VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ BÌNH
VAI TRÒ ĐỘNG LỰC CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN
TRONG SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Ở NGHỆ AN HIỆN NAY
Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 62.22.80.05
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Hà Nội – 2016
Công trình được hoàn thành tại:
Học viện Khoa học xã hội
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà
2. TS. Nguyễn Văn Thức
Phản biện 1: GS.TS. Trần Phúc
27 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 330 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tóm tắt Luận án Vai trò động lực của kinh tế tư nhân trong sự phát triển kinh tế - Xã hội ở Nghệ An hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thăng
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Trọng Tuấn
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, tại Học
viện Khoa học xã hội.
Vào hồi giờ ngày tháng năm 2016
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện khoa học xã hội
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghệ An là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Trung Bộ,
nhưng vẫn là một tỉnh nghèo, kinh tế chậm phát triển song mảnh đất này hội
tụ nhiều điều kiện thuận lợi để khu vực KTTN phát triển. Cùng với sự phát
triển của cả nước, thời gian qua khu vực KTTN ở Nghệ An đã phát huy
được vai trò động lực của mình, có nhiều đóng góp trong việc thúc đẩy kinh
tế - xã hội của địa phương, đặc biệt từ khi có luật DN thì khu vực kinh tế
này đã huy động được nhiều nguồn lực xã hội vào SXKD, giải quyết việc
làm cho người lao động, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, nhiều
DN đã tạo dựng được "thương hiệu" lớn, có nhiều đóng góp quan trọng cho
nguồn thu nội địa của tỉnh.
Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra những thành quả đó vẫn chưa đáp
ứng được kỳ vọng của Chính phủ cũng như chính quyền và nhân dân tỉnh
Nghệ An, mặc dù số lượng cơ sở kinh doanh và doanh nghiệp của khu vực
KTTN tăng lên rất nhanh, song chất lượng hiệu quả hoạt động chưa tương
xứng với tiềm năng của tỉnh cũng như chính sự nội lực vươn lên để phát
huy vai trò động lực của khu vực kinh tế này. Điều đó được thể hiện trên
nhiều khía cạnh như; quy mô hoạt động của DN thuộc khu vực KTTN còn
nhỏ bé, manh mún, công nghệ sản xuất lạc hậu, vốn và lao động ít, doanh
thu thấp so với mức bình quân chung của cả nước, sức cạnh tranh trên thị
trường còn yếu, trình độ quản lý của nhiều DN còn yếu kém, trình độ tay
nghề của người lao động còn thấp, nhiều DN thuộc khu vực kinh tế này
hoạt động chưa lành mạnh, vi phạm pháp luật nhà nước, sản xuất chưa gắn
với bảo vệ môi trường... Bên cạnh đó còn gặp phải những khó khăn vướng
mắc về cơ chế, chính sách và môi trường tâm lý xã hội, làm cho khu vực
KTTN ở Nghệ An chưa phát huy được tiềm năng tối đa của mình, chưa đáp
ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong xu thế hội nhập kinh tế
toàn cầu hiện nay.
Vì vậy, cần đánh giá đúng thực trạng vai trò động lực của khu vực
KTTN trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An từ khi có luật doanh
nghiệp ra đời cho đến nay, trên cơ sở đó đưa ra các quan điểm và một số
giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm phát triển khu vực kinh tế này theo
tinh thần Đại hội Đảng toàn toàn quốc lần thứ XI và dự thảo văn kiện trình
Đại hội Đảng toàn quốc làn thứ XII đã nêu rõ; DN Việt Nam thật sự trở
thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH và Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVII đưa Nghệ An trở thành một
tỉnh khá trong khu vực phía Bắc vào năm 2015, tạo cơ sở để đến năm 2020
cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp. Với lý do trên việc nghiên cứu “Vai
2
trò động lực của KTTN đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An hiện
nay” là rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về vai trò động lực của khu
vực KTTN và biểu hiện vai trò động lực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay,
đánh giá thực trạng phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN trong sự
phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An từ khi có luật doanh nghiệp ra đời
(năm 2000) cho đến nay, luận án đưa ra một số quan điểm và giải pháp cơ
bản nhằm tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An
trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đạt mục đích đề ra, luận án tập trung thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu
sau:
Thứ nhất, tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Thứ hai, phân tích một số vấn đề lý luận về vai trò động lực và biểu hiện
vai trò động lực của khu vực KTTN ở nước ta hiện nay.
Thứ ba, phân tích thực trạng vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ
An từ khi có luật doanh nghiệp ra đời cho đến nay.
Thứ tư, đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản để tiếp tục phát
huy vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Vai trò động lực của khu vực KTTN trong sự
phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An.
Phạm vi nghiên cứu: Thời gian từ năm 2000 (từ khi luật DN ra đời) đến năm
2014.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về khu vực
KTTN để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp chung của khoa học xã hội là: trừu
tượng hóa, hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp, logic, lịch sử, quy nạp, diễn
dịch, thống kê, so sánhNgoài ra tác giả còn tham khảo, thu thập số liệu
qua các tài liệu, báo cáo của các Sở, Ban ngành của tỉnh Nghệ An.
5. Những đóng góp mới của luận án
Một là, góp phần làm rõ thêm tính tất yếu của sự tồn tại và phát triển
khu vực KTTN cũng như biểu hiện vai trò động lực của khu vực KTTN
3
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
Hai là, làm rõ thực trạng vai trò động lực của khu vực KTTN đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An từ năm 2000 đến 2014.
Ba là, nêu ra một số quan điểm và đề xuất các giải pháp cơ bản có tính
khả thi để tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN trong sự
phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án có thể sử dụng để làm tài liệu tham khảo trong việc học tập,
giảng dạy, nghiên cứu về khu vực KTTN ở nước ta nói chung và tỉnh Nghệ
An nói riêng. Đồng thời có giá trị tham khảo cho việc hoạch định chính
sách phát triển KTTN ở Nghệ An trong giai đoạn hiện nay và thời gian sắp
tới.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm có 4 chương, 10 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Những công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận về vai trò động lực
của khu vực KTTN ở Việt Nam
Kể từ khi nước ta tiến hành đổi mới (từ 1986) đến nay đã có nhiều
công trình nghiên cứu về vai trò động lực của khu vực KTTN đối với nền
kinh tế. Dưới đây là những công trình tiêu biểu.
Công trình “Chuyển hẳn sang cơ chế hạch toán, kinh doanh XHCN:
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xóa bỏ tập trung quan liêu – bao cấp,
chuyển hẳn sang hạch toán, kinh doanh XHCN” (của Đào Xuân Sâm, Nxb
thành phố Hồ Chí Minh, 1985); Công trình “Thành phần kinh tế cá thể, tiểu
chủ và tư bản tư nhân – lý luận và chính sách” (của Hà Huy Thành, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002); Công trình KTTN trong giai đoạn toàn
cầu hóa hiện nay (do Tiến sĩ Đinh Thị Thơm chủ biên, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2003; Công trình “Sở hữu lý luận và vận dụng ở Việt Nam”
(của Nguyễn Văn Thức, được công bố vào năm 2004); Công trình “KTTN
Việt Nam sau hai thập kỷ đổi mới, thực trạng và những vấn đề” (TS.
Đinh Thị Thơm chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005); Cuốn
“Đổi mới và phát triển KTTN Việt Nam – thực trạng và giải pháp” (của Lê
Khắc Triết, xuất bản năm 2005); Bài viết “Xu hướng phát triển của kinh tế
tư nhân ở nước ta hiện nay” (đăng trên tạp chí Triết học, số 3 (166), tháng
3 năm 2005); Công trình “Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển
KTTN từ năm 1986 đến năm 2005” (Luận án tiến sĩ của Phạm Thị Lương
Diệu, bảo vệ năm 2005); Công trình “Sở hữu tư nhân và KTTN trong nền
4
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” (do GS.TS.Nguyễn
Thanh Tuyền chủ biên, xuất bản năm 2006; “Phát triển các DNNVV trong
lĩnh vực khoa học – công nghệ kinh nghiệm Hungary và vận dụng vào Việt
Nam” (của GS.TSKH Lê Du Phong chủ biên, Nxb Lý luận chính trị, Hà
Nội, 2006); Cũng bàn về vấn đề sở hữu, có bài viết “Đổi mới nhận thức về
sở hữu và đảng viên làm kinh tế tư nhân” của tác giả Phạm Văn Đức (đăng
trên Tạp chí Cộng sản, số 16 năm 2006); Công trình "Những vấn đề lý luận
và thực tiễn về động lực phát triển đất nước đến năm 2020" (đề tài nghiên
cứu cấp bộ do PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hà làm chủ nhiệm năm 2007); Công
trình Doanh nghiệp Việt Nam hợp tác và liên kết trong hội nhập (của
PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh và TS.Nguyễn Minh Phong đồng chủ biên, Nxb
Tài chính, Hà Nội, 2007); Luận án “Phát triển DNTN ở Trung Quốc và một
số gợi ý đối với Việt Nam” của tiến sĩ kinh tế Đinh Đào Ánh Thủy (hoàn
thành 2007); Công trình “Vấn đề sở hữu và phát triển bền vững ở Việt Nam
và Trung Quốc trong những năm đầu thế kỉ XXI” (PGS.TSKH. Lương Việt
Hải chủ biên, 2008); Công trình “Đảng viên làm KTTN, thực trạng và giải
pháp” (PGS.TSKH Trần Nguyễn Tuyên chủ biên, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2010); Công trình “Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam” (Nguyễn Kế Tuấn chủ biên, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2010); Công trình “Phát triển đội ngũ DN Việt Nam giai
đoạn 2011 – 2020” (PGS.TS. Hoàng Văn Hoa chủ biên, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2010); Công trình “Nguồn lực và động lực cho phát triển
nhanh và bền vững nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2020” (của
Ngô Doãn Vĩnh chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011);
“KTTN và vai trò động lực tăng trưởng” (của Vũ Hùng Cường chủ biên,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011); Các tác giả Lương Minh Cừ và Vũ
Văn Thư đã nghiên cứu đề tài “Sở hữu tư nhân và KTTN ở Việt Nam hiện
nay – một số nhận thức về lý luận và thực tiễn” (được công bố vào năm
2011); Công trình “Động lực thúc đẩy cải cách kinh tế tại các tỉnh ở Việt
Nam, Một số bài học từ cải cách kinh tế” (của nhóm tác giả Hubert Schmitz,
Đậu Anh Tuấn, Phạm Thị Thu Hằng, Neil McCulloch, Nxb Thông tin và
Truyền thông, Hà Nội, 2012); Công trình “Tư duy kinh tế Việt Nam 1975 –
1989” (GS. Đặng Phong, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2009) và cuốn “Phá rào
trong kinh tế vào đêm trước đổi mới” (Đặng Phong, Nxb Tri thức, Hà Nội,
2012).
1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng vai trò động lực của
khu vực KTTN ở Nghệ An.
Trong số các các công trình nghiên cứu về thực trạng vai trò động lực
của khu vực KTTN ở Nghệ An có các công trình tiểu biểu sau.
5
Công trình “Lịch sử Đảng bộ Nghệ An, tập 3 (1975 – 2005)” (của Ban
chấp hành Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam, tỉnh Nghệ An, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2008); Công trình “Tiềm năng, lợi thế và xác định cơ cấu
sản phẩm chiến lược ở Nghệ An giai đoạn 2011 – 2015 (có tính đến 2020)”
(Đậu Quang Vinh chủ biên, Nxb Nghệ An, 2011); Tác giả Hoàng Nam
Hưng trong công trình “Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo phát triển KTTN từ
năm 2000 đến năm 2010” (luận văn thạc sĩ, hoàn thành năm 2012); Đặng
Thành Cương trong công trình “Tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) vào tỉnh Nghệ An” (Luận án tiến sĩ kinh tế, bảo vệ năm
2012); Công trình “Phát triển KTTN ở miền Tây Nghệ An trong gia đoạn
hiện nay” (Đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ của trường Đại học Vinh,
do Th.s. Nguyễn Thị Diệp chủ nhiệm đề tài, Nghệ An, 2012, Mã số: B2010
- 27- 90).
1.3. Những công trình nghiên cứu về giải pháp tiếp tục phát huy vai trò
động lực của khu vực KTTN đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở
Nghệ An
Trong số các các công trình nghiên cứu về giải pháp tiếp tục phát huy
vai trò động lực của khu vực KTTN đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở
Nghệ An, có các công trình tiểu biểu sau.
Công trình Tiềm năng, lợi thế và xác định cơ cấu sản phẩm chiến lược
ở Nghệ An giai đoạn 2011 – 2015 (có tính đến 2020) (của Đậu Quang Vinh
chủ biên, Nxb Nghệ An, 2011); Tác giả Hoàng Nam Hưng trong công trình
“Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo phát triển KTTN từ năm 2000 đến năm
2010” (luận văn thạc sĩ, hoàn thành năm 2012); Đặng Thành Cương trong
công trình “Tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào
tỉnh Nghệ An” (Luận án tiến sĩ kinh tế, bảo vệ năm 2012); Công trình “Phát
triển KTTN ở miền Tây Nghệ An trong giai đoạn hiện nay” (Đề tài khoa học
và công nghệ cấp Bộ của Trường Đại học Vinh, do ThS. Nguyễn Thị Diệp
chủ nhiệm đề tài, Nghệ An, 2012, Mã số: B2010 - 27- 90); Luận văn cao học
của Nguyễn Thị Trang, chuyên ngành kinh tế phát triển, với đề tài "phát
triển KTTN ở tỉnh Nghệ An" bảo vệ năm 2014.
Tiểu kết chương 1
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về khu vực KTTN, vai trò động lực
của KTTN ở nước ta với các mức độ và mục đích khác nhau. Đối với thực
trạng phát triển khu vực KTTN ở tỉnh Nghệ An, cũng đã có một số công
trình nghiên cứu, các công trình đó đã bước đầu làm rõ được đường lối,
quan điểm của Đảng bộ tỉnh Nghệ An đối với khu vực KTTN, thực trạng
của khu vực KTTN ở một số ngành, lĩnh vực, vùng, miền của Nghệ An, các
giải pháp để tiếp tục phát huy vai trò động lực của KTTN. Tuy nhiên, các
công trình đó chủ yếu tiếp cận vấn đề từ góc độ kinh tế học, chưa có công
6
trình nào đi từ góc độ tiếp cận triết học để phân tích một cách toàn diện và
có hệ thống về thực trạng vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An
và các giải pháp để tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN
trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đi trước đã
đạt được những kết quả nhất định và là nguồn tài liệu hữu ích cho tác giả
triển khai luận án của mình.
Tóm lại, liên quan đến đề tài có những vấn đề sau đây cần tiếp tục
làm rõ thêm là; sự tồn tại và phát triển khu vực KTTN trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam nói chung và tỉnh Nghệ An
nói riêng có tất yếu không? khu vực KTTN có phải là động lực thúc đẩy
nền kinh tế không, nếu có thì mức độ thúc đẩy của khu vực KTTN so với
các khu vực kinh tế khác như thế nào? Những kết quả đạt được, hạn chế,
nguyên nhân của hạn chế trong việc phát huy vai trò động lực của khu
vực KTTN ở Nghệ An hiện nay ra sao? Cần làm gì để tiếp tục phát huy
vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An trong thời gian tới. Đây
là những vấn đề sẽ được đề cập trong luận án Vai trò động lực của
KTTN trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An hiện nay. Đó cũng
là những vấn đề cơ bản mà luận án này sẽ giải quyết từ góc độ triết học.
Chương 2
VAI TRÒ ĐỘNG LỰC CỦA KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN
Ở VIỆT NAM: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
2.1. Một số khái niệm cơ bản
2.1.1. Khái niệm khu vực KTTN
Hiện nay, có ít nhất 2 cách hiểu về khái niệm KTTN.
Thứ nhất, KTTN là khu vực kinh tế nằm ngoài quốc doanh (ngoài khu
vực kinh tế nhà nước), bao gồm cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước,
trong đó tư nhân nắm trên 50% vốn đầu tư. Thứ hai, KTTN gồm có; kinh tế
cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.
Từ các cách hiểu trên, tác giả luận án có một nhận thức chung cơ bản
về KTTN như sau: Khu vực KTTN là những hình thức tổ chức kinh tế được
hình thành và phát triển dựa trên chế độ tư hữu, do cá nhân hay tập thể cá
nhân lập ra hoặc hoạt động dưới những hình thức liên doanh, liên kết, mà
ở đó có trên 50% vốn điều lệ thuộc sở hữu tư nhân.
2.1.2. Vai trò động lực của khu vực KTTN
2.1.2.1. Khái niệm động lực
PGS.TS Nguyễn Ngọc Hà cho rằng động lực của sự phát triển là cái
thúc đẩy sự phát triển, tất cả những cái đóng vai trò là nguyên nhân thúc
đẩy sự phát triển của một sự vật nào đó đều là động lực của sự phát triển
của sự vật ấy.
7
2.1.3. Bản chất và đặc điểm của khu vực KTTN
2.1.3.1.Bản chất của khu vực KTTN
Về quan hệ sở hữu
Đây là quan hệ sở hữu tư nhân giữa người và người về tư liệu sản
xuất, sở hữu tư nhân cũng có quá trình phát triển từ thấp đến cao theo sự
phát triển của hình thái kinh tế - xã hội. Trong lịch sử có hai hình thức: Sở
hữu tư nhân nhỏ và sở hữu tư nhân lớn, sở hữu tư nhân nhỏ tồn tại trong
nhiều phương thức sản xuất và quá trình tạo ra sản phẩm chủ yếu bằng sức
lao động của chính mình và của các thành viên trong gia đình, sở hữu tư
nhân lớn lại được hình thành từ sở hữu tư nhân nhỏ và khi đã thành sở hữu
tư nhân lớn thì chính nó lại là cơ sở tạo nên đối kháng về giai cấp, giai cấp
bóc lột và giai cấp bị bóc lột, do vậy những hình thức khác nhau của sở hữu
tư nhân thường là những hình thức sở hữu đặc trưng ở những phương thức
sản xuất khác nhau.
Về quan hệ quản lý
Nếu sở hữu tư nhân là nhỏ (trong các hộ tư nhân như: nông dân, thợ
thủ công cá thể, tiểu thương,) thì quan hệ quản lý có tính chất giống như
quản lý trong một gia đình và chịu sự phân công quản lý của người chủ gia
đình đối với vấn đề SXKD, vì vậy nó mang tính chất gia trưởng chứ không
phải là quan hệ bóc lột. Trong quá trình phát triển, các hộ cá thể có nhu cầu
mở rộng quy mô sản xuất, cần nhiều nhân công, loại hình kinh tế hộ tất yếu
phải thay đổi, hộ cá thể đã chuyển thành hộ tiểu chủ, vì vậy quan hệ bóc lột
đã xuất hiện.
Về quan hệ phân phối
Thực chất, quan hệ phân phối là việc giải quyết mối quan hệ về lợi ích
kinh tế giữa các cá nhân tham gia vào quá trình tái sản xuất. Trong nền kinh
tế thị trường ở nước ta hiện nay, thực hiện phân phối theo ba nguyên tắc cơ
bản sau để đem đến sự công bằng và dân chủ cho người lao động; phân
phối theo tài sản; phân phối theo giá trị sức lao động; phân phối thông qua
các quỹ phúc lợi và bảo hiểm của doanh nghiệp.
Vậy, bản chất chung của khu vực KTTN chính là dựa trên chế độ sở hữu
tư nhân, dù là kinh tế cá thể, tiểu chủ hay kinh tế tư bản tư nhân.
2.1.3.2. Đặc điểm của khu vực KTTN
- Đối với loại hình kinh tế cá thể, tiểu chủ. Loại hình này có các đặc điểm
sau.
Thứ nhất; kinh tế cá thể, tiểu chủ là hình thức kinh tế dựa trên sở hữu
tư nhân nhỏ, hoạt động SXKD chủ yếu dựa vào vốn và lao động của bản
thân và gia đình. Thứ hai; đối với SXKD của kinh tế cá thể, tiểu chủ, quy
mô và vốn tài sản nhỏ, manh mún, phân tán; công nghệ sản xuất lạc hậu;
trình độ lao động thấp, dễ bị phân hoá trong nền kinh tế thị trường. Thứ
8
ba; kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản xuất.
Ở đó, chủ sở hữu cũng đồng thời là người quản lý và trực tiếp lao động.
Thứ tư; kinh tế cá thể, tiểu chủ là loại hình hoạt động sản xuất đa ngành,
nhiều lĩnh vực khác nhau..
- Đối với kinh tế tư bản tư nhân
Thứ nhất, phần lớn DNTN nước ta do một cá nhân làm chủ, vì vậy
việc lựa chọn hình thức, quy mô SXKD hết sức linh hoạt, tự chủ.Thứ hai,
DNTN nước ta trải qua nhiều thăng trầm theo đường lối chủ trương của
Đảng nên đến nay vẫn còn non trẻ. Phần lớn các DNTN mới ra đời sau khi
có Luật DNTN và Luật Công ty (1990) và hiện nay là Luật Doanh nghiệp
(1999, 2005). Thứ ba, sự phát triển lớn mạnh của các DNTN góp phần tạo
nên môi trường kinh tế có sức cạnh tranh cao, khắc phục được những yếu tố
gây cản trở, trì trệ cho nền kinh tế. Thứ tư, trình độ sản xuất và sở hữu chưa
cao, thể hiện rõ nét nhất là loại hình một chủ vẫn chiếm ưu thế, hình thức
công ty, CTCP còn chiếm tỷ trọng thấp, các hộ kinh tế cá thể làm ăn độc
lập, manh mún là phổ biến, sự liên kết hợp tác giữa các DNTN với nhau
còn rời rạc.Thứ năm, trình độ quốc tế hoá còn thấp, một mặt do khu vực
KTTN còn non trẻ, mặt khác do chính sách mở cửa của nền kinh tế cho đến
nay vẫn chưa, thông thoáng, nhất là đối với khu vực KTTN. Thứ sáu,
DNTN nước ta phát triển không đều, doanh nghiệp chủ yếu tập trung vào
những vùng có cơ sở hạ tầng thuận lợi, dân cư đông đúc, đầu tư trong một
số ngành có sinh lãi cao, trình độ phát triển DNTN có sự chênh lệch lớn của
các vùng miền trên cùng lãnh thổ. Thứ bảy, trong quá trình SXKD, bên
cạnh nhiều DNTN làm ăn chân chính, có một số DNTN kinh doanh trái
pháp luật, cản trở sự phát triển của xã hội, ảnh hưởng đến uy tín của DNTN.
2.1.4. Tính tất yếu của khu vực KTTN ở Việt Nam
Thứ nhất, trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta còn thấp kém, lạc
hậu. Do đó, chúng ta phải duy trì nhiều hình thức sở hữu, trong đó có sở
hữu tư bản chủ nghĩa, có tác dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển.
Thứ hai, lực lượng sản xuất phát triển không đồng đều giữa các vùng,
các ngành và tính chất quá độ từ một nước thuộc địa nửa phong kiến lên
CNXH.
Thứ ba, sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trong
nền kinh tế thị trường hiện đại. Sự phát triển của quan hệ sản xuất đã diễn
ra theo chiều hướng, bên cạnh sự tập trung còn có sự tách biệt hoá quá trình
sản xuất thành nhiều khâu độc lập nhưng hợp tác với nhau và chịu sự chi
phối của toàn xã hội.
Thứ tư, xu thế toàn cầu hoá, hội nhập, đòi hỏi năng lực tư duy của cá
nhân cần được khẳng định, thể hiện và phát huy.
9
Thứ năm, nền kinh tế thị trường ở nước ta chỉ phát triển lành mạnh với
điều kiện có sự phát triển bình đẳng của các khu vực kinh tế, trong đó có
KTTN.
2.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Đảng Cộng sản Việt
Nam về vai trò động lực của khu vực KTTN
2.2.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò động lực của
khu vực KTTN
C.Mác cho rằng: "Cái bản chất tư nhân nổi bật của nó biểu hiện ra là
sự không phụ thuộc vào tài sản của Nhà nước" [21, tr. 454], C.Mác còn
khẳng định, chế độ sở hữu cá nhân về tư liệu sản xuất là điều kiện tất yếu để
giải quyết lực lượng sản xuất và phát triển nền sản xuất xã hội. Ph.
Ăngghen viết: "Đối với công trường thủ công và đối với giai đoạn phát triển
ban đầu của đại công nghiệp không thể có hình thức sở hữu nào khác ngoài
quyền tư hữu, không thể có chế độ xã hội nào ngoài xã hội xây dựng trên cơ
sở tư bản".Từ đó, chúng ta thấy rằng C. Mác và Ph. Ăngghen xác định
việc xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa (chứ không phải là
sở hữu tư nhân nói chung) là đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản; trong
thời kỳ quá độ, tất yếu phải còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu trong đó
có sở hữu tư nhân, hay nói cách khác là còn tồn tại khu vực KTTN; chỉ
có phát triển KTTN mới làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh
chóng.
Phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện mới,
V.I.Lênin cho rằng, trong thời kỳ quá độ lên CNXH thì trong một mức độ
nào đó chủ nghĩa tư bản là không tránh khỏi và tương ứng với nó vẫn còn sở
hữu tư nhân và KTTN, vì vậy trong nền kinh tế thời kỳ quá độ vẫn còn có
những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả CNTB và CNXH.
2.2.2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vai trò động lực
của khu vực KTTN
- Giai đoạn trước đổi mới
Trong thời kỳ phục hồi kinh tế 1954 - 1957, Đảng ta chủ trương phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, xóa bỏ tận gốc quan hệ sản
xuất phong kiến (chủ đất và tá điền). Trong phát triển không phân biệt bất
cứ khu vực kinh tế nào, lúc này kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng nhỏ bé,
kinh tế hợp tác chưa phát triển, tham gia lực lượng sản xuất, phát triển kinh
tế - xã hội chủ yếu là KTTN, kinh tế cá thể..
Trong giai đoạn cải tạo và xây dựng CNXH 1958 – 1960, Đảng ta chủ
trương cải tạo CNXH; biến nền kinh tế nhiều thành phần thành nền kinh tế
XHCN gồm hai hình thức sở hữu chủ yếu là quốc doanh và tập thể; coi kinh
tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh là đối tượng trực tiếp của công cuộc cải
tạo này
10
Trong thời kỳ 1960 - 1975, Đảng ta chủ trương xây dựng CNXH theo
phương châm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH. Đây cũng
là thời kỳ khu vực KTTN bị thu hẹp, bị khống chế nặng nề nhất trong toàn
bộ nền kinh tế.
Thời kỳ cả nước xây dựng CNXH (1976 - 1985), Đảng ta chủ trương
phát triển kinh tế và cải tạo quan hệ sản xuất được thực hiện trên phạm vi
cả nước. Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (9/1979) không chỉ cho phép
"bung ra" và "cởi trói" cho sản xuất, mà còn cho phép "bung ra" và cởi
trói cho cả tư duy và đường lối kinh tế, tức là trở lại với quan điểm kinh tế
nhiều thành phần, trong đó kinh tế quốc dân phải giữ vai trò chủ đạo
nhưng vẫn để cho một số tư sản dân tộc hoạt động dưới sự quản lý của Nhà
nước. Ban Bí thư đã đi tới việc ban hành Chỉ thị 100/CT vào ngày 13/1/1981
cho áp dụng cơ chế khoán trong toàn bộ nền nông nghiệp của Việt Nam về
mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã
sản xuất nông nghiệp và cải tiến cơ chế khoán 100 nói riêng, theo hướng có
lợi cho nền kinh tế trong thời gian tiếp theo.
- Giai đoạn đổi mới
+Thời kỳ từ năm 1986 - 1990, là sự khởi đầu công cuộc đổi mới., các
quan điểm đổi mới kinh tế do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra dần
dần được cụ thể hoá thêm một bước. Ví dụ, về nông nghiệp, sau Chỉ thị 100
về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động (năm 1981) thì ngày
5/4/1988, Bộ Chính trị Trung ương Đảng (khoá VI) đã ra Nghị quyết 10 "về
đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Đặc biệt ngày 21/12/1990, Quốc hội
ban hành Luật Công ty và Luật DNTN (có hiệu lực từ ngày 15/4/1991).
+ Thời kỳ từ năm 1991 - 1999, tại Đại hội lần thứ VII của Đảng
(6/1991), Đảng ta đã xác định mô hình kinh tế nước ta là; nền kinh tế có
nhiều thành phần với nhiều dạng sở hữu và hình thức tổ chức SXKD phù
hợp với tổ chức và trình độ của lực lượng sản xuất, với các tiêu chí mọi đơn
vị kinh tế không phân biệt quan hệ sở hữu đều hoạt động theo cơ chế tự chủ
kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau bình đẳng trước pháp luật;
+Thời kỳ từ năm 2000 đến nay, là giai đoạn Luật doanh nghiệp ra đời
và có hiệu lực thi hành thay thế cho Luật công ty và Luật DNTN, đồng thời
những nội dung đổi mới quan trọng của Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX)
đã tạo điều kiện cho KTTN trong giai đoạn này phát triển mạnh hơn nhiều
lần so với giai đoạn 1991 - 1999 và dần dần khẳng định vị thế của mình
trong nền kinh tế quốc dân. Đến tháng 3/2002, Hội nghị Trung ương 5
khoá IX đã phát triển thêm một bước quan điểm thực hiện nền kinh tế nhiều
thành phần, đồng thời cũng đánh giá cao vai trò KTTN và xác định: “KTTN
là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, phát triển KTTN
là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần theo
11
định hướng XHCN, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
trọng tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao nội
lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế” [66, tr. 57,58]. Đến Đại hội
X (4/2006), nhận thức về KTTN của Đảng phát triển lên một tầm cao mới: "
KTTN có vai trò quan trọng là một trong những động lực của nền kinh tế"
[71, tr. 354] .Tại Đại hội X, sự đổi mới ấn tượng nhất đó là việc Đảng ta
cho phép đảng viên làm KTTN với điều kiện phải gương mẫu chấp hành
pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng
và quy định của Ban Chấp hành Trung ương. Tại Đại hội XI (tháng
1/2011), Đảng ta tiếp tục giữ quan điểm về vai trò, vị trí của khu vực KTTN
như tại Đại hội X: KTTN là một trong những động lực của nền kinh tế"
Đặc biệt trong Hiến Pháp năm 2013, vai trò của doanh nghiệp,
doanh nhân lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến Pháp: Doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế phải huy động theo cơ chế thị trường, xóa
bỏ độc quyền doanh nghiệp, các cơ chế, chính sách tạo ra sự bất bình
đẳng. Về hình thức sở hữu, Hiến pháp năm 2013 ghi nhận, tôn trọng sự
đa dạng hình thức sở hữu, bác bỏ quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất, các quyền tài sản và sở hữu trí tuệ. Mới đây nhất trong Dự thảo các
văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, vai trò của khu vực
KTTN nói chung, DNTN nói riêng đã được nâng tầm và khẳng định; khu
vực KTTN không chỉ là sự tồn tại tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, mà còn là một trong những động lực, “trụ cột”
của nền kinh tế.
2.3. Biểu hiện vai trò động lực của khu vực KTTN ở Việt Nam trong
nền kinh tế thị trường hiện nay
2.3.1. Khu vực KTTN góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế cả nước
Từ khi có Luật doanh nghiệp ra đời và sau 5 năm thực hiện Nghị quyết
Trung ương V khoá IX, khu vực KTTN đã đóng góp vào GDP và công
nghiệp rất cao, nhanh hơn so với các thành phần kinh tế khác trong nền
kinh tế quốc dân đạt 382.804 tỷ đồng ( chiếm 45,61%) vào năm 2005.
Ngược lại đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế nhà nước không tương
xứng với nguồn lực (vốn đầu tư, vốn kinh doanh, sự ưu đãi) mà nó được
thừa hưởng. Đến năm 2014, KTNN đóng góp 28,73%, khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài 17,89%, trong đó KTTN: 43,33%, còn lại 10,05% thuế sản
phẩm từ trợ cấp sản phẩm, điều này chúng ta khẳng định dứt khoát hiệu quả
của khu vực KTTN đang ngày càng đi lên và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
của đất nước.Từ năm 2005 - 2013, mức huy động vốn sản xuất kinh doanh
bình quân hàng năm của các doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng liên tục, từ
24,98% năm 2005 lên 41,83% năm 2008 và đến năm 2013 tăng lên 48,57%,
12
trong khi đó DNNN ngày càng giảm dần, năm 2005 đạt 54,88% xuống
32,61% năm 2013.
Không chỉ tăng thêm về nguồn vốn, mà còn có đóng góp đáng kể vào
nguồn thu ngân sách nhà nước, góp phần tích cực vào tăng trưởng nhanh
nền kinh tế. các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN còn có sự đóng góp lớn
trong công tác an sinh xã hội.
2.3.2. Khu vực KTTN góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ chế
quản lý kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại
Một là, xét về cơ cấu ngành, khu vực KTTN đã góp phần chuyển dịch
kinh tế chung của cả nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; tỷ trọng
khu vực nông - lâm nghiệp và thuỷ sản trong cơ cấu chung đã giảm dần từ
24,53% năm 2000 xuống 20,97 năm 2005 và 20,91% và còn 17,70 năm 2014.
Qua các năm ta thấy tỷ trọng khu vực kinh tế nông - lâm nghiệp và thuỷ sản
giảm đều dần, trong khi đó tỷ trọng khu vực ngành công nghiệp và xây dựng
tăng lên đều qua các năm từ 36,73 năm 2000 lên 41,02% năm 2005 và
40,24% năm 2009, năm 2014 tỷ lệ là 33,21%.
Hai là, về cơ cấu thành phần kinh tế cũng có sự chuyển biến tích cực
theo hướng phát huy ngày càng hiệu quả sự đóng góp của các loại hình kinh
tế mới trong nền kinh tế quốc dân.
Ba là, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ khu vực KTTN
c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_vai_tro_dong_luc_cua_kinh_te_tu_nhan_trong_s.pdf