Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 50
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ QUẢN LÝ SAI LẦM CỦA CÔNG NHÂN
TRONG HOẠT ĐỘNG AN TOÀN TRÊN CÔNG TRƢỜNG
XÂY DỰNG VIỆT NAM
KS. Trịnh Minh Trí
Khoa Xây dựng, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung
Tóm tắt: Vấn đề an toàn lao động trong lĩnh vực xây dựng luôn đòi hỏi sự liên tục
quan tâm điều tra, nghiên cứu tìm kiếm nguyên nhân và đề ra giải pháp để làm
giảm thiểu thương tích cho người lao động, giảm thiệt hại cho công cụ, máy móc,
thiết bị; hạn chế sự c
8 trang |
Chia sẻ: huongnhu95 | Lượt xem: 805 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Tổng quan vấn đề quản lý sai lầm của công nhân trong hoạt động an toàn trên công trường xây dựng Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hậm trễ, ảnh hưởng uy tín của các bên tham gia dự án. Các
biện pháp quản lý an toàn lao động hiện nay trên công trường đều hầu hết dựa trên
các tiêu chuẩn TCVN về an toàn lao động và sản xuất, ngoài ra có thể tham khảo
thêm trong các tiêu chuẩn OSHA của Mỹ. Dựa trên hai thuật ngữ: (1) các nhân tố
gây ra sai lầm, (2) công tác quản lý các sai lầm trong mô hình giải thích nguyên
nhân gây ra tai nạn của Mitropoulos[1], nghiên cứu đã truy tìm ra những nhân tố
gây ra sai lầm nhằm đánh giá mức độ tác động của các nhân tố đó tới các sai lầm
của công nhân, giúp ban chỉ huy công trường tự đánh giá khả năng thực hiện công
tác an toàn lao động, từ đó đề xuất các biện pháp quản lý các sai lầm của công
nhân trong các công trình xây dựng ở Việt Nam. Phần này sẽ trình bày về lý do hình
thành và mục tiêu của nghiên cứu.
Từ khóa: Nhân tố gây ra sai lầm, quản lý an toàn.
1.1. Giới thiệu chung
Các số liệu thống kê cơ bản về
tình hình tai nạn lao động cho thấy, tình
hình tai nạn lao động ở Việt Nam trong
những năm gần đây không có chiều
hướng suy giảm. Số vụ tai nạn và số
nạn nhân vẫn còn ở mức cao. Theo
thống kê của Bộ Lao động – Thương
binh và Xã Hội trong 3 năm gần đây
cho thấy, số vụ có người chết năm 2011
giảm so với 2010, nhưng vẫn ở mức
bằng so với năm 2009.
Bảng 1. So sánh tình hình TNLĐ năm 2009, năm 2010 và năm 2011 [1]
TT Chỉ tiêu thống kê Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011
1 Số vụ 6250 5125 5896
2 Số nạn nhân 6403 5307 6154
3 Số vụ có người chết 507 554 504
4 Số người chết 550 601 574
5 Số người bị thương nặng 1221 1260 1314
6 Số lao động nữ 1152 944 1363
7 Số vụ có 2 người bị nạn trở lên 88 105 90
Trong đó, xây dựng hiện nay vẫn
đang là lĩnh vực có tỉ lệ tai nạn lao
động nghiêm trọng cao so với các
ngành khác.
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 51
Bảng 2. Tình hình tai nạn lao động 6 tháng đầu năm 2012
của Bộ Lao động – Thương binh và Xã Hội [1]
Nghề nghiệp
Tổng
số
Số vụ
có
ngƣời
chết
Số vụ có
2 nạn
nhân
trở lên
Số
ngƣời bị
nạn
Số
lao
động
nữ
Số
ngƣời
chết
Số ngƣời
bị thƣơng
nặng
Thợ khai thác mỏ và
xây dựng
106 39 9 117 4 44 25
Lao động giản đơn
trong khai thác mỏ,
xây dựng, công nghiệp
334 36 9 353 99 39 60
Thợ gia công kim loại,
cơ khí và các thợ có
liên quan
202 15 3 208 25 16 44
Thợ lắp ráp, vận hành
máy và thiết bị sản
xuất
288 9 1 289 49 9 61
Nguyễn Trọng Hải đã ước tính chi
phí của nhà thầu do tai nạn lao động thi
công xây dựng tại Tp. Hồ Chí Minh, kết
quả cho thấy thiệt hại do tai nạn lao động
trong ngành Xây dựng là rất lớn và tùy
thuộc vào quy mô công trình, mức độ
nghiêm trọng của vụ tai nạn, thiệt hại do
tai nạn lao động càng lớn khi tai nạn càng
nghiêm trọng [2].
Như vậy, có thể thấy vấn đề an
toàn lao động trong lĩnh vực xây dựng
luôn đòi hỏi sự liên tục quan tâm điều
tra, nghiên cứu tìm kiếm nguyên nhân
và đề ra giải pháp để khắc phục kịp thời
tình trạng trên.
1.2. Xác nhận vấn đề nghiên cứu
Với sự lên án của xã hội và áp lực
từ phía chủ đầu tư, các nhà thầu đã có
nhiều nỗ lực trong việc gia tăng phí vào
công tác quản lý an toàn lao động. Dựa
trên các lý thuyết và mô hình về an toàn
lao động, hiện nay các biện pháp quản lý
an toàn lao động trên công trường đều
hầu hết dựa trên các tiêu chuẩn TCVN về
An toàn lao động và sản xuất. Ngoài ra
có thể tham khảo thêm trong các tiêu
chuẩn OSHA của Mỹ. Những tiêu chuẩn
này tập trung vào biên pháp tự vệ, ngăn
chặn về mặt kỹ thuật để giảm thiểu rủi ro
tai nạn đến với người công nhân và được
tập trung chủ yếu ở 2 khía cạnh [3]:
- Quản lý chính sách, lập chương
trình an toàn để ngăn chặn những điều
kiện làm việc không an toàn [3].
- Đào tạo và nâng cao ý thức trách
nhiệm của công nhân để ngăn chặn
những hành vi không an toàn [3].
Với cách tiếp cận như vậy, có thể
thấy có những hạn chế sau:
- Quản lý ngăn chặn rủi ro đòi hỏi
sự tăng cường nỗ lực để giảm thiểu tai
nạn. Nếu như ta tiếp tận một cách chủ
động hơn thì có thể tránh các rủi ro về tai
nạn, giảm các tai nạn lao động mà không
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 52
cần tăng cường nỗ lực trong công tác
đảm bảo an toàn lao động.
- Càng tăng biện pháp, nỗ lực an
toàn thì càng tăng chi phí vào công tác an
toàn trong khi không tăng năng suất lao
động cho công việc. Như vậy, những yêu
cầu về điều kiện an toàn lao động sẽ nằm
trong thế đối lập với năng suất lao động
và chi phí bỏ ra.
- Sự thất bại trong việc nhận dạng
rủi ro gây tai nạn sẽ giới hạn tính hiệu
quả của các biện pháp ngăn chặn: có
nhiều trường hợp lẽ ra cần có biện pháp
ngăn chặn lại bị thiếu hoặc bị phớt lờ đi.
Có thể thấy, các biện pháp ngăn chặn
không thể chỉ ra tất cả các rủi ro gây ra
tai nạn được.
- Với cách nhìn nhận truyền thống
trên thì nguyên nhân gây ra tai nạn chỉ
được xem là lỗi của hệ thống quản lý an
toàn và nhận thức, thái độ về an toàn của
công nhân. Nó đã bỏ qua sự tác động của
công việc đã dẫn đến sự quyết định chấp
nhận rủi ro của người công nhân và thực
hiện hành vi không an toàn.
- Các cuộc điều tra nghiên cứu về
các tai nạn dựa trên cách tiếp cận trên chỉ
cho ta thấy được các hành vi được coi là
sai dẫn đến tai nạn lao động và trách
nhiệm pháp lý, không hiểu được sâu xa
về bản chất của tai nạn lao động.” [3]
Nhận thấy những khiếm khuyết của
các mô hình và cách nhìn nhận vấn đề
theo cách ở trên. Mitropoulos và cộng sự
đã đề xuất mô hình giải thích nguyên
nhân gây tai nạn lao động nhằm đưa ra
những biện pháp ngăn chặn tai nạn lao
động một cách hiệu quả. Theo mô hình,
Mitropoulos đã cho rằng, khả năng người
công nhân bị rơi vào tình huống nguy
hiểm là kết quả của: (1) hành vi thực hiện
công việc hiệu quả dẫn đến những thói
quen vi phạm nguyên tắc an toàn, (2) các
vi phạm đặc biệt, (3) những hành động ở
mức gần giới hạn về khả năng của người
công nhân, (4) những tình huống rủi ro
không được nhận diện. Tuy nhiên, tác giả
cũng cho rằng, sự rơi vào tình huống
nguy hiểm sẽ tạo ra nguy cơ gây tai nạn
nhưng không chắc chắn dẫn đến tai nạn
lao động. Nói cách khác, điều kiện không
an toàn và hành vi không an toàn không
đủ để gây tai nạn. Muốn tai nạn xảy ra,
thì yếu tố nguy hiểm phải được giải
phóng ra. Những sai lầm và sự thay đổi
trong điều kiện làm việc (errors &
changes in conditions) là nhân tố gây ra
sự giải phóng của yếu tố nguy hiểm.
Theo mô hình, những sai lầm và sự thay
đổi trong điều kiện làm việc trên chịu sự
tác động của 2 nhân tố: (1) các nhân tố
gây ra sai lầm, (2) công tác quản lý các
sai lầm [3].
Tuy nhiên, nghiên cứu của
Mitropoulos chỉ dừng lại ở việc đưa ra
khái niệm về hai nhân tố trên chứ không
đi sâu vào việc giải thích, phân tích cụ
thể các nhân tố gây sai lầm trong thực tế
là những nhân tố nào, và biện pháp quản
lý cụ thể nào được sử dụng để hạn chế
nó. Nghiên cứu này sẽ dựa trên hai thuật
ngữ trên trong mô hình giải thích nguyên
nhân gây ra tai nạn của Mitropoulos để
truy tìm những nhân tố gây ra sai lầm
nhằm đánh giá mức độ tác động của các
nhân tố đó tới các sai lầm của công nhân,
giúp ban chỉ huy công trường tự đánh giá
khả năng thực hiện công tác an toàn lao
động, từ đó đề xuất các biện pháp quản lý
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 53
các sai lầm của công nhân trong các công
trình xây dựng ở Việt Nam.
1.3. Các câu hỏi và mục tiêu của
nghiên cứu
1.3.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Các nhân tố nào gây ra sai lầm của
công nhân trong công trường xây dựng ở
Việt Nam?
- Hiện nay, trong thực tế các công
trường xây dựng ở Việt Nam có sử dụng
những biện pháp nào để quản lý sai lầm
của công nhân?
- Căn cứ vào sự đánh giá mức độ
tác động của các nhân tố gây ra sai lầm
của công nhân, những biện pháp nào cần
được đề xuất để đối phó?
1.3.2. Mục tiêu của nghiên cứu
- Xác định các nhân tố gây ra sai
lầm của công nhân.
- Dựa trên các nhân tố gây ra sai
lầm của công nhân, xây dựng bảng tham
chiếu giúp ban chỉ huy công trình tự đánh
giá thực trạng thực hiện an toàn lao động
trên công trường xây dựng.
- Xác định các biện pháp cần được
sử dụng để quản lý sai lầm của công nhân
phù hợp với thực trạng thực hiện an toàn
lao động thực tế trên công trường.
1.4. Đóng góp của nghiên cứu
- Giúp cho ban quản lý công
trường tự đánh giá thực trạng thực hiện
an toàn lao động trên công trường, từ
đó đưa ra những biện pháp quản lý phù
hợp để đối phó.
- Góp phần cho chủ đầu tư và nhà
thầu nhận thấy việc xác định, làm giảm
các nhân tố gây ra sai lầm của người
công nhân và tăng cường công tác quản
lý các sai lầm là những việc cần thiết để
góp phần làm giảm số lượng và mức độ
nghiêm trọng của các tai nạn lao động.
- Nghiên cứu xác định được các
biện pháp nhằm đối phó các các nhân tố
gây ra sai lầm của người công nhân, từ
đó góp phần tối ưu các giải pháp cho
chương trình an toàn lao động trên công
trường nhằm giảm thiểu thương tích cho
người lao động, giảm thiệt hại cho công
cụ, máy móc, thiết bị; hạn chế sự chậm
trễ, ảnh hưởng uy tín của các bên tham
gia dự án.
2.1. Tổng quan các nghiên cứu về an
toàn lao động
2.1.1. Trên thế giới
Các lý thuyết, mô hình đi tìm căn
nguyên gây tai nạn lao động được hình
thành nhằm mục đích đưa ra công cụ,
biện pháp, chương trình an toàn để ngăn
chặn tai nạn lao động xảy ra.
* Mô hình nguyên nhân gây tai nạn:
Heinrich đã đưa ra lý thuyết
Domino. Lý thuyết này xem 5 quân cờ
Domino là môi trường xã hội, lỗi của
con người, các hành động hay điều
kiện không an toàn, các tai nạn, các
chấn thương. Các quân cờ này sắp xếp
dây chuyền, nếu quân cờ này đổ thì
quân khác sẽ đổ theo cho đến khi quân
cờ tai nạn và chấn thương xảy ra. Tuy
nhiên, mô hình của Heinrich được đánh
giá là quá đơn giản sự kiểm soát hành
vi của con người trong việc gây ra các
tai nạn. Mặc dù vậy, nghiên cứu của
Heinrich đã là nền tảng của nhiều
nghiên cứu khác [4].
Peterson (1971) đã đưa ra mô hình
đa nguyên nhân. Theo mô hình này, một
tai nạn xảy ra là do nhiều yếu tố kết hợp
với nhau một cách ngẫu nhiên và gây ra
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 54
tai nạn. Bằng việc sử dụng lý thuyết này,
Peterson cho rằng các nguyên nhân gây
tai nạn sẽ được phơi bày. Giống như các
mô hình khác, Peterson nhấn mạnh
nguyên nhân gốc rễ phải được tìm ra mới
có thể cải thiện được hoạt động an toàn
và các nguyên nhân gốc rễ liên quan đến
hệ thống quản lý, các chính sách, thủ tục
quản lý, việc giám sát, huấn luyện[5].
* Lý thuyết về sai lầm của con người:
Rigby (1970) đã định nghĩa sai
lầm của con người là “tập hợp các hành
động của con người vượt qua giới hạn
cho phép” [6].
Theo đó, các mô hình ứng xử và
mô hình sai lầm của con người đã được
phát triển:
+ “Mô hình ứng xử coi con người là
nguyên nhân chính gây tai nạn” [7]. Các
đặc tính cố hữu trong con người làm cho
họ luôn có nguy cơ bị tai nạn cao hơn
người khác. Mô hình này có nhiều ý kiến
tranh luận đồng tình cũng như phản đối.
+ Mô hình yếu tố con người:
“tương tự như mô hình ứng xử, mô hình
này cho rằng sai lầm của con người là
nguyên nhân chính gây tai nạn” [7].
Các ý tưởng về xem xét các vấn đề kỹ
thuật liên quan đến con người được
tổng kết bởi Cooper và Volard như sau:
“ Các đặc điểm môi trường cực hạn và
sự quá tải trong khả năng của con người
là yếu tố tham gia vào tai nạn và sai lầm
của con người” [8].
Lý thuyết của Ferrel: là một mô
hình trung tâm của các loại mô hình yếu
tố con người. Theo lý thuyết này, sai
lầm của con người là do ba nguyên nhân
sau: sự quá tải, ứng xử không chính xác
do công nhân phải chịu một điều gì đó
bất thường, một hành động không chính
xác do công nhân không biết cách thực
hiện cho tốt hoặc do người này cố tình
nhận rủi ro [9].
+ Mô hình mô tả ứng xử công việc
của Rassmussen: theo Rasmussen, công
nhân có khuynh hướng dịch chuyển gần
về ranh giới của sự mất kiểm soát vì hai
áp lực căn bản: áp lực phải tăng hiệu quả
công việc và khuynh hướng giảm tối
thiểu công sức để tăng khối lượng công
việc [3]. Kết quả là “một sự dịch chuyển
một cách hệ thống tiến về phía ranh giới
của sự mất kiểm soát và khi vượt qua
ranh giới không phục hồi được, công
việc không còn được hoàn thành vì lỗi
của con người” [10].
Dựa trên mô hình của Rasmussen,
Howell đã nhận dạng 3 khu vực hoạt
động: vùng an toàn (safe zone) là vùng
mà các hành vi của công nhân nằm trong
giới hạn được xác định bằng các nguyên
tắc an toàn, vùng rủi ro (hazard zone) và
vùng mất kiểm soát [11].
Hình 1. Mô hình truy tìm căn nguyên gây
tai nạn ARCTM
Theo Abdelhamid tai nạn có cơ
hội xảy ra nếu có một hay nhiều lý do
sau đây [7]:
+ Không thể xác định được điều
kiện không an toàn tồn tại trước khi công
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 55
việc diễn ra hay được hình thành và phát
triển khi công việc đang diễn ra.
+ Vẫn tiếp tục làm tiếp công việc
mà đã được xác định là không an toàn.
+ Làm công việc không an toàn mà
không quan tâm tới môi trường làm việc.
Như vậy, Abdelhamid đã tiếp tục
nhận ra sự yếu kém trong công tác quản
lý, đào tạo và nhận thức của công nhân là
ba nguyên nhân căn bản dẫn đến tai nạn
lao động.
Mô hình nguyên nhân gây tai nạn
của Mitropoulos:
Hình 2. Mô hình của Mitropoulos [3]
“Các mũi tên trong mô hình thể
hiện mối quan hệ nguyên nhân hệ quả.
Theo mô hình, tính chất và số lượng các
tình huống nguy hiểm trong công việc
(hazardous situations) phụ thuộc vào các
nhân tố sau: tính chất của công việc và
bối cảnh, nỗ lực an toàn để kiểm soát
điều kiện làm việc, các điều kiện và công
việc không thể dự báo được. Hành vi
thực hiện công việc hiệu quả (Efficient
work behavior) được định hướng bởi: (1)
áp lực tạo ra sản phẩm và khối lượng
công việc làm tăng hành vi thực hiện
công việc hiệu quả; (2) khuynh hướng
thạo việc làm tăng hành vi thực hiện
công việc hiệu quả và (3) nỗ lực an toàn
để kiểm soát hành vi làm giảm hành vi
thực hiện công việc hiệu quả và giảm khả
năng rơi vào tình huống nguy hiểm
(exposures). Như vậy, khả năng bi rơi
vào tình huống nguy hiểm là kết quả của:
(1) hành vi thực việc hiệu quả dẫn đến
những thói quen vi phạm nguyên tắc an
toàn, (2) các vi phạm đặc biệt, (3) những
hành động ở mức gần giới hạn về khả
năng của người công nhân, (4) những
tình huống rủi ro không được nhận diện.
Tuy nhiên, sự rơi vào tình huống nguy
hiểm sẽ tạo nên nguy cơ gây ra tai nạn
nhưng không chắn chắn dẫn đến tai nạn.
Nói cách khác, điều kiện không an toàn
và hành vi không an toàn không đủ để
gây ra một tai nạn. Muốn tai nạn xảy ra,
thì yếu tố nguy hiểm phải được giải
phóng ra. Những sai lầm và sự thay đổi
trong điều kiện làm việc là nhân tố gây ra
sự giải phóng của yếu tố nguy hiểm.
Những sai lầm và sự thay đổi trong điều
kiện làm việc trên chịu sự tác động của 2
nhân tố: (1) các nhân tố gây ra sai lầm
của công nhân, (2) công tác quản lý các
sai lầm của công nhân.” [3]
Hình 3. Trích từ mô hình của Mitropoulos [3]
* Một số nghiên cứu về biện pháp cải
thiện an toàn lao động trong ngành
Xây dựng
A.R.Duff và cộng sự đã chỉ ra rằng
hành vi an toàn có thể được đánh giá một
cách khách quan và đáng tin cậy. Việc
đưa ra các mục tiêu, lấy ý kiến phản hồi
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 56
và sự quản lý ở công trường sẽ làm cải
thiện, nâng cao hiệu quả của việc thực
hiện an toàn lao động [12].
C.M.Tam và đồng sự đã kết luận
rằng việc đào tạo về an toàn, sử dụng
công nhân cơ hữu, điều tra lấy ý kiến
phản hồi sau mỗi tai nạn, chiến dịch
tuyên truyền thói quen thực hiện an toàn
là những công cụ hữu hiệu nhất để giảm
bớt những tổn thất do tai nạn xảy ra ở
công trường [13].
C.M.Tam và đồng sự đã khám phá
ra thái độ của nhà thầu trong công tác
quản lý an toàn là cực kỳ quan trọng bao
gồm việc cung cấp thiết bị bảo hộ cá
nhân, các cuộc họp thường xuyên về an
toàn và đào tạo về an toàn lao động.
Đồng thời tác giả cũng đã chỉ ra các nhân
tố chính ảnh hưởng tới sự thực hiện an
toàn bao gồm: nhận thức về an toàn của
ban quản lý, đào tạo về an toàn, nhận
thức về an toàn của giám đốc dự án, tinh
thần tự giác thực hiện, sự thận trọng
trong quá trình vận hành [14].
2.1.1. Ở Việt Nam
Đ.T.X. Lan và L.T. Văn đã đưa ra
các nguyên nhân chính gây nên tai nạn
bao gồm: (1) công nhân thiếu nhận thức
về tầm quan trọng của an toàn lao động;
(2) công nhân chưa được huấn luyện đầy
đủ và trang bị bảo hộ; (3) thang và giàn
giáo không phù hợp; thiết bị hư, cũ; (4)
công nhân thao tác thiếu an toàn[15].
Nghiên cứu của Trần Hoàng Tuấn
đã cho thấy đặc điểm nhân thân của công
nhân gồm: độ tuổi, giới tính, tình trạng
hôn nhân, trình độ học vấn, thời gian làm
việc trong ngành, sự gắn bó với công ty
thông qua thời gian theo làm việc, các
công việc thường làm hằng ngày, thói
quen hút hay uống rượu bia, việc được
huấn luyện an toàn có tác động đến tần
suất xảy ra tai nạn. Đồng thời, tác giả
cũng chỉ ra các đặc điểm của người quản
lý ảnh hưởng đến công tác an toàn gồm:
năng lực lãnh đạo, giám sát điều kiện an
toàn công trường, tinh thần trách nhiệm
và cam kết thực hiện an toàn, trình độ tổ
chức thi công, huấn luyện an toàn lao
động, trình độ và kinh nghiệm chuyên
môn, quy định và hướng dẫn việc thực
hiện an toàn lao động [16].
Kết quả nghiên cứu của Lưu
Trường Văn và cộng sự đã cho thấy tai
nạn lao động trong ngành công nghiệp
Việt Nam được gây ra do các nhân tố:
nguồn nhân lực không đạt trình độ, hành
vi không an toàn và sự quản lý yếu kém
[17].
Thực tế bản thân người lao động
nhận thức rất rõ rằng làm việc an toàn sẽ
không bị tai nạn và họ không bao giờ
muốn tai nạn xảy ra đến với mình [18].
Tuy nhiên, dưới áp lực của công việc,
khuynh hướng giảm thiểu công sức để
hoàn thành công việc và sự hiện diện
những công việc không thể dự báo trước
đã đẩy người công nhân vào làm việc
trong vùng nguy hiểm. Hơn nữa, những
sai lầm của công nhân xảy ra trong khi
thực hiện công việc là không thể tránh
khỏi, đặc biệt trong điều kiện làm việc
đầy phức tạp của ngành xây dựng. Vì
vậy, các nhân tố gây ra sai lầm của người
công nhân đòi hỏi phải được làm rõ, từ
đó các biện pháp quản lý các sai lầm phải
được đề xuất để đối phó với các tình
huống nguy hiểm.
Mặt khác, các nghiên cứu trước đây
chưa giúp ban chỉ huy công trình tự đánh
giá thực trạng thực hiện an toàn lao động
trên chính công trường của mình đồng
thời giúp họ bổ sung những biện pháp
quản lý để tối ưu hóa chương trình an
toàn. Đây cũng chính là hướng nghiên
cứu mới ở Việt Nam.
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Panagiotis Mitropoulous et al. 2005. "Systems Model of Construction Accident
Causation," ASCE.
[2] (25/12/2012) [Online]. HYPERLINK "
bao-2878-TB-LDTBXH-tinh-hinh-tai-nan-lao-dong-trong-6-thang-dau-nam-2012-
vb146069.aspx"
tinh-hinh-tai-nan-lao-dong-trong-6-thang-dau-nam-2012-vb146069.aspx
[3] N. T. Hải. 2010. “Ước tính chi phí của nhà thầu do tai nạn lao động trong thi công
xây dựng tại thành phố Hồ Chí Minh”.
[4] H. W. Heinrich. 1959. "Industrial accident prevention” - McGraw - Hill, New York.
[5] D. Peterson. 1971. "Techniques of safety management - McGraw – Hill”, New York.
[6] L. V. Rirby. 1970. "The nature of human error," Pro. Annu. Tech. Conf. Trans. of
the Am. Soc. for Quality Control, pp. 475-566.
[7] Tarig S. Abdelhamid et al. Jan 2000."Indentifying Root Causes of Construction
Accidents," ASCE.
[8] K. Cooper and S.V. Volard. 1978. "The influence of the individual on industrial
accidents," Accident Prevention, Torronto, pp. 45-49,
[9] H.W. Heinrich et al. 1980. "Industrial accident prevention", McGraw-Hill, New York.
[10] J. Rasmussen et al. 1994. "Cognitive system engineering ", Wiley, New York.
[11] G. Howell et al. Mar. 2003. "Rethinking Safety: Learning to Work near the Edge,"
Construction Research Congress, pp. 19-21.
[12] A.R. Duff et al. Jul. 1994. "Improving safety by the modification of behaviour"
,Construction Management and Economics, vol. 12, no. 1.
[13] C. M. Tam et al. 1998. Effectiveness of safety management strategies on safety
performance in Hong Kon, Construction Management and Economics, vol. 16, no. 1.
[14] C. M. Tam et al. Aug. 2004. Identifying elements of poor construction safety
management in China , Safety Science, vol. 42, no. 7, pp. 569-586.
[15] Lưu Trường Văn và Đỗ Thi Xuân Lan. Apr. 2002. Các vấn đề về an toàn lao
động trong thi công xây dựng tại thành phố Hồ Chí Minh, Hội nghị Khoa học và Công
nghệ lần thứ 8 - Đại học Bách Khoa TP.HCM, pp. 21-27.
[16] T. H. Tuấn. Jun. 2008. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện an
toàn lao động của công nhân xây dựng và đề xuất các giải pháp cải thiện tình trạng an
toàn trên công trường.
[17] Lưu Trường Văn et al. Oct. 2009. Factors affecting labor accidents in residential
construction projects, Hội nghị Khoa học và công nghệ lần thứ 11 - Đại học Bách
Khoa TP.HCM , pp. 285-290.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tong_quan_van_de_quan_ly_sai_lam_cua_cong_nhan_trong_hoat_do.pdf