VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
CHU THỊ PHONG LAN
THƯƠNG LƯỢNG
TRONG GIAO TIẾP MUA BÁN CỦA SINH VIÊN
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 922 90 20
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Hà Nội - 2018
Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học Xã hội – Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Nguyễn Văn Khang
Phản biện 1: GS.TS. Bùi Minh Toán
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Văn Chính
27 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 383 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tóm tắt Luận án - Thương lượng trong giao tiếp mua bán của sinh viên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h
Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội
Phản biện 3: PGS.TS. Phạm Văn Tình
Khoa Ngôn ngữ học, Học viên KHXH
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại vào hồi .. giờ .. phút, ngày .. tháng .. năm ..
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Chu Thị Phong Lan (2014), Xưng hô trong thương lượng mua bán
(trên cứ liệu mua bán của sinh viên tại các chợ sinh viên ở Hà Nội),
Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống số 5, tr 18 – 24.
2. Chu Thị Phong Lan (2016), Thương lượng trong giao tiếp mua bán
của sinh viên từ góc độ lí thuyết trò chơi, Kỷ yếu hội thảo khoa học
2016 – Gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt và Giáo dục ngôn ngữ
trong nhà trường, Nxb Dân trí, tr 1328 – 1389.
3. Chu Thị Phong Lan (2017), Chiến lược giao tiếp khi mặc cả trong
mua bán của sinh viên (từ góc độ lịch sự),Tạp chí Ngôn ngữ và Đời
sống, số 6, tr 19 – 25.
4. Chu Thị Phong Lan (2017), Liên kết hướng nội trong bước thoại
chứa hành động mặc cả trong thương lượng mua bán, Tạp chí Từ
điển học và Bách khoa thư, số 4, tr 72 – 76.
1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giao tiếp mua bán là một hình thức hội thoại mà ở đó cả người
mua và người bán đều muốn đạt được đích mua hàng giá rẻ và bán
hàng giá cao. Vì vậy, trong mua bán, thương lượng tất yếu xảy ra
nhằm dung hòa xung đột này. Cho đến nay, đã có một số nghiên cứu
về mua bán nhưng chưa có công trình nào chuyên nghiên cứu về
thương lượng mua bán nói chung, thương lượng mua bán khách hàng
là sinh viên nói riêng. Vì thế, chúng tôi chọn “Thương lượng trong
giao tiếp mua bán của sinh viên” làm đề tài nghiên cứu của luận án. 2.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Mục đích của luận án là nghiên cứu chỉ ra đặc điểm ngôn ngữ
thương lượng mua bán của sinh viên, từ đó, góp phần minh chứng cho
lí thuyết thương lượng trong giao tiếp cũng như chỉ ra đặc điểm giao
tiếp của người Việt gắn với đặc điểm phân tầng xã hội. Từ mục đích
này, luận án xác định nhiệm vụ nghiên cứu là, trên cơ sở khung lí
thuyết thương lượng, khảo sát, phân tích chỉ ra các mô hình ngôn ngữ
thương lượng mua bán, các hành động ngôn ngữ và yếu tố lịch sự
được sử dụng trong thương lượng mua bán của sinh viên.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu của luận án là phương pháp phân tích
hội thoại, phương pháp điều tra của ngôn ngữ học xã hội, phương
pháp nghiên cứu liên ngành. Ngoài ra luận án còn sử dụng các thủ
pháp: thống kê, miêu tả, so sánh.
4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU, NGUỒN DỮ LIỆU
Luận án tập trung nghiên cứu thương lượng trong phần nội dung
(phần thân) cuộc thoại mua bán tính từ sau cặp trao đáp: hỏi giá – hồi
đáp giá. 500 cuộc thoại mua bán được thu thập tại các chợ ở Hà Nội
như chợ Nhà Xanh, chợ Triều Khúc, chợ Ngã Tư Sở, chợ Đồng Xuân,
chợ Nghĩa Tân và do người mua là sinh viên thực hiện với người bán
thuộc nhiều lứa tuổi.
5. ĐÓNG GÓP MỚI VỀ KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN
- Xây dựng khái niệm thương lượng mua bán làm cơ sở chỉ ra các mô
hình thương lượng mua bán của sinh viên.
- Chỉ ra đặc trưng ngôn ngữ thương lượng mua bán của sinh viên và
sự tác động của tầng lớp này đến người bán.
2
6. Ý NGHĨA LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
- Về ý nghĩa lí luận: góp phần làm cho lí thuyết hành động ngôn ngữ
được nhìn nhận sâu sắc, toàn diện hơn đồng thời hoàn chỉnh bức tranh
giao tiếp mua bán thông qua việc phân tích từ yếu tố nhỏ nhất là hành
động ngôn ngữ cho tới yếu tố lịch sự.
- Về ý nghĩa thực tiễn: qua các khung, mô hình hành động ngôn ngữ,
chiến lược, cách xưng hô, luận án tìm hiểu đặc trưng của một tầng lớp
xã hội – sinh viên cũng như giúp người nước ngoài tiếp cận tiếng Việt
thương mại dễ dàng hơn và người Việt Nam có cái nhìn cụ thể về tính
linh hoạt, phong phú của ngôn ngữ trong đời sống.
7. CẤU TRÚC LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận
Chương 2. Thương lượng và các mô hình thương lượng trong giao
tiếp mua bán của sinh viên
Chương 3. Hành động ngôn ngữ trong thương lượng mua bán của
sinh viên
Chương 4. Yếu tố lịch sự trong thương lượng mua bán của sinh viên
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨUVÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về hội thoại và thương lượng hội thoại
1.1.1.1. Trên thế giới
Về lí thuyết hội thoại, từ những năm 70 của thế kỷ 20 các tác giả
nước ngoài đã bắt đầu nghiên cứu với nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Đầu tiên là nghiên cứu về cộng tác hội thoại, phương châm, cách thức,
quan hệ khi tiến hành xây dựng hội thoại của Grice, G.Gazdaz (1979),
L.Horn (1984), D.Sperber và D.Wilson (1986). Tiếp theo đó là nghiên
cứu từ góc độ lịch sự của R.Lakoff, G.Leech, P.Brown và S.Levinson.
Sau này là nghiên cứu của C.K.Orenchioni về cuộc thoại, đoạn
thoại hay G.Yule về cặp kế cận hoặc như M.Meyer (1983),
O.Ducrot (1984), A.Wierzbicka (1991), J.Thomas (1995). Đối với
thương lượng mua bán, các bài nghiên cứu của
Putthiwanit&Santipiryanpon (2015) và Winnie (2007) đã tìm hiểu đặc
điểm trong mặc cả mua bán của người Thái và người Trung Quốc.
1.1.1.2. Ở Việt Nam
a. Trong các công trình của các nhà Việt ngữ học
3
Đầu tiên là nghiên cứu của Hoàng Phê dưới dạng các bài báo về
logic-ngữ nghĩa trong ngôn ngữ. Sau đó, lí thuyết hội thoại được giới
thiệu, nghiên cứu trực tiếp dưới dạng công trình khoa học, sách giáo
trình, chuyên khảo của các tác giả như Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức
Dân, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Văn Khang, Đỗ Thị Kim Liên...theo
hướng ngữ dụng hoặc ngôn ngữ học xã hội. Ngoài ra, một số tác giả
khác cũng gián tiếp nói đến ngữ dụng học và hội thoại như Diệp Quang
Ban, Cao Xuân Hạo, Phạm Hùng Việt, Nguyễn Văn Hiệp
b. Trong các luận văn, luận án
Các hướng nghiên cứu được tiếp cận tương đối phong phú. Đó là
nghiên cứu về cấu trúc ngữ nghĩa của một nhóm động từ nói năng;
liên kết hay hàm ẩn trong hội thoại. Ngoài ra, có một số lượng khá lớn
những tác giả quan tâm tìm hiểu các đơn vị cấu trúc của cuộc thoại
như Hà Thị Hải Yến (2006), Dương Tuyết Hạnh (2008), Chử Thị Bích
(2008), Vũ Tố Nga (2010) Bên cạnh đó còn có những công trình
theo khuynh hướng đối chiếu như: Nguyễn Văn Quang (1998),
Nguyễn Văn Độ (1999) hay từ một góc độ hẹp như nghiên cứu lịch sự
của Đào Nguyên Phúc (2007) Về nghiên cứu thương lượng trong
hội thoại chưa có nhiều công trình đề cập tới. Thương lượng hội thoại
được tác giả Đỗ Hữu Châu nói đến ở khía cạnh lí thuyết trên hai bình
diện là đối tượng thương lượng và phương thức thương lượng.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu hội thoại mua bán và thương lượng
trong hội thoại mua bán
Từ năm 1994, hội thoại mua bán bắt đầu được nghiên cứu trong
các công trình luận văn và luận án từ nhiều góc độ khác nhau.
1.1.2.1. Nghiên cứu đơn vị cụ thể của hội thoại mua bán từ góc độ
cấu trúc
Các đơn vị hội thoại mua bán từ lớn đến nhỏ đều đã được tiếp
cận. Từ năm 1994 các nghiên cứu về cuộc thoại của Nguyễn Thị Đan,
đoạn thoại của Nguyễn Thị Lý, cặp thoại của Dương Tú Thanh hay
tham thoại của Nguyễn Thị Lý, hành vi ngôn ngữ của Trương Thục
Phương (1998), Chu Thị Phong Lan (2009) cho thấy hội thoại mua
bán thật sự là một mảnh đất màu mỡ. Tuy nhiên, những công trình
trên ít có sự kế thừa lẫn nhau và nhiều công trình không đưa ra lí giải
về sự khác biệt của đối tượng nghiên cứu cũng như có minh chứng
mang tính định lượng. Đến Mai Thị Kiều Phượng (1996) thì đơn vị
4
nhỏ nhất – hành động hỏi được nghiên cứu kĩ càng hơn trên ba bình
diện kết học, nghĩa học, dụng học.
1.1.2.2. Công trình nghiên cứu tổng thể hội thoại mua bán
Tác giả Trịnh Thị Mai (2007), Trần Thanh Vân (2012) đã giới
hạn không gian mua bán hoặc dẫn thêm yếu tố giới để tìm hiểu hội
thoại mua bán nên các đối tượng nghiên cứu thể hiện tính đặc thù vùng
miền rõ rệt. Đặc thù đó thể hiện qua đặc điểm sử dụng từ ngữ khi mua
bán. Ngoài ra, Trần Thị Ly Na (2009) đã hướng nghiên cứu của mình
theo góc độ lịch sự qua việc xem xét các phương tiện ngôn ngữ đánh
dấu sự tôn vinh hoặc đe dọa thể diện trong quá trình mua bán.
1.1.2.3. Nghiên cứu theo hướng giao thoa văn hóa
Không giống các công trình trên, có một số nghiên cứu đi theo
hướng giao tiếp liên văn hóa như Nguyễn Thị Thu Huyền (2009) và
Nhữ Nguyên Phương (2010). Ở những nghiên cứu này, các tác giả tập
trung tìm hiểu về mặc cả trong mua bán giữa hai nền văn hóa Việt
Nam và Mỹ.
1.1.3. Tình hình nghiên cứu ngôn ngữ của sinh viên
Các nghiên cứu về ngôn ngữ của sinh viên được tiếp cận từ
những góc độ như: góc độ lệch chuẩn, góc độ giới tính ở các công
trình của Lương Quang Vũ (2003), Nguyễn Thị Trà My (2011),
Đồng Thị Hằng (2013).
Có thể nói, từ năm 1994 đến nay, số lượng công trình nghiên
cứu về hội thoại mua bán tương đối phong phú cả về cách tiếp cận và
nội dung. Tuy nhiên, vẫn chưa có một công trình nghiên cứu thương
lượng trong giao tiếp mua bán một cách độc lập. Đó là những điểm kế
thừa giúp luận án nghiên cứu sâu đối tượng của mình.
1.2. LÍ THUYẾT VỀ THƯƠNG LƯỢNG TRONG GIAO TIẾP
1.2.1. Một số vấn đề về giao tiếp ngôn ngữ
1.2.1.1. Khái niệm giao tiếp
Giao tiếp là một hoạt động và nhu cầu thường xuyên của con
người để truyền tải thông tin, tư tưởng, tình cảm. Thương lượng trong
mua bán cũng là một quá trình giao tiếp ở đó giữa người mua và người
bán có mục đích chung cần đạt tới.
1.2.1.2. Nhân tố tham gia giao tiếp
Từ quan điểm của D.Hymes cho rằng giao tiếp là một sự kiện
gồm 8 thành tố được viết tắt bằng 8 chữ cái làm thành từ SPEAKING,
chúng tôi cũng nhìn thương lượng trong giao tiếp mua bán của sinh
5
viên là một sự kiện bao chứa đầy đủ 8 thành phần như vậy. Đó là chu
cảnh, người tham gia giao tiếp, mục đích, chuỗi hành vi, phương thức,
phương tiện, chuẩn tương tác và chuẩn giải thích, thể loại. Mỗi nhân
tố đó được phân tích cụ thể trong thương lượng mua bán.
1.2.2. Thương lượng trong giao tiếp
1.2.2.1. Khái niệm thương lượng trong giao tiếp
Nhìn một cách tổng quát, thương lượng được hiểu là sự bàn bạc,
trao đổi giữa những người có cùng một vấn đề cần được giải quyết
hoặc hướng đến việc đạt một thỏa thuận chung.
1.2.2.2. Các cách tiếp cận thương lượng trong giao tiếp
Tổng quan về cách tiếp cận thương lượng được đưa ra dựa trên
bản tóm tắt của I.William Zartman (1988) với 5 cách tiếp cận thương
lượng là: cấu trúc (structural), chiến lược (strategic), quá trình
(processual), hành vi (bebavioral) và tích hợp (integrative). Trong đó
tiếp cận cấu trúc bắt đầu từ kết quả thương lượng và quan tâm đến vị
thế và quyền lực. Tiếp cận chiến lược lại quan tâm đến vai trò của
mục tiêu trong việc xác định kết quả. Tiếp cận hành vi nhấn mạnh đến
vai trò cá nhân người thương lượng. Tiếp cận quá trình nhìn thương
lượng như một quá trình mà ở đó các bên phản ứng lại hành vi nhượng
bộ của nhau. Cuối cùng tiếp cận tích hợp là hai bên trao đổi thông tin
lẫn nhau để cùng giải quyết vấn đề chung. Luận án dựa trên cách tiếp
cận tích hợp để đưa ra các mô hình thương lượng trong giao tiếp mua
bán của sinh viên.
1.2.2.3. Các yếu tố của thương lượng trong giao tiếp
Nhìn chung, thương lượng là quá trình bao gồm: (1) chuẩn bị
(2) trao đổi thông tin (3) thỏa thuận (4) kết thúc. Khi đề cập
đến thương lượng trong giao tiếp, có các yếu tố như hình thức, nội
dung, thời gian và phương thức.
1.3. HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ
1.3.1. Khái niệm
Hành động ngôn ngữ là hành động mà “người nói (hoặc viết)
Sp1 nói ra một phát ngôn U cho người nghe (hoặc người đọc) Sp2
trong ngữ cảnh C” (Đỗ Hữu Châu). Có ba loại hành động ngôn ngữ
lớn là: hành động tạo lời, hành động mượn lời và hành động tại lời.
1.3.2. Động từ ngữ vi
Theo Đỗ Hữu Châu, động từ ngữ vi là “những động từ mà khi
phát âm ra chúng cùng với biểu thức ngữ vi (có khi không cần có biểu
6
thức ngữ vi đi kèm) là người nói thực hiện luôn cái hành vi ở lời do
chúng biểu thị”.
1.3.3. Các điều kiện thực hiện hành động ở lời
Searle đã chỉ ra bốn điều kiện cho một hành động ngôn ngữ như
sau: điều kiện nội dung mệnh đề; điều kiện chuẩn bị; điều kiện chân
thành; điều kiện căn bản.
1.3.4. Phân loại hành động ngôn ngữ
Về phân loại theo từ vựng: Người đại diện tiêu biểu cho quan điểm
này là Austin với 5 phạm trù: phán xử, hành xử, cam kết, trình bày,
ứng xử.
Về phân loại hành động ngôn ngữ: Searle phân chia các hành vi ngôn
ngữ thành 5 nhóm: tái hiện, điều khiển, cam kết, biểu cảm, tuyên bố.
1.4. TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Các công trình về hội thoại và hội thoại mua bán đã được nghiên
cứu khá đa dạng dưới nhiều góc độ. Tuy nhiên, khoảng trống về
thương lượng mua bán đặc biệt với một đối tượng khách hàng cụ thể -
sinh viên thì chưa có. Đó là gợi mở và lí do để chúng tôi lựa chọn đề
tài cho luận án.
Từ lí thuyết giao tiếp nói chung, luận án đã xem xét thương
lượng mua bán như một sự kiện bao gồm 8 thành tố. Thông qua đó có
thể thấy được đặc điểm của người mua – sinh viên và sự ảnh hưởng
của người mua lên người bán. Ngoài ra, luận án cũng đề cập đến lí
thuyết hành động ngôn ngữ làm cơ sở cho các phân tích trong những
chương tiếp theo.
CHƯƠNG 2
THƯƠNG LƯỢNG VÀ CÁC MÔ HÌNH THƯƠNG LƯỢNG
TRONG GIAO TIẾP MUA BÁN CỦA SINH VIÊN
2.1. KHÁI QUÁT VỀ THƯƠNG LƯỢNG TRONG GIAO TIẾP
MUA BÁN
2.1.1. Khái niệm
Từ định nghĩa chung về thương lượng, có thể đề xuất một khái
niệm riêng cho thương lượng trong giao tiếp mua bán như sau: đó là
những trao đổi, thảo luận xung quanh lõi là giá và các vấn đề biên
(mẫu mã, chất lượng, nhu cầu, sở thích, xu hướng) nhằm xác định
giá giữa hai bên mua và bán.
2.1.2. Thương lượng và mặc cả trong giao tiếp mua bán
Khi nói đến mua bán có khái niệm thường được đề cập dễ đem
tới cảm giác giống thương lượng là mặc cả. Tuy nhiên nên xem
thương lượng mua bán là một quá trình mà trong nó chứa đựng các
7
hành động cụ thể khác. Mặc cả trong mua bán chỉ là một hành động
tham gia vào quá trình đó, cùng với các hành động khác tạo nên tính
đặc thù của giao tiếp mua bán.
2.1.3. Các nhân tố trong thương lượng mua bán của sinh viên
Thương lượng trong giao tiếp mua bán của sinh viên mà luận án
khảo sát có các nhân tố với đặc điểm sau:
- Người tham gia: người mua là sinh viên và người bán thuộc nhiều
độ tuổi.
- Địa điểm: tại các chợ truyền thống ở Hà Nội.
- Thời gian: phụ thuộc vào mục đích của hai bên mua bán nên có thể
dài hoặc ngắn.
- Hàng hóa: thời trang, vật dụng trong sinh hoạt đến thực phẩm.
- Giới hạn thương lượng: về mặt hình thức bắt đầu từ câu hỏi về giá
cho đến kết thúc thành công hoặc thất bại. Về mặt nội dung, thương
lượng nằm ở phần chính của giao tiếp mua bán nên sẽ có một loạt các
hành động tâm và biên.
2.2. CÁC KIỂU THƯƠNG LƯỢNG TRONG GIAO TIẾP MUA
BÁN CỦA SINH VIÊN
Trước khi đi vào những mô hình cụ thể, có thể hình dung một
mô hình tổng quát về thương lượng trong mua bán như sau:
Từ khảo sát tư liệu, có thể đưa ra các kiểu mô hình thương lượng
mua bán thường gặp như sau:
(i) Chỉ người bán đề cập đến giá trong suốt quá trình thương lượng,
người mua thể hiện sự trao đổi, bàn bạc bằng các hành động ngôn
ngữ ngoài giá
Mô hình tổng quát của kiểu thương lượng này như sau:
NM NM NM
NB NB NB
Bắt đầu
Kết thúc
Thỏa
thuận
Hỏi
Trả lời
Nêu giá và
HĐ ngoài giá
giá
Đồng ý/
không
HĐ ngoài
giá
Đồng ý/
không
8
(ii) Chỉ người mua đề nghị về giá, người bán dùng các hành động
ngôn ngữ khác để bảo vệ lập trường của mình
NM NM NM
NB NB NB
Tuy nhiên, hành động trả giá của người mua còn được thể hiện
cụ thể như sau:
a. Trường hợp 1: Người mua mặc cả giá 1 lần, sau đó người mua và
người bán tập trung đưa ra các hành vi ngôn ngữ khác để một mặt bảo
vệ lợi ích của mình, mặt khác dung hòa lợi ích đối phương.
b. Trường hợp 2: Người mua mặc cả giá 2 lần người bán không có
mặc cả giá nào theo người mua mà chỉ sử dụng các hành động ngôn
ngữ để bảo vệ giá đã đưa ra.
c. Trường hợp 3: Người mua mặc cả giá ba lần (3 lần đưa ra giá): ở
đây có sự điều chỉnh về giá từ phía người mua theo hướng lần thứ nhất
thấp hơn so với giá ban đầu của người bán, lần thứ hai cao hơn hoặc
giữ nguyên giá lần thứ nhất, lần thứ ba cao hơn lần thứ hai hoặc bằng
nhưng có kèm điều kiện.
(iii) Cả người mua và người bán đều có đề xuất về giá tính từ sau
cặp hỏi – trả lời giá.
NM NM NM NM
NB NB NB
a. Trường hợp 1: Người mua hai lần mặc cả giá còn người bán chỉ có
một lần.
b. Trường hợp 2: Người mua đưa 1 lần đề nghị giá, người bán 2 lần.
Hỏi
Trả lời HĐ ngoài
giá
Đồng ý/
không
Trả giá và
HĐ ngoài giá
Đồng ý/
không
Hỏi
Trả lời Nêu giá và
HĐ ngoài giá
Đồng ý/
không
Trả giá và HĐ
ngoài giá
Đồng ý/
không
9
c. Trường hợp 3: Người mua và người bán đều đưa ra một lần đề xuất
giá.
d. Trường hợp 4: Người mua hoặc người bán trong quá trình thương
lượng đều đưa 2 lần đề xuất giá.
e. Trường hợp 5: Người mua và người bán có trên 2 lượt đề xuất giá.
(iv) Sau cặp hỏi - trả lời giá, cả người bán và người mua tập trung
đưa ra các hành động ngôn ngữ không liên quan đến vấn đề giá mà
cố gắng giữ lập trường của hai bên về hàng hóa.
NM NM NM
NB NB NB
Như vậy, khi tiến hành thương lượng người mua sinh viên và
người bán có nhiều cách để đi đến đích mong muốn. Tuy nhiên sự lựa
chọn các kiểu thương lượng là khác nhau tùy thuộc vào chủ ý của hai
bên mua bán. Có thể thấy tình hình cụ thể qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 2.2 – Các kiểu mô hình thương lượng
Qua phân tích, phần thương lượng chỉ người mua có mặc cả giá
còn người bán sử dụng các hành động khác trao đổi về hàng hóa, về
giá chiếm tỉ lệ cao nhất (41.2%). Tiếp đó là thương lượng mà trong đó
cả người bán và người mua đều có mặc cả giá và các hành động khác
chiếm 29.8%. Như vậy trong thương lượng mua bán sinh viên, người
mua vẫn là người điều tiết về giá cả và giá cả vẫn là vấn đề tâm được
chú trọng. Điều đó cũng phù hợp với đặc tính của tầng lớp sinh viên –
Hỏi
Trả lời HĐ ngoài
giá
Đồng ý/
không
HĐ ngoài
giá
Đồng ý/
không
10
những người eo hẹp tài chính nên khi mua bán thì giá cả luôn là điều
quan tâm nhất.
2.3. TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Từ cơ sở lí thuyết, luận án xây dựng khái niệm làm việc về
thương lượng để giúp định hướng trong quá trình xây dựng các mô
hình thương lượng từ tư liệu thực tế. Có thể nói, trong giao tiếp mua
bán, thương lượng là một quá trình với nhiều giai đoạn khác nhau
trong đó sử dụng nhiều hành động ngôn ngữ để thực hiện các mục
đích của hai bên mua bán. Mặc cả chỉ nên xem như một trong số các
hành động xuất hiện trong quá trình thương lượng tuy nhiên đây là
hành động tâm của quá trình này.
Trong chương này, luận án chỉ ra các mô hình thương lượng
mua bán của sinh viên. Mô hình ấy ở dạng đầy đủ gồm ba giai đoạn:
mở đầu – thỏa thuận – kết quả trong đó giai đoạn hai là lõi thương
lượng với hành động trung tâm – mặc cả và các hành động biên hỗ trợ.
Kết quả cho thấy, mô hình mà chỉ người mua đưa ra giá tiền và mô
hình cả người mua, người bán cùng đưa ra hành động trả giá và các
hành động khác chiếm số lượng nhiều nhất. Điều này chứng minh một
điểm giá cả vẫn là vấn đề quan trọng trong thương lượng và người
mua là đối tượng thực hiện hành động trả giá nhiều nhất.
CHƯƠNG 3
HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ
TRONG THƯƠNG LƯỢNG MUA BÁN CỦA SINH VIÊN
3.1. GIỚI HẠN KHẢO SÁT
Luận án khảo sát các hành động ngôn ngữ trong thương lượng
mua bán. Vì luận án lấy người mua sinh viên là đối tượng thứ nhất sẽ
có ảnh hưởng đến người bán nên hành động ngôn ngữ của người mua
sẽ được khảo sát đầu tiên.
3.2. HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ CỦA NGƯỜI MUA
3.2.1. Giai đoạn bắt đầu
Trong giai đoạn này, hành động tiêu biểu và xảy ra duy nhất là
hành động hỏi. Cách hỏi giá của người mua rất phong phú:
(1) Bao nhiêu + đại từ nhân xưng/ tên hàng hóa/ đại lượng
hàng hóa (cân/ túi/ mớ)?
(2) Thành phần hô gọi + hàng hóa + bao nhiêu?
(3) Tên hàng hóa + bán như thế nào?
11
(4) Điều kiện + giảm giá + từ tình thái
(5) Số tiền + đại lượng hàng hóa + đại từ nhân xưng + được
không?
3.2.2. Giai đoạn diễn biến
3.2.2.1. Nhóm các hành động ngôn ngữ nhằm hạ thấp giá trị hàng
hóa
Các hành động ngôn ngữ của nhóm giúp người mua giảm giá trị
mặt hàng mà họ đang mong muốn thương lượng về giá cả. Trong
nhóm này có các hành động đặc trưng của người mua là: hành động
chê, hành động khẳng định. Hành động chê của người mua sinh viên
tập trung vào các kiểu sau: (1) Chê giá, (2) Chê hình thức, chất lượng;
(3) Chê giá cả và chất lượng. Hành động khẳng định được thực hiện
khá đa dạng: (1) Khẳng định qua một đối tượng khác, (2) Khẳng định
qua thời gian mua bán, (2) Khẳng định qua địa điểm
3.2.2.2. Nhóm hành động có ý nghĩa thương lượng giá
Trong nhóm này, người mua thực hiện cả hành động mặc cả trực
tiếp lẫn gián tiếp. Nếu mặc cả trực tiếp thì người mua sẽ đưa ra số tiền
cụ thể mà họ nghĩ là phù hợp với mong muốn của mình cũng như
hàng hóa đó. Mô hình hóa các kiểu trả giá này như sau:
(1) Giá tiền + tiểu từ tình thái/ đại từ nhân xưng
(2) Giá tiền + được không/ đúng không?
(3) Tên hàng hóa + chỉ/ có + giá tiền
(4) Thôi/ thế/ chốt + giá tiền
Nếu mặc cả gián tiếp có thể thực hiện bằng cách đưa hành động đưa
điều kiện, hành động năn nỉ, hành động đề nghị.
3.2.2.3. Nhóm các hành động có ý nghĩa phản đối trong thương
lượng
Đối với nhóm này, các hành động người mua thường sử dụng là
phản đối, phàn nàn. Trong hành động phản đối sinh viên thường dùng
các từ, cụm từ phủ định trực tiếp hoặc có ý nghĩa phủ định: thế thôi,
thôi, không, để cháu xem, cất giúp em, đúng giá X thôi, hoặc biểu
thức: tính từ + thế thì + tính từ + làm gì, không + động từ + đâu.
Nếu phàn nàn họ có thể có cách như sau: (1) Động từ + gì mà + động
từ, (2)Bớt ít thế/ quá + đại từ nhân xưng
3.2.3. Giai đoạn kết thúc
Trong giai đoạn này có thể có kết thúc cuộc thương lượng thành
công cũng có kết thúc cuộc thương lượng thất bại. Nếu thương lượng
12
thành công, người mua dùng các hành động như đề nghị, đồng ý.
Ngược lại, nếu không thành công bên mua sẽ thể hiện nay bằng hành
động từ chối hoặc khéo léo hơn là hứa hẹn quay lại.
Có thể thấy, trong mỗi giai đoạn thương lượng người mua đã
chọn các hành động ngôn ngữ tương ứng một cách phù hợp để đạt
được hiệu quả giao tiếp lớn nhất. Tuy nhiên tần suất của các hành
động không giống nhau, điều này được thể hiện qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 3.2. Tần suất các HĐNN trong quá trình thương lượng
mua bán của người mua
Ở đây có những hành động thể hiện rất rõ đặc trưng tâm lý của
người mua: hành động chê, trả giá. Trong các nhóm thì nhóm hành
động để thương lượng về giá xuất hiện nhiều nhất. Tiếp sau đó là
nhóm hành động nhằm hạ thấp giá trị hàng hóa. Đây cũng là hai nhóm
hành động điển hình cho tâm lý của người mua.
3.3. HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ CỦA NGƯỜI BÁN
3.3.1. Giai đoạn bắt đầu
Để hồi đáp giá cho người mua, người bán có các hành động ngôn
ngữ cụ thể như hành động khẳng định, hành động đề nghị, hành động
tự khen. Trong các hành động này thành tố “giá tiền” vẫn giữ vị trí
trung tâm bởi nó làm thỏa mãn mong muốn của người mua. Điểm lưu ý
là ở các hành động đó thường có sự xuất hiện của tiểu từ tình thái hoặc
các cấu trúc có tính đề nghị mềm mại. Điều này phù hợp để đáp lại lời
trao của người mua sinh viên – tầng lớp xã hội có kiến thức nền cơ bản.
13
3.3.2. Giai đoạn diễn biến
3.3.2.1. Nhóm các hành động ngôn ngữ nhằm nâng cao hàng hóa/
vị thế
Nếu người mua luôn hạ thấp giá trị hàng hóa thì người bán lại
thường tạo xu hướng nâng cao hàng hóa. Điều này được thể hiện qua
hành động khen, hành động khẳng định và hành động đảm bảo. Tất cả
đều nhằm đem lại niềm tin tới người mua để khiến họ sẽ nhẹ nhàng
hơn khi mặc cả hay đưa ra quyết định nhanh chóng. Chẳng hạn như
đối với hành động đảm bảo người bán dùng các từ ngữ/ cụm từ như
sau: đảm bảo, bán đúng giá, yên tâm, không băn khoăn, hoặc các
biểu thức trực tiếp: X thế là hết giá, chỉ bớt được X giá, A bán đúng
giá .
3.3.2.2. Nhóm hành động ngôn ngữ nhằm thương lượng giá
Trong nhóm này, các hành động tập trung vào thương lượng về
giá để đi đến những quyết định cuối cùng. Ở đây người bán chỉ thực
hiện hành động mặc cả trực tiếp vì sẽ đáp ứng nhu cầu muốn biết
chính xác giá cuối cùng cho hàng hóa là bao nhiêu. Ngoài ra họ còn sử
dụng hành động đề nghị nhằm làm mềm mại hóa cuộc thương lượng
vốn luôn tiềm ẩn xung đột do mâu thuẫn về lợi ích.
3.3.2.3. Nhóm hành động ngôn ngữ nhằm từ chối người mua
Các hành động của nhóm này đều có một ý nghĩa chung là
không còn thể hiện sự hợp tác với người mua. Hai hành động được
dùng trong nhóm là hành động thách và hành động phản đối. Người
bán có thể thực hiện hành động phản đối trực tiếp bằng các từ và cấu
trúc có ý nghĩa phủ định như sau: (1) Không/ chẳng có/ được + số
tiền/ hàng hóa + đâu, (2) Làm gì có + hàng hóa/ số tiền. Ngoài ra
người bán còn thực hiện hành động phản đối gián tiếp qua các hành
động khác như: hành động khẳng định, hành động đảm bảo.
3.3.3. Giai đoạn kết thúc
Cũng giống người mua, cuộc thương lượng của người bán có thể
thành công hoặc thất bại. Nếu thành công người bán thể hiện sự đồng
thuận của mình bằng hai hành động đề nghị và đồng ý. Nếu thương
lượng không thành công người bán thể hiện bằng từ chối trực tiếp
hoặc từ chối gián tiếp qua các hành động khác: t chối bằng hành động
đảm bảo, từ chối bằng hành động đề nghị.
Như vậy, giống người mua, người bán cũng lựa chọn các hành
động ngôn ngữ đánh dấu đặc trưng vai giao tiếp của mình trong mỗi
14
giai đoạn của quá trình thương lượng. Điều này đáp ứng được lời trao
của người mua tạo nên sự tương tác trong giao tiếp. Tuy nhiên, mỗi
hành động ngôn ngữ lại có sự xuất hiện không như nhau. Điều này thể
hiện rõ ràng qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 3.5. Tần suất các HĐNN trong quá trình thương
lượng mua bán của người bán
Có thể thấy hành động khen, trả giá, đề nghị có tần suất sử dụng
nhiều hơn các hành động khác. Những hành động này cũng thể hiện
đặc trưng về tâm lí, địa vị trong giao tiếp của người bán. Nhóm hành
động nâng cao giá trị hàng hóa, thuyết phục người mua và thương
lượng giá chiếm tỉ lệ nhiều hơn.
3.4. TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Trong chương này, luận án tập trung miêu tả và mô hình hóa các
hành động ngôn ngữ của người mua và người bán ở cả ba giai đoạn
của quá trình thương lượng mua bán. Có thể thấy, ở mỗi giai đoạn, hai
bên giao tiếp đều cố gắng lựa chọn những hành động ngôn ngữ phù
hợp để đạt được mục đích cuối cùng. Sự lựa chọn ấy thể hiện rõ ràng
đặc trưng vai giao tiếp của mỗi bên.
Nhóm hành động nhằm thương lượng giá chiếm tỉ lệ nhiều nhất
so với các nhóm còn lại cho thấy giá cả đối với người mua sinh viên
nói chung và người mua nói riêng vẫn luôn quan trọng. Vì vậy, họ có
nhu cầu cần thương lượng và cũng luôn tìm các hành động khác hỗ
trợ, bổ sung khi tiến hành trao đổi, thỏa thuận giá. Người mua sinh
15
viên có xu hướng trả giá trực tiếp và gián tiếp nhưng người bán chỉ
tiến hành trả giá trực tiếp. Đây cũng là hành động hồi đáp tiếp theo
cho hành động trả giá của người mua.
Trong phần lõi thương lượng, người mua thường sử dụng hành
động chê, khẳng định, trả giá (trực tiếp và gián tiếp) còn người bán ưa
dùng các hành động khen, đảm bảo. Khi kết thúc thương lượng, tùy
vào sự thành công hay thất bại mà mỗi bên có cách chọn hành động
ngôn ngữ phù hợp. Tuy nhiên, cả hai bên đều chọn dùng hành động
tương tự nhau như đồng ý, đề nghị, từ chối.
CHƯƠNG 4
YẾU TỐ LỊCH SỰ TRONG
THƯƠNG LƯỢNG MUA BÁN CỦA SINH VIÊN
4.1. KHÁI QUÁT LỊCH SỰ VÀ LỊCH SỰ TRONG MUA BÁN
4.1.1. Lịch sự
Theo cách hiểu thông thường, lịch sự “là dùng để nói về người
có hành vi xử sự phù hợp với phép tắc chuẩn mực mà xã hội thừa
nhận” (dẫn theo Nguyễn Văn Khang 2012). R.Lakoff đã nói rằng,
“lịch sự nhiều khi là sự nhân nhượng tuyệt vời: người ta coi trọng nó
hơn cả sự rõ ràng, minh bạch nhằm tránh những điều phiền toái, bực
mình” (dẫn theo Nguyễn Văn Khang 2012).
4.1.2. Lịch sự trong giao tiếp mua bán
R.Lakoff đã chỉ ra, “những ngôn từ lịch sự được sử dụng trong
chào hàng sẽ tránh được sự thô lỗ và nhắm tới mục đích là “mời để
khách mua hàng” mà không cần quan tâm đến tình cảm hay mong
muốn của khách hàng” (dẫn theo Nguyễn Văn Khang 2012). Như vậy
trong mua bán cũng cần đến lịch sự nhằm cân bằng, làm hài hòa mục
đích vốn chứa đựng mâu thuẫn của hai bên mua bán: bán được hàng
đắt và mua được hàng rẻ. Trong phạm vi luận án, yếu tố lịch sự trong
thương lượng mua bán được xem xét thông qua các chiến lược và
cách thể hiện xưng hô của người mua và người bán.
4.2. CHIẾN LƯỢC TRONG THƯƠNG LƯỢNG MUA BÁN CỦA
SINH VIÊN
Chiến lược giúp cho các mục đích của người mua và người bán
được thực hiện nhanh hơn.
4.2.1. Kiểu chiến lược người mua và người bán sử dụng
4.2.1.1. Chiến lược tăng mức độ thân thiết
16
Trong chiến lược này, cả hai bên mua bán đều có một mục đích
chung là làm cho khoảng cách cũng như quan hệ của nhau gần hơn,
thân mật hơn. Những kiểu từ, cụm từ thường dùng như: ưu tiên,
khách quen, toàn bán cho sinh viên, X mua ở đây lâu rồi/ nhiều lần
rồi, X mua suốt, X như con của Y, nể X là sinh viên, chắc là sinh
viên chứ gì, X xinh xắn, dễ thương nên bớt.
4.2.1.2. Chiến lược tìm kiếm sự cảm thông
Nguyên lý của chiến lược này là đưa ra một hoàn cảnh nào đó
của bản thân để tác động vào tình cảm của đối tác từ đó tìm sự hỗ trợ,
thấu hiểu và đi đến hợp tác.
4.2.1.3. Chiến lược có đi có lại
Quy tắc của chiến lược này là hai bên phải có sự đồng thuận lớn.
X sẽ làm A nếu Y làm B. Cấu trúc thường sử dụng trong chiến lược
này là kiểu cấu trúc điều kiện – kết quả như “vìnên”, “nếu.thì”: Vì
X làm A nên B sẽ bớt/ lấy, vì X lấy số lượng lớn nên B giảm/ bớt, Vì
A bán rẻ nên B sẽ quay lại/ giới thiệu C, nếu X không được A thì Y
cũng không được B, Vì X đã/ sẽ bán rẻ A nên Y sẽ lấy
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_thuong_luong_trong_giao_tiep_mua_ban_cua_sin.pdf
- Tomtat_Eng_ChuThiPhuongLan.pdf