ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
VŨ THỊ PHƯƠNG HUỆ
MSSV: DPN010717
TỔNG KẾT VÀ THEO DÕI MÔ HÌNH TRỒNG NẤM
RƠM TRONG MÙA LŨ NĂM 2004 TẠI XÃ
LƯƠNG AN TRÀ VÀ XÃ CÔ TÔ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ NGÀNH PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Ths. Nguyễn Thanh Triều
Ks. Trần Nhựt Phương Diễm
Tháng 6.2005
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP- TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
VŨ THỊ PHƯƠNG HUỆ
MSSV: DPN010717
TỔNG KẾT VÀ THEO DÕI MÔ HÌNH TRỒNG NẤM
RƠM TRONG
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3735 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Tổng Kết và Theo Dõi Mô Hình Trồng Nấm Rơm Trong Mùa Lũ Năm 2004 Tại Xã Lương An Trà và Xã Cô Tô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MÙA LŨ NĂM 2004 TẠI XÃ
LƯƠNG AN TRÀ VÀ XÃ CÔ TÔ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ NGÀNH PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Ths. Nguyễn Thanh Triều
Ks. Trần Nhựt Phương Diễm
Tháng 6.2005
2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP- TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
TỔNG KẾT VÀ THEO DÕI MÔ HÌNH TRỒNG NẤM
RƠM TRONG MÙA LŨ NĂM 2004 TẠI XÃ
LƯƠNG AN TRÀ VÀ XÃ CÔ TÔ
Do sinh viên: VŨ THỊ PHƯƠNG HUỆ thực hiện và đệ nạp
Kính trình Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp xét duyệt
Long xuyên, ngày……tháng….năm 200…
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Ths. Nguyễn Thanh Triều
Ks. Trần Nhựt Phương Diễm
3
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP - TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP- TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp thuận luận văn đính kèm
với tên đề tài: TỔNG KẾT VÀ THEO DÕI MÔ HÌNH TRỒNG NẤM
RƠM TRONG MÙA LŨ NĂM 2004 TẠI XÃ LƯƠNG AN TRÀ VÀ XÃ
CÔ TÔ.
Do sinh viên: VŨ THỊ PHƯƠNG HUỆ
Thực hiện và bảo vệ trước hội đồng ngày:……………………………
……..
Luận văn đã được hội đồng đánh giá ở mức:…………………………
……..
Ý kiến của Hội đồng:…………………………………………………
……...
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………
Long xuyên, ngày…..tháng…..năm 200…
DUYỆT Chủ Tịch Hội đồng
BAN CHỦ NGHIỆM KHOA NN-TNTN
4
TIỂU SỬ CÁ NHÂN
Họ và Tên: VŨ THỊ PHƯƠNG HUỆ
Con Ông: VŨ VĂN TÚ
và Bà: NGUYỄN THỊ SỆT
Sinh năm: 1983
Tại: Khóm Mỹ Quới, Phường Mỹ Phước, thị xã Long Xuyên, tỉnh An
Giang.
Đã tốt nghiệp phổ thông năm 2001 tại trường Phổ thông trung học
Long Xuyên, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
Vào trường Đại học An Giang năm 2001, học lớp ĐH2PN2 khoá 2,
thuộc khoa Nông nghiệp – Tài nguyên thiên nhiên và đã tốt nghiệp kỹ sư
ngành Phát Triển Nông Thôn năm 2005.
5
Hình
4 x 6
LỜI CẢM TẠ
Qua quá trình học tập cùng với thời gian thực tập tốt nghiệp, đến nay
em đã hoàn thành được luận văn tốt nghiệp để có thể kết thúc được một giai
đoạn học tập quan trọng của mình. Trong quá trình ấy để đạt được những kết
quả tốt ngoài sự cố gắng học tập của bản thân thì sự dạy bảo ân cần của thầy
cô, sự hướng dẫn tận tình của các anh chị nơi thực tập và sự động viên giúp
đỡ của gia đình, bạn bè cũng đã góp phần quan trọng giúp em vượt qua
những khó khăn trong học tập. Nhân đây em xin gửi lời cảm ơn đến:
Tất cả thầy cô khoa Nông nghiệp – Tài nguyên thiên nhiên đã dạy bảo,
truyền đạt cho em những kiến thức, kinh nghiệm trong học tập và nghiên cứu,
đặc biệt là thầy Dương Ngọc Thành, thầy Nguyễn Thanh Triều và cô Trần
Nhựt Phương Diễm đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp em sửa chữa những sai sót
để có thể hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp.
Anh Trần Nam Dương, chú Huỳnh Văn Dện ở xã Lương An Trà và
anh Phạm Văn Hiếu ở xã Cô Tô đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em để hoàn
thành tốt đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn
Vũ Thị Phương Huệ
6
TÓM LƯỢC
Đề tài được thực hiện với mục đích tìm hiểu quy trình kỹ thuật, hiệu
quả kinh tế cũng như những khó khăn - thuận lợi trong quá trình sản xuất
nấm rơm trong mùa lũ của những người dân ở hai xã Lương An Trà và Cô Tô
thuộc huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang để tổng kết và đánh giá hiệu quả của mô
hình trong việc cải thiện thu nhập của những người dân ở đây.
Theo dõi 3 hộ nông dân trồng nấm rơm ở xã Lương An Trà.Tiến hành
điều tra ngẫu nhiên 30 hộ trồng nấm rơm ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô.
Đa số chủ hộ có tuổi từ 18-60 tuổi chiếm 66,25%, các thành viên trong
gia đình có 63,6% tập trung dưới 18 tuổi. Trình độ văn hoá của chủ hộ ở cấp
1 chiếm 40% và trình độ văn hoá của các thành viên trong hộ chủ yếu ở cấp 1
chiếm 41,44%. Số nhân khẩu trong gia đình phần lớn từ 4-5 người/hộ.
Phần lớn số hộ có diện tích canh tác tập trung từ 50-200 mét mô
chiếm 41,4% và 80% nông hộ có kinh nghiệm trồng nấm nhỏ hơn 2 năm. Có
80% nông hộ nơi bố trí trồng nấm ngoài trảng và 20% nông hộ bố trí nơi
trồng nấm dưới tán cây. Số hộ xử lý nền trồng nấm chiếm 56,7%, nông dân
chủ yếu sử dụng giống meo Mười Cười và giống meo Thần Nông.
Trong các hộ điều tra có 33,3% hộ ủ rơm có đậy và 66,7% hộ ủ không
đậy. Số nông hộ bố trí dạng mô đơn chiếm 76,7% và hầu hết các hộ đều đậy
rơm áo và trở tơ. Số hộ sử dụng chất kích thích tố chiếm 76,67%, nông hộ sử
dụng nông dược chiếm 23,33%.
Có 80% nông hộ có ngày đầu tiên thu hoạch nấm vào ngày thứ 12 sau
khi chất nấm. Số hộ thu hoạch nấm 2 đợt/vụ chiếm 63,3%. Nấm rơm hầu hết
đều tiêu thụ tại chợ. Năng suất 0,6 – 1 kg/mét mô chiếm 46,6%.
Hiệu quả đồng vốn của mô hình nấm rơm là 2,44.
Nữ giới tham gia nhiều ở hoạt động bán nấm chiếm 60%.
Có 36,7% nông hộ cho rằng việc vận chuyển rơm xa làm tăng chi phí
là khó khăn chủ yếu của họ trong lúc trồng nấm rơm .
7
MỤC LỤC
Nội Dung Trang
CẢM TẠ i
TÓM LƯỢC ii
MỤC LỤC iii
DANH SÁCH BẢNG vi
DANH SÁCH HÌNH viii
Chương 1: GIỚI THIỆU 1
Chương 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2
2.1. Tình hình trồng nấm rơm trên thế giới 2
2.2. Tình hình sản xuất nấm rơm và những thuận lợi của nghề
trồng nấm ở Việt Nam
3
2.2.1. Tình hình sản xuất nấm rơm 3
2.2.2. Những thuận lợi trong việc phát triển nghề trồng nấm ở
Việt Nam
4
2.3. Giá trị dinh dưỡng, điều kiện ngoại cảnh và sự phát triển
của nấm rơm
5
2.3.1. Giá trị dinh dưỡng 5
2.3.1.1. Hàm lượng Protein 5
2.3.1.2. Hàm lượng chất béo 6
2.3.1.3. Hàm lượng đường 6
2.3.1.4. Hàm lượng chất khoáng 6
2.3.1.5. Hàm lượng Vitamin 6
2.3.2. Điều kiện ngoại cảnh và sự phát triển của nấm rơm 6
2.3.2.1. Điều kiện ngoại cảnh 6
2.3.2.2. Sự phát triển của nấm rơm 8
2.4. Kỹ thuật trồng nấm rơm 11
2.4.1. Thời vụ trồng nấm 11
2.4.2. Nền trồng nấm 12
2.4.3. Nguyên liệu trồng nấm 12
2.4.4. Meo giống 14
2.4.5. Nước tưới 15
2.4.6. Phương pháp sắp xếp mô và rải meo 15
2.4.7. Chăm sóc và tưới đón nấm 16
2.4.7.1. Tủ rơm áo và đảo rơm áo 16
2.4.7.2. Chăm sóc và tưới đón nấm 17
2.4.8. Thu hái, bảo quản và tiêu thụ nấm rơm 18
2.4.8.1. Thu hoạch nấm rơm 18
2.4.8.2. Bảo quản nấm rơm 19
2.4.8.3. Tiêu thụ nấm rơm 19
2.4.9. Sâu bệnh hại nấm rơm 20
8
Chương 3: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 23
3.1. Địa bàn nghiên cứu 23
3.2. Phương pháp 23
3.2.1. Phương pháp thu thập số liệu 23
3.2.2. Phương pháp tiến hành 23
3.2.3. Công thức tính 24
3.2.4. Phân tích thống kê 24
Chương 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 25
4.1. Giới thiệu về địa bàn nghiên cứu 25
4.1.1. Xã Lương An Trà 25
4.1.2. Xã Cô Tô 26
4.2. Thông tin chung về nông hộ 26
4.2.1. Tuổi của chủ hộ và các thành viên trong gia đình 26
4.2.2. Trình độ văn hoá 27
4.2.3. Số nhân khầu trong gia đình 28
4.3. Số mét mô chất nấm và kinh nghiệm canh tác nấm rơm 28
4.3.1. Số mét mô chất nấm của nông hộ 28
4.3.2. Kinh nghiệm trồng nấm 29
4.4. Thời vụ và nơi trồng nấm 30
4.4.1. Thời vụ trồng nấm rơm 30
4.4.2. Nơi trồng nấm 31
4.5. Loại meo trồng nấm 31
4.6. Số lần tưới nước trồng nấm của nông hộ 32
4.7. Kỹ thuật canh tác của nông hộ 33
4.7.1. Xử lý nền trồng nấm 33
4.7.2. Ủ rơm và cách nhận biết rơm chín 34
4.7.2.1. Ủ rơm 34
4.7.2.2. Cách nhận biết rơm chín 35
4.7.3. Dạng mô chất nấm rơm 36
4.7.4. Trở tơ sau khi chất 38
4.7.5. Hiện trạng sử dụng chất kích tố trong quá trình trồng nấm 38
4.7.6. Dịch hại nấm rơm và tình hình sử dụng nông dược 40
4.8. Thu hoạch 41
4.8.1. Ngày bắt đầu hái 41
4.8.2. Số đợt thu hoạch/vụ 42
4.8.3. Tiêu thụ sản phẩm 43
4.8.4. Năng suất nấm rơm trên 1 mét mô (kg/m) 44
4.9. Chi phí, thu nhập và lợi nhuận 45
4.10. Sự tham gia của nữ giới trong việc trồng nấm 46
4.11. Hiệu quả đầu tư và chi phí của mô hình canh tác 2 lúa-
nấm rơm tại xã Lương An Trà và xã Cô Tô
47
4.12. Thuận lợi và khó khăn trong quá trình trồng nấm 48
9
4.12.1. Thuận lợi 48
4.12.2. Khó khăn 48
4.13. Mô hình theo dõi 49
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 53
5.1. Kết luận 53
5.2. Đề nghị 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO 55
PHỤ CHƯƠNG pc-1
1
DANH SÁCH BẢNG
Bảng
số
Tựa Bảng
Trang
1
Điều kiện nuôi trồng nấm rơm (Trần Đình Đằng và Nguyễn
Hữu Ngoan, 2002)
8
2
Đặc điểm của meo nấm tốt và meo nấm xấu (Lê Ngọc Thạch
và Lê Đức Nam, 2001) 14
3
Ảnh hưởng của nhiệt độ lên nấm rơm (Trần Đình Đằng và
Nguyễn Hữu Ngoan, 2002)
20
4
Biện pháp phòng trừ tổng hợp khi trồng nấm rơm (Tài liệu tập
huấn, 2004)
22
5
Tuổi của chủ hộ và các thành viên trong gia đình ở xã Lương
An Trà và xã Cô Tô, năm 2004
27
6
Trình độ văn hoá của chủ hộ và các thành viên trong hộ ở xã
Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004
27
7
Số nhân khẩu trong gia đình ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô,
năm 2004
28
8
Vị trí nơi trồng nấm của các nông hộ ở xã Lương An Trà và xã
Cô Tô, năm 2004
31
9
Loại meo sử dụng trồng nấm rơm ở xã Lương An Trà và xã
Cô Tô, năm 2004
32
10
Tỉ lệ (%) số hộ có hoặc không đậy đống ủ ở xã Lương An Trà
và xã Cô Tô, năm 2004 35
11
Cách nhận biết rơm chín của nông hộ ở xã Lương An Trà và
xã Cô Tô, năm 2004
36
12
Dạng mô chất nấm rơm của những nông hộ ở xã Lương An
Trà và xã Cô Tô, năm 2004 36
13
Tỉ lệ (%) số hộ trở tơ ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm
2004 38
14
Tỉ lệ (%) số hộ bổ sung chất kích thích tố trong quá trình trồng
nấm rơm ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004 39
1
15
Tỉ lệ (%) số hộ thu hoạch nấm rơm vào ngày đầu tiên khác
nhau ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004 42
16
Số đợt thu hoạch nấm rơm trên 1 vụ ở xã Lương An Trà và xã
Cô Tô 42
17 Giá bán nấm rơm ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004 44
18
Chi phí, thu nhập và lợi nhuận của mô hình trồng nấm rơm ở
xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004 46
19
Sự tham gia của nữ giới trong quá trình trồng nấm rơm ở xã
Lương An Trà và xã Cô Tô 47
20
Hiệu quả đầu tư và chi phí của mô hình canh tác 2 lúa - nấm
rơm tại xã Lương An Trà và xã Cô Tô 47
21
Thuận lợi trong quá trình trồng nấm rơm của nông hộ ở xã
Lương An Trà và xã Cô Tô 48
22
Khó khăn trong quá trình trồng nấm rơm của nông hộ ở xã
Lương An Trà và xã Cô Tô 49
1
DANH SÁCH HÌNH
Hình
số
Tựa Hình
Trang
1 Chu trình sống của nấm rơm (Nguyễn Lân Dũng, 2003) 10
2 Sơ đồ tiến trình nuôi trồng nấm rơm (Lê Duy Thắng, 1997) 11
3
Số mét mô chất nấm rơm ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm
2004 29
4
Số năm kinh nghiệm trồng nấm rơm của các nông hộ ở xã Lương
An Trà và xã Cô Tô, năm 2004 29
5
Tỉ lệ (%) nông hộ có thời vụ bố trí trồng nấm rơm ở xã Lương An
Trà và xã Cô Tô, năm 2004 30
6
Số lần tưới nước trồng nấm trong ngày của các nông hộ ở xã
Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004 33
7
Tỉ lệ (%) số hộ có hoặc không xử lý nền trước khi chất nấm ở xã
Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004 34
8 Đống ủ không đậy, năm 2004 35
9 Mô đơn 37
10 Mô đôi 37
11
Tỉ lệ (%) số hộ có hoặc không sử dụng chất kích thích tố trong quá
trình trồng nấm ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004 39
12
Tỉ lệ (%) sự xuất hiện dịch hại khác nhau trên mô nấm rơm ở xã
Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004 40
13
Tỉ lệ (%) số hộ có hoặc không sử dụng nông dược trong quá trình
trồng nấm ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004 41
14 Phân loại nấm rơm trước khi đem bán 43
15
Năng suất nấm rơm trên 1 mét mô (kg/m) ở xã Lương An Trà và
xã Cô Tô, năm 2004
45
1
Chương 1 GIỚI THIỆU
An Giang nằm ở hạ lưu lưu vực sông Mê Kông lại có hệ thống sông
ngòi và kênh rạch chằng chịt, do đó bị tác động đầy đủ của các quá trình thuỷ
văn như ngập lụt, sụp lở đất bờ sông… Vào tháng 7 và tháng 8 hàng năm
thường có các nhiễu động nhiệt đới hoạt động hàng ngày mưa to và dài ngày
làm xuất hiện những trận lũ đầu mùa ở cả trung và hạ lưu sông Mê Kông.
Mỗi khi lũ về là người dân phải đối mặt với những thiệt hại không chỉ
về người mà còn về của, cuộc sống người dân gặp nhiều khó khăn do thời
gian nhàn rỗi thì nhiều mà họ lại không có được việc làm. Cho nên để giúp
cho người dân vẫn có thể sống hoà bình với lũ, vẫn có thu nhập ổn định trong
mùa lũ thì việc tìm ra các mô hình nuôi trồng thích hợp là rất cần thiết. Từ lợi
thế tỉnh An Giang có đa số người dân sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa , sản
phẩm phụ (rơm, rạ) từ quá trình trồng lúa là rất lớn cho nên việc đưa mô hình
trồng nấm rơm trong mùa lũ sẽ tận dụng phế phẩm cây lúa sau thu hoạch, tạo
ra sản phẩm mới, phù hợp với lao động nông thôn và khai thác lợi thế nhàn
rỗi trong mùa nước nổi. Do nấm rơm có thể trồng quanh năm, chi phí đầu tư
thấp, yêu cầu kỹ thuật không phức tạp, thu hồi vốn nhanh nên những người
dân nghèo ít vốn vẫn có thể áp dụng được. Có thể coi mô hình trồng nấm rơm
là một trong những mô hình để xoá đói giảm nghèo.
Do đó, đề tài “Tổng kết và theo dõi mô hình trồng nấm rơm trong
mùa lũ năm 2004 tại xã Lương An Trà và Cô Tô” được thực hiện nhằm
mục đích tìm hiểu qui trình kỹ thuật, những thuận lợi, khó khăn trong quá
trình sản xuất nấm rơm trong mùa lũ để tổng kết và đánh giá hiệu quả của mô
hình trong việc cải thiện thu nhập của người dân ở đây.
1
Chương 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
Nấm rơm là loại nấm khá quen thuộc của nhân dân các nước Châu Á,
nhất là Đông Nam Á, chủ yếu là vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nấm thường
mọc trên nguyên liệu phổ biến là rơm nên có tên chung là nấm rơm (Straw
mushroom) (Trung tâm UNESCO, 2004).
Nấm rơm (còn gọi là Nấm rạ, Thảo Cô) có tên khoa học là Volvariella
volvacea (Bull. Ex Fr.), thuộc họ Pluteaceae, bộ Agaricales, lớp phụ
Hymenomycetidae, lớp Hymenomycetes, ngành phụ Basidiomycotina, ngành
Nấm thật-Eumycota, giới Nấm-Mycota hay Fungi (Nguyễn Lân Dũng, 2003).
2.1. Tình hình trồng nấm rơm trên thế giới
Nấm rơm được trồng đầu tiên ở Trung Quốc sau đó được phổ biến
sang nhiều quốc gia Đông Nam Á và Bắc Phi (Nguyễn Lân Dũng, 2002).
Điều này về sau được xác nhận bởi các tác giả Philippines là Bammerito và
Espino (1936) và tác giả Thái Lan là Jalaricharana (1950) (Nguyễn Hữu
Đống và ctv, 2002). Các nước trên thế giới hiện nay tập trung nghiên cứu và
sản xuất nấm mỡ, nấm hương, nấm sò, nấm rơm là chủ yếu (Nguyễn Hữu
Đống và ctv, 2002). Nguyễn Lân Dũng (2003) cho biết sản lượng nấm rơm
sản xuất trên toàn thế giới là 250.000 tấn (1995), riêng Trung Quốc đã là
150.000 tấn (chiếm 60% sản lượng của thế giới).
Theo Nguyễn Hữu Đống và ctv (2002), thị trường tiêu thụ nấm lớn
nhất hiện nay là Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan, các nước Châu Âu... Hàng năm các
nước này phải nhập khẩu từ Trung Quốc (nấm muối và nấm đóng hộp). Tại
các nước này, do khó khăn về nguồn nguyên liệu và giá công lao động rất đắc
nên những người nuôi trồng nấm và kinh doanh mặt hàng này đang chuyển
dịch sang các nước chậm phát triển để mua nguyên liệu (nấm muối) và đầu tư
sản xuất, chế biến tại chỗ.
Ở Châu Á , trồng nấm mang tính chất thủ công, năng suất không cao,
nhưng sản xuất gia đình với số đông, nên tổng sản lượng rất lớn (Lê Duy
Thắng, 1997). Các nước ở khu vực Châu Á như Đài Loan, Trung Quốc , Thái
Lan,…nghề trồng nấm cũng phát triển rất mạnh mẽ, một số loại nấm ăn được
nuôi trồng khá phổ biến, đó là nấm mỡ (Agaricus bisporus), nấm hương
1
(Lentinus edodes), nấm rơm (Volvariella volvacea),…sản phẩm nấm được
tiêu thụ chủ yếu ở dạng tươi, đóng hộp, sấy khô và làm thuốc bổ (Nguyễn
Hữu Đống và ctv, 2002).
Nguyễn Lân Dũng và ctv (2002) cho rằng vấn đề nghiên cứu và sản
xuất nấm ăn trên thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ, nó đã trở thành một
ngành công nghệ thực phẩm thực thụ.
2.2. Tình hình sản xuất nấm rơm và những thuận lợi của nghề trồng nấm
ở Việt Nam
2.2.1. Tình hình sản xuất nấm rơm
Theo Việt Chương (2003) thì vào khoảng năm 1963, tại miền Nam
nước ta, phong trào trồng nấm rơm bắt đầu nở rộ khi meo giống nhân tạo ra
đời, nhập meo nấm rơm ở Đài Loan, Hồng Kông... Mặt khác, Nguyễn Hữu
Đống và ctv (2002) cũng cho biết chỉ hơn 10 năm trở lại đây, trồng nấm mới
được xem như là một nghề mang lại hiệu quả kinh tế. Các loại nấm ăn như:
Nấm sò, nấm rơm, nấm mộc nhĩ,… được trồng ngày càng tăng (đối với các
tỉnh phía Bắc) chủ yếu tiêu dùng nội địa. Ước tính trung bình một năm đạt
khoảng 100 tấn nấm tươi.
Theo Nguyễn Lân Dũng (2001), ở miền Nam nước có thể trồng quanh
năm các loại nấm rơm (Volvariella volvacea), nhiều loại nấm sò hay còn gọi
là nấm Bào ngư (Pleurotus spp.), mộc nhĩ hay còn gọi là nấm mèo
(Auricularia spp.). Và từ năm 1989 đến nay nhân dân các tỉnh Đồng Bằng
Sông Cửu Long đã tiếp thu kỹ thuật và trồng nấm rơm rộng rãi (Trần Đình
Đằng và Nguyễn Hữu Ngoan, 2002). Bên cạnh đó, Nguyễn Hữu Đống và ctv
(2002) cho biết sản lượng nấm rơm tăng theo cấp số nhân: từ trước năm 1990
mới đạt con số vài trăm tấn/năm đến nay đạt trên 40.000 tấn/năm. Các tỉnh
phía Nam đã và đang xuất khẩu nấm rơm muối đóng hộp với số lượng hàng
ngàn tấn/năm sang thị trường Đài Loan, Hồng Kông, Thái Lan...
1
2.2.2. Những thuận lợi trong việc phát triển nghề trồng nấm ở
Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước có đủ điều kiện để phát triển mạnh
nghề trồng nấm, do:
- Điều kiện thiên nhiên ưu đãi
Các tỉnh phía Nam do sự chênh lệch nhiệt độ giữa tháng nóng và
tháng lạnh không lớn lắm nên có thể trồng nấm quanh năm, lý tưởng nhất là
vào các tháng mùa khô từ tháng 11 đến tháng 6 dương lịch (Nguyễn Hữu
Đống, 2003; Việt Chương, 2001).
- Nguồn nguyên liệu rẻ và dồi dào
Nguyên liệu trồng nấm chủ yếu là các phế liệu nông, lâm nghiệp,
thường rất nhiều ở các địa phương, vừa giải quyết về mặt môi trường đồng
thời tạo nên sản phẩm mới. Phế phẩm sau khi trồng nấm còn có thể sử dụng
cho trồng trọt (Trung tâm UNESCO, 2004).
- Giải quyết lao động
Ở nước ta có lực lượng lao động nhàn rỗi khá đông đảo nhất là
trong lĩnh vực nông nghiệp, tính trung bình 1 lao động nông nghiệp mới chỉ
dùng đến 30 - 40% quỹ thời gian, chưa kể đến việc mọi lao động phụ đều có
thể tham gia trồng nấm được (Nguyễn Hữu Đống và ctv, 2002 – 2003). Do
vậy trồng nấm vừa tạo được công ăn việc làm vừa mang lại nguồn thu nhập
cho người dân.
- Đầu tư thấp, vòng quay nhanh
Ở nước ta còn nhiều hộ nông dân nghèo hoặc hoàn cảnh khó khăn,
không thể đầu tư vốn để nuôi trồng những cây con đắt tiền, quay vòng vốn
lâu,… trong khi đó vốn đầu tư cho sản xuất nấm rất ít so với các ngành sản
xuất khác (Nguyễn Duy Điềm và Huỳnh Thị Dung, 2003).
Chu kỳ nuôi trồng nấm thường rất ngắn (nấm rơm 20-25 ngày) khi gặp
thiên tai hoặc biến động của thị trường, vẫn kịp dừng sản xuất hoặc chuyển
hướng canh tác, điều này không đơn giản ở các loài cây trồng khác (Trung
tâm UNESCO, 2004).
1
- Giá trị kinh tế cao
Nấm rơm muối có giá bán trung bình từ 1.200 đến 1.300 đôla
Mỹ/tấn. Giá nấm rơm tươi tương đối ổn định và khá cao, trung bình 5.000-
10.000 đồng/kg, nếu vào ngày chay giá bán có thể tăng hơn.
- Tạo thêm nguồn thực phẩm
Việc trồng ra nấm để bán hoặc xuất khẩu sẽ phát sinh ra lượng nấm
thừa. Lượng nấm này thường không nhỏ. Đây là nguồn thực phẩm rất quý,
không những bổ sung cho khẩu phần ăn hàng ngày mà còn góp phần bảo vệ
và nâng cao sức khoẻ cho mọi người. Tóm lại, trồng nấm vừa tăng thu nhập
cho xã hội đồng thời giải quyết nguồn thực phẩm đang còn thiếu ở nước ta
(Trung tâm UNESCO, 2004).
2.3. Giá trị dinh dưỡng, điều kiện ngoại cảnh và sự phát triển của nấm
rơm
2.3.1. Giá trị dinh dưỡng
Nấm rơm là một trong những loại thực phẩm được nhiều người yêu
thích, nấm có thể chế biến riêng hoặc có thể phối hợp với các món ăn, các bài
thuốc và được xem như là một loại “rau sạch”, “thịt sạch” có tỷ lệ protein cao
và các acid amin (trong đó có nhiều loại axit amin không thay thế được),
không làm tăng lượng cholesterol trong máu như nhiều loại thịt động vật,
ngoài giá trị dinh dưỡng, nấm rơm có thành phần chất xơ tương đối cao và
thành phần lipit thấp nên có khả năng phòng trừ bệnh về huyết áp, chống
bệnh béo phì, xơ cứng động mạch, chữa bệnh đường ruột,…Tuy nhiên, nếu
nấm rơm quá già, chế biến không kỹ lưỡng, khi ăn số lượng nhiều dễ dẫn đến
ngộ độc (Nguyễn Hữu Đống và ctv, 2002).
2.3.1.1. Hàm lượng protein
Theo Nguyễn Lân Dũng (2003), nấm rơm không chỉ là loại thức ăn
ngon mà còn có giá trị dinh dưỡng cao, tính theo trọng lượng tươi nấm rơm
chứa 2,66-5,05% protein, trong protein này có đầy đủ 19 loại axit amin.
Trong 19 loại axit amin này có 8 loại axit amin không thay thế (nghĩa là cơ
thể người và động vật không tự tổng hợp lấy được). Các axit amin không thay
1
thế chiếm đến 38,2% trong tổng lượng axit amin ở nấm rơm, tỷ lệ này cao
hơn so với ở thịt bò, thịt lợn, sữa bò, trứng gà,...
2.3.1.2. Hàm lượng chất béo
Lượng chất béo (lipid) trong nấm rơm là vào khoảng 3% (tính theo
trọng lượng khô), loại chất béo bão hoà chiếm 41,2%, còn chất béo chưa bão
hoà chiếm 58,8% (Nguyễn Lân Dũng, 2003).
2.3.1.3. Hàm lượng đường
Ở nấm rơm, lượng đường tăng lên trong giai đoạn phát triển từ nút
sang kéo dài, nhưng lại giảm khi trưởng thành, hàm lượng đường trong nấm
rơm chiếm tỷ lệ khoảng 3-28% trọng lượng tươi, dự trữ ở dạng Glucogen (Lê
Duy Thắng, 1997; Nguyễn Lân Dũng, 2003).
2.3.1.4. Hàm lượng chất khoáng
Tương tự hầu hết các loại rau cải, nấm là nguồn khoáng rất tốt. Nấm
rơm được ghi nhận là giàu Kali, Calci, Phosphat, chúng chiếm từ 56-70%
lượng tro tổng cộng, Phosphat và sắt thường hiện diện ở phiến lá và mũ nấm.
Ở quả thể trưởng thành, thì lượng Na và P giảm, trong khi K, Ca giữ nguyên.
Ăn nấm bảo đảm bổ sung đầy đủ cho nhu cầu về khoáng mỗi ngày (Lê Duy
Thắng, 1997). Tỷ lệ từng nguyên tố trong tổng số muối khoáng ở nấm rơm
(%) thay đổi tùy vào từng giai đoạn phát triển của quả thể nấm.
2.3.1.5. Hàm lượng vitamin
Nấm rơm có chứa phong phú các loại vitamin, lượng vitamin có trong
100 gram nấm rơm tươi như sau: vitamin B1: 0,35 mg, vitamin B2: 1,63-2,98
mg, axit nicotinic (B5): 64,88 mg, vitamin C: 158,44-206,27 mg,…(Nguyễn
Lân Dũng, 2003).
1
2.3.2. Điều kiện ngoại cảnh và sự phát triển của nấm rơm
2.3.2.1. Điều kiện ngoại cảnh
- Độ ẩm không khí: Nấm rơm ưa độ ẩm không khí cao khoảng từ
80% trở lên. Nếu độ ẩm nhỏ hơn 80% nấm rơm sẽ sinh trưởng chậm (Nguyễn
Hữu Đống và ctv, 2002).
- Độ ẩm nguyên liệu: Độ ẩm tương đối trong nguyên liệu thường là
65-70% (Nguyễn Hữu Đống và ctv, 2002). Độ ẩm lên cao hơn có thể gây
yếm khí cho tơ nấm vì ôxy không phát tán được vào cơ chất, mà nấm lại rất
cần cho quá trình hô hấp. Độ ẩm xuống thấp, các chất dinh dưỡng khó hoà
tan làm nấm không thể hấp thụ, dần dần suy yếu đi (Nguyễn Hữu Đống,
2003).
- Nhiệt độ: Trong giai đoạn ủ tơ nhiệt độ thích hợp nhất là 25-35oC,
Khi thời tiết thay đổi đột ngột hoặc có gió lạnh thì phải che chắn cẩn thận, giữ
cho nấm không bị tác động bởi không khí bên ngoài (Lê Duy Thắng, 1997).
- Sự thông thoáng: Trong quá trình phát triển nấm rơm hô hấp mạnh
nên cần thông thoáng để có đủ ôxy nhưng chú ý không làm ảnh hưởng xấu
đến nhiệt độ và ẩm độ do nấm rất sợ gió lùa, gió mạnh làm lạnh và khô mặt
giá thể, tránh gió lùa trực tiếp (Tài liệu tập huấn, 2004).
- Ánh sáng: Nấm rơm mọc trong tối có màu trắng hoặc xám tro, nếu
tiếp xúc nhiều với ánh sáng nấm sẽ có màu đen đậm (Nguyễn Lân Dũng,
2003). Lê Duy Thắng (1997) cho biết vào giai đoạn ra quả thể nấm rơm cần
tiếp xúc với ánh sáng khoảng 15 – 20 phút trong khoảng từ 7 – 9 giờ thì rất
tốt cho những hoạt động biến dưỡng bên trong nấm.
- Độ pH: pH môi trường nấm rơm có thể phát triển tốt là 6-7,5. Vì
vậy cần lưu ý nước tưới cho nấm rơm phải là nước ngọt, không nhiễm phèn,
không nhiễm mặn, không nhiễm bẩn nhất là ô nhiễm thuốc sát trùng (Việt
Chương, 2003).
Nấm rơm rất nhạy cảm với điều kiện môi trường như nhiệt độ, ẩm độ,
ánh sáng. Sự ảnh hưởng của các yếu tố này đến các giai đoạn phát triển của
sợi nấm và giai đoạn phát triển của quả thể được trình bày ở bảng 1.
2
Bảng 1: Điều kiện nuôi trồng nấm rơm
Giai
đoạn
Yếu tố môi trường và ngoại cảnh Đặc điểm chú ý
Giai
đoạn
phát
triển sợi
nấm
Nhiệt độ trung bình (oC) 25 - 27 Sinh trưởng chậm khi
to < 25oC
Nhiệt độ tốt nhất (oC) 32 - 35 Ngừng phát triển ở
to > 35oC
Độ ẩm thích hợp (%) 80 - 85 Tránh nước mưa trực tiếp
Ánh sáng Gián tiếp Sinh trưởng chậm trong
bóng tối
Giai
đoạn
phát
triển quả
thể
Nhiệt độ trung bình (oC) 25 – 35 Không hình thành quả thể
khi to < 25oC
Nhiệt độ tốt nhất (oC) 27 – 30
Độ ẩm thích hợp (%) 85 – 90 Tránh nước mưa trực tiếp
Ánh sáng Gián tiếp Hình thành quả thể chậm
trong bóng tối
Nguồn: Trần Đình Đằng và Nguyễn Hữu Ngoan, 2002
2.3.2.2. Sự phát triển của nấm rơm
Theo Lê Duy Thắng (1997), hiện nay trên thế giới có khoảng 100 loài
nấm rơm, trong đó có khoảng 20 loài được ghi nhận và mô tả. Nấm rơm
(Volvariella volvacea) có đặc điểm sau:
- Nấm rơm không có khả năng quang hợp, có đời sống hoại sinh, dự
trữ đường dưới dạng glycogen, sinh sản chủ yếu bằng bào tử và lấy chất dinh
dưỡng thông qua màng tế bào sợi nấm…
- Tai nấm lúc còn non được bao trong vỏ bọc (Volva) từ dạng hình
cầu, dạng nút đến dạng trứng, dạng kéo dài. Khi trưởng thành, tai nấm sẽ xé
vỏ bọc và vươn mũ lên cao, bao gốc lúc này chỉ còn lại phần trùm lấy phần
gốc chân cuống nấm. Bao gốc là hệ sợi tơ nấm có chứa sắc tố melanin tạo ra
màu đen ở bao và độ đậm nhạt tuỳ thuộc vào ánh sáng nếu ánh sáng càng
nhiều thì bao gốc càng đen. Bao gốc đóng vai trò bảo vệ nấm tránh tia tử
ngoại, côn trùng, ngăn chặn sự thoát hơi nước của các cơ quan bên trong.
- Cuống nấm là bó sợi xốp dài từ 3-8 cm, đường kính 0,5-1,5 cm,
xếp theo kiểu vòng tròn đồng tâm, khi còn non thì mềm và dòn nhưng khi già
2
lại xơ cứng. Cuống nấm đưa mũ nấm lên cao để phát tán bào tử đi xa, đồng
thời vận chuyển dinh dưỡng cung cấp cho mũ nấm.
- Mũ nấm hình nón, cũng có melanin nhưng nhạt dần từ trung tâm ra
rìa mép. Khi mũ nấm nở ra, đường kính có thể đạt 8-15 cm. Phía dưới mũ
nấm có khoảng 280 đến 380 phiến xếp theo kiểu vòng tròn đồng tâm. Nguyễn
Hữu Đống và ctv (2002) miêu tả, phiến nấm lúc còn non có màu trắng, khi tai
nấm trưởng thành phiến chuyển sang màu hồng thịt, đó là màu của đảm bào
tử ở hai mặt phiến nấm, mỗi phiến có khoảng 2,5 triệu bào tử. Mũ nấm rất
giàu dinh dưỡng dự trữ, giữ vai trò sinh sản.
Quá trình sinh trưởng và phát triển của nấm rơm rất nhanh chóng, từ
những sợi nấm mỏng manh phát triển thành hệ sợi nấm còn gọi là hệ sợi dinh
dưỡng len lõi trong cơ chất lấy thức ăn, khi khối sợi đạt đến điều kiện thuận
lợi về số lượng sẽ bện lại thành quả thể nấm rơm (Lê Duy Thắng, 1997).
Theo Nguyễn Hữu Đống và ctv (2002), quá trình hình thành quả thể
nấm rơm gồm 6 giai đoạn:
- Giai đoạn đầu đinh ghim (Pichead: nụ nấm);
- Giai đoạn hình nút nhỏ (tiny butten);
- Giai đoạn hình nút (butten);
- Giai đoạn hình trứng (egg);
- Giai đoạn hình chuông (clogation: kéo dài);
- Giai đoạn trưởng thành (nature: nở xoè).
Vòng đời của nấm rơm cũng tương tự như các loài nấm trồng khác
nghĩa là bắt đầu từ các đảm bào tử và được xem là kết thúc khi hình thành tai
nấm hoàn chỉnh với khoảng thời gian từ 12-15 ngày (Lê Duy Thắng, 1997).
Chu trình sống của nấm rơm được thể hiện qua hình 1 cho thấy nấm
rơm có 2 chu trình sinh sản là chu trình sinh sản vô tính (sợi nấm thứ sinh →
sợi nấm và bào tử màng dày → bào tử màng dày chín → bào tử màng dày
nẩy mầm) và chu trình sinh sản hữu tính (tai nấm trưởng thành nở xoè → bào
tử đảm nẩy mầm → sợi nấm sơ sinh → sợi nấm thứ sinh → giai đoạn đầu
đinh ghim → giai đoạn nụ nấm nhỏ → giai đoạn nụ nấm → giai đoạn hình
trứng → giai đoạn kéo dài.
2
Hình 1: Chu trình sống của nấm rơm (Nguyễn Lân Dũng, 2003)
a – Chu trình sinh sản vô tính
b – Chu trình sinh sản hữu tính
1- Tai nấm trưởng thành nở xoè 7- Giai đoạn nụ nấm
2- Bào tử đảm nẩy mầm 8- Giai đoạn hình trứng
3- Sợi nấm sơ sinh 9- Giai đoạn kéo dài
4- Sợi nấm thứ sinh 10- Sợi nấm và bào tử màng dày
5- Giai đoạn đầu đinh ghim 11- Bào tử màng dày chín
6- Giai đoạn nụ nấm nhỏ 12- Bào tử màng dày nẩy mầm
2
2.4. Kỹ thuật trồng nấm rơm
2.4.1. Thời vụ trồng nấm
Theo Lê Duy Thắng (1997), nấm rơm rất dễ trồng, vòng quay nhanh,
tuy nhiên nguồn nguyên liệu trồng nấm chủ yếu là rơm rạ nên thường lệ
thuộc vào mùa vụ, thường liên quan đến ngày rằm, ngày chay, sau vụ mùa…
Cách trồng phổ biến hiện nay là trồng ngoài trời, trên khoảng sân trống hoặc
mặt ruộng. Những người mới học làm nên trồng vào mùa nắng, dễ chăm sóc
và ít bị hư hỏng do thời tiết.
Qui trình trồng nấm rơm ngoài trời có thể tóm tắt theo hình 2.
cấy meo giống
đốt mô (tùy phương pháp)
làm áo mô
theo dõi nhiệt độ
tưới nước
Hình 2: Sơ đồ tiến trình nuôi trồng nấm rơm (Lê Duy Thắng, 1997)
2
Giống gốc Chọn địa điểm trồng
Nguyên liệu
đã xử lý
Meo giống
Nguyên liệu khô
Chuẩn bị đất
Xếp mô
Nuôi ủ
Thu hái nấm
Tưới đón nấm
Làm ẩm
ủ đông
2.4.2. Nền trồng nấm
Khi chọn nơi trồng nấm phải chú ý đến hướng gió và nắng, tránh nơi
nhiều gió hoặc có biện pháp che chắn nhất là hai bên hông của luống nấm vì
gió nhiều sẽ làm mất nước và hạ nhiệt độ nhanh, ảnh hưởng đến sự tăng
trưởng của tơ nấm. Xếp mô nấm sao cho nắng sáng hoặc chiều có thể sưởi ấm
hai bên thành mô. Nền chất nấm không đậy thì tốt nhất tìm nơi có bóng râm
(Lê Duy Thắng, 1997).
Nền chất nấm nên chọn nơi cao ráo, không bị đọng nước. Tốt nhất nên
chọn trên nền đất có độ màu mỡ và có cây cối để che chắn gió và hàng rào
bảo vệ. Đánh rãnh trên nền chất nấm để thoát nước, đề phòng khi mưa to. Có
thể trồng ở các vùng bờ thửa, sân bãi có bóng cây che để tránh mưa xói trực
tiếp. Nền trồng trước đây có vương vãi thuốc sát trùng, hoặc xăng dầu thấm
sâu vào đất thì không nên trồng nấm rơm (Việt Chương, 2003).
Chọn nền gần nguồn nước ngọt và sạch (Việt Chương, 2003). Nền đất
phải chuẩn bị kỹ trước khi xếp mô, đầu tiên nên xới nhẹ lớp đất mặt, tưới
nước hoặc rải thuốc để đuổi côn trùng và diệt mầm bệnh (Lê Duy Thắng,
1997). Mùa mưa cần chọn những gò cao, ít ngập nước hoặc lên liếp để tránh
ngập úng làm chết tơ nấm. Mùa lạnh tốt nhất nên chọn những vị trí thấp, rãnh
cạn để chất mô nấm (Tài liệu tập huấn, 2004).
2.4.3. Nguyên liệu trồng nấm
Nấm rơm có thể nuôi trồng trên nhiều loại nguyên liệu khác nhau như:
rơm rạ, lục bình, mạc cưa, bã mía,…nhưng nguyên liệu trồng phổ biến hiện
nay vẫn là rơm rạ (Lê Duy Thắng, 1997). Năng suất nấm rơm sẽ cao hay thấp
tùy thuộc vào chủng loại rơm rạ, tình trạn._.g và chất lượng của nguyên liệu
(Tài liệu phát triển nông thôn mùa lũ, 2003). Nguyên liệu trồng nấm thường
phải khô nhưng không nên để mục nát hoặc mốc, sử dụng nguyên liệu hư
hỏng để trồng nấm không những không có năng suất cao mà đôi khi còn dẫn
đến thất bại, tốn công vô ích. Vì vậy, muốn dự trữ rơm rạ để trồng nấm thì
phải phơi khô, bảo quản tốt, chất rơm thành cây, che đậy cẩn thận để tránh
cho rơm không bị hư hỏng (Lê Duy Thắng, 1997). Nguyễn Duy Điềm và
2
Huỳnh Thị Dung (2002) cho biết năng suất trồng nấm liên quan đến rơm rạ
như sau:
- Rơm rạ của lúa nếp tốt hơn rơm rạ lúa mùa;
- Rơm rạ lúa mùa tốt hơn rơm rạ lúa ngắn ngày;
- Rơm rạ lúa mùa trồng trên đất phù sa tốt hơn trồng trên đất bón
phân chuồng; rơm rạ lúa bón phân chuồng tốt hơn lúa bón phân hoá học, đất
nhiễm phèn, nhiễm mặn;
- Rơm máy suốt tốt hơn rơm đập tay;
- Rơm rạ mùa trước tốt hơn rơm rạ mục, rơm rạ mới thu hoạch và
rơm rạ mốc.
Mục đích của việc ủ rơm là để rơm được phân hủy tạo điều kiện cho
nấm rơm phát triển nhanh hơn. Đống rơm ủ phải đạt kích thước bề ngang
khoảng 1,5-2 m, cao khoảng 1,5-1,7 m và bề dài tùy theo khối lượng rơm có
được. Thông thường đánh luống rơm cao 0,5 m có bề ngang khoảng 1,5-2 m
tưới nước đều và đạp qua một lần, có thể kết hợp tưới nước vôi với tỷ lệ 5%.
Lớp thứ hai cũng làm giống như lớp thứ nhất cho đến khi đống ủ đạt chiều
cao 1,5-1,7 m (Tài liệu phát triển nông thôn mùa lũ, 2003).
Thời gian ủ rơm tùy theo loại rơm rạ, trung bình khoảng 10 – 12 ngày
thì rơm đã chín (Tài liệu tập huấn, 2004). Sau khi ủ rơm từ 7 đến 10 ngày thì
tiến hành đảo rơm. Khi đảo trộn, phải đảo từ trên xuống, từ dưới lên, từ trong
ra ngoài và từ ngoài vào trong để đảm bảo độ đồng đều (Trần Đình Đằng và
Nguyễn Hữu Ngoan, 2002). Lúc đảo trộn chỉ cần dùng tay nén rơm mà không
dùng chân, dậm và bổ sung nước nếu thấy thiếu (Tài liệu tập huấn, 2004).
Rơm sau khi ủ phải đạt được yêu cầu sau: không bị mục hoặc không
quá dai, rơm có màu vàng sẫm hoặc có phấn trắng bám trên cọng rơm, đống ủ
có mùi thơm giống như nấm rơm, không có mùi hôi hoặc chua. Sau khi đảo
đống rơm ủ 4-7 ngày thì có thể tiến hành trồng nấm rơm (Tài liệu phát triển
nông thôn mùa lũ, 2003).
2
2.4.4. Meo giống
Giống để nuôi trồng là quan trọng nhất, quyết định năng suất nấm sau
này do đó cần mua giống ở những nơi có uy tính. Meo tốt có những sợi tơ
nấm màu trắng trong, mùi tương tự nấm rơm, tơ nấm phát triển đều khắp mặt
môi trường bịch meo. Meo xấu không nên sử dụng do có những đốm xanh
đen và vàng cam vì đã nhiễm nấm dại, meo có đáy bị ướt, nhão và có mùi
hôi, chua. Một bọc meo giống (khoảng 200g) có thể gieo 3-5m mô (tính theo
chiều dài mô), nếu mô cao thì rải nhiều lớp meo hơn (Tài liệu tập huấn,
2003).
Năng suất và chất lượng nấm rơm phụ thuộc rất lớn vào chất lượng
của meo nấm rơm, do đó Lê Ngọc Thạch và Lê Đức Nam (2001) đã đưa ra
những dấu hiệu để phân biệt giữa meo nấm tốt và meo nấm xấu như trong
bảng 4.
Bảng 2: Đặc điểm của meo nấm tốt và meo nấm xấu
Meo nấm tốt Meo nấm xấu
- Tơ nấm trắng trong, phát triển đều
trong bịch meo.
- Tơ nấm phát triển không đều
trong bịch meo, bên có tơ, bên
không có.
- Sợi tơ phát triển đều, không bị méo
hoặc không có chỗ đậm, chỗ lợt.
- Bịch meo có mùi chua hoặc mùi
nấm mốc.
- Tơ nấm non, suông, không đóng bện
lại như bông gòn.
- Sợi tơ phát triển không đều
trong bịch meo, bên nhiều, bên ít.
Tơ nấm phát triển theo hướng
xoắn, tơ không thẳng và mọc dày
đặc.
- Tơ nấm mọc đều từ cổ bọc meo cho
đến đáy bịch meo. Không thấy lẫn tạp
các loại nấm dại hoặc tơ nấm bị quá
già (đổi màu).
- Tốc độ phát triển của tơ không
đều: tơ mọc chậm hoặc không
mọc ở khoảng 1/3 bịch meo.
- Tơ nấm không bị lẫn lộn các màu
khác nhau như cam, đen, xám hoặc
xanh.
- Màu tơ lẫn tạp, có các màu lạ
như: đốm đen, đốm xanh, đốm
xám hoặc quá trắng đục.
Nguồn: Lê Ngọc Thạch và Lê Đức Nam, 2001
2
2.4.5. Nước tưới
Ta có thể dùng nước ruộng, nước ao hồ, sông suối để tưới nấm nhưng
phải là nước ngọt, không nhiễm phèn, không nhiễm mặn, không nhiễm bẩn
nhất là ô nhiễm thuốc sát trùng (Lê Duy Thắng, 1997).
Theo Việt Chương (2003), nếu tưới bằng nước phèn (kể cả rơm rạ ủ
ướt bằng nước nhiễm phèn trước khi đem xếp mô) thì tơ nấm vừa nảy nở ít
vừa phát triển chậm; có thể ngừng tăng trưởng và tai nấm cũng bị dị hình, sẽ
đem lại sự thất bại lớn. Còn nếu tưới nước bị nhiễm mặn thì tơ nấm phát triển
rất ít, vừa đổi màu vừa dị hình và cuối cùng không phát triển thành nấm.
Tưới nước cho mô nấm là dùng bình tưới có vòi bông sen tạo ra những
tia nước nhỏ như mưa, như vậy nước tưới dễ thấm đều vào mô, đồng thời
không làm hại những nụ nấm non vừa mới hình thành.
2.4.6. Phương pháp sắp xếp mô và rải meo
Bố trí chiều dài mô nấm sao cho vuông góc với hướng gió và song
song với hướng thoát nước.
Gói ém chặt rơm cuốn tròn như hình cái gối rồi xếp mô từng lớp, độ
dẽ chặt tùy theo độ chín mềm và độ ẩm của rơm (Tài liệu tập huấn, 2004). Và
để cho các bó nén chặt vào nhau nên leo lên luống vừa tưới nước vừa dậm
đạp từ chân lên đầu và ngược lại, lớp thứ hai cũng làm tương tự như lớp thứ
nhất nhưng thụt vào 5 cm (Lê Duy Thắng, 1997). Sau đó tưới nước, rải phân
hoặc phun thuốc trước khi rải meo. Xếp tiếp tục lớp rơm trên cùng khoảng
0,5 tấc rồi dùng hai tay và trọng lượng toàn thân đè lên mô nấm dọc theo
thành mô, vừa di chuyển vừa nhét cọng rơm lua tua ngoài luống vào và vuốt
quanh mô nấm cho láng để cho nước chảy xuôi xuống dễ dàng, không bị
đọng nhiều trong mô (Việt Chương, 2003).
Mô phải xếp nhỏ dần lên trên để dễ thoát nước, khoảng cách giữa hai
mô chừng 4-5 tấc để đi lại chăm sóc, thu hoạch. Mùa nắng chỉ nên chất mô
cao 4-4,5 tấc với 3 lớp rơm 2 lớp meo, mùa lạnh nên chất cao hơn để giữ ấm
và có thể xếp với 4-5 lớp rơm (Tài liệu tập huấn, 2004).
Meo nấm cho vào thau nhỏ, sạch và xé vụn ra (Lê Duy Thắng, 1997).
Lượng meo sử dụng khoảng 2,5 – 3m/1 chai meo (khoảng 150g). Có thể rải 1
2
đường meo ở giữa dọc theo mô hoặc rải meo cách bìa mô từ 5-10cm và cách
nhau 20cm (Việt Chương, 2003). Có thể rải 1 hoặc nhiều lớp meo tùy bề rộng
của mô trồng nấm. Sau khi rải meo xong, phủ lên 1 lớp rơm chín tốt, tưới
nước đều bằng thùng búp sen.
Nếu là rơm lúa mùa thì có thể bó lại thành bó hoặc xoắn thành bó đặt
chồng lên nhau. Đối với rơm lúa Thần Nông, các bó không phải gấp khúc mà
xếp sát vào nhau thành từng lớp. Đối với rơm suốt máy có thể vo thành cuộn
và xếp như các loại rơm bó nhưng tốt nhất vẫn là trồng bằng khuôn và nén
theo dạng khối (Lê Duy Thắng, 1997).
2.4.7. Chăm sóc mô nấm rơm
2.4.7.1. Tủ rơm áo và đảo rơm áo
Tùy theo trời nắng nóng nhiều hay ít ta cần phơi mô chừng 2-3 nắng
cho khô bề mặt nhằm tránh mốc tạp và tạo điều kiện để ủ tơ, không nên tưới
nước trong lúc này. Sau đó tiến hành phủ rơm áo để che phủ mô nấm rơm
khỏi bị nắng trực xạ, tránh được mưa gió tạt vào để giữ cho mô được ẩm và
đủ độ ấm, ngoài ra áo mô còn đóng vai trò quan trọng giúp mô nấm có điều
kiện tăng trưởng tốt (Việt Chương, 2003). Lớp áo mô thường làm bằng rơm
rạ tốt, sạch, không nhiễm tạp, dày 1 tấc (mùa nóng) và 2 tấc (mùa lạnh), lớp
áo mô được xếp theo 1 chiều, phủ theo kiểu lợp mái nhà (Nguyễn Hữu Đống
và ctv, 2002).
Sau khi tủ rơm áo mô mỗi ngày có thể tưới 2 lần vào lúc trời mát (buổi
sáng: lúc 7-8 giờ, buổi chiều: lúc 4-5 giờ), không nên tưới nước vào lúc trời
nắng gắt và để hạn chế nấm dại không nên tưới thừa nước ở giai đoạn này
(Việt Chương, 2003). Bên cạnh tưới nước thì kết hợp đảo trở áo mô (2-3
ngày/1 lần) vào buổi sáng hoặc chiều mát để tránh mô nấm ăn lan ra lớp mô
áo, không tạo được nấm. Cách đảo rơm áo có thể tiến hành như sau: dỡ lớp
rơm áo, xốc cho tơi và đậy lại ngay (Tài liệu phát triển nông thôn mùa lũ,
2003).
Ngoài ra, theo Lê Duy Thắng (1997) thì ta có thể đốt mô trước khi phủ
áo mô để vệ sinh mặt ngoài mô nấm, cung cấp thêm muối khoáng cho nấm,
2
sưởi ấm meo giống bên trong. Sau khi đốt mô xong phải để tiếp 1 thời gian
khoảng 5-6 giờ rồi mới làm áo mô.
2.4.7.2. Chăm sóc và tưới đón nấm
Tơ nấm phát triển đan thành mạng nhện bên hông mô và biến đổi từ
màu trắng sang màu vàng sậm, ngửi có mùi thơm đặc trưng của nấm rơm,
đến ngày thứ 7 hoặc 8 có thể phun thêm dinh dưỡng, cần kiểm tra và ém chặt
lại mô nấm không nên để mô nấm bị xốp. Nếu có nhiều nấm dại cần nhổ bỏ
sạch cả gốc, rắc vôi bột và làm thông thoáng để giảm ẩm (Lê Duy Thắng,
1997).
Nguyễn Hữu Đống (2003) cho biết lượng nước tưới 1 lần rất ít ( mỗi
ngày tưới 0,1 lít cho 1 mét mô), nếu tưới quá nhiều nấm dễ bị thối chân và
chết ngay từ lúc còn nhỏ . Vào mùa nắng gắt, nhiệt độ mô tăng cao nên tưới
nước để hạ nhiệt độ và bổ sung ẩm, ngược lại vào mùa lạnh hoặc trời mưa
nhiều cần giữ ấm và tưới nước ít hơn. Theo Lê Duy Thắng (1997), thời gian
nụ nấm lớn dần thành tai nấm chỉ nên tưới 1 lần trong ngày, tốt nhất là tưới
nước vào lúc xế chiều (bớt nắng). Nên tưới bằng vòi sen, tránh giọt nước tưới
mạnh làm hư tơ nấm hoặc nụ nấm.
Trong quá trình tưới nước có thể kiểm tra ẩm độ bằng cách rút 5-7
cọng rơm từ giữa mô nấm cho vào lòng bàn tay vắt thật mạnh: nếu nước chảy
ra thành từng giọt rơi xuống là dư nước, không được tưới thêm mà dỡ lớp
rơm áo ra để phơi mát (không nắng) khoảng 30 phút rồi đậy lại liền. Nếu
nước rịn ra nhưng không chảy thành giọt là đủ nước, không cần tưới thêm và
cũng không cần phơi mát. Nếu cảm thấy cọng rơm làm ẩm tay mà không thấy
nước nhỏ giọt cần phải tưới ngay (Việt Chương, 2003).
Nhiệt độ thích hợp ở mô nấm khoảng 34-35oC, và để kiểm tra nhiệt độ
thì có thể dùng tay áp vào thành mô hoặc đưa tay ngập sâu vào giữa lớp rơm,
nếu vừa đặt tay vào cảm thấy ấm dần là nhiệt độ thích hợp, ngược lại nếu
không thấy nóng hoặc phải ấn sâu vào hơn hay để lâu hơn mới nóng là do mô
nấm bị mất nước và lạnh cần phải che đậy kỹ hơn (Nguyễn Duy Điềm và
Huỳnh Thị Dung, 2003).
3
Khác với lúc ủ tơ, giai đoạn ra quả thể rất cần ánh sáng (Lê Duy
Thắng, 1997), cần thông khí cho nấm hô hấp và chiếu sáng cho nấm phát
triển. Mỗi sáng khoảng 8-9 giờ nên kết hợp thăm mô nấm và lấy áo mô ra để
thông khí, phơi trần mô dưới nắng 20-30 phút và nhờ ánh sáng nụ nấm sẽ
phát triển tốt hơn. Khi đậy áo lại nhớ trở áo rơm.
Khoảng 7-9 ngày sau khi chất nấm thì trên mô xuất hiện nấm con, cần
cẩn thận khi tưới nước bởi vì nấm con có nước dính trực tiếp sẽ rất dễ bị thúi
hay dộp (Tài liệu phát triển nông thôn mùa lũ, 2003). Nên hái nấm rơm ở
dạng trứng hoặc thu hoạch khi nấm vừa nhọn đầu để có năng suất cao nhất,
nên hái nhẹ nhàng cả cụm và sạch gốc nấm, không để sót lại trong mô, trong
thời gian thu hái và sau đó nên ngưng tưới nước 1-2 ngày để tơ nấm phục hồi
(Nguyễn Lân Dũng, 2003).
2.4.8. Thu hái, bảo quản và tiêu thụ nấm rơm
2.4.8.1. Thu hoạch nấm rơm
Tùy theo thời tiết trung bình khoảng 10 – 14 ngày sau khi cấy meo là
có thể hái nấm được. Quả nấm thu hoạch phải đảm bảo không bị nứt bao,
không bị xoè ô thì chất lượng mới tốt (Trần Đình Đằng và Nguyễn Hữu
Ngoan, 2002). Theo Nguyễn Duy Điềm và Huỳnh Thị Dung (2003), trên 1
mô nấm thời gian thu 1 đợt kéo dài 3-4 ngày, khi thu hết lần 1 thì 7-8 ngày
sau nấm lại ra lần 2 và hái trong 3-4 ngày là kết thúc 1 đợt nuôi trồng, thời
gian 1 vụ trồng khoảng 25-30 ngày.
Khi hái lựa các nấm búp hơi nhọn đầu (gần nứt bao) hái trước, xoáy
nhẹ tay tách gỡ ra khỏi mô. Không nên để sót lại chân nấm bị đứt trên mô vì
phần khi thối rữa sẽ làm hư các nụ nấm kế bên, thu hoạch xong đậy kỹ lớp áo
mô lại (Việt Chương, 2003). Nguyễn Duy Điềm và Huỳnh Thị Dung (2003)
cho rằng nấm hái ở giai đoạn trứng là lúc nấm có chất lượng và năng suất cao
nhất, trường hợp nấm mọc thành cụm có thể tách cây lớn hái trước, có thể hái
2-3 lần/1 ngày, vào những ngày nắng nóng và nhiệt độ không khí cao nấm
phát triển nhanh nên khi nấm hơi nhọn đầu là hái được.
3
Có thể thu hoạch nấm rơm liên tục trong 15-17 ngày (Nguyễn Lân
Dũng, 2003). Nấm sau khi thu hoạch xong đợt 1 cứ phơi trần 3-4 ngày, khỏi
cần tưới nước nhưng sau thời gian đó thì tưới trở lại bình thường khoảng 1
tuần lễ sau thì thu hoạch đợt 2 (Việt Chương, 2003). Thông thường người
trồng nấm để kinh doanh chỉ thu hoạch 2 đợt là thu dọn và xử lý đất, chuẩn bị
nuôi trồng đợt mới (Lê Duy Thắng, 1997).
Nấm rơm thường được hái làm 2 đợt: đợt đầu là đợt chính khá nhiều,
đợt hai là đợt phụ nên sản lượng chỉ bằng 1/4 đợt trước. Nguyễn Lân Dũng
(2003) cho rằng nên chia thời gian thu hoạch ra làm 2 lần trong ngày (sáng và
chiều) để có thể chọn được các nấm vừa tầm ưa chuộng của thị trường.
2.4.8.2. Bảo quản nấm rơm
Theo Việt Chương (2003) thì nấm rơm nở rất mau dù là khi hái ở dạng
búp nhưng khoảng 3-4 giờ sau nếu không bảo quản trong độ lạnh cần thiết thì
nó sẽ nở bung mũ nấm ra, vì vậy để giữ nấm được lâu thì có thể bảo quản
dưới dạng khô hay muối,…
- Bảo quản nấm rơm ở dạng khô: Rửa sạch nấm, để ráo hết nước,
dùng dao sắc cắt lát các thể quả nấm rơm để có được các khoanh nấm có kích
thước không mỏng hơn 0,5cm. Nếu trời nắng, đổ nấm ra nong và phơi 3-4
nắng là được. Nếu trời không nắng thì phải sấy ở nhiệt độ khoảng 40-50oC
(Nguyễn Lân Dũng, 2003).
- Bảo quản nấm rơm theo cách muối: ngâm nấm vào nước sôi
khoảng 10 phút, vớt ra rồi ngâm ngay vào nước lạnh khoảng 5 phút, lại vớt ra
rổ để cho ráo nước. Dùng chai keo hay lu khạp sạch ngâm nấm trong nước
muối có nồng độ 22%, thêm 1 chút axit citric sao cho nấm vừa ngập trong
nước muối là được (Việt Chương, 2003).
Với 2 cách bảo quản trên thì thời gian bảo quản của nấm khô có thể
được hơn 6 tháng và nấm muối cũng được vài tháng.
2.4.8.3. Tiêu thụ nấm rơm
Theo Việt Chương (2003), sau khi hái, nấm rơm vẫn tiếp tục phát
triển, nếu để sau vài tiếng nấm từ hình trứng nở ra hình dù, vì vậy cần thu
3
hoạch nhanh trong 3-4 giờ. Dụng cụ đựng nấm cần thông thoáng, không chất
đống nấm lên nhau. Muốn để nấm đến ngày hôm sau phải bảo quản ở nhiệt
độ 10-15oC.
Nấm rơm là loại thực phẩm ngon, bổ dưỡng nên được nhiều người ưa
thích nhất là đối với người Việt Nam - những người quen ăn nấm rơm hơn
các loại nấm khác (Nguyễn Duy Điềm và Huỳnh Thị Dung, 2003).
2.4.9. Sâu bệnh hại nấm rơm
- Bệnh sinh lý
Nấm rơm rất nhạy cảm với môi trường, cần lưu ý: nhiệt độ, ánh
sáng, nước tưới,thông thoáng,…
+ Nhiệt độ ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển và tăng trưởng
của nấm rơm.
+ Ánh sáng: có ảnh hưởng nhiều khi nấm từ hình cầu sang hình
trứng: nếu thiếu ánh sáng quả thể có màu trắng hay màu xám. Vitamin E sẽ
giảm hoàn toàn, vitamin D không có, sắc tố melanin (đen) không hình thành
(Tài liệu tập huấn, 2004).
+ Nước tưới: chi phối toàn bộ hoạt động sống của nấm rơm, nước
phèn làm nấm mọc chậm, thưa, đầu sợi nấm cong lại, tai nấm bị dị dạng, chết
non hay sùi lên; nước mặn làm tơ nấm đổi màu, dị hình và không tạo quả thể
(Nguyễn Hữu Đống, 2003).
Ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự phát triển của tơ nấm và quả thể được
tác giả Trần Đình Đằng và Nguyễn Hữu Ngoan đúc kết trong bảng 5.
Bảng 3: Ảnh hưởng của nhiệt độ lên nấm rơm
Thành phần Nhiệt độ Kiểu biểu hiện
Tơ nấm ≥ 40oC
≤ 15oC
≤ 25oC
Tơ nấm mọc chậm và thưa dần rồi chết
Tơ ngừng tăng trưởng và không mọc lại được
Quả thể hay tai nấm không tạo thành được
Quả thể 25 – 28oC
≥ 35oC
Tai nấm bị dị hình
Nấm mau trưởng thành (sớm bung dù)
Nguồn: Trần Đình Đằng và Nguyễn Hữu Ngoan, 2001
- Nấm bệnh
3
+ Nấm dại: nấm dại không xâm nhập từ meo giống mà từ nguyên
liệu (Việt Chương, 2003), do độ ẩm nguyên liệu quá cao (70%), giàu đạm urê
và hơi axit (<5). Loại này không gây hại nhưng cạnh tranh dinh dưỡng của
nấm rơm, cần điều chỉnh nguyên liệu lúc đem trồng, hạn chế tưới nước khi
chăm sóc (Nguyễn Hữu Đống và ctv, 2002).
+ Các loại nấm mốc như nấm xanh, nấm vàng,… là loại nấm nguy
hiểm, nguyên nhân có thể do nguyên liệu bị nhiễm bệnh từ trước, nhà xưởng
vệ sinh không sạch sẽ, khu vực nuôi trồng ẩm thấp, đã trồng nấm nhiều
lần,… (Nguyễn Hữu Đống, 2003). Cần bỏ những mô bệnh ra xa khu vực nuôi
trồng, đem chôn hoặc đốt để ngăn chặn bệnh lây lan (Nguyễn Duy Điềm và
Huỳnh Thị Dung, 2003).
- Động vật gây hại
Côn trùng phá hoại (chuột, gián, kiến, mối,…), chúng cắn phá sợi
nấm và ăn nấm, đào hang làm xáo trộn mô nấm, ăn giống nấm vừa cấy, gây
thiệt hại lớn (Nguyễn Duy Điềm và Huỳnh Thị Dung, 2003). Do đó nên xử lý
nền đất trước khi trồng như tưới nước, xới nhẹ, rắc thuốc diệt tuyến trùng như
Furadan, Mocap,… Khi tưới đón nấm, rắc vôi xung quanh mô (nếu trồng
dưới đất).
Trong quá trình nuôi trồng nấm rơm nên áp dụng các biện pháp phòng
trừ để hạn chế sự phát triển của mầm bệnh làm giảm năng suất và chất lượng
nấm, các biện pháp được trình bày trong bảng 4.
3
Bảng 4: Biện pháp phòng trừ tổng hợp khi trồng nấm rơm
Biện pháp Cách làm
Xử lý kỹ nền đất Xới nhẹ, phơi nắng, rắc vôi, thuốc, tưới nước. Định kỳ phải
thay đổi nền đất.
Xử lý nguyên
liệu
Tránh sử dụng nguyên liệu mốc, ẩm. Ủ đống to, đảm bảo
độ ẩm, pH, rơm chín đều, có mùi thơm dễ chịu, không có
mùi khai, hôi, màu nâu sẫm.
Xử lý áo mô Chọn rơm khô, sạch, phơi 2 nắng trước khi sử dụng đậy mô
nấm.
Giữ ấm mô Giữ nhiệt độ 35-38oC ở giai đoạn ủ tơ và 28-32oC ở giai
đoạn ra quả thể. Trời lạnh tủ thêm áo mô, trời nắng lấy bớt.
Giữ ẩm mô Tưới và kiểm tra độ ẩm 65-70% ở giai đoạn ủ tơ và 85-95%
ở giai đoạn ra quả thể.
Phòng bệnh Theo dõi thường xuyên để phát hiện bệnh. Diệt ngay nguồn
bệnh để tránh lây lan. Dọn vệ sinh và khử trùng sau mỗi đợt
trồng.
Nguồn: Tài liệu tập huấn, 2004
3
Chương 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Địa bàn nghiên cứu:
Để thỏa mãn mục tiêu nghiên cứu chúng tôi đã chọn địa bàn xã và các
hộ nông dân có trồng nấm rơm trong xã Lương An Trà và xã Cô Tô thuộc
huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang làm địa bàn nghiên cứu.
3.2. Phương pháp
3.2.1. Phương pháp thu thập số liệu
Thu thập số liệu thứ cấp:
- Số liệu thứ cấp của địa phương để biết có bao nhiêu hộ trồng nấm
rơm trong mùa lũ, các báo cáo tổng kết về kinh tế-văn hoá-xã hội năm 2004
tại xã Lương An Trà và xã Cô Tô.
- Số liệu về kỹ thuật trồng nấm rơm thông qua sách báo, báo cáo,
internet,…
3.2.2. Phương pháp tiến hành
- Điều tra ngẫu nhiên 30 hộ có trồng nấm rơm trong mùa lũ năm 2004
tại xã Lương An Trà và xã Cô Tô bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp dựa
theo phiếu điều tra.
* Nội dung điều tra:
Nội dung phiếu điều tra được trình bày chi tiết trong phụ chương,
gồm những phần chính sau:
+ Số mét mô chất nấm, số năm canh tác, kinh nghiệm trồng.
+ Kỹ thuật canh tác: thời vụ, giống meo, cách xử lý nguyên liệu
rơm, chọn địa điểm, cách xử lý nền, sắp xếp mô, chăm sóc, phòng trừ sâu
bệnh, thu hoạch, năng suất, tiêu thụ.
+ Hiệu quả kinh tế: ghi nhận chi phí sản xuất, tính toán hiệu quả
kinh tế.
- Theo dõi thường xuyên và ghi nhận qui trình kỹ thuật của 3 nông hộ
trồng nấm rơm trong mùa lũ năm 2004 tại xã Lương An Trà.
3
* Chỉ tiêu theo dõi:
+ Nơi trồng nấm.
+ Xử lý nguyên liệu: Tạo đống rơm ủ, cách ủ, đảo đống ủ, cách
nhận biết rơm chín.
+ Xử lý nền.
+ Xếp mô nấm.
+ Chăm sóc: Tưới nước, đảo áo rơm, kiểm tra độ ẩm, nhiệt độ.
+ Thu hoạch.
3.2.3. Công thức tính
Chi phí vật tư = chi phí rơm + chi phí dinh dưỡng + chi phí vôi + chi
phí meo + chi phí thuốc xử lý + chi phí xăng dầu
Chi phí lao động thuê = công chất lao động thuê + công chở nguyên
liệu lao động thuê
Chi phí lao động nhà = công chất lao động nhà + công tưới lao động
nhà + công hái lao động nhà
Chi phí tiền mặt = chi phí vật tư + chi phí lao động thuê
Lãi ngân hàng = tiền mặt x lãi suất ngân hàng (0,6)
Chi phí cơ hội = chi phí lao động nhà + lãi ngân hàng
Tổng chi = chi phí tiền mặt + chi phí cơ hội
Tổng thu = năng suất toàn vụ x giá nấm
Lãi thuần (RAVC) = Tổng thu - tổng chi
Hiệu quả đồng vốn có phí cơ hội = Lãi thuần (RAVC) : tổng chi
3.2.4. Phân tích thống kê
Nhập số liệu bằng phần mềm Microsoft Excel và xử lý số liệu bằng
phần mềm SPSS.
3
Chương 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Giới thiệu về địa bàn nghiên cứu
Huyện Tri Tôn là huyện miền núi của tỉnh An Giang, có vị trí địa lý
như sau:
- Bắc giáp huyện Tịnh Biên.
- Tây giáp Hà Tiên và một phần biên giới Campuchia.
- Nam giáp Hòn Đất (Kiên Giang).
- Đông giáp Châu Thành và Thoại Sơn.
Tri Tôn có địa hình đa dạng, vừa có đồi núi vừa có đồng bằng có đầm
lầy và nhiều kinh nhỏ (không có sông lớn chảy qua), là huyện đất rộng người
thưa, đất sản xuất còn nhiều hạn chế, hầu hết bị nhiễm phèn, nên sản xuất
nông nghiệp gặp nhiều khó khăn. Toàn huyện có 13 xã 1 thị trấn, có 55 ấp và
4 khóm. Trong đó 9 xã có người dân tộc Khmer, có 2 xã tiếp giáp biên giới
Campuchia chủ yếu sống cập theo tuyến kinh Vĩnh Tế (tỉnh lộ 55A).
- Diện tích tự nhiên: 59.805 ha (chiếm 17,56% diện tích tự nhiên của
tỉnh).
- Dân số: 116.585 người với 26.258 hộ (thống kê năm 2002). Trong
đó dân tộc Khmer là 44.618 người, chiếm 38,27% dân số toàn huyện; mật độ
dân số là: 195 người/km2.
Về mặt bằng sử dụng đất đạt 96,2% diện tích tự nhiên, sự phân bố dân
cư đến nay chưa đều khắp, chủ yếu tập trung thị trấn, thị tứ, triền núi, trình độ
dân trí còn thấp, nên tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật còn nhiều hạn chế.
4.1.1. Xã Lương An Trà
Lương An Trà là 1 xã nghèo nhất trong tỉnh An Giang nằm ở vùng sâu,
xa. Phần lớn diện tích của đất bị nhiễm phèn nặng, thường xuyên bị ngập
nước trong mùa lũ, thiếu nước trong mùa khô, đại diện cho vùng đồng bằng
chân núi. Hiện diện tích toàn xã là 8.485 ha, chiếm 14,14% diện tích huyện,
là xã có diện tích lớn thứ ba trong huyện Tri Tôn. Trong đó, đất nông nghiệp
4.830 ha; đất chưa sử dụng 244 ha, còn lại là đất ở, lâm nghiệp và đất chuyên
dùng.
3
- Xã Lương An Trà có 5.716 người với 1.116 hộ; trong đó có 311
người Khmer với 59 hộ.
- Diện tích đất nông nghiệp bình quân trên người là 0,74 ha.
- Diện tích đất nông nghiệp bình quân trên hộ là 4,6 ha.
- Cây trồng và vật nuôi chính: 1 vụ lúa/năm, năng suất thấp. Đàn bò
có 1.284 con (Võ Tòng Anh, 2003).
4.1.2. Xã Cô Tô
Xã Cô Tô nằm ở vùng sâu, xa. Phần lớn diện tích của đất bị nhiễm
phèn nặng, thường xuyên bị ngập nước trong mùa lũ. Diện tích toàn xã là
3.990 ha. trong đó đất nông nghiệp 3.101 ha; đất chưa sử dụng 184 ha, còn lại
là đất ở, lâm nghiệp và đất chuyên dùng.
- Xã Cô Tô có 9.144 người với 1.993 hộ; trong đó có 6.224 người
Khmer với 1.464 hộ.
- Diện tích đất nông nghiệp bình quân trên người là 0,33 ha.
- Diện tích đất nông nghiệp bình quân trên hộ là 1,56 ha.
- Cây trồng và vật nuôi: 2 vụ lúa/năm. Đàn bò có 1.965 con (Niên
giám thống kê huyện Tri Tôn, năm 2003).
4.2. Thông tin chung về nông hộ
4.2.1. Tuổi của chủ hộ và các thành viên trong gia đình:
Qua kết quả điều tra bảng 5 cho thấy độ tuổi của chủ hộ tập trung chủ
yếu ở 18-60 tuổi (chiếm 66,25%) đây là độ tuổi nằm trong tuổi lao động có
khả năng tiếp thu tốt các kỹ thuật canh tác và khả năng làm kinh tế. Chủ hộ
có tuổi trên 60 chiếm tỷ lệ thấp (18,27%), không có chủ hộ nào có tuổi dưới
18. Trung bình tuổi của chủ hộ là 42,27 .
Ngược lại, các thành viên trong gia đình có tuổi tập trung đa số dưới
18 (chiếm 63,6%) độ tuổi này chưa đến tuổi lao động chủ yếu đi học, phải
dựa vào gia đình, kế đến là số thành viên có tuổi từ 18-60 cũng chiếm tỷ lệ
khá cao (33,5%), số tuổi trên 60 chiếm tỷ lệ thấp nhất (2,9%). Trung bình tuổi
của các thành viên trong gia đình là 11,97.
3
Bảng 5: Tuổi của chủ hộ và các thành viên trong gia đình ở xã Lương An
Trà và xã Cô Tô, năm 2004
Nhóm Chủ hộ Thành viên trong gia đình
Tần suất % Tần suất (%)
< 18 Tuổi 0 0,00 133 63,60
18-60 Tuổi 28 66,25 70 33,50
>60 Tuổi 2 18,27 6 2,90
Tổng 30 68,18 209 100
Trung bình 42,27 11,97
4.2.2. Trình độ văn hoá
Kết quả điều tra về trình độ văn hoá của nông hộ được trình bày trong
bảng 8, cho thấy phần lớn người chủ hộ có trình độ văn hoá cấp 1 (chiếm
40%) với trình độ văn hóa này thì việc tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật là rất hạn
chế, trình độ văn hoá cấp 2 chiếm 36,67%, trình độ văn hoá cấp 3 chiếm
13,33% và số chủ hộ mù chữ chiếm 10%.
Các thành viên trong hộ có trình độ văn hoá cũng tập trung nhiều ở
cấp 1 (chiếm 41,44%) do ở nông thôn việc lo cho cái ăn đã vất vả nên việc lo
cho con cái đi học đến nơi đến chốn là điều rất khó khăn. Trình độ văn hoá
của các thành viên trong hộ thấp nhất (mù chữ) chiếm 2,7%. Trình độ văn
hoá cấp 2 chiếm 38,74% và trình độ văn hoá cấp 3 chiếm 17,12%.
Bảng 6: Trình độ văn hoá của chủ hộ và các thành viên trong hộ ở xã
Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004
Trình độ
văn hoá Chủ hộ
Thành viên
gia đình Tổng
Tần suất % Tần suất %
Tần
suất %
Mù chữ 3 10,00 3 2,70 6 4,26
Cấp I 12 40,00 46 41,44 58 41,13
Cấp II 11 36,67 43 38,74 54 38,30
Cấp III 4 13,33 19 17,12 23 16,31
Tổng 30 100 111 100 141 100
4
4.2.3. Số nhân khẩu trong gia đình
Kết quả bảng 7 cho thấy số người trong hộ từ 4 đến 5 người chiếm tỷ
lệ cao 73,33%, các hộ có số người trên 5 chiếm 26,67% và số người trong hộ
nhỏ hơn hoặc bằng 3 chỉ chiếm 33,33%. Trung bình số người trong 1 hộ là
4,33, như vậy khi trồng nấm rơm thì các hộ có thể tận dụng được nguồn lao
động gia đình, giảm được chi phí lao động thuê, làm tăng thêm thu nhập.
Bảng 7: Số nhân khẩu trong gia đình ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô,
năm 2004
Nhóm Tần suất %
=< 3 người 10 33,33
4 - 5 người 22 73,33
>5 người 8 26,67
Tổng 30 100
Trung bình 4,33
4.3. Số mét mô chất nấm và kinh nghiệm canh tác nấm rơm:
4.3.1. Số mét mô chất nấm của nông hộ:
Tùy theo đồng vốn bỏ ra nhiều hay ít mà số mét mô chất nấm của
nông hộ nhỏ hay lớn, với 1 công rơm có thể chất được từ 20-35 mét mô tùy
theo chất lượng rơm rạ. Qua hình 3 cho thấy phần lớn số hộ điều tra có số
mét mô tập trung từ 50–200 mét mô (chiếm 56,7%), số mét mô trồng chiếm
10% là trên 1000 mét mô. Đa số các hộ chất chủ yếu 50-200 mét mô bởi vì
phần lớn các hộ đều mới trồng nấm và chỉ trồng vài vụ trong năm, vốn ít, chủ
yếu bán cho các chợ nhỏ ở nông thôn.
4
56,7%
16,7% 16,7%
10%
0
10
20
30
40
50
60
50-200 240-380 400-800 >1000
Số mét mô chất nấm rơm
% nông
hộ
Hình 3: Số mét mô chất nấm rơm của các nông hộ ở xã Lương An Trà và
xã Cô Tô, năm 2004
4.3.2. Kinh nghiệm trồng nấm
Hầu hết nông dân ở xã điều tra đều là những người mới trồng nấm ít
kinh nghiệm. Qua hình 4 cho thấy hộ nông dân trồng nấm rơm có kinh
nghiệm nhỏ hơn 2 năm chiếm tỷ lệ cao (80%) so với số hộ nông dân có kinh
nghiệm trồng trên 2 năm (20%). Số hộ trồng nấm lớn hơn 10 năm chiếm tỷ lệ
thấp (7%). Phần lớn số hộ điều tra có ít kinh nghiệm trồng nấm rơm vì mô
hình này chỉ mới phổ biến ở xã. Bên cạnh những hộ bố trí trồng nấm rơm sau
vụ lúa, những hộ chuyên trồng nấm quanh năm thì trong 1 năm họ bố trí rất
nhiều vụ tùy theo điều kiện có được, tùy theo ngày rằm, ngày chay,…
0%
80%
6,67%6,67%3,33%3,33%
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
2 - 4 > 4 - 6 >6 - 8 > 8 - 10 >10
Năm trồng
% nông
hộ
4
Hình 4: Số năm kinh nghiệm trồng nấm rơm của các nông hộ ở xã
Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004
4.4. Thời vụ và nơi trồng nấm
4.4.1. Thời vụ trồng nấm rơm
Nấm rơm có thời gian trồng ngắn (khoảng 1 tháng) và có thể trồng
quanh năm, trong điều kiện tiêu thụ hiện nay, mùa vụ trồng thường liên quan
đến ngày rằm, ngày chay, sau vụ lúa,… ngoài ra trồng nấm rơm cần phải chú
ý đến thời tiết. Những người mới học nên trồng vào mùa nắng để dễ chăm sóc
và nấm ít bị hư hỏng do thời tiết. Từ kết quả hình 5 cho thấy trong các hộ
điều tra phần lớn đều tập trung trồng nấm rơm sau vụ trồng lúa chiếm 86,7%
cho thấy chỉ sau khi thu hoạch lúa xong thì họ mới có đủ nguồn vốn, nhân lực
và thời gian cho việc trồng nấm, những hộ trồng nấm rơm quanh năm chiếm
tỷ lệ thấp 13,3%. Những hộ trồng nấm rơm sau vụ trồng lúa vì họ có thể tận
dụng nguồn rơm sẵn có tại nhà, xin hoặc mua rơm ở các hộ lân cận nên giảm
chi phí đáng kể, đồng thời trong khoảng thời gian này họ có nhiều thời gian
để chăm sóc nấm, còn những hộ trồng nấm rơm quanh năm thì họ thường tận
dụng nguồn rơm sau vụ trồng lúa, tích lũy rơm hoặc mua rơm từ nơi khác.
13,3%
86,7%
cả năm
sau vụ trồng lúa
Hình 5: Tỉ lệ (%) nông hộ có thời vụ bố trí trồng nấm rơm ở xã Lương
An Trà và xã Cô Tô, năm 2004
4
4.4.2. Nơi trồng nấm
Nấm rơm có thể phát triển tốt và thích hợp ở nhiều nơi trồng khác
nhau, từ nơi có nhiều ánh sáng mặt trời (trồng ngoài trời) đến nơi không chịu
ảnh hưởng trực tiếp của ánh sáng mặt trời (trồng trong nhà). Hiện nay, cách
trồng nấm rơm phổ biến là ở ngoài trời, nếu có điều kiện đầu tư đảm bảo theo
yêu cầu công nghệ và nhất là sản xuất theo quy mô công nghiệp, người ta
trồng nấm rơm trong nhà theo công nghệ nhiệt sinh học (Tài liệu tập huấn,
2004). Trong các hộ điều tra được, phần lớn nông dân bố trí trồng nấm rơm
ngoài trảng (chiếm 80%), số còn lại bố trí ở dưới tán cây (chiếm 20%) để
làm giảm sự tác động trực tiếp của ánh nắng và mô nấm không bị khô. Kết
quả điều tra về bố trí nơi trồng nấm rơm của nông dân được trình bày trong
bảng 8.
Bảng 8: Vị trí nơi trồng nấm của các nông hộ ở xã Lương An Trà và xã
Cô Tô, năm 2004
Nơi trồng nấm Tần suất %
Ngoài trảng 24 80,00
Dưới tán cây 6 20,00
Tổng 30 100
4.5. Loại meo trồng nấm
Năng suất và chất lượng của nấm rơm phụ thuộc rất lớn vào chất
lượng của meo giống nấm rơm. Hiện nay, có rất nhiều loại meo được bán trên
thị trường như Thần Nông, Tư Sài Gòn, Mười Cười, Cửu Long,…nên người
trồng nấm hết sức lưu ý khi mua giống về sản xuất, đây là một trong các yếu
tố quyết định sự thành bại, nếu giống tốt năng suất nấm sẽ cao và ngược lại
(Nguyễn Hữu Đống và ctv, 2002). Từ kết quả bảng 9 cho thấy meo Thần
Nông được sử dụng nhiều nhất (chiếm 53,3%), kế đến là meo Mười Cười
(chiếm 40%), trong đó chỉ có 3,3% sử dụng meo Tư Sài Gòn và 3,3% không
biết tên giống meo sử dụng. Các hộ sử dụng meo Thần Nông và Mười Cười
nhiều vì đây là các loại meo mà xã giới thiệu khi được học tập huấn, được các
hộ trồng trước sử dụng. Khi bố trí trồng nấm, các hộ chỉ sử dụng duy nhất 1
loại meo và hầu hết đều không bi._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- XT1223.pdf