BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
TRẦN BÌNH TUYÊN
VĂN CHÍNH LUẬN
NGUYỄN ÁI QUỐC -HỒ CHÍ MINH
TỪ GÓC NHÌN LÝ THUYẾT PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 62.22.02.40
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÔN NGỮ HỌC
Huế, 2017
Công trình được hoàn thành tại:
Trƣờng Đại học Khoa học, Đại học Huế
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Trương Thị Nhàn
2. TS. Nguyễn Thị Bạch Nhạn
Phản biện 1: GS.TS. Lê Quang Thiêm
- Viện Ngô
27 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 446 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tóm tắt Luận án - Văn chính luận Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh từ góc nhìn lý thuyết phân tích diễn ngôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ôn ngữ học Việt Nam
Phản biện 2: PGS.TS. Bùi Mạnh Hùng
- Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Phản biện 3: PGS.TS. Phạm Văn Tình
- Viện Từ điển và Bách khoa thư Việt Nam
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Đại
học Huế họp tại Thành phố Huế.
vào hồi giờ. ngày tháng năm 2017
Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc Gia
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phân tích diễn ngôn là một trong những hướng nghiên cứu ngôn ngữ
mới theo hệ hình chức năng luận: nghiên cứu ngôn ngữ trong giao tiếp,
trong quá trình sử dụng; nhấn mạnh đến chức năng và tính mục đích của
các hình thức ngôn ngữ trong quá trình hành chức. Bên cạnh đó, chúng
tôi nhận thấy văn chính luận nói chung và văn chính luận Nguyễn Ái Quốc
– Hồ Chí Minh nói riêng có những yếu tố phù hợp với hướng nghiên cứu
của phân tích diễn ngôn (tính mục đích trong lựa chọn và sử dụng ngôn
ngữ, mối quan hệ giữa ngữ cảnh với ngôn ngữ, sự tác động của ngôn ngữ
đối với người tiếp nhận) nhưng chưa được tiếp cận. Với những lý do
trên, chúng tôi lựa chọn thực hiện đề tài nghiên cứu Văn chính luận
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh từ góc nhìn lý thuyết phân tích diễn ngôn.
2. Mục đích nghiên cứu
– Làm sáng tỏ đặc điểm diễn ngôn chính luận Nguyễn Ái Quốc –
Hồ Chí Minh từ quan điểm ngữ pháp chức năng hệ thống của Halliday về
phương diện ngữ vực.
– Góp phần chứng minh ngôn ngữ như một thực thể của xã hội, có
mối quan hệ biện chứng với các yếu tố bên ngoài ngôn ngữ.
– Góp phần vào việc phân tích những tác phẩm văn chính luận nói chung
và văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trong nhà trường.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án xác định những nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản sau:
– Nghiên cứu lý thuyết:
+ Xác lập khung lý thuyết áp dụng cho phương pháp phân tích diễn ngôn
nhằm xác định những bước khảo sát, phân tích cụ thể và những nội dung
trọng tâm mà luận án hướng tới;
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và nghiên cứu tổng quan làm cơ sở
cho việc nghiên cứu.
– Khảo sát, thu thấp ngữ liệu.
– Từ khung lý thuyết áp dụng và những vấn đề lý luận đã được xác
định, luận án tiến hành khảo sát, phân tích ngữ liệu một cách có hệ thống
trên các phương diện đặc trưng về Trường, Không khí và Cách thức.
– Rút ra những nhận xét tổng quát về vấn đề nghiên cứu.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
– Đối tượng nghiên cứu của luận án là đặc điểm văn chính luận
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh qua các đặc trưng về Trường, đặc trưng
về Không khí và đặc trưng về Cách thức.
2
– Luận án sử dụng 13 tác phẩm tiêu biểu được in trong Hồ Chí Minh
tuyển tập (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2002) làm ngữ liệu để khảo
sát vì đây là những ngữ liệu có tính chính danh và phổ biến nhất hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thu thập ngữ liệu
5.2. Phương pháp phân tích ngữ liệu
5.2.1. Phương pháp phân tích diễn ngôn: Tập trung sử dụng khung lý
thuyết ngữ pháp chức năng hệ thống của Halliday để phân tích các đặc
điểm ngôn ngữ văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh nhằm
làm rõ các phương diện: đặc trưng về Trường, đặc trưng về Không khí và
đặc trưng về Cách thức.
5.2.2. Ngoài ra, luận án còn sử dụng các thủ pháp nghiên cứu như thủ
pháp miêu tả định lượng, thủ pháp miêu tả định tính.
6. Ý nghĩa/đóng góp của luận án
6.1. Về lý luận
Luận án góp phần khẳng định thêm giá trị của phương pháp phân
tích diễn ngôn: không chỉ quan tâm đến hệ thống cấu trúc ngôn ngữ mà
còn quan tâm đến các chức năng của ngôn ngữ; xem xét đối tượng nghiên
cứu trong tính tổng thể, ngôn ngữ hành chức, ngôn ngữ hoạt động, tương
tác xã hội hay việc sử dụng ngôn ngữ; qua đó chứng minh ngôn ngữ như
một thực thể của xã hội, có mối quan hệ biện chứng với xã hội.
6.2. Về thực tiễn
– Việc phân tích đặc điểm ngôn ngữ xét theo quan điểm của
Halliday về các chức năng ngôn ngữ cũng như đặt ngôn ngữ trong mối
quan hệ với các yếu tố của tình huống giao tiếp cụ thể sẽ giúp làm sáng
tỏ đặc điểm văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trên các
phương diện: đặc trưng về Trường, Không khí và Cách thức; qua đó góp
phần làm phong phú thêm hướng nghiên cứu cũng như những đặc điểm
ngôn ngữ văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
– Những kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần nâng cao hiệu
quả tiếp nhận văn bản chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trong
chương trình Ngữ văn phổ thông.
– Luận án cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
dạy và học văn bản chính luận nói chung và sự nghiệp văn chương của
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh nói riêng trong chương trình Ngữ văn
phổ thông.
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết phân tích diễn ngôn
1.1.1.1. Về lý thuyết phân tích diễn ngôn
3
a. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Những tác giả đầu tiên đề cập đến Phân tích diễn ngôn là Harris (1952),
Mitchell (1957), Sinclair và Couthard (1975, 1977). Năm 1975, trong
công trình Logic and conversation (Lôgích và hội thoại), Grice đã phác
thảo lý thuyết về hàm ngôn (theory of implicature). Đến năm 1983,
Brown và Yule trong Discourse Analysis (Phân tích diễn ngôn) đã nghiên
cứu phân tích diễn ngôn một cách cụ thể cả về khái niệm, phương pháp
và những cơ sở lý thuyết của việc phân tích diễn ngôn. Bên cạnh đó còn
có các nhà ngôn ngữ khác có những nghiên cứu chuyên sâu về Phân tích
diễn ngôn như Levinson (1983), Halliday (1985), Nunan (1997),
b. Ở Việt Nam
Thời kỳ đầu, khi đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ vượt khỏi câu để
hướng đến đối tượng văn bản, tiêu biểu có các tác giả như Trần Ngọc
Thêm (1985), Diệp Quang Ban (1998, 2002), đã bước đầu nghiên cứu
các vấn đề liên quan đến giao tiếp, phân tích diễn ngôn và cấu tạo của văn
bản. Ở giai đoạn tiếp theo, các tác giả như Nguyễn Thiện Giáp (2000),
Đỗ Hữu Châu (2001) đã đề cập đến các vấn đề ngữ dụng học. Đặc biệt, với
sự xuất hiện của những công trình của hai nhà nghiên cứu Nguyễn Hòa
(Phân tích diễn ngôn: Một số vấn đề lý luận và phương pháp – 2003,
Phân tích diễn ngôn phê phán, lý luận và phương pháp – 2006) và
Diệp Quang Ban (Giao tiếp, diễn ngôn và văn bản – 2012), phân tích diễn
ngôn mới thực sự được giới thiệu một cách cụ thể và có hệ thống.
– Ngoài những tác giả đã nêu ở trên, chúng ta cũng cần nhắc đến một
số tác giả khác như Cao Xuân Hạo (1991), Nguyễn Đức Dân (1996, 1998),
Hoàng Phê (2003),... Những tác giả này, trong những công trình của
mình, cũng đã đề cập đến các vấn đề liên quan đến diễn ngôn và phân
tích diễn ngôn ở những góc độ khác nhau.
1.1.1.2. Về thực tiễn vận dụng lý thuyết phân tích diễn ngôn vào nghiên cứu
các thể loại diễn ngôn trong tiếng Việt. Ở Việt Nam có nhiều công trình ứng
dụng lý thuyết phân tích diễn ngôn vào nghiên cứu cụ thể với hai xu
hướng: sử dụng cứ liệu ngôn ngữ trong các văn bản chính trị - xã hội và
sử dụng cứ liệu là ngôn ngữ trong các tác phẩm văn học.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về văn chính luận NAQ – HCM
a. Trên thế giới
Những công trình cơ bản mang tính khái quát, tập trung nghiên cứu
về hình tượng của tác giả cũng như tư tưởng, nội dung và nghệ thuật nói
chung, chưa có những bài viết thực sự chuyên sâu về vấn đề ngôn ngữ.
Tiêu biểu là các tác giả: N. I. Niculin (Nga), U. Bớcset (Úc), Apđen
Malếch Khalin (Cộng hòa Ả Rập thống nhất), Saclơ Phuôc-ni-ô (Pháp),
b. Ở Việt Nam
b1. Những nghiên cứu chung về ngôn ngữ văn chính luận Nguyễn Ái Quốc
– Hồ Chí Minh. Chịu ảnh hưởng của khuynh hướng cấu trúc, các công
4
trình nghiên cứu thường tập trung vào những đặc điểm của những đơn vị
riêng lẻ như từ, ngữ cố định, câu và các kiểu câu; chưa quan tâm đến các
phạm trù thuộc về bản chất của hoạt động ngôn ngữ như tính mạch lạc và
các mối quan hệ giữa ngôn ngữ, cộng đồng người sử dụng ngôn ngữ, sự
tác động của các yếu tố từ ngữ cảnh tình huống. Vì vậy, giá trị khai thác
tập trung vào nghĩa biểu hiện và đánh giá về phong cách tác gia.
b2. Những nghiên cứu về chiến lược giao tiếp ngôn ngữ văn chính
luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh: có góc nhìn khái quát về chiến
lược trong cách lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ nhằm phù hợp với từng
đối tượng tiếp nhận, từng ngữ cảnh cụ thể. Tuy nhiên, những công trình
này chỉ mang tính định hướng, khái quát và tách rời từng đơn vị ngôn
ngữ, do đó chưa nghiên cứu đối tượng một cách hệ thống, chưa thấy được
các chức năng cơ bản của ngôn ngữ trong quá trình hành chức.
Văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh cũng được nghiên
cứu sinh, học viên cao học tham gia tìm hiểu, nghiên cứu với các phương
diện như nhịp điệu, từ Hán Việt, nghệ thuật lập luận và phong cách, đặc
điểm ngôn ngữ Hồ Chí Minh.
1.2. Một số vấn đề lý luận chung
1.2.1. Lý thuyết phân tích diễn ngôn
1.2.1.1. Một số khái niệm cơ bản
a. Khái niệm diễn ngôn
Theo chúng tôi, khái niệm của Widdowson (1984) là khái niệm cụ thể
và toàn diện hơn cả khi tác giả đồng nghĩa hóa diễn ngôn với cách dùng
chuỗi các câu để tạo nên các hành vi giao tiếp nối kết thành các đơn vị giao
tiếp lớn hơn: Diễn ngôn là một quá trình giao tiếp. Kết quả về mặt tình
huống của quá trình này là sự thay đổi trong sự thể: thông tin được chuyển
tải, các ý định được làm rõ, và sản phẩm của quá trình này là văn bản.
b. Khái niệm phân tích diễn ngôn
Chúng tôi tán đồng khái niệm của Brown và Yule khi các tác giả đã
nêu bật được đối tượng nghiên cứu của phân tích diễn ngôn là ngôn ngữ
hành chức, nhấn mạnh đến chức năng và tính mục đích của các hình thức
ngôn ngữ trong quá trình hành chức: Phân tích diễn ngôn nhất thiết là sự
phân tích ngôn ngữ hành chức. Như vậy, không thể giới hạn phân tích diễn
ngôn với việc miêu tả các hình thức ngôn ngữ mà không quan tâm đến
mục đích hay chức năng mà các hình thức này tạo ra để đảm nhận trong thế
giới hoạt động của con người.
1.2.1.2. Lý thuyết ngữ pháp chức năng hệ thống
Theo Halliday, phân tích ngữ pháp là một quan điểm 3 bình diện,
phân tích nghĩa theo 3 cấp độ. Đối với Halliday, ngữ pháp được xem là
5
hệ thống, chứ không phải là các quy tắc. Halliday đã đồng hóa nghĩa với
chức năng và ông sử dụng cú như là một đơn vị cơ sở để giải thích chức
năng ngôn ngữ. Ông khẳng định, ngôn ngữ là một công cụ giao tiếp, và
phải thực hiện ba siêu chức năng: kinh nghiệm, liên nhân và tạo văn bản.
Về bản chất, SFG là ngữ pháp hệ hình, nhìn nhận ngôn ngữ như là một
nguồn lực tạo nghĩa, do đó việc sử dụng ngôn ngữ là sự lựa chọn các
nguồn lực. Bên cạnh đó, SFG là lý thuyết hướng đến các chức năng ngôn
ngữ trong hoạt động giao tiếp chứ không phải hướng đến chức năng tổ
chức hệ thống tín hiệu. Vì vậy, những vấn đề như nội dung biểu hiện bên
trong diễn ngôn – thông qua kinh nghiệm của người sử dụng ngôn ngữ;
mối quan hệ liên nhân giữa người tạo lập và người giải mã; cách thức tổ
chức thông điệp, liên kết diễn ngôn là những vấn đề trọng tâm của SFG và
cũng là những vấn đề luận án chúng tôi muốn hướng tới.
1.2.1.3. Lý thuyết ngữ vực
Chúng tôi tán đồng với quan niệm của Halliday (1989) về ngữ vực khi
tác giả cho rằng: Ngữ vực là một kiểu biến thể ngôn ngữ trong sử dụng,
gắn liền với một tình huống giao tiếp nhất định, một cấu hình nghĩa và đề
cập đến một nội dung hoặc một lĩnh vực nhất định. Như vậy, theo
Halliday, ngữ vực là một cấu hình nghĩa có tính chất tiềm năng của văn
bản, gắn liền với đặc điểm tình huống, được đặc trưng bởi Trường (field),
Không khí (tenor) và Cách thức (mode). Ba đặc trưng này ứng với ba
siêu chức năng ngôn ngữ: kinh nghiệm, liên nhân và tạo văn bản.
Bên cạnh những nội dung trên, trong luận án, chúng tôi cũng trình bày
một số vấn đề liên quan đến phân tích diễn ngôn như: tính chất quan yếu
của diễn ngôn; quy chiếu và bản chất của quy chiếu trong phân tích diễn
ngôn; cấu trúc diễn ngôn và chức năng xã hội của diễn ngôn; mạch lạc
trong diễn ngôn. Các khái niệm và những đặc tính riêng của lý thuyết
phân tích diễn ngôn sẽ là cơ sở lý luận để chúng tôi xem xét, phân tích
những đặc điểm của diễn ngôn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh,
qua đó thấy được mối quan hệ biện chứng giữa ngôn ngữ và các tình
huống giao tiếp, thấy được các chức năng của ngôn ngữ trong quá trình
hoạt động của nó.
1.2.2. Khái quát về văn chính luận và văn chính luận NAQ – HCM
Luận án nhấn mạnh đến những đặc trưng của văn chính luận cũng
như một số đặc điểm nổi trội của văn chính luận Nguyễn Ái Quốc –
Hồ Chí Minh, đặc biệt là vấn đề ngữ cảnh; qua đó thấy được văn chính
luận nói chung và văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh nói riêng
là những cứ liệu phù hợp với khung lý thuyết đã xác định.
6
CHƢƠNG 2
ĐẶC TRƢNG VỀ TRƢỜNG
TRONG VĂN CHÍNH LUẬN NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH
Trường diễn ngôn là một trong ba yếu tố thuộc ngữ cảnh tình huống
thể hiện chức năng kinh nghiệm, đặc biệt là ở khía cạnh kinh nghiệm
được giải thích bởi hệ thống chuyển tác. Chuyển tác được miêu tả như
nguồn gốc của sự diễn giải kinh nghiệm dưới dạng hình thể của các quá
trình, các tham tố tham gia vào quá trình và các chu cảnh liên quan đến
quá trình trong cú, qua đó nghĩa kinh nghiệm được giải thích. Những
hình thể này được khẳng định bằng hai hệ thống: các kiểu quá trình và
chu cảnh hóa. Đây cũng chính là hai nội dung chính chúng tôi sẽ tìm hiểu
trong chương này nhằm làm nổi rõ những đặc trưng về Trường trong văn
chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
2.1. Đặc trƣng về Trƣờng trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc –
Hồ Chí Minh qua các quá trình chuyển tác
Bảng 2.1. Thống kê các kiểu quá trình
trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
Trƣớc năm 1945 Sau năm 1945
TT Kiểu quá trình
Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Quá trình vật chất 826 59,3 293 58,8
2 Quá trình tinh thần 98 7,0 39 7,8
3 Quá trình hành vi 51 3,7 4 0,8
4 Quá trình phát ngôn 134 9,6 12 2,5
5 Quá trình quan hệ 237 17,0 146 29,3
6 Quá trình tồn tại 48 3,4 4 0,8
Tổng 1.394 100 498 100
2.1.1. Quá trình vật chất
a. Quá trình vật chất trong diễn ngôn chính luận trước năm 1945
Bảng 2.2. Thống kê quá trình vật chất với các Hành thể khác nhau
trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trƣớc năm 1945
Quá trình vật chất
Số lƣợng Tỷ lệ (%)
Hành thể
Kẻ thù 641 77,6
Người dân bản xứ 155 18,8
Chủ thể diễn ngôn 30 3,6
Tổng 826 100
Tác giả tập trung phản ánh các quá trình vật chất do đối tượng kẻ thù
làm Hành thể tác động đến Đích thể là người dân bản xứ (641 trường hợp,
chiếm 77,6%). Trọng tâm của các quá trình này là hệ thống các động từ
chỉ hoạt động vật lý với nhiều phạm trù nghĩa khác nhau như: đàn áp
7
(Ví dụ: đánh: 28 lượt, bắt: 22 lượt, giết: 22 lượt, bắn: 9 lượt,...); nô dịch
về văn hóa, chính trị; và bóc lột, áp bức về kinh tế (Ví dụ, cướp: 16 lượt,
vơ vét: 3 lượt,...) qua đó nêu bật giá trị tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực
dân. Ngược lại, quá trình Hành thể là người dân bản xứ chiếm tỷ lệ thấp
hơn tập, trung chủ yếu vào quá trình không có tác động Đích thể, phản ánh
những hoạt động buộc phải thực hiện dưới sự áp bức của kẻ thù về mọi
mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội (Ví dụ, chết: 24 lượt, lẩn trốn/trốn đi
lính: 8 lượt, đóng/nộp thuế: 5 lượt, đi phu/đi tạp dịch: 5 lượt,...).
b. Quá trình vật chất trong diễn ngôn chính luận sau năm 1945
Bảng 2.4. Thống kê quá trình vật chất với các Hành thể khác nhau
trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh sau năm 1945
Quá trình vật chất
Số lƣợng Tỷ lệ (%)
Hành thể
Kẻ thù 88 30
Nhân dân Việt Nam 197 67,2
Chủ thể diễn ngôn 8 2,8
Tổng 293 100
Nếu như trong diễn ngôn trước năm 1945, Hành thể trong các quá
trình vật chất chủ yếu là đối tượng thực dân thì sau 1945 Hành thể lại
tập trung vào đối tượng là nhân dân Việt Nam với 197 quá trình, chiếm
67,2 %, phù hợp với thể loại, kêu gọi, hiệu triệu. Sự chuyển đổi này đã
phản ánh cụ thể những hoạt động, sự kiện như lao động và chiến đấu một
cách chủ động, hăng say của các tầng lớp nhân dân Việt Nam trong hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (Ví dụ: đoàn kết,
chiến đấu, tiến công, đánh,).
2.1.2. Quá trình tinh thần
a. Quá trình tinh thần trong diễn ngôn chính luận trước năm 1945
Bảng 2.6. Thống kê quá trình tinh thần với các Cảm thể khác nhau
trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trƣớc năm 1945
Quá trình tinh thần
Số lƣợng Tỷ lệ (%)
Cảm thể
Kẻ thù 45 45,9
Người dân bản xứ 24 24,5
Chủ thể diễn ngôn 29 29,6
Tổng 98 100
Trong giai đoạn này, tác giả tiếp tục tập trung xây dựng quá trình tinh
thần do đối tượng kẻ thù làm Cảm thể nhằm phản ánh tâm lý đối tượng
này với nhiều trường nghĩa: hung hãn, tàn bạo (Ví dụ: nổi cơn thịnh nộ,
8
khùng lên,); dối trá, lừa bịp, mị dân (Ví dụ: khao khát, căm tức,);
đớn hèn, ngu xuẩn (Ví dụ: hoảng sợ, lo sợ,). Việc sử dụng quá trình
tinh thần ít so với quá trình vật chất (45 so với 641 trường hợp) cũng cho
thấy việc đối tượng kẻ thù không có sự đắn đo, dằn vặt trước những tội ác
mà chúng đã gây ra đối với người dân bản xứ, qua đó giá trị tố cáo được
đẩy lên cao độ. Ngược lại, tâm lý của người dân bản xứ cùng chung một
trạng thái duy nhất là bị động, mất tự chủ trước sự áp bức, đàn áp của chế
độ thực dân (Ví dụ: khiếp sợ, lo sợ,).
b. Quá trình tinh thần trong diễn ngôn chính luận sau năm 1945
Bảng 2.8. Thống kê quá trình tinh thần với các Cảm thể khác nhau
trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh sau năm 1945
Quá trình tinh thần
Số lƣợng Tỷ lệ (%)
Cảm thể
Kẻ thù 4 10,3
Nhân dân Việt Nam
35 89,7
Chủ thể diễn ngôn
Tổng 39 100
Qua bảng số liệu 2.8 chúng ta thấy, hoàn cảnh lịch sử thay đổi dẫn
đến những thay đổi trong diễn ngôn văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc
– Hồ Chí Minh: Sau 1945, quá trình tinh thần mà Cảm thể là nhân dân
Việt Nam chiếm đa số (35 trường hợp. chiếm 89,7%) với những động từ
tâm lý mang tính chất “tích cực” với trường nghĩa khác nhau: quyết tâm,
đoàn kết; hy vọng, tin tưởng,... vào những thắng lợi to lớn của dân tộc
trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ. Ngược lại, qua quá trình tinh thần,
kẻ thù thể hiện sự hoang mang, khiếp sợ trước sức mạnh của Việt Nam
và sự thất bại tất yếu của chúng.
2.1.3. Quá trình phát ngôn
a. Quá trình phát ngôn trong diễn ngôn chính luận trước năm 1945
Bảng 2.10. Thống kê quá trình phát ngôn với các Phát ngôn thể khác nhau
trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trước năm 1945
Quá trình phát ngôn
Số lƣợng Tỷ lệ (%)
Phát ngôn thể
Kẻ thù 73 54,5
Người dân bản xứ 20 14,9
Chủ thể diễn ngôn 41 30,6
Tổng 134 100
Bảng kết quả số liệu 2.10 cho thấy có sự chênh lệch rất lớn về các
quá trình phát ngôn giữa các Phát ngôn thể khác nhau. Nếu như Phát
ngôn thể thực hiện quá trình phát ngôn là đối tượng kẻ thù chiếm tỷ lệ
cao nhất (73 trường hợp với tỷ lệ 54,5%) tập trung vào các động từ chỉ
9
hoạt động nói năng thuộc nhóm điều khiển, trình bày, cam kết và tuyên
bố (Ví dụ: ra lệnh, yêu cầu, khoe, hứa hẹn, cam kết, tuyên bố,) biểu hiện
trường nghĩa quyền lực; gian dối, mị dân thì con số các quá trình phát
ngôn của người dân bản xứ chỉ là 20 trường hợp (chiếm 14,9%) chủ yếu
là các động từ chỉ hoạt động nói năng thuộc nhóm điều khiển (Ví dụ:
van xin, van nài, kêu van,), qua đó phản ánh hiện thực xã hội bất
công: người dân bản xứ “thấp cổ bé họng” khó có thể nói lên tiếng nói
đòi dân chủ, nhân quyền trong khi chế độ thực dân thể hiện sự tàn bạo,
độc đoán của chúng cho dù chỉ ở khía cạnh phát ngôn.
b. Quá trình phát ngôn trong diễn ngôn chính luận sau năm 1945
Bảng 2.12. Thống kê quá trình phát ngôn với các Phát ngôn thể khác nhau
trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh sau năm 1945
Quá trình phát ngôn
Số lƣợng Tỷ lệ (%)
Phát ngôn thể
Kẻ thù 2 16,7
Nhân dân Việt Nam
10 83,3
Chủ thể diễn ngôn
Tổng 12 100
Sau năm 1945, trong kiểu quá trình phát ngôn, tác giả tập trung vào
những phát ngôn có tính quyền lực, công vụ (Ví dụ: tuyên bố, cảm ơn,
chào mừng,...) do Phát ngôn thể là tác giả diễn ngôn – Chủ tịch Hồ Chí Minh,
đại diện cho Chính phủ và nhân dân Việt Nam. Dù không nhiều nhưng
những quá trình phát ngôn này cũng góp phần vào phản ánh bức tranh
lịch sử của dân tộc trong thời kỳ mới: thời kỳ độc lập, chủ quyền.
2.1.4. Quá trình quan hệ
Bảng 2.13. Thống kê quá trình quan hệ
trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
Giai đoạn Trƣớc 1945 Sau 1945
Kiểu quá trình Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Quan hệ sâu 183 77,2 98 67,1
Quan hệ chu cảnh 23 9,7 9 4,1
Quan hệ sở hữu 31 13,1 42 28,8
Tổng 237 100 146 100
a. Quá trình quan hệ trong diễn ngôn chính luận trước năm 1945
Chủ yếu là quá trình quan hệ đồng nhất với sự có mặt của Bị đồng
nhất thể và Đồng nhất thể. Hình thức này không chỉ làm rõ bản chất Bị
đồng nhất thể mà còn tạo nên sự so sánh giữa hai thực thể: Với Bị đồng
nhất thể là bọn thực dân hoặc tay sai thì thuộc tính thể hiện rõ bản chất,
tâm địa độc ác, tàn bạo cũng như lừa đảo, mị dân; với Bị đồng nhất thể là
10
người dân các nước thuộc địa thì quá trình quan hệ lại thể hiện số phận
tủi cực, bị chà đạp, bóc lột,... đến cùng cực.
b. Quá trình quan hệ trong diễn ngôn chính luận sau năm 1945
Tác giả tập trung xây dựng quá trình quan hệ sâu và quá trình quan hệ
sở hữu, đặc biệt là quá trình quan hệ sở hữu với Sở hữu thể là dân tộc
Việt Nam như là một sự khẳng định rõ ràng, đanh thép chủ quyền dân tộc,
vừa nhắc nhở, cảnh báo và khẳng định sức mạnh của dân tộc trước kẻ thù
vừa tạo nên sức mạnh niềm tin nhằm động viên tinh thần đoàn kết toàn dân
trong công cuộc xây dựng và giải phóng dân tộc. Chẳng hạn: Chúng ta có
chính nghĩa, có sức mạnh đoàn kết của toàn dân từ Bắc đến Nam, có
truyền thống đấu tranh bất khuất
2.2. Đặc trƣng về Trƣờng trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc –
Hồ Chí Minh qua chu cảnh chuyển tác
(1) Chu cảnh không gian, trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc
trước 1945, xuất hiện nhiều loại chu cảnh không gian khác nhau: không
gian chỉ những địa danh cụ thể tương ứng với chủ đề (tiểu chủ đề) cũng
như hoàn cảnh sáng tác của tác giả diễn ngôn là ở Pháp và các nước
thuộc địa; không gian gọi tên theo chức năng là kiểu không gian tù đày,
nô dịch, chiến tranh, phản ánh đúng bối cảnh hiện thực đang diễn ra ở các
nước thuộc địa mà diễn ngôn hướng tới; không gian mang tính phiếm chỉ
vừa là cách sử dụng đại từ thay thế nhưng cũng nhằm tạo nên thế đối lập
giữa không gian thuộc địa và chính quốc, có giá trị nâng tính khái quát
của hiện thực được phản ánh.
(2) Chu cảnh thời gian, trước 1945, bên cạnh những chu cảnh thời
gian xác định còn có chu cảnh thời gian theo hành động, sự kiện như:
ngay khi, sau khi,... hay Chu cảnh thời gian không xác định như: một
hôm, một hôm khác, cứ mỗi khi,.. nhằm tăng tính khái quát, tính lặp lại
của sự tình. Sau năm 1945, do mục đích tái hiện những sự kiện lịch sử
trọng đại của dân tộc, Chu cảnh không gian trong các văn bản chính luận
của Hồ Chí Minh thường mang tính xác định.
(3) Chu cảnh cách thức cũng được chú ý sử dụng trong diễn ngôn
chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh cả trước và sau 1945,
nhất là sau 1945, đặc biệt là loại Chu cảnh cách thức chất lượng với
những từ ngữ mang hàm nghĩa đánh giá ở thang độ cao.
(4) Chu cảnh nguyên nhân: Chu cảnh nguyên nhân nhượng bộ thể
hiện những mâu thuẫn, những nghịch lý, bất công trong xã hội chế độ
thực dân trước năm 1945; trong khi đó Chu cảnh nguyên nhân lý do và
Chu cảnh nguyên nhân mục đích lại chỉ rõ bản chất bịp bợm, tàn bạo của
kẻ thù (trước năm 1945) hoặc khẳng định lý tưởng chiến đấu vì chính
nghĩa, vì độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam (sau năm 1945).
11
(5) Bên cạnh đó, các kiểu Chu cảnh còn lại như Chu cảnh vấn đề,
Chu cảnh quan điểm hay Chu cảnh vai diễn cũng có những vai trò cụ
thể trong việc tạo nên “hậu cảnh” hay “tình huống” nhằm giải thích rõ
quá trình, sự kiện hay sự tình đang được hướng tới.
CHƢƠNG 3
ĐẶC TRƢNG VỀ KHÔNG KHÍ
TRONG VĂN CHÍNH LUẬN NGUYỄN ÁI QUỐC–HỒ CHÍ MINH
Ở chương này, chúng tôi tìm hiểu những đặc trưng về Không khí
trong diễn ngôn văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh thể
hiện qua chức năng liên nhân và được cụ thể hóa qua hệ thống Thức
trong các kiểu cú phân theo mục đích nói năng (bao gồm cú nhận định;
cú nghi vấn; cú cầu khiến, cú cảm thán) và hệ thống Tình thái qua các
yếu tố tình thái, các biểu thức quy chiếu, lớp từ ngữ ẩn dụ, các cặp từ
xưng hô, từ Hán Việt và hệ thống tính từ đánh giá.
3.1. Đặc trƣng về Không khí trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc –
Hồ Chí Minh qua các kiểu cú phân theo mục đích nói năng
Bảng 3.1. Thống kê các loại cú
trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
Trƣớc năm 1945 Sau năm 1945
TT Các loại cú
Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Cú nhận định 2.031 91,4 281 87,3
2 Cú nghi vấn 127 5,7 3 0,9
3 Cú cầu khiến 31 1,4 23 7,1
4 Cú cảm thán 34 1,5 15 4,7
Tổng 2.223 100 322 100
3.1.1. Cú nhận định
Trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh ở cả hai giai
đoạn khác nhau, tỷ lệ cú nhận định đều chiếm đa số (lần lượt là 91,4% và
87,3%). Kết quả này cho thấy, bên cạnh việc thể hiện những nhận định,
những thông tin của tác giả về thế giới hiện thực còn phản ánh tính mục
đích trong việc lựa chọn các kiểu cú để xây dựng nội dung chủ đề trong
từng giai đoạn khác nhau: Trước năm 1945, là những nhận định sâu sắc về
sự thật của cái gọi là “công cuộc khai hóa” của chủ nghĩa thực dân tại các
nước thuộc địa, qua đó cũng làm nổi rõ về cuộc sống và số phận người dân
bản xứ; sau 1945, các cú nhận định cung cấp những thông tin về công
cuộc xây dựng, đấu tranh của nhân dân Việt Nam trong thời đại mới,
đồng thời, cũng thể hiện những nhận định cũng như sự khẳng định vào
sức mạnh, niềm tin và chiến thắng của dân tộc.
12
3.1.2. Cú nghi vấn
Trước năm 1945, người hỏi là tác giả hoặc chuyển vai hỏi cho người
dân bản xứ và Tiếp ngôn thể là đối tượng kẻ thù bằng sắc thái mỉa mai,
châm biếm với mục đích khẳng định thông tin và hướng đến vạch trần
tâm địa và tội ác của Tiếp ngôn thể; ngược lại, với Tiếp ngôn thể là người
dân thuộc địa và người dân Pháp chân chính thì tác giả lại có một thái độ
gần gũi, thân tình, kéo họ về phía quan điểm của mình, cùng đồng tình
với mình. Sau cách mạng, người hỏi chính là tác giả với tư cách là Chủ
tịch nước, đại diện cho tiếng nói dân tộc Việt Nam đã chất vấn, vạch trần
tội ác của kẻ thù và tác động mạnh vào tâm lý của các tầng lớp nhân dân
khi đứng trước quyền lợi cá nhân và quyền lợi dân tộc, trước vận mệnh
một mất một còn của đất nước,... qua đó có tác dụng rất lớn trong việc
phục vụ cho mục đích xây dựng chủ đề của diễn ngôn giai đoạn này.
3.1.3. Cú cầu khiến
Trước 1945, cú cầu khiến xuất hiện chủ yếu với phụ từ hãy và chủ ngữ
là ngôi một (chủ thể diễn ngôn) hoặc ngôi hai (đối tượng thực dân) hoặc
khuyết chủ ngữ. Với việc sử dụng ngữ điệu mang sắc thái tương đối trung
tính, cú cầu khiến ở đây như một hình thức dẫn dắt sự kiện nhằm phản ánh,
tố cáo khách quan. Khi chuyển đối tượng giao tiếp với người dân thuộc địa,
tác giả bộc lộ tình cảm, thái độ rõ nét hơn, với mục đích kêu gọi đoàn kết,
thống nhất hành động để đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng cho
người dân khỏi áp bức. Sau 1945, chủ thể diễn ngôn là lãnh đạo tối cao
của Cách mạng Việt Nam nên cú cầu khiến vừa hướng tới kẻ thù vừa
hướng tới nhân dân Việt Nam cũng như người dân yêu chuộng hòa bình
thế giới. Chủ ngữ ngôi một thường là dân tộc, chúng tôi, chúng ta,... Sắc
thái liên nhân tập trung vào mục đích động viên, hiệu triệu. Trong khi đó,
những cú cầu khiến ngôi ba là kẻ thù lại mang sắc thái mệnh lệnh đanh
thép, thể hiện quyết tâm đánh đuổi hết quân xâm lược của toàn thể dân
tộc cũng như bộc lộ quan điểm độc lập, chủ quyền rõ ràng của tác giả.
3.1.4. Cú cảm thán
Trước 1945, tác giả lựa chọn và sử dụng các cú cảm thán không chỉ
bộc lộ những trạng thái, cảm xúc và thái độ, tình cảm của mình trước đối
tượng phản ánh mà đây cũng là một phương thức hữu hiệu để tác giả tạo
mối quan hệ liên nhân với người tiếp nhận, qua đó tranh thủ sự đồng tình
ủng hộ của họ đối với những vấn đề mình nêu ra. Sau 1945, để kêu gọi
toàn dân tộc tham gia công cuộc xây dựng, chiến đấu thống nhất nước nhà,
cú cảm thán tập trung bày tỏ thái độ dứt khoát, tinh thần đấu tranh bất
khuất của nhân dân Việt Nam trước âm ưu thâm độc của kẻ thù, cũng như
tình cảm nồng ấm của tác giả dành cho đồng bào, chiến sĩ cả nước. (Ví dụ:
Hỡi đồng bào thân mến! Hỡi chiến sĩ cả nước!)
13
3.2. Đặc trƣng về Không khí trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc –
Hồ Chí Minh qua các yếu tố tình thái
3.2.1. Các yếu tố tình thái nhận thức (epistemic modality)
3.2.1.1. Các yếu tố tình thái thực hữu (factive)
Trước năm 1945, các cú nhận định có những phụ ngữ xác suất: chắc
rằng, chắc chắn là (16 lượt), tất nhiên (7 lượt),... viết về đối tượng kẻ thù
không chỉ nhấn mạnh đến các nhận định mà còn bộc lộ sắc thái mỉa mai,
tố cáo, qua đó khẳng định tâm địa cũng như tội ác của thực dân Pháp.
Ngược lại, khi viết về đối tượng là người dân bản xứ, thông qua các phụ
ngữ xác suất này, tác giả lại thể hiện một cách sâu sắc những nhận định
của mình, đặc biệt là niềm tin vào chính nghĩa, vào những người dân
lương thiện Pháp cũng như các nước văn minh trên thế giới sẽ đứng về
phía lẽ phải, đứng về phía người dân bản xứ trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc. Sau cách mạng, những yếu tố tình thái như nhất định
(21 lượt), chắc (chắn) (8 lượt), sự thật là (3 lượt) có tác dụng khẳng định
hiện thực đấu tranh cách mạng đầy nhiệt huyết của nhân dân Việt Nam; thể
hiện rõ niềm tin, niềm vui, niềm hạnh phúc, tính chủ động, tính quyền lực
của người nói, cũng như khẳng định chiến thắng tất yếu của dân tộc và sự
thất bại tất yếu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_van_chinh_luan_nguyen_ai_quoc_ho_chi_minh_tu.pdf