MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Bàn về vai trò của yếu tố thực tiễn đối với hoạt động nhận thức, Mác cho rằng “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lí khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lí luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lí”. Lênin cũng đã viết “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lí luận về nhận thức”. Như thế trong bất kì hoạt động nhận thức nào, yếu
161 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 384 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tóm tắt Luận án - Vận động tạo từ, tạo nghĩa của từ ngữ kinh tế trong tiếng Việt hiện đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tố thực tiễn cũng đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức đồng thời là thước đo giá trị của chân lí. Nhận thức rõ quan điểm này, từ trước đến nay những người làm công tác nghiên cứu khoa học không chỉ vận dụng khoa học để giải thích thực tế mà còn tác động đối với thực tế theo hướng phục vụ tốt cho đời sống con người. So với các ngành khoa học kĩ thuật, các ngành khoa học xã hội và nhân văn trong đó có ngôn ngữ học hướng tác động đối với thực tế thì có phần khó khăn hơn. Muốn tác động đến thực tế có kết quả cần phải có một hệ thống lý thuyết đúng đắn để chỉ đạo quá trình nghiên cứu. Ngành ngôn ngữ học Việt Nam trong những năm gần đây cũng cố gắng hướng các đề tài nghiên cứu gắn với thực tiễn Việt Nam. Nhiều công trình ngôn ngữ học đã ra đời giải quyết được những vấn đề ngôn ngữ trong đời sống xã hội cũng như những vấn đề ngôn ngữ của các ngành, các chuyên ngành khác nhau.
1.2. Sau khi đất nước thống nhất (1975), nhất là từ khi Đảng và Nhà nước ta bắt đầu công cuộc đổi mới (1986), đất nước ta đã có sự chuyển mình phát triển rõ rệt về mọi mặt. Với phương hướng chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, mở cửa giao lưu văn hóa, trao đổi kinh tế, từng bước hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, nhiều ngành kinh tế mới xuất hiện và phát triển, khơi dậy những tiềm năng, tiềm lực của đất nước. Bên cạnh những ngành kinh tế có tính chất truyền thống như nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng còn xuất hiện các ngành kinh tế thuộc khu vực dịch vụ như tài chính, du lịch, ăn uống, giải trí Sự thay đổi và phát triển về kinh tế đòi hỏi phải có những công dân kinh tế, lối tư duy kinh tế và hệ thống ngôn ngữ ngành kinh tế đáp ứng sự phát triển toàn diện của đất nước trong giai đoạn công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
1.3. Ngôn ngữ tồn tại, biến đổi và phát triển luôn gắn liền với sự biến đổi và phát triển của xã hội. Quy luật này cho thấy tiếng Việt phải thích ứng với sự phát triển của xã hội Việt Nam không những về chức năng xã hội mà còn cả về cấu trúc nội bộ. Chúng tôi nhận thấy trong quá trình phát triển toàn diện của đất nước, hệ thống từ ngữ trong các ngành kinh tế đang phát triển rất mạnh. Sự phát triển này nằm trong sự phát triển chung của hệ thống ngôn ngữ Việt. Hướng tới xây dựng hệ thống từ ngữ trong các ngành kinh tế đáp ứng nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế đó, chúng tôi mạnh dạn đi sâu xem xét và nghiên cứu vận động tạo từ và tạo nghĩa của từ ngữ ngành kinh tế. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu này, đề tài của chúng tôi hướng tới xác định những quy tắc điều khiển sự phát triển hệ thống từ ngữ, hướng tới lựa chọn, thống nhất, chuẩn hóa từ ngữ cho các ngành kinh tế và góp phần xây dựng từ điển từ ngữ mới ngành kinh tế.
2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Từ vựng là một hệ thống bao gồm hàng trăm vạn đơn vị lớn nhỏ khác nhau. Các đơn vị từ vựng này tồn tại trong mối quan hệ quy định lẫn nhau. Ngoài mối quan hệ về ngữ nghĩa trong hệ thống, các từ ngữ còn có những quan hệ với xã hội, lịch sử, người dùng... Chính những quan hệ này đã tách thành những lớp từ vựng khác nhau. Những từ ngữ thuộc khu vực kinh tế từ lâu đã họp thành một lớp từ vựng riêng. Đó là những thuật ngữ kinh tế, những từ nghề nghiệp cũng như những từ ngữ đời sống được sử dụng trong những văn bản kinh tế. Lớp từ vựng này có phạm vi sử dụng hạn chế về mặt xã hội tức là nó thường được những người trong ngành nghề nhất định nhận biết.
2.2. Các công trình nghiên cứu về từ vựng tiếng Việt từ trước đến nay phần lớn đều dành những trang viết về các thuật ngữ ngành kinh tế cũng như những từ ngữ được sử dụng trong văn bản kinh tế.
Trong công trình đầu tay của mình “Giáo trình Việt ngữ” tập 2 phần Từ hội học (1962), Đỗ Hữu Châu có xếp nhóm từ nghề nghiệp và thuật ngữ ở mục “Các lớp từ hội trong Việt ngữ”. Nhóm từ nghề nghiệp là nhóm từ có tính chất “dân gian”, được sử dụng trong những ngành nghề thủ công, cổ truyền như cày úp, cày ải, cày lật, cày vỡ, lúa nếp hoa vàng, lúa hương, lúa chiêm chanh, xếp ải (từ ngữ nông nghiệp); thợ cả, thợ bạn, dui, kèo, mè, bào, đục, mực, thước (từ của thợ mộc) ; chài, lưới, mối, giềng, nghề bông, nghề khơi, mảng, lưới te, lưới dạ, lưới vét (từ của nghề đánh cá); tầng, trục, ben, tớp máy, cặm(từ của công nhân mỏ). Đây là những từ có tính cụ thể, gợi hình ảnh cao. Nó là sự sáng tạo về ngôn ngữ của quần chúng nhân dân lao động. Nhiều từ ngữ sẽ được chuyển lên thành thuật ngữ khoa học kỹ thuật khi các ngành nghề này được công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Về các thuật ngữ khoa học, tác giả cũng đã thu thập và trình bày thuật ngữ của một số ngành khoa học kỹ thuật như Toán học (hình tròn, đường thẳng, mặt phẳng, góc, cạnh, biên), Vật lý, Hóa học (pit- tông, xi lanh, dung môi, dung dịch, điện phân, tích điện) và một số ngành khoa học xã hội khác (triết học, ngữ ngôn, thành tố, giá trị, kinh tế, ngoại giao, duy vật). Hai mươi năm sau, trong giáo trình “Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt” (1981), phần viết về từ nghề nghiệp và thuật ngữ khoa học kỹ thuật, tác giả đã tập hợp thêm những từ ngữ của ngành giấy, nghệ thuật hát bội, ngành văn thư Riêng ở phần viết về thuật ngữ, tác giả đưa ra một số từ ngữ của những ngành khoa học kỹ thuật mới xuất hiện như ngành dệt, ngành luyện kim đen, ngành sinh học: tai thỏ, đuôi lợn, mai rùa lò chõ, thép gió, thép hợp kim, cán, buồng lửa, buồng sinh khí, quặng thiêu kết, liệu sống, liệu chín , dập nóng tế bào, mô, gien, kháng thể, di truyền, tính trội, tính lặn v.v. Đồng thời tác giả cũng phân tích kỹ các đặc trưng của thuật ngữ và chỉ ra phương hướng xây dựng thuật ngữ khoa học tiếng Việt dựa trên tính hệ thống về ngữ nghĩa của kiểu cấu tạo từ tiếng Việt.
Nguyễn Văn Tu trong giáo trình “Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại” (1976) cũng đã nói đến và tập hợp các từ vựng thuật ngữ ở phần “Thuật ngữ và từ thường”, trong đó chú ý tới thuật ngữ của các ngành y học, hóa học, vật lý và một số ngành khoa học xã hội nhân văn khác như chính trị, triết học, kinh tế
Nguyễn Thiện Giáp trong giáo trình “Từ vựng học tiếng Việt” xuất bản năm 1985 đã dành một số trang nhất định để phân tích từ vựng tiếng Việt về mặt phạm vi sử dụng và mức độ sử dụng. Bằng phương pháp thống kê, phân loại tỉ mỉ, tác giả đã tập hợp một loạt các từ ngữ nghề nghiệp. Thuộc nghề nông có cày vỡ, cày ải, bón lót, bón thúc, gieo thẳng, gieo vãi, lúa chia vè, lúa con gái Thuộc nghề dệt có xa, ống, suốt, thoi, cữ, go, trục, gằm, guồng cửi, hồ sợi, lấy go, đánh ống Thuộc nghề làm trống có nạo da, văng da, néo, sảm, chạy mực, lại rủ Thuộc nghề sơn mài có bay, thép, đá ngói, nái, vét, xịt Thuộc nghề giấy có bìa, bo cánh, dó chuột, dướng dưới manh, giấy lệnh, giấy nến, giấy pháo bin, bồi vạc, cây ép cuốn, đòn cách nấu dó, nhặt bìa, ngâm bìa, kéo tàu tàu cúp, tàu dầm, tàu nở, tàu ráp, tàu trơn Đây là những tư liệu quý về từ ngữ của các ngành nghề cũng sẽ là những tư liệu cung cấp cho hệ thống thuật ngữ khi các ngành nghề này tiến lên công nghiệp và hiện đại. Ở phần thuật ngữ, bên cạnh việc nêu lên những đặc điểm cơ bản của thuật ngữ như tính chính xác, tính hệ thống, tính quốc tế, tác giả còn đưa ra những hiện tượng thiếu chính xác, thiếu tính dân tộc, thiếu thống nhất và chưa chuẩn mực của thuật ngữ khoa học Việt Nam. Trong giáo trình này, tác giả cũng đã dự báo xu hướng phát triển của từ ngữ mới và ý nghĩa mới – những sáng tạo ngôn ngữ của người sử dụng trên báo chí, đài phát thanh và các phương tiện thông tin đại chúng khác. Đó là những từ ngữ như chuyển giao công nghệ, cổ đông, cổ phần, cổ phiếu, cơ chế thị trường, kì phiếu, tiếp thị, thị trường
2.3. Tiếp nối các công trình nghiên cứu tiêu biểu về từ vựng tiếng Việt của các tác giả đi trước, hàng loạt các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học, các nghiên cứu sinh, học viên cao học, sinh viên đại học đã hướng các đề tài nghiên cứu của mình vào thực tế ngôn ngữ để xem xét, đặc biệt là sự nghiên cứu về những từ ngữ mới trong các ngành nghề hiện nay, trong đó có các từ ngữ ngành kinh tế.
Luận án tiến sĩ của Trần Nhật Chính “Sự phát triển của từ vựng tiếng Việt hiện đại (30 năm đầu thế kỉ XX: 1990 – 1930)” đã cho thấy bức tranh toàn cảnh về sự phát triển từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt cả về số lượng lẫn chất lượng trong một thời gian cụ thể 1990 – 1930. Công trình tiến hành phân tích, miêu tả các con đường cơ bản làm giàu vốn từ vựng nói chung, qua đó chỉ ra một số đặc điểm cơ bản về nghĩa, về mô thức cấu tạo của các từ ngữ mới.
Đặc biệt hệ thống những bài tham gia vào “Dự án điều tra cơ bản các ngôn ngữ ở Việt Nam, nhánh điều tra tiếng Việt giai đoạn 2001 – 2004, phần: Từ ngữ mới xuất hiện trên các báo” cũng đã bổ sung nguồn từ ngữ mới trên các lĩnh vực góp phần khẳng định sự biến đổi của ngôn ngữ như là quy luật tất yếu trong sự phát triển chung của đời sống kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa Việt Nam. Bài báo “Bước đầu nhận xét về cách sử dụng từ ngữ mới trên báo Nhân dân từ 1986 – 2000” của Bùi Thị Thanh Lương đã phân tích 1144 từ mới về nguồn gốc (từ thuần Việt, từ vay mượn) và cấu tạo (từ ghép, từ láy, từ đơn, cụm từ cố định) từ đó đưa ra một số nhận xét sơ bộ về mặt định lượng và định tính đồng thời chỉ ra nét riêng biệt, đặc điểm mang tính đặc trưng của báo Nhân dân. Bài báo “Một số nhận xét về cách sử dụng từ ngữ mới trong báo Sài Gòn giải phóng (qua các số báo phát hành từ năm 1985 đến nay)” của tác giả Chu Bích Thu, Nguyễn Thu Huyền cũng dựa trên các tiêu chí về nguồn gốc, phương thức cấu tạo và cách sử dụng từ ngữ trong Sài Gòn giải phóng để xem xét, phân tích 1212 từ ngữ mới. Cách khảo sát tư liệu và những tiêu chí chủ đạo trong việc phân tích và miêu tả tư liệu như trên cũng được áp dụng cho hàng loạt bài báo tham gia dự án này như “Một số nhận xét về cách sáng tạo và sử dụng từ ngữ mới trên báo Hà Nội mới” của Chu Bích Thu và Ngô Thị Thu Hương, “Một số nhận xét về cách sử dụng từ ngữ mới trên tư liệu báo Đại đoàn kết (giai đoạn 1986 – 2000)” của nhóm tác giả Chu Bích Thu, Bùi Thị Thanh Lương, Phạm Anh Tú, Nguyễn Thị Huyền, Trần Hương Thục, “Một số nhận xét về cách sử dụng từ ngữ mới trong báo Lao động (nguồn tư liệu dựa vào một số báo phát hành từ năm 2000 đến 2004) của Nguyễn Thúy Khanh và Nguyễn Thị Lan Hương Về cơ bản, tất cả những bài báo tham gia dự án này đều có chung một số nhận xét: 1/ Về cấu tạo, từ ngữ mới trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2004 chủ yếu là từ ghép có cấu tạo chính phụ “đi vào chi tiết hóa những sự vật, hiện tượng trong cuộc sống mới nảy sinh”. 2/ Vay mượn từ các ngôn ngữ khác để làm phong phú thêm ngôn ngữ của mình là một xu hướng phát triển tất yếu hợp với thời đại. 3/ Bản chất cách sáng tạo và sử dụng từ ngữ mới trên các báo vẫn nằm trong xu hướng phát triển chung của tiếng Việt. Cũng phải nói rằng, trong hệ thống những từ ngữ mới được khảo sát trên các báo Nhân dân, Lao động, Hà Nội mới, An ninh thủ đô, Công an nhân dân, Quân đội nhân dân những từ ngữ chuyên ngành kinh tế chiếm một số lượng nhất định (tùy theo đặc trưng của từng loại báo). Thí dụ: công ty mẹ, công ty con, biểu phí, lương cứng, khớp lệnh, sàn giao dịch, áp giá, vốn đối ứng, thị phần, ứng xuất, gói dịch vụ, thẻ tín dụng, dòng thuế (Lao động); cảnh sát kinh tế, nợ đọng, tồn đọng, sức đầu tư, gói thầu, mời thầu, đóng thầu, phí thẩm định, hậu mãi (Đại đoàn kết); chặn bắt, đánh hàng, hàng chính hãng, hàng xách tay, bán kí gửi, đình nã, hậu kiểm, giải phóng mặt bằng, tái nợ, tiền chênh lệch (An ninh thủ đô); chủ đầu tư, chợ cóc, công nghệ sạch, giải ngân, tín chấp, tồn đọng, thu gom (Công an nhân dân) Sự xuất hiện của những từ ngữ này góp phần khẳng định sự phát triển của từ ngữ kinh tế nói riêng và sự phát triển của từ ngữ thuộc các lĩnh vực nói chung.
Một luận án có thể được gọi là tiếp nối “mạch” tìm hiểu về cách sáng tạo và sử dụng từ ngữ mới là luận án “Từ ngữ mới tiếng Việt (trên tư liệu giai đoạn từ năm 1986 đến nay)” của Bùi Thị Thanh Lương. Luận án đã khảo sát các đơn vị từ ngữ mới thuộc lớp từ toàn dân xuất hiện trên một số ấn phẩm báo chí giai đoạn từ năm 1986 đến 2005. Từ đó luận án đã phân tích và miêu tả các từ ngữ mới về các mặt nguồn gốc, cấu tạo, ngữ nghĩa nhằm hệ thống hóa, tìm hiểu đặc điểm của các từ ngữ mới trong giai đoạn này và xác định những khuynh hướng cơ bản của sự phát triển từ vựng tiếng Việt trong mối quan hệ với sự phát triển về chính trị, kinh tế và văn hóa – xã hội của nước ta trong gần hai thập kỉ. Lớp từ ngữ chuyên ngành kinh tế xuất hiện rải rác trong luận án và về cơ bản cũng nằm trong khuynh hướng vận động nói chung của từ ngữ mới: khuynh hướng cấu tạo từ ngữ, khuynh hướng phát triển ý nghĩa mới của từ, khuynh hướng phát triển từ ngữ bằng con đường vay mượn. Đặc biệt bài báo “Mấy nhận xét về đặc điểm thuật ngữ thương mại tiếng Việt” của Nguyễn Thị Bích Hà đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ số 6/1999 và sau này là luận án tiến sĩ “Đặc điểm thuật ngữ thương mại tiếng Việt trong sự đối chiếu với tiếng Nhật” cũng đã đưa ra những phân tích cụ thể về thuật ngữ thương mại tài chính trên cơ sở thống kê ngữ liệu thuật ngữ. Tác giả xem xét các thuật ngữ thương mại tài chính trên các phương diện như hình thức cấu tạo thuật ngữ, phương pháp cấu tạo thuật ngữ, nguồn gốc của thuật ngữ từ đó hướng tới việc chuẩn hóa thuật ngữ thương mại nhằm phục vụ cho hoạt động giao tiếp thương mại. Ngoài ra, việc xem xét và nghiên cứu từ ngữ thuộc lĩnh vực kinh tế ở bộ phận từ ngữ của các ngành nghề cũng được các tác giả chú ý tìm hiểu như từ ngữ ngành đường sắt, từ ngữ ngành phân bón – hóa chất, từ ngữ ngành luyện kim, từ ngữ ngành giấy Những nghiên cứu về sự phát triển của từ ngữ nói chung, từ ngữ ngành kinh tế nói riêng tuy còn nhiều yếu tố chưa được đề cập nhưng cũng đã giúp cho người nghiên cứu ngôn ngữ có một cái nhìn tương đối toàn diện về “bức tranh” từ vựng hiện nay đặc biệt là vốn từ vựng trong những chuyên ngành hẹp.
Đề tài “Vận động tạo từ, tạo nghĩa của từ ngữ kinh tế trong tiếng Việt hiện đại” của chúng tôi tiếp tục theo hướng nghiên cứu gắn với thực tế sử dụng từ ngữ kinh tế. Chúng tôi tập trung phân tích hệ thống những từ ngữ đang được sử dụng, những từ ngữ “sống” trong lĩnh vực này về đặc điểm cấu tạo và đặc điểm ngữ nghĩa. Khẳng định những phương thức cấu tạo từ, những kiểu cấu tạo từ của tiếng Việt có tính năng sản từ ngữ cao cũng như những chuyển đổi, chuyển hóa về mặt ngữ nghĩa của từ để tạo ra những từ ngữ mới trong kinh tế, từ đó hướng tới việc lựa chọn, xây dựng, thống nhất, chuẩn hóa hệ thống từ ngữ ở lĩnh vực này.
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài khảo sát các từ ngữ trong lĩnh vực kinh tế trong khoảng mươi lăm năm lại đây nhất là những năm đất nước ta đang trên đà đổi mới, mở cửa, hội nhập và phát triển. Trên cơ sở những ngữ liệu đã thống kê được, đề tài tập trung miêu tả và phân loại các từ ngữ kinh tế về phương diện cấu tạo cũng như về đặc điểm ngữ nghĩa nhằm góp phần khẳng định sự ý thức hóa vận động tạo từ cũng như sự chuyển đổi về ngữ nghĩa của từ trong quá trình tạo lập các thuật ngữ khoa học. Từ đó, đề tài cũng góp một phần nhỏ hướng tới việc chuẩn hóa thuật ngữ khoa học tiếng Việt, biên soạn các cuốn từ điển từ mới tiếng Việt cũng như nghiên cứu sự phát triển của từ vựng tiếng Việt nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận về vấn đề cấu tạo từ và ý nghĩa của từ trên cơ sở tập hợp và lý giải những ý kiến nhận xét tiêu biểu của các nhà Việt ngữ học về từ vựng tiếng Việt. Đồng thời xem xét và tìm hiểu về sự phát triển của từ vựng tiếng Việt và tình hình nghiên cứu từ vựng tiếng Việt hiện nay.
- Tiến hành thu thập và thống kê tư liệu nghiên cứu. Tư liệu này là những từ ngữ đang được sử dụng trong ngành kinh tế xuất hiện trong khoảng mười lăm năm lại đây. Những từ ngữ này được thu thập từ sách vở, báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng và thu thập từ thực tiễn đời sống kinh tế, xã hội.
- Phân tích, miêu tả các khuynh hướng phát triển của từ ngữ kinh tế trong sự vận động phát triển của từ ngữ tiếng Việt.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình vận động cấu tạo từ ngữ, vận động tạo nghĩa của từ ngữ kinh tế là đối tượng nghiên cứu của đề tài này. Vận động ở đây được hiểu là sự tồn tại, biến đổi và phát triển của từ ngữ, cụ thể là những cách thức tạo ra từ ngữ kinh tế cho hệ thống trong một thời đoạn lịch sử cụ thể. Nói rộng hơn nó được xem xét như là những con đường để làm giàu vốn từ vựng kinh tế nói riêng và từ vựng tiếng Việt nói chung.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Ngành kinh tế là một bộ phận của nền kinh tế chuyên tạo ra hàng hóa và dịch vụ. Việc phân loại các ngành kinh tế là “một cơ sở để nghiên cứu và xác định phương hướng tổ chức của từng ngành, để nghiên cứu và xác định đúng đắn quan hệ tỷ lệ phát triển giữa các ngành và giữa các bộ phận trong từng ngành của nền kinh tế quốc dân” (trích Thông tư giải thích nghị định số 82 – CP ngày 03/6/1963 của Hội đồng chính phủ về việc phân chia các ngành trong nền kinh tế quốc dân).
Để phân loại các ngành kinh tế, người ta dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau như phân loại theo vốn (vốn tài chính, vốn thiên nhiên, vốn cơ sở hạ tầng), phân loại theo sản phẩm (ngành hóa chất, ngành dầu mỏ, ngành thực phẩm, ngành cá, ngành giấy, ngành tài chính, ngành phần mềm, ngành quảng cáo, ngành giải trí) và mỗi một quốc gia lại có sự phân loại không giống nhau (Hoa Kỳ có 443 ngành, Anh có 17 nhóm ngành, Nhật Bản có 5 nhóm ngành). Ở Việt Nam, theo Quyết định số 10/2007/QĐ – TTg ngày 23 tháng 1 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ, hệ thống ngành kinh tế Việt Nam bao gồm 21 nhóm ngành cấp 1, 88 ngành cấp 2, 242 ngành cấp 3, 437 ngành cấp 4, 642 ngành cấp 5. Như thế hoạt động kinh tế nói chung có thể chia thành 4 khu vực
1. Khu vực sản xuất sơ khai gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, khai mỏ và khai khoáng
2. Khu vực công nghiệp và xây dựng
3. Khu vực dịch vụ: giao thông, tài chính, ăn uống, du lịch, giải trí
4. Khu vực tri thức
4.2.2. Từ ngữ kinh tế là những từ, những cụm từ phản ánh đối tượng kinh tế, đặc trưng của hoạt động kinh tế trong các khu vực, các ngành kinh tế. Trong đề tài này, chúng tôi ưu tiên xem xét những từ ngữ thuộc khu vực dịch vụ, khu vực thứ ba của nền kinh tế với một số ngành cơ bản như xây dựng, thương mại, tài chính, ngân hàng (tất nhiên trong tư liệu thu thập cũng có một số từ ngữ thuộc các khu vực kinh tế khác). Bởi đây là những ngành có sự tăng trưởng lớn trong nền kinh tế nước ta nói riêng và các quốc gia công nghiệp tiến tới xã hội hậu công nghiệp nói chung.
Từ ngữ kinh tế được xem xét trong đề tài này cũng là những từ ngữ xuất hiện trong khoảng mười lăm năm lại đây. Lựa chọn giai đoạn phát triển về từ ngữ kinh tế trong khoảng mười lăm năm (từ năm 2000) là bởi từ những năm 2000 Việt Nam tiếp tục có các bước tiến mới trong công cuộc cải cách nền kinh tế như việc thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, hình thành Sở giao dịch chứng khoán, ban hành Luật doanh nghiệp
4.2.3. Để xây dựng bảng từ ngữ trong các ngành kinh tế, chúng tôi đã khảo sát ngữ liệu trên báo chí, các phương tiện thông tin và thực tiễn đời sống xã hội. Nguồn ngữ liệu chính của đề tài được lấy từ báo chí với tổng số 200 số báo viết trên một số đầu báo về kinh tế như Thời báo kinh tế Việt Nam, Thời báo Ngân hàng, Công thương, Tiền tệ và đầu tư, Nông nghiệp Việt Nam và các tờ báo mạng như vneconomy.com, baodautu.vn, dantri.com.vn, thoibaonganhang.vn, vnexpress.net, tin180.com, vietnamnet.vn được xuất bản từ năm 2000 (đặc biệt là từ năm 2005 trở lại đây).
Nguồn ngữ liệu thứ hai có tác dụng bổ trợ cho nguồn ngữ liệu chính là những từ ngữ được thu thập trên các bản tin truyền hình như bản tin Việt Nam và các chỉ số, bản tin Tài chính và các bản tin về kinh tế trên đài phát thanh. Thêm vào hai nguồn ngữ liệu này là một số từ ngữ về kinh tế được sử dụng trong thực tế đời sống. Đây là những ngữ liệu sinh động, sống động. Trong những từ ngữ kinh tế này, chúng tôi cũng thu thập một số từ ngữ trong các cuốn từ điển kinh tế được dùng trong thực tế với tần suất cao.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Phương pháp phân tích thành tố trực tiếp
Phương pháp phân tích thành tố trực tiếp (Nguyễn Thiện Giáp gọi là thủ pháp phân tích thành tố trực tiếp) được dùng để xem xét cấu trúc của các đơn vị định danh trong kinh tế, phân chia cấu trúc thành những bộ phận tối đa, nhằm xác định các đơn vị cấu tạo. Từ đó tìm ra các nguyên tắc tạo thành từ ngữ kinh tế, các mô hình cấu tạo của chúng và các quy luật cấu tạo nên các từ ngữ này.
5.2. Phương pháp phân tích nghĩa tố
Là đơn vị ngữ nghĩa cơ bản của ngôn ngữ phản ánh các đặc điểm riêng biệt của sự vật, hiện tượng hay quan hệ trong thực tế, nghĩa tố có vai trò quan trọng trong quá trình xem xét cấu trúc ý nghĩa của từ. Phương pháp phân tích nghĩa tố (Nguyễn Thiện Giáp gọi là thủ pháp phân tích nghĩa tố) phân xuất ý nghĩa của từ ngữ kinh tế thành các nghĩa tố, từ đó nhận diện về sự biến đổi ý nghĩa hướng đến việc tạo từ ngữ mới cho hệ thống từ vựng. Phương pháp này cũng là phương pháp nghiên cứu chính trong luận án.
5.3. Phương pháp miêu tả
Dựa vào lý thuyết cấu tạo từ cũng như những tri thức về ngữ nghĩa của từ, luận án miêu tả từ ngữ trong các ngành kinh tế (từ ngữ vay mượn trong quá trình giao lưu, tiếp xúc, hội nhập; từ ngữ mới được tạo ra hoặc chuyển đổi về ngữ nghĩa trong hệ thống ngôn ngữ); miêu tả đặc điểm của các thành tố cấu tạo từ, những kiểu cấu tạo từ có sức tạo từ cao, các nét nghĩa chi phối quá trình chuyển đổi ý nghĩa và các quy luật chi phối quá trình tạo nghĩa và tạo từ cho các từ ngữ thuộc các ngành này.
5.4. Phương pháp thống kê
Phương pháp thống kê được sử dụng để tìm hiểu số lượng, tỷ lệ phần trăm của các phương thức tạo thành từ ngữ, các kiểu cấu tạo từ ngữ Các kết quả thống kê sẽ được tổng hợp lại dưới hình thức các bảng biểu giúp người đọc hình dung rõ các đặc trưng cơ bản về vận động tạo từ và tạo nghĩa của từ ngữ kinh tế.
Danh sách 1011 từ ngữ thu thập trong ngành kinh tế cũng được nhập vào máy trên chương trình Microsofl Excel với các thông tin:
STT Từ, ngữ Văn cảnh Xuất xứ
1 xx xx xx
Những thông tin này đảm bảo tính chính xác về mặt xuất xứ cũng như sự rõ ràng về mặt ngữ nghĩa.
Quá trình nghiên cứu được tiến hành cụ thể theo các bước sau:
Bước 1: Nghiên cứu lý luận để nắm chắc những vấn đề về cấu tạo từ của tiếng Việt như đơn vị cấu tạo từ, phương thức cấu tạo từ, các kiểu loại từ; những vấn đề về ý nghĩa của từ như các thành phần ý nghĩa trong từ, nét nghĩa, hiện tượng nhiều nghĩa, sự chuyển biến ý nghĩa cũng như trường nghĩa và hiện tượng chuyển trường nghĩa của từ.
Bước 2: Tiến hành thu thập, thống kê tư liệu nghiên cứu. Đây là các từ ngữ được sử dụng trong ngành kinh tế hiện nay (số lượng xuất hiện, nghĩa các từ ngữ, ghi chú xuất xứ, nguồn tư liệu của các từ ngữ).
Bước 3: Tiến hành nghiên cứu, xử lý các tư liệu thống kê trên các mặt: số lượng từ ngữ xuất hiện trong các loại và các nhóm nhỏ trong loại; miêu tả các từ ngữ đó trên cơ sở của đặc điểm cấu tạo và đặc điểm ngữ nghĩa; xác định những kiểu tạo nghĩa và tạo từ có tính chất năng động sản sinh cao; chỉ ra những xu hướng phát triển hiện nay và từ nay về sau.
Bước 4: Tiến hành viết luận án và tóm tắt.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
6.1. Về mặt lí luận
Luận án góp phần phát hiện thực tế, giải thích thực tế ngôn ngữ và phát triển lý luận cấu tạo từ và tạo nghĩa của từ. Những kết quả nghiên cứu cũng là một minh chứng hùng hồn cho sức sống của tiếng Việt, khả năng thích ứng của nó với những nhu cầu xã hội đặc biệt ở những khu vực thực tế ngôn ngữ trước kia chưa có ở Việt Nam do đó khả năng của tiếng Việt chưa được thử thách.
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận án cung cấp một hệ thống từ ngữ kinh tế hiện nay, phân tích và chỉ ra những vận động để làm giàu hệ thống từ ngữ kinh tế. Từ đó mong muốn góp phần hướng tới việc xây dựng hệ thống thuật ngữ kinh tế nước nhà.
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu, tài liệu tham khảo và phần phụ lục bảng số liệu thống kê từ ngữ kinh tế, luận án gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Vận động tạo từ của từ ngữ kinh tế
Chương 3: Vận động tạo nghĩa của từ ngữ kinh tế
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
VẬN ĐỘNG TẠO TỪ
Vận động là một phạm trù của triết học bao hàm tất cả những quá trình diễn ra trong tự nhiên và trong xã hội. Có thể coi đó là sự biến đổi nói chung, là tác động qua lại giữa các khách thể vật chất và quyết định quá trình phát triển của hệ thống.
Ngôn ngữ nói chung và từ vựng nói riêng là một hệ thống luôn tồn tại sự vận động. Vận động ấy được xem xét ở phương diện lịch đại cũng như đồng đại. Về mặt lịch đại, vận động được thể hiện ở quá trình biến chuyển qua từng mốc thời gian cụ thể. Điều này có nghĩa là hệ thống từ ngữ được xem xét qua từng chặng đường của lịch sử về mặt số lượng, chất lượng qua đó để thấy được sự tác động của xã hội đến ngôn ngữ ở từng thời điểm cũng như đánh giá được tốc độ phát triển và khuynh hướng phát triển cơ bản của từ vựng. Về mặt đồng đại, vận động lại được nhìn nhận như một quá trình sản sinh từ ngữ trong lòng hệ thống ở một thời đoạn lịch sử cụ thể. Quá trình sản sinh này chính là những cách thức tạo từ ngữ mới cho hệ thống, từ đó khái quát lên diện mạo ngôn ngữ của một thời kì và đặt trong thế đối sánh với những thời kì trước hoặc sau đó. Như thế, xem xét quá trình vận động dù ở phương diện lịch đại hay đồng đại thì vẫn phải sử dụng phù hợp thao tác nghiên cứu lịch đại và thao tác nghiên cứu đồng đại.
Xem xét quá trình vận động tạo từ của từ ngữ kinh tế chúng tôi nhấn mạnh ở phương diện đồng đại. Cụ thể là xem xét cách thức tạo từ của từ ngữ kinh tế trong khoảng mười lăm năm lại đây từ đó khái quát hướng phát triển của từ ngữ kinh tế theo quy luật phát triển nội tại của hệ thống từ vựng tiếng Việt. Việc nghiên cứu trên phương diện lịch đại về sự phát triển của từ ngữ kinh tế, chúng tôi sẽ trình bày ở một thời điểm khác.
Vận động tạo từ của từ ngữ kinh tế nói riêng và từ vựng tiếng Việt nói chung có hai cách cơ bản. Thứ nhất là vận động tạo từ bằng các phương thức cấu tạo từ của tiếng Việt tức là vận động trên các nguyên liệu và phương thức cấu tạo từ, “nguồn nội lực” của tiếng ta. Thứ hai là vận động vay mượn từ của các ngôn ngữ tiếp xúc với tiếng Việt tức là sử dụng những từ ngữ vay mượn để làm phong phú hệ thống từ ngữ.
Vận động tạo từ bằng các phương thức cấu tạo từ của tiếng Việt
Xem xét về quá trình vận động cấu tạo từ ngữ tiếng Việt, chúng ta cần phải nhìn lại một cách tổng thể bức tranh cấu tạo từ ngữ nói chung và từ ngữ tiếng Việt nói riêng. Cấu tạo từ là một bộ môn nghiên cứu các vận động trong lòng hệ thống để tạo ra các đơn vị của hệ thống. Theo Yu Stepanov có thể coi bộ môn cấu tạo từ là một địa hạt giúp ngôn ngữ học trả lời câu hỏi “những từ mới được tạo như thế nào trong ngôn ngữ”.
Tiếp thu những thành tựu nghiên cứu về cấu tạo từ trên thế giới, các nhà Việt ngữ học cũng đi sâu xem xét cấu tạo từ của tiếng Việt hiện nay trong các công trình viết về từ vựng học tiếng Việt. Có thể kể tới Đỗ Hữu Châu với “Giáo trình Việt ngữ” tập 2 phần Từ hội học (1962), “Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt” (1981), “Các bình diện của từ và từ tiếng Việt” (1986); Nguyễn Tài Cẩn với “Ngữ pháp tiếng Việt tiếng – từ ghép – đoản ngữ” (1975), Nguyễn Văn Tu với “Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại” (1976), Hồ Lê với “Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại” (1976), Nguyễn Thiện Giáp với “Từ vựng học tiếng Việt” (1985), “Từ và nhận diện từ tiếng Việt” (1996), “Vấn đề từ trong tiếng Việt” (2011) Sự nghiên cứu về cấu tạo từ của từ vựng tiếng Việt ở các tác giả này theo chúng tôi có thể chia thành hai khuynh hướng lớn: khuynh hướng dựa vào quan hệ ngữ pháp giữa các hình vị và khuynh hướng dựa vào tính chất của các hình vị. Khuynh hướng thứ nhất có các tác giả Đỗ Hữu Châu (1962), Nguyễn Văn Tu (1976), Nguyễn Tài Cẩn (1975). Khuynh hướng thứ hai có các tác giả Hồ Lê (1976), Đỗ Hữu Châu (1981, 1986). Tuy có những khác nhau về việc xem xét các từ ngữ về phương diện cấu tạo nhưng các tác giả nghiên cứu đều có những điểm thống nhất ở một số khái niệm như đơn vị cấu tạo, kiểu cấu tạo, các loại từ được phân chia về cấu tạo.
Khi xem xét về vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt, chúng tôi đặc biệt chú ý đến quan điểm, tư tưởng của Đỗ Hữu Châu trong“Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt” (1981), “Các bình diện của từ và từ tiếng Việt” (1986). Theo Đỗ Hữu Châu “từ - cấu tạo, xét ở mặt tĩnh là cái đã có, đã tồn tại trong từ nhưng xét về mặt hoạt động, nó là kết quả của quá trình ngôn ngữ sử dụng các tài liệu sẵn có để tạo ra các từ nhằm đáp ứng những yêu cầu của giao tiếp” [7, 45] “về nguyên tắc, cấu tạo từ là những vận động trong lòng một ngôn ngữ để sản sinh ra các từ cho ngôn ngữ, phục vụ những nhu cầu mới về mặt diễn đạt mà xã hội đặt ra” [5,27]. Cho nên nghiên cứu cấu tạo từ trước hết là phát hiện “các quá trình”, “các vận động cấu tạo” tức là phát hiện các “nguyên liệu” và “phương thức sử dụng để tạo từ”[7,45] bởi “tất cả các sự kiện cấu tạo từ cần được lý giải dưới ánh sáng của vận động đó” [5, 27].
Dưới ánh sáng của quan điểm “động” về cấu tạo từ, khi xem xét cấu tạo từ tiếng Việt, người ta chú ý đến ba mặt: đơn vị cấu tạo từ, phương thức cấu tạo từ và các từ mới được tạo ra.
1.1.1.1. Đơn vị cấu tạo từ
a) Khái niệm
Để tạo ra từ mới cho hệ thống từ vựng, người ta phải sử dụng các đơn vị cấu tạo từ. Trong thuật ngữ ngôn ngữ học, đơn vị cấu tạo nên từ được gọi là morpheme. Thuật ngữ này được các nhà nghiên cứu dịch và sử dụng khác nhau. Có tác giả gọi là từ tố (Đỗ Hữu Châu (1962), Nguyễn Kim Thản (1963), Nguyễn Văn Tu (1976), có tác giả gọi là tiếng (Nguyễn Tài Cẩn 1975), có tác giả gọi là nguyên vị (Hồ Lê 1976) và nếu căn cứ vào ý nghĩa của từ morpheme, thuật ngữ này được dịch là hình vị (hình: hình thái, vị: đơn vị, hình vị: đơn vị về hình thái) (Đỗ Hữu Châu (1981, 1986), Nguyễn Thiện Giáp (1985)). Ở đây, chúng tôi sử dụng thuật ngữ phổ biến là hình vị.
Về khái niệm hình vị, trong ngôn ngữ học có ba quan niệm khác nhau [25,61]. Quan niệm thứ nhất coi hình vị là bộ phận có nghĩa nhỏ nhất của từ. Quan niệm thứ hai coi hình vị là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ. Quan niệm thứ ba coi hình vị là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa không độc lập về cú pháp. Đối với hình vị tiếng Việt, các nhà Việt ngữ học cũng có nhữn...láy đôi bộ phận là từ láy đôi mà kết quả của phương thức láy cho ta hình vị láy khác với hình vị cơ sở ở phụ âm đầu hoặc vần. Căn cứ vào sự giống nhau của từng bộ phận trong cấu trúc âm tiết, từ láy đôi bộ phận được chia thành hai loại: từ láy âm (từ láy mà phụ âm đầu của hình vị cơ sở được giữ nguyên còn vần thì thay đổi ở hình vị láy), từ láy vần (từ láy mà phụ âm đầu của hình vị cơ sở thay đổi còn vần thì giữ nguyên trong hình vị láy). Trong hai loại này, từ láy âm có số lượng nhiều hơn cả. Đến đây căn cứ vào vị trí của hình vị cơ sở, tác giả chia mỗi loại từ láy âm và từ láy vần thành các nhóm nhỏ hơn: láy âm / láy vần có hình vị cơ sở ở trước và láy âm / láy vần có hình vị cơ sở ở sau. Sau đó căn cứ vào vần của hình vị láy để xếp các từ láy âm mà hình vị có vần giống nhau, căn cứ vào âm đầu của hình vị láy để xếp các từ láy vần mà hình vị có phụ âm đầu giống nhau vào những nhóm nhỏ. Theo chúng tôi sự phân loại này đã chú ý đến cơ chế láy và hệ thống phân loại khá rõ ràng, nhờ đó có thể giải thích được những trường hợp trung gian và những trường hợp chưa thống nhất giữa các tác giả.
Từ ghép
Từ ghép là những từ được tạo ra từ phương thức ghép (phương thức kết hợp hai hay một số hình vị tách biệt, riêng rẽ, độc lập với nhau). Việc phân loại từ ghép từ trước đến nay đã có nhiều ý kiến khác nhau giữa các nhà nghiên cứu. Vì thế đường ranh giới phân chia giữa các loại và các tiểu loại của từ ghép ở các tác giả là không trùng nhau, và có những tranh luận chưa thống nhất.
Dựa trên quan niệm “phân loại các từ ghép trong tiếng Việt thực chất là phát hiện ra các cách thức cụ thể mà phương thức ghép đã vận dụng để sản sinh ra các từ ghép cho tiếng Việt” [5, 55] đồng thời “làm bộc lộ tính đồng nhất (tương đối) về ngữ nghĩa của những từ ghép trong cùng một loại” [7, 203], Đỗ Hữu Châu đã phân loại từ ghép dựa trên sự đồng nhất – đối lập của ba tiêu chí sau đây:
- Ý nghĩa của các từ mới được tạo ra (ý nghĩa của cả từ)
- Tính chất của các hình vị (ý nghĩa của các thành tố cấu tạo)
- Quan hệ ngữ pháp giữa các hình vị (quan hệ ngữ nghĩa – ngữ pháp)
Áp dụng lần lượt các tiêu chí trên, tác giả đã chia từ ghép trong tiếng Việt thành ba loại từ ghép hợp nghĩa, từ ghép phân nghĩa và từ ghép biệt lập.
Từ ghép hợp nghĩa (nhiều tác giả gọi là từ ghép đẳng lập) là loại từ ghép được cấu tạo bởi cách ghép hai thành tố (hai hình vị, tiếng hay âm tiết) có ý nghĩa cùng loại, cùng phạm trù (sự vật, hoạt động, tính chất, trạng thái, quan hệ), theo quan hệ ngữ nghĩa (đồng nghĩa, cận nghĩa hoặc trái nghĩa), trên cơ sở của quan hệ ngữ pháp đẳng lập (hay song song) để tạo ra một từ ghép có ý nghĩa khái quát tổng hợp bao trùm so với ý nghĩa của từng thành tố cấu tạo. Có thể hình dung qua mô hình sau
Cấu tạo
A + B → AB
Ý nghĩa
S1 + S2 → S
Mô hình được giải thích như sau: A là thành tố thứ nhất có ý nghĩa S1, B là thành tố thứ hai có ý nghĩa S2. Sự kết hợp của 2 thành tố này tạo ra một từ ghép AB có ý nghĩa S, ý nghĩa S là ý nghĩa của toàn từ ghép do A, B kết hợp lại.
Dựa trên ý nghĩa của từ mới và tính chất của các hình vị, tác giả chia từ ghép hợp nghĩa thành các kiểu nhỏ hơn. Đó là từ ghép hợp nghĩa phi cá thể và từ ghép hợp nghĩa không phi cá thể. Tiếp đó từ ghép hợp nghĩa phi cá thể lại chia thành từ ghép hợp nghĩa phi cá thể tổng loại như ếch nhái, đi đứng, mua bán, buôn bán, từ ghép hợp nghĩa phi cá thể chuyên chỉ loại như chợ búa, đường sá, viết lách, mắt mũi và từ ghép hợp nghĩa phi cá thể bao gộp như gang thép, điện nước, rau quả, nghiện hút Từ ghép hợp nghĩa không phi cá thể lại chia thành từ ghép hợp nghĩa mà “ý nghĩa của cả từ còn có thể giải thích được bởi ý nghĩa của từng hình vị một cách khá rõ ràng” [5, 64] như chứng cớ, đường lối, xây dựng và từ ghép hợp nghĩa mà “quan hệ ngữ nghĩa của cả từ với nghĩa của từng hình vị đã bị quên lãng” [5, 64] như mực thước, chắp vá, bóc lột
Loại thứ hai trong từ ghép tiếng Việt là từ ghép phân nghĩa. Từ ghép phân nghĩa (nhiều tác giả gọi là từ ghép chính phụ) là những từ ghép được cấu tạo từ hai hình vị trong đó một hình vị chung chỉ loại lớn (sự vật, hoạt động, tính chất) và một hình vị có tác dụng phân hóa loại lớn thành những loại nhỏ hơn, cùng loại, độc lập với loại lớn và độc lập đối với nhau. Về mặt ý nghĩa, hai hình vị có quan hệ “loại – chủng”. Về mặt ngữ pháp, hai hình vị có quan hệ chính phụ. Ý nghĩa của từ ghép phân nghĩa là ý nghĩa phân loại, phân tích, ý nghĩa này nằm trong ý nghĩa của hình vị chỉ loại lớn. Có thể hình dung qua mô hình
Cấu tạo
A + b → Ab
Ý nghĩa
S1 + S2 → S
(Mô hình này được giải thích như sau: A là thành tố thứ nhất có ý nghĩa S1, b là thành tố thứ hai có ý nghĩa S2, tổ hợp Ab cho ta nghĩa S với điều kiện S là một kiểu nhỏ trong S1 (có tính chất loại)).
Dựa vào ý nghĩa của từ mới, tính chất và quan hệ ngữ nghĩa của các hình vị, tác giả chia từ ghép phân nghĩa thành hai loại từ ghép phân nghĩa một chiều và từ ghép phân nghĩa hai chiều. Tiếp đó, từ ghép phân nghĩa một chiều lại chia thành ba nhóm nhỏ từ ghép phân nghĩa một chiều dị biệt như xe đạp, áo phông, làm dáng, khó tính, từ ghép phân nghĩa một chiều đồng đẳng như cá rô, cây táo, chim sẻ và từ ghép phân nghĩa một chiều sắc thái hóa như xanh lè, thẳng đuột, sưng vù
So với từ ghép hợp nghĩa, từ ghép phân nghĩa là loại từ ghép có số lượng nhiều hơn và đang có sức sản sinh theo thế hệ rất lớn.
Loại từ ghép thứ ba là từ ghép biệt lập. Từ ghép biệt lập là những từ ghép cũng hình thành trên quan hệ ngữ pháp chính phụ hay đẳng lập nhưng chúng không lập thành những hệ thống và những kiểu ngữ nghĩa chung như từ ghép hợp nghĩa và từ ghép phân nghĩa. Việc lĩnh hội và ghi nhớ chúng như lĩnh hội và ghi nhớ các từ đơn. Thí dụ đầu ruồi, hoa sen, mắt cá, đầu gối, bả vai, cổ tay, lá lách, cổ hũ, bụng chân
Sự phân chia các từ ghép tiếng Việt từ lớn đến nhỏ của tác giả giáo trình “Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt” là khá rõ ràng. Trong khi phân chia, tác giả đã vạch ra những đường ranh giới “chất lượng” giữa các kiểu từ, giúp người nghiên cứu có thể nhận biết được các từ cũng như sắp xếp các từ vào các kiểu nhỏ và lý giải được những hiện tượng trung gian trong cấu tạo từ. Mô hình phân chia này theo chúng tôi giúp ích cho người nghiên cứu gắn với thực tiễn ngôn ngữ và có tác dụng giải thích thực tiễn ngôn ngữ để phục vụ tốt hơn cho đời sống con người.
Một vấn đề cũng cần nói đến là sự phân biệt giữa từ ghép và cụm từ. Về lí thuyết, một tổ hợp đã là từ thì sự kết hợp giữa các hình vị phải chặt chẽ, tính thành ngữ về ý nghĩa cao. Những tổ hợp lỏng lẻo, có thể “tách” “mở rộng” “thay thế” các thành tố, tính thành ngữ về ý nghĩa thấp được xếp vào cụm từ. Vùng rắc rối, đáng ngờ nhiều nhất trong sự phân biệt này là giữa từ ghép phân nghĩa và cụm từ tự do bởi chúng đều có sự tương đồng về cấu trúc: một thành tố trung tâm và các thành tố phụ đồng thời hình thức của chúng thường kém chặt chẽ. Tất nhiên cấu trúc ngữ nghĩa của từ ghép phân nghĩa với cụm từ tự do chính – phụ theo Đỗ Hữu Châu có điểm khác biệt căn bản “Trong các cụm từ tự do, cấu trúc từ - ngữ nghĩa của từ trung tâm, từ chính vẫn giữ nguyên không đổi. Có thay đổi chỉ là những nét nghĩa của nó theo hướng cụ thể hóa, hiện thực hóa bằng ý nghĩa của các từ phụ. Bởi vậy, muốn nắm được ý nghĩa của cả cụm từ, không thể không nắm ý nghĩa của các từ phụ và quan hệ giữa chúng với từ chính, trung tâm” [7,255]. Ở từ ghép phân nghĩa “dù ý nghĩa của hình vị B có mất hay không thì toàn bộ cấu trúc ngữ nghĩa của hình vị chỉ loại lớn đã thay đổi Lúc này không phải một dấu hiệu nào đó của cấu trúc ngữ nghĩa của hình vị chỉ loại lớn biến đổi theo hướng cụ thể hóa, hiện thực hóa bằng ý nghĩa của các B mà toàn bộ các nét nghĩa của nó được tổ chức lại theo hướng tách ra thành một loại nhỏ độc lập” [7, 256]. Đỗ Hữu Châu trong “Các bình diện của từ và từ tiếng Việt” có chú ý một trường hợp trong đó quan hệ cú pháp – ngữ nghĩa ở một bộ phận kém tính thành ngữ nhưng ý nghĩa của chúng lại nằm trong một kiểu ý nghĩa của một kiểu cấu tạo từ đã biết như máy phát hiện tia hồng ngoại, nhà nghiên cứu văn học dân gian Tác giả cho rằng những phức thể này “mặc dầu có những đặc điểm của cụm từ nhưng các hình vị tạo nên chúng thường là cố định, hành vi ngữ pháp của các đơn vị tạo nên chúng đã mất khả năng tình thái hóa và quan hệ hóa, cho nên những đặc trưng của từ phức đã thẩm thấu sang chúng. Vả chăng, điều quan trọng là từ - ngữ nghĩa của chúng là từ - ngữ nghĩa của từ phức như các từ phức khác cùng kiểu, cho nên tư cách từ của chúng là rõ ràng” [7,260]. Tác giả cũng tạm gọi những trường hợp này là những trường hợp trung gian từ ghép – cụm từ.
Chúng tôi nhận thấy, trong số liệu từ ngữ kinh tế mà chúng tôi có được, bên cạnh những trường hợp ghép phân nghĩa có hình thức cố định, phần lớn là những trường hợp ghép phân nghĩa có hình thức tương đối lỏng lẻo. Những trường hợp này gần với cụm từ nhiều hơn. Có điều sự xuất hiện của chúng lại có tính đồng loạt, tính hệ thống rất cao và chúng đảm bảo quy tắc định danh như các từ cho nên cũng có thể có căn cứ để đưa những trường hợp này về phạm vi từ. Thiết nghĩ sẽ vẫn còn nhiều tranh cãi ở những trường hợp trung gian này cho nên chúng tôi đề xuất sử dụng thuật ngữ biểu thức định danh theo kiểu ghép phân nghĩa để dùng chung cho cả từ ghép phân nghĩa và cụm từ tự do chính – phụ.
1.1.2. Vận động vay mượn từ của các ngôn ngữ tiếp xúc với tiếng Việt
Vay mượn từ vựng là hiện tượng phổ biến của mọi ngôn ngữ. Nó phản ánh sự giao lưu tiếp xúc văn hóa giữa những người nói ngôn ngữ này với những người nói ngôn ngữ khác. Đồng thời đây cũng là một trong những phương thức quan trọng để bổ sung nguồn từ ngữ mới phản ánh những sự vật, hiện tượng, khái niệm mới mà hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ chưa có hoặc có nhưng chưa có từ biểu thị. Nằm trong dòng chảy chung đó, trong tiếng Việt, bên cạnh việc tạo ra các từ mới bằng các phương thức cấu tạo từ của tiếng Việt, người ta cũng sử dụng triệt để sự vay mượn từ các ngôn ngữ có tiếp xúc. Những đơn vị từ vựng của ngôn ngữ nước ngoài mang vào sử dụng trong hệ thống từ vựng tiếng Việt được gọi là từ vay mượn (từ mượn, từ ngoại lai). Hiện tượng từ vay mượn đã được các nhà Việt ngữ học nghiên cứu và tìm hiểu trong các công trình về Từ vựng học như Đỗ Hữu Châu với “Giáo trình Việt ngữ tập 2” (1962), “Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt” (1981); Nguyễn Văn Tu với “Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại” (1976), Nguyễn Thiện Giáp với “Từ vựng học tiếng Việt” (1985) và gần đây nhất là công trình chuyên sâu “Từ ngoại lai trong tiếng Việt” (2007) của Nguyễn Văn Khang.
Xét về nguồn gốc, có thể thấy các từ ngữ gốc ngoại trong tiếng Việt về cơ bản có thể tách ra thành hai nguồn chính (1) Những từ ngữ vay mượn có nguồn gốc từ tiếng Hán (từ mượn Hán) (2) Những từ ngữ vay mượn có nguồn gốc từ Ấn Âu. Tuy nhiên như Nguyễn Văn Khang có nhấn mạnh “nguồn gốc” ở đây chỉ nên hiểu một cách tương đối tức là “tạm chỉ” những từ ngữ được mượn trực tiếp từ một ngôn ngữ cụ thể bởi trong thực tế có một số từ vay mượn nếu truy nguyên về nguồn gốc thì lại là cả một vấn đề phức tạp và còn có nhiều tranh cãi.
Sự vay mượn từ tiếng Hán và các thứ tiếng Ấn Âu này là hệ quả của sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các ngôn ngữ có nguyên nhân từ tiếp xúc ngôn ngữ, mà rộng hơn là sự tiếp xúc văn hóa, lịch sử do các nhân tố xã hội – ngôn ngữ thúc đẩy, từ đó mới hình thành các cách mượn khác nhau.
Trước hết là từ ngữ vay mượn từ tiếng Hán. Tiếng Việt đã có sự tiếp xúc lâu dài về mặt lịch sử với tiếng Hán. Hàng nghìn năm trước đây nước ta đã bị các thế lực phong kiến phương Bắc đô hộ cũng như trong hàng trăm năm, các triều đại phong kiến Việt Nam đã lấy tiếng Hán và văn tự Hán làm ngôn ngữ chính thống. Điều đó giải thích vì sao trong tiếng Việt số lượng đơn vị từ vựng mượn từ tiếng Hán nhiều hơn cả, chiếm tới 65%. Hơn nữa, xuất phát từ loại hình học ngôn ngữ, có thể thấy tiếng Việt và tiếng Hán tuy khác nhau về cội nguồn nhưng lại gần gũi về loại hình. Đó đều là những thứ ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập, âm tiết tính. Thêm vào đó, trong quá trình vay mượn ông cha ta đã sáng tạo ra cách đọc Hán Việt, một cách đọc làm giảm đi tính ngoại lai, tăng cường tính dân tộc. Vì thế việc chuyển dịch và mô phỏng về âm và chữ của tiếng Hán khá thuận lợi thúc đẩy việc hòa nhập nhanh chóng vào tiếng Việt. Để vay mượn từ ngôn ngữ Hán, có một số phương hướng và biện pháp sau được thực hiện:
- Vay mượn trọn vẹn, giữ nguyên kết cấu ý nghĩa. Những từ được tiếp nhận theo kiểu này chiếm một tỷ lệ rất lớn trong từ vựng tiếng Việt. Nó thuộc đủ mọi lĩnh vực hoạt động như chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, luật pháp
- Rút gọn kết cấu, chỉ giữ lại một vài yếu tố.
- Đổi yếu tố hoặc đảo vị trí các yếu tố cho phù hợp với quy tắc nói năng của người Việt.
- Thu hẹp ý nghĩa của từ nhiều nghĩa, đổi nghĩa hoặc mở rộng nghĩa, thêm ý nghĩa cho riêng với người Việt.
- Chuyển đổi màu sắc tu từ (có ý nghĩa đánh giá biểu cảm)
- Dùng từ Hán (đơn tiết) tạo ra từ mới riêng của tiếng Việt
- Dùng yếu tố Hán đồng nghĩa hoặc gần nghĩa với yếu tố Việt để tạo ra các từ mới của tiếng Việt
- Dịch, suy phỏng về nghĩa [22, 187]
Đồng thời với quá trình chuyển dịch Hán Việt là quá trình Việt hóa các yếu tố Hán Việt làm cho các từ vay mượn mang màu sắc bản địa, giảm đi màu sắc ngoại lai. Đây là quá trình diễn ra lâu dài và được nhà nước ta coi là một chính sách ngôn ngữ, trong đó Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại là người đã nêu một tấm gương sáng về việc dùng từ, vay mượn từ ngữ Hán. Ngày nay việc mượn các từ ngữ Hán vẫn tiếp tục diễn ra nhưng với một tinh thần mới, ý thức mới, vì thế nó được chính xác hóa, khoa học hóa mang tính chuyên ngành và tính thuật ngữ.
Nguồn vay mượn thứ hai là từ các ngôn ngữ Ấn Âu mà chủ yếu là tiếng Pháp (trước đây) và tiếng Anh (hiện nay). Sự vay mượn từ tiếng Pháp (từ mượn Pháp) gắn với đợt tiếp xúc văn hóa thứ hai trong lịch sử dân tộc là tiếp xúc văn hóa Việt – Pháp. Hơn tám mươi năm đô hộ của thực dân Pháp, cùng với sự ảnh hưởng của văn minh, văn hóa phương Tây – văn hóa Pháp, tiếng Pháp đã có ảnh hưởng không nhỏ đến tiếng Việt. Đặc biệt tiếng Pháp còn là phương tiện giảng dạy và thi cử ở trường học, là công cụ của viên chức, công chức nước ta dưới thời thuộc Pháp. Điều này đã để lại trong tiếng Việt một số lượng lớn các từ ngữ mượn Pháp mang tải những khái niệm mới về khoa học kỹ thuật và văn hóa văn minh phương Tây. Tất nhiên sự hòa nhập vào tiếng Việt của từ mượn Pháp không thuận lợi như từ mượn Hán mà phải trải qua một quá trình “đồng hóa” phức tạp do có sự khác nhau về loại hình học giữa hai ngôn ngữ. Đối với từ mượn Pháp, thông thường trong quá trình vay mượn chúng ta nhận thấy có hai cách chuyển dịch. Đó là sự chuyển dịch theo âm và chuyển dịch theo ý nghĩa.
- Chuyển dịch theo âm là sự chuyển dịch giữ nguyên cách phát âm của ngôn ngữ tiếp xúc còn chữ viết thì được “âm tiết hóa” như thêm thanh điệu: cà rốt (carotte), phét – ti – van (festival), xắc – cốt/ xà – cột (sacoche), xốt – vang (sauce au vin), áp – phe (affaire)bỏ bớt phụ âm kép: lốc (bloc), lát xê (glacé); bỏ các âm câm: kem (crème); thay đổi âm: bate (paté), van (valse), vô – lăng (volant), xà lan (chaland), cop –pi (copier)[22, 290]
- Chuyển dịch theo ý nghĩa là sự chuyển dịch dùng hình vị thuần Việt để dịch nghĩa của từ gốc Pháp như đường sắt (chemin de fer) nhưng thường thì dùng thông qua những từ Hán Việt như triết lí, triết học (philosophie), văn hóa (culture), cộng hòa (republique) Cũng có một số từ mới vào tiếng Việt được Việt hóa theo mô hình cấu tạo từ đã có của tiếng Việt như radio → máy thu thanh (máy + X), fri-gi-de → tủ lạnh (tủ + X), television → máy thu hình (máy + X)
Tiếp theo các từ mượn tiếng Pháp là sự xuất hiện của các từ tiếng Anh trong tiếng Việt. Sự xuất hiện này bắt nguồn từ đợt tiếp xúc thứ ba là tiếp xúc văn hóa Việt – phương Tây trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa. Với xu hướng giao lưu quốc tế “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước”, công cuộc đổi mới đất nước với sự xuất hiện của nền kinh tế thị trường, sự thay đổi, phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, hàng loạt từ ngữ tiếng Anh mang những khái niệm mới ồ ạt tràn vào tiếng Việt. Vì thế, ngày nay việc biết và sử dụng tiếng Anh là điều kiện để người Việt có thể nắm bắt được mọi vấn đề xuất hiện trong đời sống như cách dùng các thiết bị sản phẩm, sử dụng máy tính, mạng internet, xem chương trình quảng cáo, thể thao, ca nhạc bằng tiếng Anh và đặc biệt là những khái niệm mới trong lĩnh vực kinh tế. Các từ tiếng Anh xuất hiện trong tiếng Việt dưới các hình thức sau đây
- Dùng nguyên dạng cách viết tiếng Anh. Thí dụ những từ ngữ dùng nguyên dạng đã quen với đại đa số người Việt như chat, computer, dollar, download, e-mail, fairplay hay dùng nguyên dạng nhưng chỉ được người Việt nhận biết theo lối bắt chước, theo cách nói như côc –tai (cocktail), đai – rếch (direct), đi-dai (design), hat – trich (hat – trick), hét – phôn (headphone)
- Một số từ được sử dụng theo cách phỏng âm và viết bằng chính tả tiếng Việt như cao bồi (cowboy), sô (show), anbum (album), công – te – nơ (container)
- Một số từ được dịch ra tiếng Việt tức là cái “hình thái bên trong” là của từ Anh còn vỏ ngữ âm là từ Việt như cổ điển (classic; nhạc), chuột (mouse; máy tính), thị trường hối đoái (exchange market), giá trần (ceiling price)
Trong các hình thức này, hiện nay hình thức thiên về việc sử dụng nguyên dạng tiếng Anh có xu hướng tăng mạnh. Bởi người ta cho rằng điều này sẽ tạo ra sự quốc tế hóa từ vựng và nhất quán trong cách dùng. Đó cũng là lý do làm cho khái niệm “Việt hóa” – một khái niệm được nhắc đến mỗi khi xem xét một từ nước ngoài đã là từ mượn hay chưa trở nên không đơn giản.
Trong lĩnh vực kinh tế, những từ ngữ có nguồn gốc từ tiếng Anh có vai trò quan trọng, nó mang theo những khái niệm mới về kinh tế thị trường, về sự giao lưu giữa các quốc gia, có tư cách là những thuật ngữ. Tất nhiên phần lớn các từ kinh tế gốc Anh này đều thông qua từ Hán – Việt để đi vào cuộc sống của các tầng lớp xã hội . Như vậy, có thể thấy vay mượn từ ngữ vừa là một hiện tượng tất nhiên, không tránh khỏi vừa là biện pháp tích cực làm phong phú thêm tiếng nói của dân tộc. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay, khi xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ thì người sử dụng ngôn ngữ cần phải giải quyết được mâu thuẫn giữa tiếng nói của dân tộc với các từ nước ngoài ồ ạt tràn vào để hướng tới công cuộc vừa giữ gìn, bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt vừa cập nhật với xu hướng phát triển mang tính toàn cầu. Về vấn đề này, chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ quan điểm của mình trong tác phẩm “Chống thói ba hoa”, đó là phải “dựa vào bản thân tiếng Việt” để phát triển là chính “vay mượn là phụ”, phải mượn “có chừng mực”, “ chúng ta không chống mượn tiếng ngoại quốc để làm cho tiếng ta đầy đủ thêm. Nhưng chúng ta phải chống cách mượn không phải lối, mượn đến nỗi bỏ cả tiếng ta, đến nỗi quần chúng không hiểu”.
VẬN ĐỘNG TẠO NGHĨA CỦA TỪ
Ý nghĩa của từ là thành phần “cốt tủy” làm nên diện mạo của từ. Cho nên xét đến cùng, quá trình tạo từ chính là tạo nghĩa. Vận động tạo nghĩa của từ ngữ là quá trình sản sinh nghĩa mới của từ trong lòng hệ thống đồng thời cũng là quá trình xem xét sự thay đổi, phát triển về nghĩa của từ qua thời gian. Như thế sự vận động ở đây cũng được nhìn nhận trên hai hướng: hướng nghiên cứu đồng đại và hướng nghiên cứu lịch đại.
Trong khuôn khổ của luận án này, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc xem xét quá trình vận động tạo nghĩa của từ ngữ kinh tế theo cách nhìn đồng đại tức là xem xét cách thức tạo ra nghĩa mới của từ ngữ kinh tế - nghĩa có tính chất thuật ngữ, từ đó khái quát về một xu hướng tạo từ ngữ kinh tế mới hiện nay.
Tuy nhiên, để có một cái nhìn toàn diện và chính xác hóa về vận động tạo nghĩa của từ ngữ kinh tế, chúng ta cần nhìn nhận lại những vấn đề cơ bản về nghĩa.
1.2.1. Nghĩa của từ và các thành phần nghĩa của từ
Nghĩa là một phạm trù thuộc phương diện tinh thần. Nó là toàn bộ nội dung thông tin được ngôn ngữ truyền đạt hoặc được đơn vị nào đó của ngôn ngữ thể hiện. Đây là một phạm trù bên trong, phức tạp và khá mơ hồ.
Vận dụng lí thuyết của các nhà ngôn ngữ học thế giới, giới Việt ngữ học cũng đã có những kiến giải về nghĩa. Sơ đồ tam giác nghĩa được đề cập đến đầu tiên ở Việt Nam là trong “Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại” (1976) của Nguyễn Văn Tu. Viện dẫn tam giác nghĩa của Zveginxev, tác giả chỉ ra rằng “Nghĩa từ vựng của từ được quy định bằng những yếu tố tác động lẫn nhau như: (1) Thuộc tính của đối tượng. (2) Khái niệm về đối tượng. (3) Hệ thống ngôn ngữ giúp cho việc diễn đạt nghĩa [111,105]. Nguyễn Thiện Giáp trong “Từ vựng học tiếng Việt” (1985) cũng đã tổng hợp khá kĩ các quan niệm về nghĩa. Tác giả nhận thấy rằng “những ý kiến cho nghĩa của từ là quan hệ (quan hệ của từ với đối tương hoặc quan hệ của từ với khái niệm – chúng tôi nhấn mạnh) gần gũi với chân lí hơn” “nghĩa của từ là một đối tượng phức tạp, bao gồm một số thành tố đơn giản hơn” như sau “nghĩa sở chỉ”, “nghĩa sở biểu”, “nghĩa sở dụng”, “nghĩa kết cấu” [22,126]. Hoàng Phê, trong tác phẩm Logic – Ngôn ngữ học (1989) quan niệm rằng “Nghĩa của từ cần được nghiên cứu trong mối quan hệ nhiều mặt, không những trong quan hệ với nhận thức và với hiện thực mà còn quan hệ với cấu trúc nội tại, cũng như trong quan hệ hệ thống và quan hệ tổ hợp với những nghĩa từ khác trong ngữ, trong câu, trong lời” [83,10]. Gần đây, Lê Quang Thiêm trong tập bài giảng “Ngữ nghĩa học” đã có những đề nghị về vấn đề nghĩa “nghĩa là một thực thể tinh thần() nên quan điểm chức năng phải được xem là nòng cốt trung tâm của kiến giải nghĩa” “nghĩa (từng loại) hay mỗi loại nghĩa thể hiện trong quan hệ với chức năng song không là chức năng riêng rẽ trong hoạt động mà là một loại chức năng thể hiện qua văn cảnh. Trong phạm vi nghĩa từ vựng là các loại hình chức năng từ vựng ngữ nghĩa, trong phạm vi nghĩa ngữ pháp, ngữ dụng cũng là khái quát loại chức năng ngữ pháp và dụng học” [97,86]
Trong lịch sử nghiên cứu ngữ nghĩa học, từ là đơn vị được phần lớn các nhà nghiên cứu tập trung xem xét về phương diện ý nghĩa cho nên ngữ nghĩa học cũng đồng nghĩa với ngữ nghĩa học từ vựng (hay ngữ nghĩa học cấu trúc). Nói khác đi nói đến ngữ nghĩa học cũng là nói đến ngữ nghĩa trong phạm vi từ (tất nhiên hiện nay ngữ nghĩa học đã mở rộng hơn sang cấp độ câu, cấp độ văn bản). Dưới đây chúng tôi chỉ tập trung làm rõ vấn đề nghĩa của từ và các thành phần ý nghĩa của từ theo quan điểm của Đỗ Hữu Châu.
Theo Đỗ Hữu Châu trong các công trình ngữ nghĩa học, ý nghĩa của từ là một khối thống nhất nhưng có thể được phân hóa thành nhiều lớp nghĩa khác nhau. Nói khác đi từ một sự kiện “đại – ngữ nghĩa”, người ta đi sâu nghiên cứu vấn đề “vi – ngữ nghĩa” của từ. Trong từ có hai lớp nghĩa lớn là lớp nghĩa cấu trúc hóa (lớp nghĩa ngôn ngữ) và lớp nghĩa liên hội (lớp nghĩa lời nói). Nếu lớp nghĩa cấu trúc có tính chất cố định, bền vững, chung cho mọi thành viên xã hội thì lớp nghĩa liên hội lại là những nghĩa chưa cố định, biến động theo sự biến động của xã hội, tùy thuộc vào cá nhân người sử dụng. Trong lớp nghĩa cấu trúc, thông thường theo quan niệm truyền thống, người ta phân hóa thành hai loại ý nghĩa là ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp. Ý nghĩa từ vựng là ý nghĩa riêng của từng từ, thể hiện mối quan hệ giữa từ với sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan, là ý nghĩa hướng ngoại. Ý nghĩa ngữ pháp là ý nghĩa chung cho nhiều từ cùng loại, thể hiện mối quan hệ giữa từ với từ trong hệ thống ngôn ngữ, là ý nghĩa hướng nội. Ý nghĩa từ vựng của từ đến lượt nó tiếp tục được chia thành ba thành phần ý nghĩa là ý nghĩa biểu vật, ý nghĩa biểu niệm và ý nghĩa biểu thái. Dưới đây là sự phân tích cụ thể về các thành phần ý nghĩa này.
1.2.1.1. Ý nghĩa biểu vật
Ý nghĩa biểu vật là “thành phần nghĩa của từ liên quan đến sự vật hoặc phạm vi sự vật trong thế giới mà từ gợi ra khi ta tiếp xúc với nó” [12, 199]. Đây là thành phần nghĩa gọi tên các sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan. Thực tế khách quan ấy bao gồm hiện thực thực có được nhận biết bởi các giác quan của con người, chiếm một khoảng không gian nhất định trong hiện thực và hiện thực của tư tưởng, của tinh thần con người mà nói như Đỗ Hữu Châu là “nơi khởi phát các quá trình và nơi gắn vào các thuộc tính” [8, 157]. Về mối liên hệ giữa ý nghĩa biểu vật và sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan cũng phải được hiểu một cách đúng đắn. Ý nghĩa biểu vật liên quan đến các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan nhưng không phải là chính các sự vật, hiện tượng đó. “Ý nghĩa biểu vật của các từ là các ánh xạ của sự vật, thuộc tính, vận động ngoài ngôn ngữ vào ngôn ngữ, ánh xạ có nghĩa là không hoàn toàn đồng nhất, là có sự cải tạo lại, nói tổng quát là có sự ngôn ngữ hóa, sự cấu trúc hóa” [8, 159]. Bởi sự vật tồn tại trong thế giới ở những dạng khác nhau trong đó dạng cơ bản là vật chất, trong khi đó ý nghĩa biểu vật của từ thuộc về phạm trù tinh thần của ngôn ngữ. Mặt khác sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan chỉ tồn tại ở những dạng thức cá thể, cụ thể trong khi đó nói đến ý nghĩa biểu vật của từ là nói đến phạm trù loại sự vật có tính chất khái quát. Hơn nữa thực tế khách quan ngoài ngôn ngữ là một dải liên tục và về cơ bản là thống nhất giữa các dân tộc nhưng khi đi vào ngôn ngữ lại được chia cắt thành những phần, đoạn không giống nhau. Vì thế ý nghĩa biểu vật của các từ ở các dân tộc khác nhau cũng không hoàn toàn trùng nhau. Có hiện tượng cùng thể hiện một phạm vi sự vật mà ngôn ngữ này có nhiều từ, ngôn ngữ khác lại có ít từ, có ngôn ngữ có từ, có ngôn ngữ lại không có từ, có ngôn ngữ nhấn mạnh vào đặc điểm này, có ngôn ngữ nhấn mạnh vào đặc điểm khác. Tất cả những điều trình bày ở trên một lần nữa khẳng định ý nghĩa biểu vật của từ và sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan là hai phạm trù khác nhau. Ý nghĩa biểu vật thuộc phạm trù ngôn ngữ còn sự vật, hiện tượng thuộc phạm trù thực tế khách quan.
1.2.1.2. Ý nghĩa biểu niệm
Ý nghĩa biểu niệm là thành phần ý nghĩa thứ hai trong ý nghĩa từ vựng của từ. Ý nghĩa biểu niệm là “hợp thể những hiểu biết được đưa vào hệ thống ngữ nghĩa của một ngôn ngữ về ý nghĩa biểu vật của từ” [8, 197]. Nó cũng là ý nghĩa “hạt nhân” thuộc cấu trúc bề sâu trong tương quan với ý nghĩa biểu vật thuộc cấu trúc bề mặt của từ. Có thể thấy ý nghĩa biểu niệm một mặt quan hệ với ý nghĩa biểu vật (và qua đó quan hệ với sự vật, hiện tượng ngoài ngôn ngữ), mặt khác lại có quan hệ với khái niệm (và qua đó mà cũng quan hệ với sự vật, hiện tượng ngoài ngôn ngữ). Sự đối lập giữa ý nghĩa biểu niệm và ý nghĩa biểu vật trong ngôn ngữ có lẽ không cần bàn thêm vì nó tương đương với sự phân biệt sự vật, hiện tượng trong thực tế với khái niệm trong tư duy về chúng nhưng giữa ý nghĩa biểu niệm và khái niệm thì cần có một cái nhìn đối lập biện chứng tức là vừa đối lập vừa thống nhất. Đối lập ở chỗ ý nghĩa biểu niệm và khái niệm thuộc hai phạm trù khác nhau cho nên chức năng và tiêu chí đánh giá chúng là không giống nhau. Khái niệm là đơn vị cơ bản của nhận thức, là sản phẩm của tư duy con người cho nên chức năng của khái niệm là nhận thức và tiêu chí đánh giá của chúng là tiêu chí chân lý (đúng / sai) còn ý nghĩa biểu niệm là đơn vị của ngôn ngữ nên có chức năng là tổ chức công cụ và tổ chức lời nói, vì thế tiêu chuẩn đánh giá của chúng là sự thuận tiện và dễ dùng. Đối lập như vậy nhưng giữa chúng luôn có sự thống nhất bởi chúng đều sử dụng những vật liệu tinh thần của tư duy và không có khái niệm thì không có ý nghĩa biểu niệm. Đến đây có thể nhận thấy sự vận động chuyển hóa biện chứng giữa hai đối tượng này “khái niệm chuyển hóa thành ý nghĩa biểu niệm trong ngôn ngữ rồi ý nghĩa biểu niệm lại chuyển hóa thành khái niệm trong giao tiếp” [8, 202]. Ý nghĩa biểu niệm của một từ là tập hợp của một số nét nghĩa. Tập hợp ấy sẽ hình thành nên cấu trúc ý nghĩa biểu niệm (nội dung này sẽ được nói kỹ ở phần sau).
1.2.1.3. Ý nghĩa biểu thái
Thành phần nghĩa thứ ba trong ý nghĩa từ vựng của từ là ý nghĩa biểu thái (hay ý nghĩa biểu cảm). Đây là thành phần ý nghĩa được xem xét trong mối quan hệ với người dùng (thái độ, tình cảm, cảm xúc và cách đánh giá của con người). Ý nghĩa biểu thái là thành phần ý nghĩa đi kèm tạo thành đường viền làm cho từ thực sự trở nên sinh động và cụ thể của ngôn ngữ.
Như vậy, trong ý nghĩa từ vựng của từ nếu ý nghĩa biểu vật có tính cụ thể, bề mặt thì ý nghĩa biểu niệm có tính trừu tượng, ở bề sâu còn ý nghĩa biểu thái có ý nghĩa bao quanh.
1.2.2. Nét nghĩa và cấu trúc ngữ nghĩa của từ
Trung tâm của ý nghĩa từ vựng là ý nghĩa biểu niệm. Ý nghĩa biểu niệm cũng là những vi – hệ thống với những phần tử hợp thành nhỏ hơn, không thể phân chia được nữa được gọi là nét nghĩa (nghĩa vị, nghĩa tố, thành tố ngữ nghĩa, hạt nhân ngữ nghĩa)
Để phân xuất nét nghĩa, người ta vận dụng phép phân tích thành tố nghĩa (analyse componentielle) phổ biến trong lịch sử ngữ nghĩa học. J Lyon đã so sánh sự phân xuất này với một tỷ lệ thức có dạng chung
a : b = c : d
Giả sử ta đặt mối quan hệ trên thành các thừa số như
2 : 6 = 10 : 30 (1)
Ta có thể rút ra các bộ phận 1, 2, 3 và 10. Khi đó tỷ lệ thức (1) có dạng như sau:
(2 × 1) : (2 × 3) = (10 × 1) : (10 × 3)
Trong biểu thức này 1, 2, 3 là các số nguyên tố tức không thể phân tích thành các thừa số nhỏ hơn. 10 không phải là số nguyên tố vì thế ta có thể đặt thừa số chung cho 10 bằng các số nguyên tố 2, 5 (tức 10 = 2 × 5). Khi đó tỷ lệ thức có dạng: (2 × 1) : (2 × 3) = ((2 × 5) × 1) : ((2 × 5) × 3)
Lúc này mỗi số hạng trong 4 số hạng (1, 2, 3, 5) đều là những thành tố tối giản. Những thành tố tối giản trong toán học cũng như các nét nghĩa trong ngữ nghĩa học.
Sự phân xuất nét nghĩa theo tỷ lệ thức toán học trên có thể được minh chứng qua thí dụ sau đây (dẫn theo Lyon)
(1) man (đàn ông) ; woman (đàn bà) ; child (trẻ con)
(2) bull (bò đực) ; cow (bò cái) ; calf (con bê)
Ứng dụng tỷ lệ thức toán học ta có
Man : woman : child = bull : cow : calf
↔[(đực)×(người-lớn)] : [(cái)×(người-lớn)] : [(± đực, cái)×(không-người lớn)]
= [(đực) × (bò – lớn)] : [(cái) × (bò – lớn)] : [(± đực, cái) × (không – bò lớn)]
Từ đó ta rút ra các nét nghĩa (đực) (cái) (người) (bò) (lớn) (không lớn)
Lý thuyết phân tích thành tố nghĩa này đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát tr...hỉ những khó khăn mà thị trường vấp phải. (TD: Thị trường dễ bị tổn thương trước những cú thắt chặt về tài chính – tin247.com). Chết lâm sàng vốn là hiện tượng bệnh lí tim bệnh nhân đã ngừng đập, não không có tín hiệu hoạt động nhưng các tế bào trong cơ thể vẫn còn sống, người bệnh ở trạng thái thứ ba, ngoài sống và chết, chuyển trường để chỉ hiện tượng các doanh nghiệp, công ty không có sự tác động, hoạt động. (TD: 20% doanh nghiệp phá sản, 60% nằm im dưới dạng chết lâm sàng và chỉ có 20% tiếp tục hoạt động – TBKTVN). Chúng tôi thấy những từ ngữ biểu thị trạng thái sức khỏe của con người như ốm, phục hồi, bình phục, hồi phục, sốt, suy yếu có tần suất sử dụng rất cao.
Sự chuyển trường nghĩa của các từ ngữ y tế, sức khỏe sang trường nghĩa kinh tế bắt nguồn từ sự giống nhau giữa sức khỏe của con người với sự phát triển của nền kinh tế, ngành kinh tế. Con người là một cơ thể sống, có lúc ốm yếu, lúc khỏe mạnh. Nền kinh tế, ngành kinh tế cũng là một hệ thống giống như một cơ thể sống có những biến động, lúc phát triển, lúc suy thoái. Chính sự tương đồng này là cơ sở để các từ ngữ ở ngành y tế, sức khỏe chuyển sang sử dụng trong các ngành kinh tế. Đồng thời sự chuyển trường nghĩa của các từ ở nhóm này cũng đã đem lại tính sinh động, tính sống động cho ngành kinh tế.
Trên đây chúng tôi đã trình bày những vấn đề về hiện tượng chuyển trường nghĩa của các từ ngữ từ các lĩnh vực khác nhau sang lĩnh vực kinh tế. Sự chuyển trường nghĩa của các từ ngữ này vẫn diễn ra trên cơ sở của hai quá trình liên tưởng tương đồng và liên tưởng tương cận ứng với hai phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ và hoán dụ trong ngôn ngữ. Theo dõi quá trình chuyển trường nghĩa của các từ, chúng tôi thấy nhóm từ thuộc vốn từ toàn dân đang chuyển mạnh sang nhóm từ ngữ ngành kinh tế và hi vọng rằng, qua thời gian, với sự tác động tích cực của người dùng ngôn ngữ, những từ ngữ này sẽ trở thành hệ thống thuật ngữ của ngành. Riêng những từ ngữ của các nhóm ngành khác như thể thao, quân sự, y tế, KHTN chuyển sang thì màu sắc chuyên ngành chưa cao, tính thuật ngữ (chính xác, khoa học, trí tuệ) còn thấp cho nên nó chỉ làm tăng cường khả năng diễn đạt của người sử dụng ngôn ngữ kinh tế. Mặt khác, chúng tôi thấy, kinh tế Việt Nam nhất là những ngành kinh tế thuộc khu vực dịch vụ tài chính là những ngành kinh tế mới nổi thì việc “mượn” từ ngữ của các ngành khác theo cách chuyển trường là cần thiết, để rồi theo thời gian, cùng với sự phát triển của các ngành kinh tế ấy và sự tác động tích cực của con người, các từ ngữ đang chuyển này dần dần ổn định và gia nhập vào hệ thống từ ngữ của ngành kinh tế.
3.2.6. Đánh giá chung về hiện tượng chuyển trường nghĩa của từ ngữ từ các trường nghĩa có liên quan với từ ngữ ngành kinh tế
3.2.6.1. Nguyên nhân của hiện tượng chuyển trường
Hiện tượng chuyển trường nghĩa của từ ngữ từ các lĩnh vực đời sống xã hội, quân sự, thể thao, KHTN, y tế sang lĩnh vực kinh tế bắt nguồn từ hai nguyên nhân cơ bản:
a) Nguyên nhân ngôn ngữ học
Đây là nguyên nhân có tính phổ biến với tất cả các hiện tượng chuyển trường. Nó được thể hiện ở mâu thuẫn vốn có trong hệ thống ngôn ngữ. Đó là sự mâu thuẫn giữa tính hữu hạn của các đơn vị ngôn ngữ với tính vô hạn của thực tế khách quan phải gọi tên. Vì thế ngôn ngữ phải tạo ra những đơn vị định danh mới bằng cách lấy vỏ ngữ âm cũ (đã có nghĩa) rồi thổi vào đó một lượng nghĩa mới (nghĩa biểu vật hoặc nghĩa biểu niệm). Mặt khác, khi đã có những đơn vị định danh nhưng số lượng những đơn vị định danh này vẫn thấp thua so với thực tế khách quan cho nên người dùng ngôn ngữ lại giải quyết mâu thuẫn này bằng cách tạo ra những đơn vị ngôn ngữ mới, tức là từ ngữ (cả ngôn ngữ và lời nói) để biểu thị thực tế khách quan. Hơn nữa khi sử dụng ngôn ngữ do các đơn vị từ vựng tồn tại trong lòng hệ thống (hoặc trong các trường từ) luôn cố định nên thường có tính trung hòa về mặt ý nghĩa dễ tạo sự mòn sáo mà trong lời nói người nói luôn luôn muốn biểu thị những cái mới, những cách nói mới để thuyết phục người nghe. Vì vậy muốn tạo ra tính chất mới mẻ hấp dẫn ấy, người ta làm “lạ hóa” các từ ngữ bằng cách nhắc các từ ngữ ở trường nghĩa này sang hoạt động ở trường nghĩa khác. Sự chuyển di này nhằm tạo ra sự đối lập mới cho các từ ngữ cần phải diễn đạt.
b) Nguyên nhân xã hội – văn hóa
Bên cạnh nguyên nhân về ngôn ngữ học, hiện tượng chuyển trường nghĩa của các từ ngữ từ các trường nghĩa khác sang lĩnh vực kinh tế còn chịu sự chi phối của thực tiễn xã hội, lịch sử, văn hóa. Đó là sự chi phối của thời đại. Ở mỗi thời đại khác nhau sẽ có một số trường từ ngữ chi phối mạnh mang theo màu sắc thời đại. Chẳng hạn, trong thời kì chiến tranh, các từ ngữ quân sự chiếm số lượng lớn ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Ở thời hòa bình, các từ ngữ về cuộc sống sinh hoạt lại chiếm số lượng lớn. Hiện nay là thời đại của tri thức, của khoa học công nghệ, của kinh tế thị trường, của sự giao lưu, mở cửa và hội nhập với quốc tế, cho nên không phải ngẫu nhiên những từ ngữ về kinh tế đã và đang “hút” về phía mình tất cả những từ ngữ khác. Mặt khác cũng phải thấy rằng trong xã hội hiện đại, các ngành, các lĩnh vực của đời sống luôn có nhu cầu liên thông, xuyên thấm lẫn nhau, dựa vào nhau để phát triển cho nên từ ngữ chuyển từ trường này sang trường khác cũng là điều dễ hiểu. Thêm vào đó, hiện tượng chuyển trường nghĩa này cũng có thể là hiện tượng có tính thời thượng để có thể bắt kịp sự phát triển của xã hội hiện đại. Ở một khía cạnh khác, cũng phải thấy rằng sự tri nhận của con người bằng cách nhìn một đối tượng này thông qua một đối tượng khác ngày càng mở rộng. Cụ thể là, những không gian tư duy phức tạp, vô hình được con người xác lập thông qua những không gian tư duy đơn giản hơn, cụ thể hơn để có thể nhận biết nhanh đối tượng và đa dạng hóa sự nói năng của con người. Chẳng hạn như quan niệm, kinh tế là chiến tranh, kinh tế là một cuộc thi đấu, kinh tế là một bài toán, kinh tế là một cơ thể sống.
3.2.6.2. Tác dụng và hạn chế
Hiện tượng chuyển trường nghĩa của từ ngữ từ các lĩnh vực sang lĩnh vực kinh tế làm cho từ trong lời nói có sự đa dạng phong phú về sắc thái biểu hiện, sắc thái biểu thái, thu hút sự chú ý của người dùng ngôn ngữ. Từ ý nghĩa thuật ngữ khô cứng, mòn sáo nay tạo cho từ sự mới mẻ, sinh động; từ ý nghĩa biểu vật thường trực, cố định nay mở thêm những ý nghĩa biểu vật mới; từ ý nghĩa biểu niệm chuyên ngành nay phát triển thêm các nét nghĩa mới làm phong phú cách diễn đạt, kích thích nhận thức và trí tuệ của con người. Nhờ vậy mà nhiều khi người đọc, người nghe cảm thấy những từ ngữ chuyển trường để sử dụng trong kinh tế còn “đắc địa” và hấp dẫn hơn những từ ngữ chuyên môn tương ứng.
Tuy nhiên trong quá trình sử dụng không nên quá lạm dụng từ ngữ ở các lĩnh vực khác bởi không phải bất kỳ từ ngữ nào cũng có thể chuyển sang để dùng trong lĩnh vực kinh tế. Chúng chỉ có thể chuyển trường khi giữa chúng có một hoặc một vài nét nghĩa tương đồng nào đó. Hơn nữa, việc sử dụng nhiều từ ngữ của các chuyên ngành khác (quân sự, thể thao, KHTN, y tế) trên văn bản kinh tế nhiều khi sẽ làm mất đi cái đặc trưng, cái “bản sắc” của văn bản đó.
TIỂU KẾT
1. Chuyển di ngữ nghĩa là một trong những con đường cơ bản và hữu hiệu nhất để hình thành từ ngữ mới trong lĩnh vực kinh tế. Sự chuyển di này tuy khá phức tạp và tinh tế nhưng có thể quy về hai dạng: hiện tượng chuyển nghĩa của từ và hiện tượng chuyển trường nghĩa của từ.
Chuyển nghĩa là hình thái chuyển di ngữ nghĩa để xây dựng nên những từ ngữ đã có tính chất cố định trong hệ thống dựa trên quy luật liên tưởng với hai phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ và chuyển nghĩa hoán dụ. Từ đó, từ ngữ mới ngành kinh tế có sự thay đổi về ý nghĩa làm cho từ ngữ trở nên chính xác hóa, khoa học hóa và trí tuệ hóa.
Hiện tượng chuyển trường nghĩa của từ ngữ từ các trường nghĩa có liên quan sang từ ngữ ngành kinh tế là hiện tượng thường thấy trong thực tế sử dụng từ ngữ kinh tế. Nó ít nhiều chưa có tính cố định mà còn mang tính chất lâm thời, phụ thuộc vào hoàn cảnh sử dụng của người dùng. Trong tương lai, những từ ngữ chuyển trường này có thể di chuyển vào hệ thống tạo thành lớp từ ngữ mới hay chỉ đơn thuần xuất hiện trong lời nói là phụ thuộc vào sự tác động tích cực của người dùng ngôn ngữ,
2. Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ kinh tế thông qua hai hiện tượng chuyển nghĩa và chuyển trường nghĩa có mối quan hệ chặt chẽ với đặc điểm cấu tạo. Chính ngữ nghĩa là yếu tố quyết định tạo nên lớp từ ngữ mới đồng thời quy định sự kết hợp các yếu tố tạo từ, phân biệt các từ có cùng phương thức cấu tạo, cùng kiểu cấu tạo. Cho nên xét đến cùng trong cấu tạo từ ngữ nói chung và từ ngữ kinh tế nói riêng thì yếu tố ngữ nghĩa giữa các thành tố cấu tạo là yếu tố quyết định đặc điểm của từ.
3. Để tạo ra những từ ngữ mới trong lĩnh vực kinh tế, người sử dụng ngôn ngữ cần tiếp tục tạo ra những thành tố cấu tạo mới với những ý nghĩa mới và biến quá trình tạo từ trở thành một quá trình có ý thức “tự giác”, từ đó định hướng sự phát triển của từ vựng kinh tế nói riêng và từ vựng tiếng Việt nói chung
KẾT LUẬN
1. Những điều trình bày trên đây về vận động tạo từ và tạo nghĩa của từ ngữ kinh tế được rút ra từ cứ liệu thống kê hơn 1000 đơn vị từ ngữ xuất hiện trong mươi mười lăm năm lại đây. Điều này khẳng định sự phát triển mạnh mẽ của từ ngữ kinh tế cả về số lượng và chất lượng. Nó đã phản ánh kịp thời những biến động của kinh tế nước nhà, sự xuất hiện của các hiện tượng kinh tế mới, các hoạt động kinh tế cụ thể trong các ngành kinh tế nhất định. Nó đã làm cho diện mạo từ vựng tiếng Việt hiện nay ngày càng đổi mới theo xu hướng “trí tuệ hóa và đa dạng hóa” (Nguyễn Ngọc Trâm).
2. Những từ ngữ kinh tế hiện nay khá đa dạng và phong phú. Sự đa dạng và phong phú thể hiện ở chỗ nó đã thu nạp và làm phong phú cho vốn từ ngữ của lĩnh vực này bằng các phương thức vay mượn từ ngữ từ các ngôn ngữ tiếp xúc như ngôn ngữ Hán và các ngôn ngữ Anh – Mỹ, sử dụng các phương thức cấu tạo từ của tiếng Việt (tạo từ mới, tạo nghĩa mới). Trong các phương thức tạo từ mới, người ta đã tận dụng được các kiểu cấu tạo từ, các mô hình tạo từ có sức sản sinh mạnh để tạo ra được nhiều từ mới trong các ngành kinh tế. Đó là kiểu ghép hợp nghĩa với mô hình ghép hợp nghĩa phi cá thể bao gộp và kiểu ghép phân nghĩa với các mô hình ghép phân nghĩa một chiều dị biệt và ghép phân nghĩa hai chiều. Hai kiểu ghép trên phù hợp và phản ánh hai xu hướng phát triển của từ vựng, xu hướng khái quát hóa và xu hướng loại biệt hóa. Điều đó cũng hoàn toàn phù hợp với việc tạo ra các thuật ngữ chuyên ngành nói chung và các thuật ngữ kinh tế nói riêng.
3. Song song với hai cách tạo từ ngữ mới là vay mượn từ ngữ ở các ngôn ngữ tiếp xúc và tạo từ theo các phương thức cấu tạo từ của tiếng Việt, chuyển đổi ý nghĩa của từ dựa trên những yếu tố cũ để tạo ra nhiều từ mới, nghĩa mới cũng là một hiện tượng ngữ nghĩa đang phát huy tác dụng ở từ vựng các ngành kinh tế. Quá trình chuyển đổi ý nghĩa của các từ diễn ra theo quy luật liên tưởng, trong đó hai hướng liên tưởng cơ bản là liên tưởng tương đồng và liên tưởng tương cận ứng với hai phương thức chuyển nghĩa mà truyền thống ngôn ngữ học vẫn gọi là ẩn dụ và hoán dụ. Chuyển đổi ý nghĩa bao gồm hiện tượng chuyển nghĩa tạo ra các nghĩa mới có tính cố định và chuyển các trường nghĩa tạo ra các nghĩa mới có tính lâm thời. Quá trình chuyển nghĩa của các từ sẽ làm cho các từ ngữ trở nên chính xác hóa, khoa học hóa và trí tuệ hóa, phù hợp với từ ngữ thuộc lĩnh vực kinh tế.
4. Để tạo ra các từ ngữ mới cho hệ thống từ vựng nói chung và hệ thống từ ngữ kinh tế nói riêng không chỉ vận dụng các phương thức tạo từ, các kiểu tạo từ có tính năng động mà còn phải tạo ra các nguyên liệu cấu tạo từ mới. Từ vựng tiếng Việt nói chung cũng như các từ ngữ khoa học nói riêng đều tận dụng các đơn vị cũ, đó là hệ thống các từ đơn tiết (hình vị), rồi biến đổi ngữ nghĩa bản thân các yếu tố đó. Đây chính là nguồn nguyên liệu dồi dào, sẵn có đối với ngôn ngữ. Từ các phương thức cấu tạo, các kiểu cấu tạo với các nguyên liệu cấu tạo ấy, người dùng ngôn ngữ có thể tác động để điều khiển được quá trình tạo nghĩa, tạo từ theo hướng chuẩn mực và dễ dùng.
5. Trong vốn từ ngữ mới của ngành kinh tế, bên cạnh những từ ngữ có tính chất cố định, chuẩn mực cũng còn có khá nhiều những đơn vị mới có tính chất lâm thời. Nói cách khác, trong các đơn vị mới này tính thành ngữ ý nghĩa giữa các yếu tố cấu tạo còn lỏng lẻo, hình thức ngữ âm còn dài. Tuy nhiên các đơn vị từ ngữ này lại xuất hiện đồng loạt và có tính hệ thống cao, được sử dụng với tần suất lớn. Chúng tôi thiết nghĩ cùng với thời gian, với chiều hướng phát triển chung của ngôn ngữ và sự “can thiệp” tích cực của người dùng ngôn ngữ, những từ ngữ này sẽ hoàn chỉnh hơn về hình thức và cố kết hơn về ý nghĩa để có thể đi vào hệ thống thuật ngữ của ngành kinh tế.
6. Sự phát triển của từ ngữ kinh tế được biểu hiện trước hết ở số lượng từ ngữ tăng nhanh về số lượng nhưng hơn hết theo chúng tôi là phải nhận diện được một số xu hướng phát triển từ ngữ để tiếp tục tạo ra những từ ngữ mới trong tương lai. Điều này khiến hệ thống từ ngữ kinh tế nói riêng và hệ thống từ vựng tiếng Việt nói chung là một hệ thống luôn có sự vận động: vận động để sản sinh từ ngữ mới, nghĩa mới và vận động để chuyển hóa những từ ngữ có tính chất lâm thời trong sử dụng thành từ ngữ có tính chất cố định trong hệ thống, làm giàu vốn từ ngữ chuyên ngành.
7. Từ ngữ kinh tế phát triển theo nhu cầu của chính xã hội – nhu cầu có ý thức và có định hướng. Vì thế cần phải có chính sách ngôn ngữ để đáp ứng nhu cầu định hướng này. Nói khác đi, con người phải tác động tích cực đến hướng phát triển của từ ngữ kinh tế để việc sử dụng từ ngữ trở nên thống nhất, chuẩn mực, hiện đại nhưng vẫn giữ được bản sắc dân tộc. Đây là công việc có tính chất cấp thiết và vai trò tiên quyết được nhiều nhà ngôn ngữ học xác định là số đông người có văn hóa.
8. Trong thời đại bùng nổ của khoa học công nghệ, bên cạnh những ngành kinh tế có tính truyền thống, ở Việt Nam đang xuất hiện những ngành kinh tế mới. Sự xuất hiện của nó đòi hỏi phải có một hệ thống từ ngữ mới, hệ thống tên gọi mới đáp ứng nhu cầu biểu thị các khái niệm kinh tế, các hiện tượng kinh tế, các hoạt động kinh tế Do đó việc tập hợp, nghiên cứu hệ thống các từ ngữ trong ngành kinh tế, qua đó nhận diện những kiểu cấu tạo từ, những mô hình cấu tạo từ tiềm năng và rút ra những xu hướng phát triển là cần thiết. Từ đó để hướng tới việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống từ ngữ, thuật ngữ cho các ngành kinh tế.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
Lê Thị Thùy Vinh (2011), Mấy nhận xét về từ ghép hợp nghĩa trong các ngành kinh tế hiện nay, Từ điển học và Bách khoa thư, Số 4 (12), tr.46
Lê Thị Thùy Vinh (2012), Mấy nhận xét về từ ngữ các ngành kinh tế trong những năm gần đây, Kỉ yếu Hội thảo khoa học cán bộ trẻ các trường ĐHSP toàn quốc lần thứ II, tr.375- 382
Lê Thị Thùy Vinh (2012), Hiện tượng chuyển trường nghĩa của từ ngữ từ các trường nghĩa trong đời sống xã hội sang từ ngữ nhóm ngành kinh tế, Kỉ yếu Hội nghị khoa học trẻ lần thứ VII Trường ĐHSP Hà Nội 2, tr. 345-351
Lê Thị Thùy Vinh (2014), Từ ngữ vay mượn trong nhóm ngành kinh tế, Kỉ yếu Hội thảo khoa học cán bộ trẻ các trường ĐHSP toàn quốc lần thứ IV, tr.408 – 416
Lê Thị Thùy Vinh (2015), Một số xu hướng phát triển của từ ngữ kinh tế, Từ điển học và Bách khoa thư, Số 1(33), tr 27-30.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Belakhov L.Iu, Những vấn đề tiêu chuẩn hóa Nhà nước về thuật ngữ, Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học (Như Ý dịch)
2. Phan Văn Các (2003), Từ điển từ Hán – Việt, Nxb thành phố Hồ Chí Minh
3. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp tiếng Việt (Tiếng – Từ ghép – Đoản ngữ), Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
4. Đỗ Hữu Châu (1962), Giáo trình Việt ngữ - tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Đỗ Hữu Châu (1981), Trường từ vựng ngữ nghĩa và hiện tượng nhiều nghĩa từ vựng, Một số vấn đề ngôn ngữ học Việt Nam, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
7. Đỗ Hữu Châu (1986), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Đỗ Hữu Châu (1987), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
9. Đỗ Hữu Châu (chủ biên) (1994), Tiếng Việt 10, Ban KHXH, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Hoàng Văn Châu (chủ biên) (2003), Từ điển kinh tế ứng dụng Anh – Việt, Nxb Thống kê, Hà Nội.
11. Trần Nhật Chính (2002), Sự phát triển của từ vựng tiếng Việt hiện đại (30 năm đầu thế kỉ XX: 1900 – 1930), Luận án Tiến sĩ, ĐHQG Hà Nội
12. Mai Ngọc Chừ (chủ biên) – Nguyễn Thị Ngân Hoa, Đỗ Việt Hùng, Bùi Minh Toán (2007), Nhập môn ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
13. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2009), Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
14. Cosunop G.G, Xumburôva X.I (1968), Công tác thuật ngữ, nguyên lí và phương pháp, Matxcơva, Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học.
15. Công ti dịch thuật quốc tế (1996), Từ điển Việt – Anh thương mại – tài chính thông dụng, Nxb Thống kê, Hà Nội.
16. Hồng Dân (1979), Tham luận về chuẩn hóa thuật ngữ khoa học, Tạp chí Ngôn ngữ, Số 3 +4
17. Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (2001), Mấy vấn đề về tiếng Việt hiện đại, Nxb ĐHQG, Tp Hồ Chí Minh.
18. Einar Haugen (1953), Quá trình vay mượn, trong Các công trình ngôn ngữ học nước ngoài, Tập bài dịch của Viện Ngôn ngữ học Hà Nội.
19. Gerd, A.C (1978), Ý nghĩa thuật ngữ và các kiểu loại ý nghĩa thuật ngữ (Lê Ngọc Văn dịch), Tài liệu của Viện Ngôn ngữ học.
20. Gak V.G (2002), Từ mới và từ điển từ mới, trong Một số vấn đề Từ điển học (tập tài liệu dịch), Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
21. Quách Thị Gấm (2010), Cách xây dựng thuật ngữ khoa học đầu thế kỉ XX (qua khảo sát cuốn Danh từ khoa học của Hoàng Xuân Hãn), Từ điển học và Bách khoa thư, số 6.
22. Nguyễn Thiện Giáp (1985), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
23. Nguyễn Thiện Giáp (1996), Từ và nhận diện từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội
24. Nguyễn Thiện Giáp (2010), Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
25. Nguyễn Thiện Giáp (2011), Vấn đề “từ” trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
26. Nguyễn Thiện Giáp (2014), Nghĩa học Việt ngữ, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
27. Nguyễn Thị Bích Hà (1999), Mấy nhận xét về đặc điểm thuật ngữ thương mại, Tạp chí Ngôn ngữ, số 6 (117), tr 73.
28. Nguyễn Thị Bích Hà (2000), So sánh cấu tạo thuật ngữ kinh tế thương mại trong tiếng Nhật và tiếng Việt hiện đại, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường ĐH KHXH&NV – ĐHQG Hà Nội.
29. Nguyễn Thị Bích Hà (2004), Đặc điểm cấu tạo thuật ngữ thương mại Nhật Việt, Nxb KHXH, Hà Nội.
30. Kim Thị Thu Hà (2007), Từ ngữ mới trong tiếng Việt trên báo điện tử VNXPRESS năm 2006, Luận văn thạc sĩ khoa học, Trường ĐHSP Hà Nội.
31. Vũ Quang Hào (1991), Hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt: Đặc điểm và cấu tạo thuật ngữ, Luận án PTS khoa học ngữ văn, Hà Nội.
32. Vũ Quang Hào (1993), Thuật ngữ quân sự tiếng Việt, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
33.Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, Nxb Giáo dục, Hà Nội
34. Hoàng Xuân Hãn (1951), Danh từ khoa học, NXB Minh Tân, Paris
35. Hoàng Văn Hành (1983), Về sự hình thành và phát triển thuật ngữ tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4 (58), tr 26.
36. Hoàng Văn Hành (1985) Từ hoá hình vị, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, tr 21 - 22
37. Đỗ Việt Hùng (2004), Nét nghĩa và hoạt động của nét nghĩa trong kết hợp từ, Tạp chí Ngôn ngữ, Số 2, tr21.
38. Đỗ Việt Hùng (2013), Ngữ nghĩa học từ bình diện hệ thống đến hoạt động, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
39. Kandelaki T.L, Hệ thống khái niệm khoa học và hệ thống thuật ngữ, Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học (Dương Kỳ Đức dịch)
40. Kapanadze L.A (1978), Về những khái niệm thuật ngữ và hệ thuật ngữ, Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học (Trần Thị Tuyên dịch)
41. Nguyễn Văn Khang (2000), Chuẩn hóa thuật ngữ, nhìn lại từ góc độ bối cảnh xã hội, Ngôn ngữ, số 1.
42. Nguyễn Văn Khang (2000), Những vấn đề đặt ra đối với việc xử lí từ ngữ nước ngoài trong tiếng Việt, Ngôn ngữ, số 10.
43. Nguyễn Văn Khang (2007), Từ ngoại lai trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
44. Nguyễn Văn Khang (2008), Những vấn đề chuẩn hóa ngôn ngữ và chuẩn hóa tiếng Việt, Ngôn ngữ, số 12.
45. Nguyễn Văn Khang (2009), Những vấn đề chuẩn hóa ngôn ngữ và chuẩn hóa tiếng Việt, Ngôn ngữ, số 1.
46. Nguyễn Thúy Khanh (2001), Ảnh hưởng của các nhân tố xã hội tới sự phát triển và sự hành chức của các từ mới trong tiếng Việt, trong Những vấn đề ngôn ngữ học (Kỉ yếu hội nghị khoa học), Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
47. Klimoviskij J.A.A, Thuật ngữ và tính chế ước của định nghĩa khái niệm trong hệ thống, Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học (Như Ý dịch)
48. Lê Khả Kế (1967), Xây dựng hệ thuật ngữ khoa học bằng tiếng Việt, Tiếng Việt và dạy đại học bằng tiếng Việt, Nxb KHXH, Hà Nội.
49. Lê Khả Kế (1975), Về một vài vấn đề trong việc xây dựng thuật ngữ khoa học ở nước ta, Ngôn ngữ, Số 3.
50. Lê Khả Kế (1979), Về vấn đề thống nhất và chuẩn hóa thuật ngữ khoa học tiếng Việt, Ngôn ngữ, Số 3 + 4.
51. Lê Khả Kế (1984), Chuẩn hóa thuật ngữ khoa học tiếng Việt, Chuẩn hóa chính tả và thuật ngữ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
52. Kogotkova T.X (1971), Lịch sử hình thành hệ thống thuật ngữ chính trị, xã hội, Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học (Như Ý dịch, Tuấn Tài hiệu đính)
53. Kutina L.L, Những quá trình ngôn ngữ xuất hiện khi hình thành các thuật ngữ khoa học, Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học.
54. Lưu Vân Lăng (1977), Thống nhất quan niệm về chuẩn hóa của thuật ngữ khoa học, Ngôn ngữ, Số 1.
55. Vân Lăng – Như Ý (1977), Tình hình và xu hướng phát triển thuật ngữ tiếng Việt trong mấy chục năm qua, Ngôn ngữ, số 1.
56. Hồ Lê (1976), Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
57. Hồ Lê (1985), Vị trí của âm tiết, nguyên vị và từ trong tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr 17 - 24
58. Mai Thị Loan (2011), Tìm hiểu nguồn gốc các yếu tố cấu tạo thuật ngữ Luật sở hữu trí tuệ tiếng Việt, Từ điển học và Bách khoa thư, Số 2 (10).
59. Mai Thị Loan (2011), Các kiểu cấu tạo thuật ngữ sở hữu trí tuệ tiếng Việt, Từ điển học và Bách khoa thư, Số 5 (13).
60. Mai Thị Loan (2011), Đặc điểm định danh của thuật ngữ sở hữu trí tuệ tiếng Việt, Ngôn ngữ, số 6.
61. Liên hiệp các Hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam – Hội Ngôn ngữ học Việt Nam (tháng 12/2008), Thuật ngữ tiếng Việt trong đổi mới và hội nhập (Tài liệu Hội thảo tư vấn), Hà Nội.
62. Lotte D.S (1961), Nguyên lí xây dựng thuật ngữ khoa học kĩ thuật, Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học, 1975.
63. Nguyễn Văn Lợi (2010), Những vấn đề lí luận trong thuật ngữ học ở Liên bang Nga, Từ điển học và Bách khoa thư, Số 6 (8).
64. Nguyễn Văn Lợi (2010), Một số vấn đề lí luận về thuật ngữ học trên thế giới và ở Việt Nam trong Đề tài khoa học cấp bộ do Hà Quang Năng (chủ nhiệm đề tài) Một số vấn đề cơ bản về lí luận và phương pháp luận của thế giới và Việt Nam về việc biên soạn từ điển chuyên ngành và thuật ngữ, Viện KHXH Việt Nam – Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam, Hà Nội.
65. Bùi Thị Thanh Lương (2006), Từ ngữ mới tiếng Việt (trên tư liệu giai đoạn từ năm 1986 đến nay), Luận án tiến sĩ, Viện Ngôn ngữ học
66. Lyon J (1997), Nhập môn ngôn ngữ học lí thuyết, Nxb Giáo dục.
67. Lyon J (2006), Ngữ nghĩa học dẫn luận, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
68. Diêu Hán Minh (2002), Bàn về từ mới và chuẩn hóa, Một số vấn đề Từ điển học (tập tài liệu dịch), Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
69. Vương Thị Thu Minh (2005), Khảo sát thuật ngữ y học tiếng Anh và cách phiên chuyển sang tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học KHXH&NV – ĐHQG Hà Nội.
70. Moixeev A.I (1978), Về bản chất ngôn ngữ của thuật ngữ, Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học (Hoàng Lộc dịch)
71. Lê Bá Miên (1986), Về các yếu tố thứ hai trong từ ghép phân nghĩa một chiều , Thuật ngữ khoa học một số ngành công nghiệp Việt Nam.
72. Lê Bá Miên (1996), Mấy nhận xét về từ ghép hợp nghĩa tiếng Việt hiện đại, Ngữ học trẻ, Hà Nội, tr 49 -52.
73. Lê Bá Miên (2004), Sự phát triển của từ ghép hợp nghĩa tiếng Việt, Đề tài khoa học cấp Bộ, Trường ĐHSP Hà Nội 2 – MS B2002.41.18 – Phòng QLKH Trường ĐHSP Hà Nội 2.
74. Hà Quang Năng (chủ biên) (2009), Sự phát triển của từ vựng tiếng Việt nửa sau thế kỉ XX, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
75. Hà Quang Năng (2010), Đặc điểm của thuật ngữ tiếng Việt, Từ điển học và Bách khoa thư, số 1.
76. Hà Quang Năng (chủ nhiệm đề tài) (2010), Một số vấn đề cơ bản về lí luận và phương pháp luận của thế giới và Việt Nam về việc biên soạn từ điển chuyên ngành và thuật ngữ, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện KHXH VN – Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam, Hà Nội.
77. Hà Quang Năng (chủ biên) (2012), Thuật ngữ học: Những vấn đề lí luận và thực tiễn, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội
78. Nguyễn Văn Ngọc (2012), Từ điển kinh tế học, Nxb Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
79. Nikiforov V.K, Về tính hệ thống của thuật ngữ, Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học (Nguyễn Trọng Báu dịch)
80. Hoàng Phê (1975), Phân tích ngữ nghĩa, Ngôn ngữ, Số 2.
81. Hoàng Phê (1978), Về quan điểm và phương hướng chuẩn hóa tiếng Việt, Ngôn ngữ, Số 3.
82. Hoàng Phê (chủ biên) (2000), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học, Nxb Đà Nẵng
83. Hoàng Phê (2003), Logic – Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng
84. Hoàng Phê (2008), Tuyển tập ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng.
85. Nguyễn Sanh Phúc (1999), Từ điển Anh – Anh - Việt, Nxb Văn hóa Thông tin
86. Reformatxki A.A (1978), Thế nào là thuật ngữ và hệ thống thuật ngữ, Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học (Hồ Anh Dũng dịch)
87. P.A Ru-đích (1980), Tâm lý học, Nxb Thể dục thể thao, Hà Nội (Nguyễn Văn Hiếu dịch)
88. Saussure F de (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
89. Solncev V.M (1990), Về cấp độ hình vị trong tiếng Việt, Tạp chí ngôn ngữ, sô 1, tr 10 - 12
90. Superanskaja A.V (1976), Thuật ngữ và danh pháp, Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học (Như Ý dịch)
91. Nguyễn Thị Tân (1981), Thay thế từ vay mượn trong thuật ngữ, Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ, tập 2, Nxb KHXH, Hà Nội.
92. Nguyễn Kim Thản (1963), Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, Nxb KHXH, Hà Nội.
93. Nguyễn Kim Thản (1975), Thử nhìn lại chặng đường phát triển của tiếng Việt trong 30 năm qua, Ngôn ngữ, Số 3.
94. Nguyễn Kim Thản (1982), Tiếng Việt trên đường phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
95. Nguyễn Thị Kim Thanh (2005), Khảo sát hệ thuật ngữ tin học viễn thông tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường ĐH KHXH&NV – ĐHQG Hà Nội.
96. Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận – từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
97. Lê Quang Thiêm (2006), Ngữ nghĩa học, Nxb Giáo dục, Hà Nội
98. Trần Ngọc Thêm (1984), Bàn về hình vị tiếng Việt dưới góc độ ngôn ngữ học đại cương, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, tr 54.
99. Chu Bích Thu (2001), Một vài hướng phát triển từ vựng và vấn đề chuẩn hóa, Ngôn ngữ, Số 3
100. Chu Bích Thu (chủ biên) (2002), Từ điển từ mới tiếng Việt, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
101. Chu Bích Thu, Phạm Anh Tú (2005), Nhận xét về cách sử dụng từ ngữ mới trong Báo Thể thao và văn hóa (từ năm 2000 đến 3/2005), Ngữ học trẻ 2005.
102. Nguyễn Ngọc Trâm (2000), Từ Hán Việt trong sự phát triển từ vựng tiếng Việt giai đoạn hiện nay, Ngôn ngữ, Số 5.
103. Nguyễn Ngọc Trâm (2002), Về hai xu hướng trong phát triển từ vựng tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, Số 6.
104. Nguyễn Cảnh Toàn (1983), Một số vấn đề xung quanh việc chuẩn hóa chính tả và thuật ngữ, Ngôn ngữ, Số 4.
105. Nguyễn Đức Tồn (2003), Cần phân biệt hai bình diện nhận thức và bản thể trong nghiên cứu ngôn ngữ học, Ngôn ngữ, số 11.
106. Nguyễn Đức Tồn (2010), Những cơ sở lí luận và thực tiễn khi xây dựng chính sách ngôn ngữ của Việt Nam trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Ngôn ngữ, Số 1.
107. Nguyễn Đức Tồn (2010), Một số vấn đề về nghiên cứu, xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ tiếng Việt trong thời kì hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay, Ngôn ngữ, Số 12.
108. Nguyễn Đức Tồn (2011), Một số vấn đề về nghiên cứu, xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ tiếng Việt trong thời kì hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay, Ngôn ngữ, Số 1.
109. Nguyễn Đức Tồn (2012), Nghiên cứu, khảo sát thuật ngữ tiếng Việt phục vụ cho việc xây dựng Luật ngôn ngữ ở Việt Nam, Công trình cấp Bộ, Mã số: CT 11-13-02.
110. Nguyễn Đức Tồn, Vũ Thị Thu Huyền (2012), Về đặc điểm mô hình cấu tạo và việc chuẩn hóa thuật ngữ xây dựng là cụm từ trong tiếng Việt, Ngôn ngữ, Số 5.
111. Nguyễn Văn Tu (1976), Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
112. Hoàng Mạnh Tuấn (1970), Về công tác tiêu chuẩn hóa thuật ngữ khoa học kĩ thuật, Ngôn ngữ, Số 4.
113. Xukhov N.K, Công tác có tính chất quốc tế trong lĩnh vực thuật ngữ khoa học kĩ thuật, Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học (Như Ý dịch)
114. Như Ý (1978), Tham luận về chuẩn hóa thuật ngữ khoa học, Ngôn ngữ, Số 3 +4
115. Nguyễn Như Ý (1992), Về phương thức cấu tạo thuật ngữ trong một số công trình xuất bản tại Việt Nam thời kì 1954 – 1975, Tạp chí Khoa học xã hội, Số 14.
116. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ Ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
117. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
118. Viện Ngôn ngữ học, Hội Ngôn ngữ học TP. Hồ Chí Minh (2009), Hoàng Tuệ tuyển tập, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
119. Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm Từ điển học (2008), Hoàng Phê tuyển tập Ngôn ngữ học
120. Viện Ngôn ngữ học (1981), Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Tiếng Anh
121. Antrushina G.B, Afanasyeva O.V, Morozova N.N (2006), English Lexicology, Moscow
122. Aitchinson, Jean (1987), Words in Mind: An Introduction to the Mental Lexicon, Oxford: Blackwell
123. Allan. Keith (1986), Linguistic Meaning, 2 vols. London and New York
124. Chierchia, Gennaro, and McConnell – Ginet, Sally (1990), Meaning and Grammar: An Introduction to Semantics. Cambridge, MA: Mit Press
125. Cruse J. (1986), Lexical Semantics, Cambridge and New York: Cambridge University Press
126. Jackson H. (2002), Lexicography. An Introduction, Roudledge, London and New York
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_van_dong_tao_tu_tao_nghia_cua_tu_ngu_kinh_te.doc