã làm nông nghiệp và chọn nghề trồng lúa nước để sinh sống. Có thể nói rằng: bản sắc văn hóa nước ta đã hình thành chính từ thời kì trồng lúa nước.Mọi tiềm ẩn trong nền văn hóa nước ta chính từ nghề lúa nước mà ra. Bản sắc văn hóa Việt đến nay vẫn mang đậm nền kinh tế nông nghiệp.Các kiến trúc đình, đền, chùa, lăng tẩm, cung điện đều thấp bé, hoa văn uốn lượn, thể hiện cuộc sống nông nghiệp thường xuyên chống chọi với bão lũ va thiên tai. Các lễ hội truyền thống mang đậm tín ngưỡng thờ các vị thần thiên nhiên, mong muốn mưa thuận gió hòa để mùa màng quanh năm tươi tốt. Sau đó là thời kì đồ đá, đồ đồng. Đặc biệt với trống đồng Đông Sơn, mặt trống gồm 9 vòng tròn đồng tâm chạm khắc trang trí, phản ánh toàn bộ đời sống thời Văn Lang- Âu Lạc. Ở giữa có ngôi sao 5 cánh. Có thể nói đây chính là đỉnh cao của mĩ thuật. 1.2. Giai đoạn thời Bắc thuộc Đây là thời kì mất chủ quyền, độc lập lâu nhất ở nước ta ( hơn 1000 năm). Nhân dân ta phải chịu ách áp bức nô lệ, quốc hiệu không có, tiếng nói không được công nhận. Nước ta chỉ là một quận của Trung Quốc. Thời kì này cũng chính là thời kì đấu tranh gay gắt nhất để bảo tồn bản sắc văn hóa Việt. Phong kiến Trung Quốc đã đồng hóa đất nước ta bằng cách xóa bỏ văn hóa nước ta, thiết lập trên nước ta nhiều thể chế chính trị, phong tục tập quán, các lễ nghi… Đạo nho.Đạo phật cũng tràn vào nước ta và nó đã ảnh hưởng tới cả những chế độ phong kiến nước ta sau này. Đây cũng chính là thời kì văn hóa khủng hoảng nhất nước ta. Bẳn sắc văn hóa tưởng chừng như không còn. Nhưng trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc không những chúng ta giữ gìn được bản săc văn hóa riêng của người Việt Nam mà còn tiếp thu được những tinh hoa văn hóa Trung Hoa để biến thành cái của riêng mình. Điều đó đã khẳng định sự vững chắc của văn hóa Việt và tạo đà cho sự phát triển sau này. 1.3 Kỷ nguyên văn hóa Đại Việt Trải các triều đại phong kiến, bản sắc văn hóa Việt Nam không những được giữ vững mà còn không ngừng phát triển. Nhiều lễ hội dân gian và phong tục tập quán ra đời. Nó khẳng định nét đặc thù riêng của văn hóa Việt Nam. 1.4 Văn hóa Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ Dưới thời Pháp thuộc, nước ta tiếp cận với xu thế mới, công thương nghiệp tương đối phát triển, tiếp thu văn hóa Tây Âu. Do chính sách đồng hóc của Pháp nhiều nét bản sắc riêng của dân tộc, con người Viêt Nam mất dần đi thay vào đó những nét hiện đại hơn. Chẳng hạn như: trang phục quần áo bà ba, áo tứ thân thay vào đó là quần âu, áo sơ mi…Đó là sự lột xác tất yếu để bản sắc dân tộc đứng vững và không ngừng phát triển. Mặc dù có sự thay đổi nhưng cái bản sắc, cái đặc thù riêng của dân tộc vẫn không thay đổi. 1.5 Xây dựng bản sắc văn hóa dưới thời kì mới (từ 1945 đến nay) Dưới cùng với sự phát triển đi lên của chủ nghĩa xã hội, và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam.Chúng ta luôn giữ gìn và phát huy cái bản sắc dân tộc, đưa nó lên một tầm cao mới, cái nhìn mới và có lí luận riêng. Có những chế độ chính sách, pháp lệnh rõ ràng để giữ gìn Dưới thời kì nào hay chế độ nào thì con người Việt Nam vẫn luôn luôn mang đậm nét người Việt Nam. Không một ai, và không một cái gì có thể thay đổi được bản sắc văn hóa dân tộc Việt. Và chắc chắn nó sẽ không ngừng được giữ gìn và phát huy hơn. 2-/ Tổng quan về văn hóa Việt Nam Việt Nam là đại gia đình các dân tộc anh em gồm 54 thành phần dân tộc khác nhau. Mỗi dân tộc mang một nền văn hóa riêng và chúng ta có 54 nền văn hóa mang bản sắc văn hóa riêng để hình thành một nền văn hóa Việt Nam thống nhất mang tính đa dạng và nhiều màu sắc phong phú. Văn hóa Việt ( Kinh ) là một nền văn hóa từ Bắc đến Nam, từ Trung Du đến Đồng Bằng, vùng ven biển đến hải đảo. Đó là một nền văn hóa đa dạng về chất liệu văn hóa địa phương của nó. Tất cả những nền văn hóa mang bản sắc riêng của các dân tộc Việt Nam đều xuất phát từ nền nông nghiệp truyền thống, từ những phong tục và tín ngưỡng thờ cùng tổ tiên, chiêm ngưỡng những thần linh giúp dân trong cuộc sống, những thần nhân cứu khổ cứu nạn cho con người và đi đầu trong việc khai phá vùng đất mới để mọi người sinh tồn. Bản sắc văn hóa dân tộc không mất đi nhưng nó không phải là phạm trù bất biến, nó có sự chuyển hóa nhất định để phù hợp với nhu cầu xã hội mới. Nền kinh tế du lịch hiện đại ở nhiều nước, nhấ là các nước Châu Á đã sử dụng và khai thác những bản săc văn hóa dân tộc ở nước mình để tạo thành những hiện thực du lịch trong tổ chức hiện đại của công nghệ và kĩ thuật tiên tiến. Ở Nhật Bản, người ta đễ nhận thấy bản sắc văn hóa Nhật ở các khu phố hiện đại nhất, đặc biệt là nhãn hiệu các sản phẩm, hàng hóa, hay cách trang trí trong các siêu thị, và trung tâm thương mại,… Bản sắc văn hóa dân tộc đó là linh hồn của sự phát triển mỗi dân tộc mà chúng ta cần phải đấu tranh giữ gìn và phát huy mạnh mẽ trong mối tương tác với quá trình hiện đại hóa, sự giao lưu chọn lọc với các nền văn hóa trên Thế giới. III-/ KHAI THÁC BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH VIỆT NAM 1-/ Vì sao phải khai thác bản sắc văn hóa dân tộc trong phát triển du lich Việt Nam Du lịch là một ngành kinh doanh mới được chú trọng phát triển trong mấy thập niên gần đây. Ở Việt Nam cũng vậy, du lịch chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Đây là một nghành kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn. Xu thế quốc tế hóa trong sinh hoạt văn hóa giữa cộng đồng và các dân tộc trên thế giới được mở rộng, dẫn tới việc giao lưu văn hóa, tìm kiếm những kiến thức về văn hóa nhân loại, về những miền đất lạ đã trở thành một nhu cầu cho nhiều tầng lớp dân cư trong xã hội. Du lịch không còn hoàn toàn là nghỉ ngơi giải trí đơn thuần (khôi phục và tái sản xuất sức khỏe khả năng lao động,…) mà còn là hình thức nghỉ ngơi tích cực có tác dung bổ sung tri thức, làm phong phú tinh thần đời sống con người. Đó chính là nội hàm của bản sắc văn hóa. Muốn phát triển du lịch phải có nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng. Phải có những công trình kiến trúc, phong cảnh thiên nhiên to lớn và đẹp thu hút khách, hoặc phải có những phong tục tập quán, lễ hội…đặc sắc. Chúng ta không có các kiến trúc hùng vĩ như tháp Ephen ở Pháp, tượng nữ thần tự do ở Mĩ hay Vạn Lý trường thành ở Trung Quốc,…chúng ta chỉ có một số điểm đáng chú ý như Vịnh Hạ Long, kinh đô Huế,…được xếp là di sản thế giới. Những cái đó quá ít và nhỏ bé để thu hút khách du lịch. Nhưng bù vào đó chúng ta có một nền văn hóa đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc với những phong tục tập quán, lễ hội, dân gian đặc sắc rất lôi cuốn khác. Vậy tại sao mình không khai thác thế mạnh của mình để kinh doanh du lịch. Mặt khác, xu hướng của thế giới hiện đại bước vào thế kỉ 21 là xu hướng du lịch sang Châu Á với bản sắc văn hóa dân tộc độc đáo. Vậy, khai thác bản sắc văn hóa dân tộc trong phát triển du lịch Việt Nam là điều tất yếu và cần có những định hướng cụ thể. 2-/ Khai thác bản sắc văn hóa trong kinh doanh du lịch ở Việt Nam như thế nào? Muốn phát triển du lịch ở nước ta phải đưa ra những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ du lịch đặc trưng riêng. Làm sao khi nói đến du lịch Việt Nam là khách du lịch nhớ ngay tới sản phẩm ấy, cũng như nhác tới Pháp là nhắc tới tháp Ephen, nhắc tới Hà Lan là nhắc tới hoa hồng, hoa tuy luýp…chúng ta phải lồng vào sản phẩm du lịch màu sắc hình ảnh, con người Việt Nam, phải tạo được ấn tượng riêng về dân tộc Việt Nam trong khách du lịch. Khách du lịch tới Việt Nam, họ tất thích bộ áo dài, thổ cẩm , tiếng đàn bầu, hoặc nghệ thuật múa rối…Chúng ta phải tạo được những tour du lịch đến các lễ hội dân gian, về các làng quê để khách du lịch tìm hiểu các phong tục tập quán cổ truyền,…chúng ta cũng phải khai thác lòng mến khách và lịch sử của con người Việt Nam. Những cái đó chính là khai thác bản sắc văn hóa dân tộc trong kinh doanh du lich ở Việt Nam. Khai thác bản sắc văn hóa dân tộc trong phát triển du lịch Việt Nam là một vấn quan tâm gần đây vì vậy sẽ không tránh khỏi những thác mắc sai lệch. Vì vậy đòi hỏi nhà du lịch phải có cách nhận thức đúng đắn về vấn đề sao cho khai thác có hiệu quả mà vẫn giữ gìn được bản sắc dân tộc, du khách có thể tìm hiểu được phong tục tập quán truyền thống mà không đi sâu quá vào lợi nhuận trong kinh doanh, gây ấn tượng đặc biệt cho du khách và để lại trong họ một cảm nhận sâu sắc về văn hóa và con người Việt Nam. CHƯƠNG II: MỘT SỐ TOUR KHAI THÁC BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC CỦA CÔNG TY TÂN ĐẠI PHÁT I-/ THỰC TRẠNG KHAI THÁC BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG DU LỊCH Văn hóa dân tộc Việt Nam ngày càng được bạn bè trên khắp thế giới biết đến, đặc biệt là khi có chính sách mở cửa. Thông qua các hoạt động hợp tác giao lưu văn hóa, nhất là các con đương du lich văn hóa, nghệ thuật dân tộc Việt Nam đã đến được với bạn bè xa gần và họ hết sức ngưỡng mộ yêu thích. Càng ngày, càng nhiều người đến du lịch ở Việt Nam với mục đích tìm hiểu, thưởng thức văn hóa nghệ thuật cổ truyền Việt Nam. 1-/ Các giá trị văn hóa chủ yếu đang được khac thác trong du lịch 1.1 Gía trị văn hóa vật thể Khác với một số nền văn hóa của nhiều quốc gia trên thế giới, văn hóa vật thể Việt Nam không có được bóng dáng uy nghi của Kim Tự tháp hay sự vững chãi, trường tồn như của Vạn Lý trường thành nhưng nó lại thu hút khách bởi nét uyển chuyển, hài hòa của các công trình kiến trúc, các hình tượng nghệ thuật độc đáo do bàn tay tài hoa của những người thợ tạo nên.Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam biểu hiện chất văn hóa của một quốc gia nông nghiệp, có nền “ dân gian- huyền thoại” và “ tôn giáo- thần bí ”. Trải qua năm tháng lịch sử, chúng ta may mắn được cha ông ta để lại cho một số lượng rất lớn các di tích lịch sử. Tiêu biểu là cố đô Huế, phố cổ Hội An, tháp Chàm, Chùa Một Cột, tượng phật chùa Tây Phương, đền Hùng…Đây là nguồn tài nguyên chính để khai thác kinh doanh trong du lịch. Đến với các di tích lịch sử Việt Nam, du khách sẽ được tận hưởng các giá trị văn hóa dân tộc chúa đựng trong đó. Trong những năm vừa qua, rất nhiều di tích được đầu tư sửa chữa đem lại khai thác. Nó đã góp phần cho du lịch phát triển qua các sản phẩm văn hóa du lịch đầy hấp dẫn. Mỗi di tích góp phần rất lớn trong việc đáp ứng yêu cầu tìm hiểu văn hóa, nâng cao hiểu biết của người nước ngoài đối với Việt Nam, đồng thời góp phần xây dựng ngân sách, tăng thu nhập ngoại tệ cho đất nước.Chính nguồn thu nhập hàng năm mà di thích mang lại cho ngành du lịch nói riêng và cho đất nước nói chung đã khẳng định tiềm năng to lớn của nó. 1.2 Gía trị văn hóa phi vật thể Du lịch Việt Nam không chỉ thu hút khách Du lịch Việt Nam không chỉ thu hút bởi các giá trị vă nhóa vật chất mà còn thu hút khách du lịch tới các giá trị văn hóa phi vật chất. Đó là loại hình nghệ thuật truyền thống như: tuồng, chèo, rối nước, hát ru, dân ca quan họ, hát sẩm, ca trù…hết sức độc đáo, là những nét đầy tính dân gian và huyền thoại của các lễ hội. Và điển hình nhất là đặc trưng về phong tục tập quán, tâm hồn cốt cách con người Việt. Trong sinh hoạt văn hóa cổ truyền, những hoạt động ca múa nhạc dân tộc mang bản sắc văn hóa, có tính đặc trưng của mỗi địa phương, mỗi vùng, mỗi dân tộc, đóng vai trò hết sức quan trọng. Đến với Hòa Bình, du khách không những được thăm cảnh núi rừng, thăm những bản làng dân tộc giàu lòng mến khách mà còn được thưởng thức những đêm “ văn hóa rượu cần” theo tục lệ trình tự mang đầy ý nghĩa của cuộc sống dân dã. Cùng với những bài hát, lời ca, điệu múa dân tộc Thái, dân tộc Mường, H’ mông, được mắt thấy tai nghe chiếc khèn phát ra hòa nhịp với điệu múa của chàng trai dân tộc. Hầu hết những nhạc cụ độc đáo, đều gây những bất ngờ thú vị cho du khách. Hệ thống các giá trị văn hóa phi vật thể của Việt Nam hết sức phong phú, đa dạng. Ở miền Bắc, khi có dịp về thăm một làng quê quan họ, hẳn du khách khó mà dứt ra được bởi bên núi non, đồng ruộng, sông, hồ thơ mộng, các liền anh, liền chị mời trầu, hát những nàn điệu dân ca nổi tiếng thấm đậm tình người để rồi khi chia tay đầy lưu luyến, ngậm ngùi. Đến với miền trung với xứ Huế mơ mộng, ngoài vẻ đẹp trầm tĩnh, cổ kính của các công trình kiến trúc, rực rỡ tinh hoa dân tộc, du khách khó mà bỏ qua được những điệu múa cung đình truyền thống hoặc tựa lưng trên mạn đò thả mình vào những làn điệu, lắng dịu thâm tình, dìu dặt vang vọng trên sông Hương kiều diễm, đậm đà hương sắc trầm tư xứ Huế. Đến với miền Nam, khách du lịch lại có cơ hội du ngoạn trên những dòng kênh rạch, len lỏi trong những miệt vườn đầy hoa trái Nam Bộ. Mỗi miền có một nét đặc thù riêng, trong mỗi miền lại chia thành các vùng với bản sắc của mình. Vì vậy, có thể nói các giá trị văn hóa phi vật thể của Việt Nam là miên man, vô tận. Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp. Phong tục tập quán cũng bị ảnh hưởng nặng của canh tác nông nghiệp. Mặc dù, nó rất lạc hậu nhưng lại gây những bất ngờ, thú vị cho du khách khi đến thăm các làng quê Việt. Đối với chúng ta, ai ai cũng biết con trâu, cái cày, người nông dân một nắng hai sương trồng lên cây lúa, nhưng với khách nước ngoài đó là một điều rất lạ. Đến đây họ được tắm trong những giếng đào, được sử dụng gáo dừa, chum đất nung. Họ cũng được tìm hiểu cảnh con trâu đi trước, cái cày theo sau, những cô gái Việt đội nón thẹn thùng trong bộ quần áo đơn sơ giản dị; cảnh nuôi tằm, dệt lụa, làm góm sứ, làm hàng thủ công mĩ nghệ với bàn tay khéo léo của con người Việt Nam. Những điều này, chắc hẳn du khách mới chỉ được thưởng thức ở Việt Nam. Nếu đem khai thác trong du lịch , nó sẽ góp phần không nhỏ trong sự phát triển toàn ngành. 2-/ Thực trạng khai thác các giá trị văn hóa trong du lịch Việt Nam 2.1 Những mặt đã làm được: Cùng với sự phát triển du lịch Việt Nam trong những năm qua, các giá trị văn hóa không ngừng được khai thác đem vào phát triển du lịch. Nhiều di tích được sửa chữa, nhiều tuyến điểm du lịch được thành lập. Đặc biệt, từ năm 1992 đến nay, cùng với sự nhạy bén của cơ chế thị trường, các di thích lịch sử, các loại hình nghệ thuật truyền thống được phát huy triệt để vào kinh doanh du lịch ở nước ta. Hầu như, mỗi vùng, mỗi tỉnh, thành phố đều có các di tích được bảo vệ, bán vé cho du khách tham quan. Đi kèm theo đó là biểu diễn nghệ thuật, ca múa nhạc dân tộc để thu hút khách như: Văn Miếu, Quốc Tử Giám. Nhiều lễ hội dân gian được phục hồi và phát triển như: lễ hội Chùa Hương, Đền Hùng…Ngoài những điểm tổ chức bán vé, nhiều nhà hàng, khách sạn cũng tổ chức phục vụ miễn phí trong khoảng thời gian nhất định. Đây cũng chính là hình thức phục vụ vui chơi giải trí cho khách. Mặt khác, ngành du lịch Việt Nam còn rất non trẻ, khối lượng các tour chưa nhiều, các dịch vụ còn ít nhưng thái độ phục vụ của nhân viên du lịch Việt Nam lại rất tốt, tạo được ấn tượng rất sâu sắc cho khách du lịch quốc tế. Phần lớn khách du lịch với Việt Nam đều đánh giá rất cao về lòng mến mộ, sự phục vụ tận tình, chu đáo của người Việt. Đó là do họ đã phát huy truyền thống cởi mở chân tình của dân tộc. Đây là dấu hiệu tốt về sự phát triển du lịch trong tương lai. Với không khí khẩn trương, nghiêm túc, trong một thời gian ngắn việc thiết lập kỉ cương các hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa đã đem lại cho lễ hội bầu không khí nghiêm trang vốn có, đem lại cho các dịch vụ kinh doanh trong lĩnh vực văn hóa một sự quy củ, trật tự. Người ta không còn thấy đâu cảnh chen lấn, xô đẩy, chèo kéo khách thay vào đó là một đội ngũ bảo vệ, phục vụ có tổ chức, có thái độ đúng mực. Những mặt làm được tuy còn rất ít nhưng nó đã đủ để thấy sự cố gắng vượt bậc của ngành du lịch nước nhà chuyển sang cơ chế thị trường lại chưa được chuẩn bị đầu đủ chắc chắn sẽ không tránh khỏi vấp ngã. Những gì chúng ta làm được là tương đối. Trong tương lai, hy vọng chúng ta sẽ gặt hái được nhiều thành công hơn. 2.2. Tồn tại Bên cạnh những gì đã làm được ở trên, du lịch Việt Nam cũng còn rất nhiều tồn tại cân giải quyết. Đó là việc tổ chức một số tuyến điểm du lịch đã bị thương mại hóa, làm méo mó nó, lai tạp vẻ đẹp truyền thống vốn có. Đành rằng đã là dịch vụ thì cần khai thác tối đa, nhưng nếu dùng các nhạc cụ độc đáo biểu diễn đôi ba bài cho qua chuyện, cốt chỉ kích thích tính hiếu kì, sự tò mò rồi bán những nhạc cụ đó cho khách và coi dó là mục tiêu chính thì quả là một điều tệ hại. Đi mỗi nơi, du khách đều muốn tìm những cảm giác mới lạ, những thú vị bất ngờ không chỉ từ những địa danh, những di tích thuần túy. Chính những nét văn hóa đặc trưng kia đã ghi dấu ấn quan trọng trong cả cuộc hành trình. Nhưng lựa chọn loại hình nào để phù hợp với nhu cầu, sở thích của khách, giữ gìn được giá trị nghệ thuật là việc cần được cân nhắc giữa núi rừng bạt ngàn hay không gian tĩnh lặng, thanh bình của một miền quê, chắc chắn du khách không thích thú gì khi phải nghe những lời ca, bản nhạc quốc tế ồn ào mà không phải những giai điệu thanh trầm của cây đàn bầu hay tiếng sáo trúc vút lên thánh thót. Từ đó, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam tươi đẹp mới thấm đậm và được lưu giữ mãi mãi trong lòng du khách với sự kính trọng và cảm phục. Việt Nam có 54 dân tộc với 54 màu sắc văn hóa khác nhau nhưng chỉ mới có văn hóa người kinh là khai thác phổ biến trong du lịch, còn các dân tộc khác đã khai thác nhưng còn ít. Văn hóa dân tộc tiểu số phía Bắc có văn hóa Mường, Thái, H’ mông, Dao…Dọc Trường Sơn và Tây Nguyên có vă nhóa Khơ Me. Tiềm năng văn hóa các dân tộc tiểu số là rất lớn nhưng việc khai thác nó là rất khó khăn. Do các dân tộc này nằm ở vùng sâu vùng xa, giao thông đi lại khó khăn. Trong tương lai khi mạng lưới giao thông phát triển đến từng thôn xóm, bản làng thì đây sẽ là nguồn tiềm năng phong phú của du lịch nước ta. Vấn đề nổi cộm nhất trong du lịch Việt Nam, có lẽ vẫn là công tác tổ chức, quản lí tại các tuyến điểm du lịch là những di tích, công trình nghệ thuật có giá trị cao mà không thể làm mới được, nếu có hư hỏng thì chấp nhận mất mát mà thôi. Mặt khác, đây là những nơi đòi hỏi không khí trang nghiêm, tôn trọng, ngưỡng mộ. Nếu khai thác lộn xộn, không có quy củ thì sẽ làm mất đi giá trị của nó. Từ khi có các chỉ thị của Chính phủ và đạc biệt là pháp lệnh du lịch ra đời gần đây đã chấn chỉnh công tác quản lý, tổ chức, bài trừ các tệ nạn. Nhưng công việc này đòi hỏi phải có thời gian lâu dài, một số nơi vẫn còn hiện tượng chèo kéo khách, nạn an xin mà khách quốc tế họ rất sợ, và một số luồng văn hóa độc hại đang hoành hành. Đây là mặt tồn tại rất lớn của du lịch Việt Nam. Những gì khai thác được mới chỉ là một phần rất nhỏ trong kho tàng vô tận đó. Nếu biết khai thác đúng lúc, đúng chỗ, chắc chắn du lịch Việt Nam sẽ tạo được một ấn tương đặc biệt cho du khách. Nhận xét Phát triển du lịch bản sắc văn hóa dân tộc có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bản sắc văn hóa là nội lực để du lịch khai thác và ngược lại, lợi nhuận từ du lịch dùng để đầu tư giữ gìn, tôn tạo bản sắc văn hóa. Trong những năm qua, bản sắc văn hóa được khai thác kinh doanh trong du lịch chưa nhiều, chưa xứng đáng với tiềm năng của nó. Sang thế kỷ 21, đây là hướng chính để phát triển du lịch Việt Nam, góp pần đưa du lịch Việt Nam ngang bằng với các quốc gia phát triển trên thế giới. II-/ TOUR DU LỊCH LỄ HỘI VỀ KHAI THÁC BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC CỦA CÔNG TY TÂN ĐẠI PHÁT ( LỄ HỘI ĐỀN HÙNG ) 1-/ Văn hóa Phú Thọ và thời Hùng Vương Phú Thọ được xem là vùng đất tổ, cội nguồn của dân tộc Việt Nam. Nơi đây Vua Hùng đã dựng nước Văn Lang – quốc gia đầu tiên của Việt Nam với thủ đô Phong Châu. Phú Thọ có nền văn hóa rực rỡ từ lâu đời. Những di tích khảo cổ văn hóa như: Sơn Vi, Đồng Đậu, Làng Cả, và nhiều đình, chùa, lăng, tẩm. Còn lại quanh vùng núi Nghĩa Lĩnh cho thấy đất Phong Châu là một trung tâm văn hóa của dân tộc Việt. Di tích lịch sử quan trọng là đền quốc mẫu Âu Cơ, khu di tích đền Hùng. Đây là vùng đất có nhiều lễ hội, đáng kể nhất là lễ hội giỗ tổ Hùng Vương ( 10/3 âm lịch ), hiện đã được nâng lên thành quốc giỗ.Về du lịch văn hóa tâm linh, Pú Thọ có 92 lễ hội truyền thống hằng năm rải rác trên không gian khắp 13 huyện, thị. Hầu hết nó đều gắn với thời đại Hùng Vương, trong đó đặc biệt lớn nhất là lễ hội đền Hùng. Hành trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam cũng là quá trình lắng đọng, bồi đắp những lớp phù sa văn hóa để làm nên độ dày của hệ thống thang bậc giá trị vật chất và tinh thần. Phú Thọ- Đất tổ Hùng Vương chính là vùng đất khởi đầu của những giá trị ấy, vùng đất hòa quyện giữa truyền thuyết và lịch sử. Trong sâu thẳm tâm thức của mỗi người dân đất Việt- Đền Hùng và giỗ tổ Hùng Vương từ bao đời nay đã trở thành văn hóa, tín ngưỡng, điểm hội tụ tinh thần đại đoàn kết cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Là nơi mà mỗi người dân Việt Nam đã quần tụ ở Đất Mẹ hay xa cách Tổ quốc muôn trùng cũng luôn hy vọng về với tấm lòng thành kính, tri ân công đức tổ tiên, thể hiện truyền thống đạo lý “ Uống nước, nhớ nguồn”. Các hoạt động văn hóa dân gian diễn ra sôi động và hấp dẫn trong thời gian lễ hội. Còn xét theo góc độ văn hóa Hùng Vương cũng là những người làm các nghề giỏi như: làm gốm, đóng thuyền, dựng nhà sàn…Nhưng giỏi hơn hết, người thời Hùng Vương thể hiện ở việc đúc đồng. Nhiều trống đồng Đông Sơn được đún với trình độ cao mà ngay cả bây giờ cũng vẫn còn là bí quyết mà không thợ làng nghề nào có thể so sánh được. Thời Hùng Vương dưới ánh sáng của các tài liệu khảo cổ học đã cho thấy một xã hội khá phát triển . Về mặt ẩm thực, người xưa không còn ở giai đoạn “ lấy bột cây mà ăn” nữa mà đã trồng lúa. Chính sự có mặt của hạt gạo nếp cũng phù hợp với truyền thống trong thời Hùng Vương là truyền thuyết bánh trưng bánh giầy. Về phục trang thì cư dân Hùng Vương đã biết dệt vải ( dấu vết vải gai tìm được trong mộ ), tìm được trong dọi xe sợi. Đới sống tinh thần hết sức phong phú, có ngày hội mà các chiến binh cầm vũ khí nhay múa quanh cây cột thiêng và đâm trâu, bò… Với những nét khảo cổ ngày một nhiều trong những năm gần đây,chúng ta lại càng thấy rõ nết hơn toàn cảnh một thời Hùng Vương, bố khuyết những những gì mà thư tịch và truyền thuyết chưa nói đến hay đính chính những gì chưa chính xác mà qua lăng kính huyền ảo của truyền thuyết đã bị khúc xạ. Bản sắc văn hóa và bản lĩnh Việt cũng đã định hình từ đấy, để rối trong phong ba bão táp của nghìn năm Bắc thuộc, vẫn không bị đồng hóa, để tiếp tục được hun đúc cao hơn trong thời kì độc lập tự chủ, là điều mà không phải tộc người nào cùng hoàn cảnh cũng đạt được. 2-/ Lễ hội dân gian 2.1. Phần lễ và phần hội Trong các các dạng tài nguyên nhân văn, lễ hội truyền thống là tài nguyên có các giá trị phục vụ du lịch rất lớn. Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tổng hợp bao gồm các mặt tinh thần và vật chất, tôn giáo tín ngưỡng và văn hóa nghệ thuật, linh thiêng và đời thường…là một sinh hoạt có sức hút một số lượng lớn những hiện tượng của đời sống xã hội. Như vậy, lễ hội là một hình thức sinh hoạt tập thể của nhân dân sau những ngày lao động vất vả, hoặc là dịp để mọi người hướng về sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước, hoặc chỉ đơn thuần là những hoạt động có tính chất giải trí. Do đó lễ hội có tính hấp dẫn cao đối với du khách. Bất cứ lễ hội nào cũng có hai phần chính : - Phần lễ ( hay còn gọi là phần nghi lễ ) : Tùy vào tính chất của lễ hội mà nội dung của phần lễ sẽ mang ý nghĩa riêng. Có thể phần nghi lễ mở đầu ngày hội mang tính tưởng niệm lịch sử hướng về một sự kiện lich sử trọng đại, tưởng niệm một vị anh hùng dân tộc. Cũng có thể phần lễ là nghi thức thuộc về tín ngưỡng, tôn giáo bày tỏ lòng tôn kính đối với các bậc thánh hiền và thần linh, cầu mong được những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Phần nghi lễ có ý nghĩa quan trọng và thiêng liêng, chứa đựng những giá trị văn hóa truyền thống, giá trị thẩm mĩ và triết học sâu sắc của cộng đồng. Nó mang trọn ý nghĩa hấp dẫn của cả lễ hội đối với du khách. Phần nghi lễ là phần hạt nhân của cả lễ hội. - Phần hội : Là phần tổ chức những trò chơi, thi đấu biểu diễn…Mặc dù cũng hàm chứa những yếu tố văn hóa truyền thống, nhưng phạm vi nội dung của nó không khuôn cứng mà hết sức linh hoạt, luôn luôn được bổ xung những yếu tố văn hóa mới. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy nơi nào bảo tồn và phát triển được những nét truyền thống trong phần hội với những trò chơi mang tính dân gian thì lễ hội nơi đó có giá trị hơn. Thông thường phần hội gắn với tình yêu, giao duyên nam nữ. Cũng có những lễ hội mà ở đó hai phần lễ và hội hòa quyện vào với nhau, trong đó trọng tâm là phần hội , nhưng bản thân phần hội đã mang trong mình ý nghĩa tâm linh của phần lễ. Như vậy, để tìm hiểu văn hóa Việt Nam, văn hóa làng xã cũng như văn hóa lúa nước, người ta có._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21452.doc